Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh tại công ty dệt vải công nghiệp Hà Nội

Là một doanh nghiệp Nhà nước, Công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội khi huy động vốn sản xuất kinh doanh phải chịu các chi phí chủ yếu là chi phí nợ vay và lợi nhuận giữ lại. Chi phí từ lợi nhuận giữ lại là chi phí của vốn, được đo bằng tỷ lệ lãi suất trái phiếu kho bạc cộng với phần thưởng rủi ro, thực tế xác định chi phí này là rất khó, bản thân Công ty cũng như nhiều doanh nghiệp khác chưa chú ý đến vấn đề này. Công ty thường huy động vốn vay, chủ yếu từ các ngân hàng thương mại với lãi suất trung bình là 0,65 %/tháng. Tổng chí phí phải trả hàng tháng là khá lớn bởi vì nguồn vốn vay của Công ty chiếm tỷ trọng khá cao, tuy nhiên có những khoản vay Công ty được vay ưu đãi với lãi suất thấp, thời hạn dài như khoản vay từ Quỹ đầu tư phát triển năm2002. Năm 2002, lãi vay phải trả của Công ty là 2.885 triệu đồng. Sử dụng vốn vay thì phải trả lãi vay và chịu rủi ro từ sự biến động của lãi suất. Vốn vay chiếm tỷ trọng cao sẽ phải chịu chi phí cao, do đó công ty cần cân nhắc lựa chọn phương thức huy động vốn tối ưu đảm bảo giảm thiểu chi phí.

doc74 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1377 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh tại công ty dệt vải công nghiệp Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh không thay đổi vẫn cố định ở mức 13 triệu đồng. Năm 2002 nguyên giá tài sản cố định tăng là do bên cạnh việc đổi mới, Công ty còn đầu tư thêm TSCĐ hữu hình có giá trị rất lớn, TSCĐ vô hình cũng tăng thêm làm nguyên giá TSCĐ vô hình cuối năm tăng lên 146 triệu đồng. Bảng 5: Tình hình tăng giảm tài sản cố định của Công ty (đ/v: triệu đồng) chỉ tiêu năm 2001 năm 2002 Số dư đầu kỳ 38.518 39.618 Số tăng trong kỳ 2.157 75.721 Số giảm trong kỳ 1.057 614 Số cuối kỳ 39.618 114.725 * Sự biến động về giá trị còn lại của TSCĐ: Giá trị còn lại của TSCĐ năm 2001 là 28.488 triệu đồng có tăng so với năm 2000 nhưng tăng rất chậm, tăng chậm hơn so với tỷ lệ gia tăng về nguyên giá TSCĐ. Tỷ lệ gia tăng về nguyên giá TSCĐ năm 2001 so với năm 2000 tăng 2,86% trong khi đó giá trị còn lại chỉ tăng 74 triệu đồng tương ứng 0,26%. Nguyên nhân là do Công ty tăng mức khấu hao, khấu hao luỹ kế năm 2000 là 10.104 triệu đồng, sang năm 2001 tăng lên 11.130 triệu đồng, tức là tăng 1.026 triệu đồng so với năm 2000. Năm 2002, giá trị còn lại của TSCĐ là 101.642 triệu đồng tăng 73.154 triệu đồng tương ứng 256,79% so với năm 2001. Năm 2001 tài sản cố định đã khấu hao hết 28,09% còn 71,91%, sang năm 2002 do đầu tư thêm tài sản cố định mới nên tỷ lệ đã khấu hao giảm xuống còn 1,4%. 2.2.2.2. Sự biến động về vốn lưu động của Công ty Có thể thấy rằng từ năm 2001 trở về trước, vốn lưu động chiếm tỷ trọng khá cao trong cơ cấu tổng nguồn vốn của Công ty. Năm 2000 tổng vốn lưu động là 43.074 triệu đồng chiếm 58,3% tổng nguồn vốn sản xuất kinh doanh của Công ty. Năm 2001 vốn lưu động tiếp tục tăng lên 52.216 triệu đồng và chiếm tới 63% tổng nguồn vốn, như vậy là có một lượng lớn các khoản vốn tín dụng, vốn vay được đầu tư vào tài sản lưu động. Vốn lưu động tăng lên là do các khoản vay ngắn hạn bổ sung, đặc biệt là vay ngắn hạn ngân hàng. Năm 2002 mặc dù vốn lưu động vẫn tiếp tục tăng nhưng tỷ trọng trong tổng nguồn vốn sản xuất kinh doanh đã giảm xuống 39%, đây không phải là vì vốn lưu động tăng ít mà là vì năm 2002 vốn cố định đột ngột tăng cao. Vốn lưu động năm 2002 là 65.674 triệu đồng tăng 13.458 triệu đồng tương ứng 25,77% so với năm 2001. Như vậy, vốn lưu động của Công ty tăng liên tục qua các năm gần đây, nguồn bổ sung vào vốn lưu động chính là các khoản vay ngắn hạn. Vốn lưu động chiếm tỷ trọng cao bởi vì Công ty ngoài sản xuất sản phẩm còn tham gia kinh doanh thương mại. * Sự biến động về vốn bằng tiền : Vốn bằng tiền của Công ty luôn chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn lưu động, điều này chứng tỏ những cố gắng của Công ty trong việc tối thiểu hoá lượng tiền mặt dự trữ vì vốn bằng tiền là loại tài sản có tính lưu động nhất, có thể sử dụng ngay để mua hàng hoá, thanh toán nợ nguyên vật liệu hoặc trang trải các khoản chi phí trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng lại là những đồng tiền chết không có khả năng sinh lời hoặc có tính sinh lời thấp ( nếu đem gửu không kỳ hạn tại ngân hàng ). Vì vậy, tính toán kỹ một lượng là bao nhiêu để phù hợp với tình hình, khả năng thanh toán của công ty là một yêu cầu đặt ra. Năm 2000 vốn bằng tiền của Công ty là 1.297 triệu đồng chiếm 1,79% tổng nguồn vốn, đến năm 2001 tăng lên 4.297 triệu đồng chiếm 5,04% tổng nguồn vốn. Mặc dù vẫn chiếm tỷ trọng thấp nhưng lượng vốn bằng tiền đã tăng lên nhằm đáp ứng đáp ứng yêu cầu thanh toán các khoản phải trả của Công ty. Năm 2002 vốn bằng tiền tương đối ổn định so với năm 2001, nhưng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn chỉ chiếm 2,6% bởi vì tổng nguồn vốn năm 2002 tăng mạnh do vốn đầu tư vào tài sản cố định tăng mạnh. * Các khoản nợ phải thu trong vốn lưu động : Nợ phải thu là các khoản tiền của doanh nghiệp do các cá nhân, doanh nghiệp khác chiếm dụng một cách hợp pháp. Các khoản phải thu của Công ty tăng đều qua các năm, năm 2000 là 27.129 triệu đồng. Đến năm 2001 tăng lên 29.479 triệu đồng và tiếp tục tăng đến năm 2002 là 35.147 triệu đồng. Trong đó chủ yếu là phải thu của khách hàng, như vậy vốn bị chiếm dụng hợp lý của Công ty ngày càng tăng bởi các khách hàng. Việc biến động của nợ phải thu phụ thuộc vào tình hính sản xuất kinh doanh không phải chỉ riêng công ty mà còn của các đối tác. Tìm cách giảm bớt lượng vốn bị chiếm dụng hợp pháp là vấn đề đặt ra đối với công ty nhằm nâng cao hiệu quả vốn sản xuất kinh doanh. * Vốn lưu động trong khâu dự trữ : Trong sản xuất kinh doanh, công ty luôn phải có các khoản dự trữ dưới dạng tồn kho nguyên vật liệu, thành phẩm, hàng hoá, các công cụ dụng cụ tồn kho mà gọi chung là hàng tồn kho nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của công ty trong các kỳ tiếp theo. Đầu tư vào lượng hàng tồn kho chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng nguồn vốn lưu động của Công ty, năm 2000 là 13.649 triệu đồng chiếm 31,69%, đến năm 2001 là 17.283 triệu đồng chiếm 33,1%. Vốn lưu động trong hàng tồn kho cao là do chi phí SXKD dở dang, thành phẩm tồn kho và hàng tồn kho cao. Năm 2002 hàng tồn kho là 25.527 triệu đồng chiếm 38,87% tổng vốn lưu động. Hàng tồn kho năm 2002 tăng cao chủ yếu là do nguyên liệu và vật liệu tồn kho tăng mạnh, hàng hoá tồn kho cũng tăng tương đối. Như vậy, hàng tồn kho của Công ty tăng liên tục và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng vốn lưu động, mặt khác trong đó thành phẩm tồn kho và hàng hóa tồn kho liên tuc tăng khá lớn, điều này không có lợi cho Công ty và cũng nói lên rằng công tác đẩy nhanh tốc độ sản xuất kinh doanh và khai thác thị trường của Công ty chưa được tốt. 2.2.3. Chi phí vốn của Công ty Là một doanh nghiệp Nhà nước, Công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội khi huy động vốn sản xuất kinh doanh phải chịu các chi phí chủ yếu là chi phí nợ vay và lợi nhuận giữ lại. Chi phí từ lợi nhuận giữ lại là chi phí của vốn, được đo bằng tỷ lệ lãi suất trái phiếu kho bạc cộng với phần thưởng rủi ro, thực tế xác định chi phí này là rất khó, bản thân Công ty cũng như nhiều doanh nghiệp khác chưa chú ý đến vấn đề này. Công ty thường huy động vốn vay, chủ yếu từ các ngân hàng thương mại với lãi suất trung bình là 0,65 %/tháng. Tổng chí phí phải trả hàng tháng là khá lớn bởi vì nguồn vốn vay của Công ty chiếm tỷ trọng khá cao, tuy nhiên có những khoản vay Công ty được vay ưu đãi với lãi suất thấp, thời hạn dài như khoản vay từ Quỹ đầu tư phát triển năm2002. Năm 2002, lãi vay phải trả của Công ty là 2.885 triệu đồng. Sử dụng vốn vay thì phải trả lãi vay và chịu rủi ro từ sự biến động của lãi suất. Vốn vay chiếm tỷ trọng cao sẽ phải chịu chi phí cao, do đó công ty cần cân nhắc lựa chọn phương thức huy động vốn tối ưu đảm bảo giảm thiểu chi phí. 2.2.4. Tình hình khả năng thanh toán của Công ty Khả năng thanh toán cũng là một trong các chỉ tiêu quan trọng liên quan đến rủi ro trong hoạt dộng sản xuất kinh doanh của công ty. Khi xét đến khả năng thanh toán, ta thường đánh giá chủ yếu trên hai phương diện: Khả năng thanh toán với nhà nước (tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước) và khả năng thanh toán đối với khách hàng. a-Khả năng thanh toán của Công ty đối với Nhà nứoc Là một doanh nghiệp Công ty cũng phải nộp đầy đủ các khoản thuế như các doanh nghiệp khác. Thông thường phần thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước phải được đặt lên hàng đầu, đặc biệt khi doanh nghiệp giải thể hay phá sản. Thuế và các khoản phải nộp cho Nhà nước năm 1999 là 5.525 triệu đồng. Trong những năm gần đây thuế TNDN và VAT đều tăng, điều đó cho thấy doanh thu và lợi nhuận của Công ty ngày càng tăng. b-Khả năng thanh toán của Công ty đối với khách hàng Bảng 6: Khả năng thanh toán của Công ty (đ/v: triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 1- Tiền mặt 4,298,535,729 4,362,036,199 2- Các khoản phải thu 29,563,184,387 35,147,012,369 3- Vốn lưu động 52,314,321,774 65,674,483,249 4- Nợ ngắn hạn 46,260,236,735 61,519,827,519 5-Khả năng thanh toán ngắn hạn:(3)/(4) 1,13 1,07 6- Khả năng thanh toán nhanh 0,73 0,64 (Trích từ bảng cân đối kế toán của Công ty) Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn của Công ty được xác định bằng mối tương quan giữa vốn lưu động và nợ ngắn hạn. Năm 2001 hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn là 1,13 và sang năm 2002 là 1,07. Cả hai năm này hệ số đều lớn hơn một một ít, như vậy nhìn chung là phù hợp, Công ty có khả năng đảm bảo khả năng thanh toán trong ngắn hạn. Năm 2002 hệ số này giảm so với năm 2001 vì tốc độ tăng của vốn lưu động nhỏ hơn tốc độ tăng của nợ ngắn hạn. Hệ số khả năng thanh toán nhanh của Công ty được xác định bằng mối tương quan giữa tiền mặt, các khoản phải thu với tổng vốn lưu động. Hệ số này năm 2001 là 0,73 và giảm xuống chút ít ở năm 2002. Hệ số này giảm cũng là vì tốc độ tăng của nợ ngắn hạn lớn hơn tốc độ tăng của các khoản phải thu. Trong cả hai năm 2001 và 2002, các khoản phải thu đáp ứng phần lớn khả năng thanh toán nhanh của Công ty, tiền mặt chiếm tỷ trọng nhỏ trong vốn lưu động. Năm 2001 các khoản phải thu đáp ứng 87,3% khả năng thanh toán nhanh của Công ty và năm 2002 đáp ứng 88,96%. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của các khoản phải thu đồng thời thể hiện nguy cơ có thể bi thiếu hụt tiền mặt của Công ty. Xét về mặt tổng thể, tiền mặt và các khoản phải thu có thể giải quyết 73% nợ ngắn hạn năm 2001 và 64% nợ ngắn hạn năm 2002. Như vậy, khả năng thanh toán ngắn hạn của Công ty là tốt, song khả năng thanh toán nhanh còn hơi thấp, đặc biệt lại có xu hướng giảm. Việc cải thiện tình hình khả năng thanh toán nhanh của Công ty sẽ giúp cho Công ty ngày càng nâng cao uy tín của thị trường, từ đó có thể giúp Công ty dễ dàng hơn trong việc huy động vốn mở rộng sản xuất kinh doanh. 2.3. Đánh giá chung về hiệu quả sử dụng vốn của công ty dệt vải công nghiệp hà nội a. Những kết quả đạt được Như trên đã trình bày, chúng ta thấy rằng tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội diễn ra theo chiều hướng thuận lợi trong tình hình cạnh tranh ngày càng khốc liệt của nền kinh tế thị trường. Là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt dộng trong điều kiện cơ chế thị trường tự do cạnh tranh sẽ gặp không ít khó khăn, đặc biệt khi ngày càng phải tự chủ về tài chính hơn nhưng toàn thể ban lãnh đạo công nhân viên của Công ty đã không ngừng nỗ lực để phấn đấu khắc phục khó khăn và nâng cao hiệu quả hoạt dộng sản xuất kinh doanh. Do đó quy mô hoạt dộng sản xuất kinh doanh ngày càng mở rộng, lợi nhuận và doanh thu không ngừng tăng qua từng năm hoạt dộng. Bảng 7: Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của Công ty (đ/v: triệu đồng) Tt Chỉ tiêu đơn vị Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1 Doanh thu thuần Tr.đồng 62.412 78.793 83.050 2 Lợi nhuận trước thuế - 25 106 334 3 Lợi nhuận sau thuế - 25 72 227 4 Vốn KD bình quân - 14.078 15.100 15.570 5 Vốn CSH bình quân - 14.100 15.120 15.630 6 Tỷ suất LN VKD(2/4) Đồng 0,0018 0,007 0,0215 7 Tỷ suất LN ròngVKD(3/4) - 0,0018 0,0048 0,0146 8 Tỷsuất LNròngVCSH(3/5) - 0,0018 0,0048 0,0145 Nhìn vào bảng trên ta thấy: Năm 2000 một đồng vốn kinh doanh tạo ra 0,0018 đồng lợi nhuận sau thuế, sang năm 2001 tỷ suất này đã tăng lên, một đồng vốn tạo ra được 0,0048 đồng lợi nhuận sau thuế. Đến năm 2002 tỷ suất này tăng mạnh so với năm 2001, một đồng vốn sản xuất kinh doanh đem lại 0,0146 đồng lợi nhuận sau thuế. Lợi nhuận sau thuế trên một đồng vốn chủ sở hữu cũng tăng liên tục qua các năm. Như vậy, với một đồng vốn sản xuất kinh doanh , số đồng lợi nhuận thu được ngày càng tăng lên, điều đó chứng tỏ sự tiến bộ trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội. b. Những hạn chế của Công ty và nguyên nhân * Các khoản phải thu của khách hàng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn sản xuất kinh doanh của Công ty. Năm 2002, các khoản phải thu của khách hàng là 27.197 triệu đồng chiếm 37,5% tổng nguồn vốn sản xuất kinh doanh. Năm 2001 là 29.479 triệu đồng chiếm 35,4%. Như vậy tỷ lệ này đã giảm xuống, điều này cho thấy những cố gắng của Công ty trong việc giảm tỷ lệ vốn bị khách hàng chiếm dụng trong tổng nguồn vốn sản xuất kinh doanh. Năm 2002 mặc dù tỷ lệ này đã giảm xuống 20,9% nhưng các khoản phải thu vẫn ở mức cao vì đây là do tổng nguồn vốn tăng mạnh trong năm này. Năm 2002 các khoản phải thu là 35.147 triệu đồng. Như vậy các khoản phải thu đã làm ứ đọng một lượng lớn vốn sản xuất kinh doanh của Công ty. * Lượng hàng tồn kho: hàng tồn kho luôn chiếm một tỷ trọng nhất định và khá lớn, điều đó dẫn tới sự gia tăng vốn lưu động và làm giảm vòng quay của vốn sản xuất kinh doanh. Thông thường lượng hàng tồn kho này không sinh lời làm ứ đọng vốn. Năm 2000 tổng lượng hàng tồn kho là 13.649 triệu đồng chiếm 18,8% tổng nguồn vốn, chiếm 31,7% nguồn vốn lưu động. Năm 2001 tổng lượng hàng tồn kho là 17.283 triệu đồng chiếm 20,75% tổng nguồn vốn sản xuất kinh doanh. Như vậy, lượng vốn bị ứ đọng trong hàng tồn kho năm 2001 cao hơn năm 2000. Năm 2002 tỷ lệ này đã giảm nhưng không phải do hàng tồn kho giảm xuống mà là do tổng nguồn vốn sản xuất kinh doanh tăng lên, hàng tồn kho vẫn tăng và ở mức 25.527 triệu đồng. Giảm bớt lượng hàng tồn kho ở mức hợp lý vừa đảm bảo hoạt dộng sản xuất kinh doanh diễn ra đúng tiến độ lại tăng nhanh vòng quay của vốn sẽ tốt cho Công ty hơn. * Các khoản tín dụng của Công ty chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu tổng nguồn vốn sản xuất kinh doanh. Việc này sẽ gây kho khăn cho Công ty trong việc phải trả chi phí vay lớn, thường xuyên. Mặt khác tỷ trọng vốn vay cao sẽ gây khó khăn cho Công ty trong việc huy động thêm vốn khi có nhu cầu. Năm 2000 và 2001 trong các khoản vốn tín dụng, vay ngắn hạn chiếm khá lớn so với vay dài hạn, việc này làm tăng tính rủi ro trong thanh toán, giảm khả năng đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh và thường xuyên chịu áp lực của việc trả lãi vay, ngoài ra trong điều kiện hàng tồn kho và các khoản phải thu chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn vốn lưu động thì các khoản này chiếm một lượng vốn tín dụng lớn và Công ty sẽ phải trả lãi vay cho một khoản vốn ứ đọng. Năm 2002 vay ngắn hạn đã giảm xuống trong tổng cơ cấu, nhưng đây là do vay dài hạn để đầu tư vào tài sản cố định mới tăng mạnh lên chứ vay ngắn hạn không giảm xuống mà tiếp tục tăng lên 38.703 triệu đồng. * Trong quá trình hoạt động sản xuất, Công ty đã chưa xác định được đầy đủ nhu cầu thị trường, điều này đã dẫn tới việc dư thừa một lượng hàng tồn kho khá lớn và các khoản phải thu của khách hàng. Đảm bảo xác định tốt nhu cầu của khách hàng là một trong những yếu tố rất quan trọng trong thị trường cạnh tranh hiện nay mà công ty cần phải giải quyết. Chương iii Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tạI công ty dệt vải công nghiệp hà nội Qua thực tế khảo sát tình hình sử dụng vốn kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội. Trong vài năm gần đây cho thấy rằng: mặc dù hoạt động trong điều kiện gặp nhiều khó khăn, nhưng do có sự cố gắng nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty nên Công ty đã đạt được những thành tích đáng kể trong quá trình hoạt dộng sản xuất kinh doanh nói chung, trong công tác nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói riêng xét thấy cần phải đưa ra một số biện pháp hữu hiệu khắc phục những hạn chế của Công ty. Từ thực tế trên đây, qua phân tích và đánh giá như đã trình bày, được sự góp ý của cán bộ phòng KTTC của Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội, đồng thời với nhận thức của bản thân, em xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến sau đây nhằm góp phần hoàn thiện cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty. 3.1. các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đối với công ty dệt vải công nghiệp hà nội 3.1.1. Giải pháp về huy động vốn cho sản xuất kinh doanh Hầu hết các doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt dộng sản xuất kinh doanh đều phải huy động vốn trên thị trường tài chính và chủ yếu là vốn nợ. Nguồn vốn chủ sở hữu luôn bị hạn chế bởi khả năng huy động và tích luỹ, vốn huy động thông qua thị trường chứng khoán bằng việc phát hành cổ phiếu cũng chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ không đáng kể. Do đó để có đủ vốn cho hoạt dộng sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải huy động các nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại từ các tổ chức tài chính trung gian. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh hiện nay, đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao năng lực sản xuất là yêu cầu tất yếu đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên huy động mọi nguồn lực tài chính của xã hội với cơ cầu và chi phí hợp lý. Thông thường có hai nguồn tài trợ: tài trợ nội sinh và tài trợ ngoại sinh. 3.1.1.1. Tài trợ nội sinh Đây là nguồn vốn rất quan trọng mà công ty phải tập trung để khai thác triệt để, nó thể hiện sức mạnh, khả năng năng lực của công ty qua các kỳ kinh doanh vừa giúp nâng cao được uy tín vị thế của công ty trên thị trường, là cơ sở để công ty có thể huy động thêm các nguồn tài trợ ngoại sinh. Nguồn vốn huy động từ bên trong này chủ yếu hình thành từ lợi nhuận giữ lại qua các kỳ sản xuất kinh doanh của công ty và khấu hao tài sản cố định thông qua việc trích lập các quỹ như quỹ đầu tư phát triển, quỹ khấu hao… trong những năm gần đây lợi nhuận sau thuế của Công ty liên tục tăng từ 72 triệu năm 2001 lên 227 triệu năm 2002. Công ty cần xem xét phân bổ khoản lợi nhuận này vào việc bổ sung đáp ứng nhu cầu tăng trưởng của mình. Nếu việc phân bổ là hợp lý sẽ giúp Công ty giải quyết được khó khăn trong việc giảm bớt các khoản nợ lãi vay ngân hàng, đặc biệt là các khoản vay ngắn hạn. Là một Công ty trực thuộc Tổng công ty Nhà nước, Công ty cũng có thể huy động vốn nội sinh thông qua sự cấp vốn bổ sung từ Tổng công ty. Đây là một nguồn tài trự dồi dào nâng cao nguồn vốn chủ sở hữu của công ty, giúp cho công ty có đủ vốn hoạt động sản xuất kinh doanh lại không chịu gánh nặng về các khoản trả lãi vay hay chi trả các khoản lợi từ cổ phần. 3.1.1.2. Tài trợ ngoại sinh Trong điều kiện kinh tế thị trường, việc huy động vốn sản xuất kinh doanh từ bên ngoài công ty là điều tất yếu. Công ty hoạt dộng trong cơ chế thị trường có kế hoạch điều đó tạo ra nhiều khả năng và nhiều hình thức huy động vốn từ bên ngoài không chỉ là các nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính trung gian mà còn có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu, hùn vốn liên doanh dài hạn. Công ty có thể tận dụng uy tín của mình trên thị trường như năng lực sản xuất kinh doanh của Công ty, bản thân là một doanh nghiệp nhà nước… đảm bảo thuận lợi cho việc huy động các nguồn tài trợ ngoại sinh. Công ty có thể xem xét đến hình thức cổ phần hoá vừa nâng cao nguồn vốn sản xuất kinh doanh, phát huy tối đa năng lực của đội ngũ nhân viên và người lao động giúp cho họ yên tâm sản xuất kinh doanh. Khi họ có cổ phần trong doanh nghiệp, trách nhiệm của mỗi cổ đông trong Công ty được nâng cao, do đó sẽ tăng được năng suất lao động, tiết kiệm các chi phí sản xuất và nguyên vật liệu, kỷ luật của Công ty được tăng cường, hiệu quả sử dụng vốn được nâng cao. Trong những năm qua, các khoản tín dụng ngắn hạn thường chiếm tỷ trong lớn. Đến năm 2002 mặc dù tỷ trọng tín dụng ngắn hạn đã giảm nhưng đây là do Công ty vay dài hạn đầu tư vào một tài sản cố định mới chứ vay ngắn hạn năm 2002 vẫn tăng lớn. Huy động các khoản nợ tín dụng từ ngân hàng là điều tất yếu song cần chú ý hạn chế các khoản vay ngắn hạn, giữ một cơ cấu tín dụng ngắn hạn và dài hạn hợp lý. Nên sử dụng các khoản vay trung va dài hạn cho đầu tư dài hạn và mở rộng sản xuất kinh doanh. Công ty lên tranh thủ lợi thế hiện nay lãi suất vay thương mại và công nghiệp từ các ngân hàng không cao có thể tài trợ cho các dự án dài hạn. Mặc dù tự ý thức trong việc nâng cao tính độc lập sáng tạo trong sản xuất kinh doanh nhưng nguồn tài trợ từ ngân sách không nên coi nhẹ. Vốn từ ngân sách cấp thường khá lớn, có nhiều thuận lợi, đặc biệt là chi phí vốn thấp. Năm 2000, vốn ngân sách cấp là 500 triệu đồng. Năm 2001, vốn ngân sách cấp là 1 tỷ đồng. Năm 2002 là 500 triệu đồng. Công ty cần phải tận dụng ưu thế của một doanh nghiệp nhà nước tăng cường khai thác nguồn tài trợ này nhằm đáp ứng đủ vốn cho hoạt dộng sản xuất kinh doanh của Công ty. Các nguồn tài trợ ngoại sinh khác như vốn liên doanh liên kết hợp tác với các doanh nghiệp khác, nguồn kinh phí… vẫn chưa được khai thác. Trong thời gian tới Công ty cần có những chính sách phù hợp để có thể huy động được các nguồn vốn vay này. Huy động vốn cho sản xuất kinh doanh phải luôn xác định một cơ cấu vốn hợp lý tối ưu lựa chọn nguồn huy động nào đảm bảo chi phí vốn là thấp nhất lại có thể giảm thiểu các rủi ro tín dụng là yêu cầu đặt ra đối với Công ty trong thời gian tới. Hiện nay Công ty có tích luỹ từ nội bộ và có thể dựa vào uy tín của mình huy động được các nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại do đó Công ty nên chú trọng tập trung vào hai nguồn huy động trên. 3.1.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định Thường xuyên đổi mới năng lực hoạt dộng bằng việc cải tiến máy móc thiết bị. Hiện nay trong cuộc cách mạng khoa học công nghệ, các doanh nghiệp phải thường xuyên tự đổi mới để tránh tụt hậu trong sản xuất kinh doanh và nâng cao được khả năng cạnh tranh. Đi vào hoạt dộng từ năm 1970, măc dù được sửa đổi bổ sung thường xuyên, trang thiết bị của Công ty đã hao mòn nhiều. Năm 2000 tổng nguyên giá TSCĐ là 38.518 triệu đồng trong đó giá trị còn lại là 28.414 triệu đồng, như vậy tổng mức khấu hao năm 2000 là 10.104 triệu đồng chiếm 26,2% đây là tỷ lệ khấu hao chưa cao nhưng cũng đặt ra yêu cầu đối với Công ty nên đầu tư đổi mới máy móc dây truyền thiết bị sản xuất. Việc lựa chọn công nghệ để đổi mới cần được tính toán thẩm định rõ ràng tránh lãng phí kém hiệu quả, do đó yêu cầu đặt ra là phải lựa chọn được những công nghệ phù hợp bởi nhiều khi chọn lựa những công nghệ hiện đại nhưng công ty chưa sẵn sàng thích ứng với công nghệ đó lại gây ra phản ứng tiêu cực có thể dẫn đến việc khai thác chưa tối đa công suất làm giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Chọn lựa dây truền công nghệ hiện đại phù hợp sẽ là nhân tố quan trọng cho phép tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, ít tốn kém nguyên vật liệu và cả chi phí nhân công điều hành quản lý. Trong thời gian tới Công ty cần chú trọng vào các nguồn vốn vay dài hạn để lựa chọn, đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh bằng công nghệ máy móc phù hợp. Đối với các tài sản cố định đã khấu hao hết hoặc những tài sản cố định đang chờ thanh lý cần nhanh chóng sử lý để bổ sung vốn cho hoạt dộng sản xuất kinh doanh. Viẹc sử lý chậm chễ có thể gây ra việc ứ đọng vốn cố định lại bị chậm đổi mới công nghệ làm giảm năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Luôn gắn trách nhiệm của các cán bộ quản lý và người lao động với các tài sản, máy móc thiết bị. Để đảm bảo cho các quá trình hoạt dộng sản xuất diễn ra thông suốt, an toàn và có hiệu quả thì luôn luôn đòi hỏi trách nhiệm của người lao động, trách nhiệm đó phải được gắn với suốt quá trình vận hành của máy móc thiết bị. Do đó Công ty phải gắn trách nhiệm cụ thể từng máy móc cho từng tổ đội, phân xưởng, kịp thời phát hiện những thiếu sót sai lầm để có biện pháp khắc phục không làm ảnh hưởng, gián đoạn quá trình sản xuất. Kiểm tra theo dõi việc vận hành sử dụng tài sản cố định đi kèm các chính sách khen thưởng kỷ luật thích đáng sẽ nâng cao ý thức kỷ luật của người công nhân, khuyến khích họ không ngừng nâng cao năng suất lao động làm nâng cao hiệu quả của đồng vốn đầu tư vào tài sản cố định. 3.1.3. giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động Đối với vốn lưu động ở dạng tiền mặt cần xác định quy mô dự trữ tiền mặt tối ưu. Quy mô tiền mặt hợp lý đảm bảo giảm thiểu rủi ro trong thanh toán không bị mất đi các cơ hội đầu tư tức thời, tránh bị ứ đọng các khoản tiền không sinh lời. Ngoài lượng tiền mặt tồn quỹ dùng để chi tiêu hàng ngày tại đơn vị, công ty nên đầu tư vào các loại hình đầu tư ngắn hạn có tính thanh khoản cao mà vẫn đem lại một tỷ lệ sinh lời nhất định như trái phiếu kho bạc, tài khoản séc ... Đối với vốn lưu động ở dạng các khoản phải thu, trong những năm gần đây các khoản phải thu luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các khoản này đã làm ứ đọng một lượng vốn khá lớn của Công ty dây nên tình trạng thiếu hụt vốn. Công ty cần giảm lượng vốn bị chiếm dụng một cách hợp pháp của khách hàng, cần phải thu hồi đủ số vốn bị chiếm dụng hợp pháp hiện nay và tránh bị chiếm dụng nhiều trong thời gian tới. Trong khi các khoản phải thu không ngừng tăng lên thì Công ty vẫn phải đi vay nợ từ phía các ngân hàng thương mại và chịu các khoản phải trả lãi vay có nghĩa là Công ty đã bị thiệt hại một khoản đúng bằng khoản phải thu nhân với lãi suất tại thời điểm đó. Để có thể thu hồi nhanh các khoản vốn bị chiếm dụng hợp pháp từ phía khách hàng, Công ty có thể sử dụng biện pháp chiết khấu, giảm gía hàng bán cho những khách hàng thanh toán ngay tiền hàng hoặc những khách hàng đặt mua với khối lượng lớn, từ đó hạn chế các khoản nợ khó đòi. Mặt khác cần quy định rõ thời hạn trả tiền, hình thức thanh toán... . Và các biện pháp phạt khi vi phạm hợp đồng mua bán theo đúng quy định hiện hành. Tuy vậy cũng cần xác định rõ việc tồn tại tín dụng thương mại vay nợ lẫn nhau giứa các doanh nghiệp là điều tất yếu trong tình hình sản xuất kinh doanh hiện nay, nhiều khi đó còn là các mối quan hệ giúp Công ty có thể hợp tác lâu dài với các khách hàng của mình, do đó mục tiêu của Công ty cần đề ra trong thời gian tới là giảm thiểu các khoản phải thu các khoản chiếm dụng hợp pháp của khách hàng. Tăng tốc độ luân chuyển vốn, giải quyết nhanh lượng hàng tồn kho. Như đã nêu trên, hàng tồn kho chiếm một tỷ trọng khá lớn làm gia tăng vốn lưu động và làm giảm vòng quay của vốn sản xuất kinh doanh. Lượng hàng tồn kho không sinh lời mà Công ty còn tốn chi phí lưu kho, bảo quản. Giảm bớt lượng hàng tồn kho ở mức hợp lý vừa đảm bảo cung ứng đầy đủ kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh lại không gây ứ đọng nhiều vốn tốn kém chi phí khác là yêu cầu đặt ra. Công ty có thể thực thu một số giải pháp như sau: -Phải xác định nhu cầu của khách hàng, của thị trường, có kế hoạch sản xuất kinh doanh hợp lý, từ đó đảm bảo duy trì lượng hàng tồn kho vừa đủ cho sản xuất kinh doanh. -Công ty có thể dựa vào nhu cầu sản phẩm qua các năm và tình hình sản xuất hiện tại để xác định nhu cầu thị trường. Để có thể xác định một cách chính xác nhu cầu của khách hàng, Công ty còn phải biết rõ thị phần, khả năng, uy tín của chính mình trên thị trường, thông thường nhu cầu của thị trường đối với sản phẩm của công ty được tính bằng tỷ lệ phần thị trường công ty chiếm giữ. 3.1.4. Các giải pháp nhằm hạ giá thành sản xuất 3.1.4.1. Quản lý tốt chi phí nguyên vật liệu Nguyên vật liệu trực tiếp cho sản xuất kinh doanh luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong giá thành, quản lý tốt chi phí nguyên vật liệu đầu vào có ảnh hưởng lớn đến giá thành sản phẩm và hiệu quả sử dụng vốn của Công ty. Việc thu mua nguyên vật liệu cần phải có các hợp đồng mua bán cụ thể đảm bảo thu mua đúng giá hiện hành trên thị trường, có các đề nghị chiết khấu giảm giá khi mua với khối lượng lớn hoặc thanh toán nhanh. Xác định các hình thức mua bán, thanh toán và vận chuyển tối ưu, đặc biệt là dự trữ hợp lý về số lượng, chất lượng, đảm bảo lượng hàng tồn kho tối ưu. Có thể áp dụng các mô hình kinh tế lượng trong quản lý hàng tồn kho. Công ty nên tiếp cận nhiều nhà cung cấp để có được giá mua đúng nhưng đồng thời duy trì các nhà cung cấp truyền thống. 3.1.4.2. Quản lý tốt chi phí lương và các khoản trích theo lương Tiền lương và các khoản trích theo lương thường chiếm tỷ lệ lớn trong chi phí đầu vào của sản xuất kinh doanh. Nâng cao mức lương cho đội ngũ cán bộ và công nhân viên trong Công ty là yêu cầu đặt ra nhưng nhiều khi có sự mâu thuẫn vơí mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Hiện nay mức lương bình quân của Công ty trả cho cán bộ công nhân viên là chưa cao. Để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty diễn ra đúng tiến độ, hợp lý thì đảm bảo mức lương khá cho đội ngũ công nhân viên là yêu cầu đặt ra, điều này còn phù hợp với cả chủ trương của Nhà nước. Mức lương khá giúp cho họ yên tâm làm việc, không bị chi phối bởi các việc làm ngoài khác. Xác định đúng đắn hơp lý chế độ cho người lao động không những có thể giúp Công ty quản lý tốt chi phí đầu vào mà còn có thể tăng năng suất lao động, chất lượng lao động. Các khoản trích theo lương cũng cần xác định hợp lý. Nếu như phải thực hiện các công việc ngoài giờ để đảm bảo tiến độ công việc, thường thì mức lương bao giờ cũng phải cao hơn so với lương cố định trong giờ điều này làm cho chi phí sản xuất kinh doanh tăng lên. Do đó cần có kế hoạch phân bổ hợp lý, nếu cần thiết có thể huy động thêm lao động ngoài công ty để đẩy nhanh tiến độ công việc mà không phải tăng chi phí lương cao hơn bình thường. 3.1.4.3. Quản lý tốt các chi phí khác Các chi phí khác đầu tư vào trụ sở, trang thiết bị văn phòng, xe cộ phải được kiểm soát hợp lý. Có thể đầu tư một lần và sử dụng lâu dài. Đặc biệt là các chi phí điện, nước, điện thoại, giao dịch đi lại cần được sử dụng hợp lý tránh lãng phí không cần thiết. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì cần phải làm giảm hợp lý các chi phí đầu vào đảm bảo từ một đồng vốn bỏ ra mang lại nhiều hơn một đồng doanh thu. Giảm các chi phí đầu vào nhằm hạ giá thành sản xuất là một yêu cầu quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp. 3.1.5. Đảm bảo thực hiện đầy đủ về chế độ kế toán Trong quá trình xác lập các báo cáo tài chính doanh nghiệp, Công ty cần tuân thủ đầy đủ các chế độ về kế toán doanh nghiệp. Đó là việc đảm bảo trích lập các quỹ như quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ trợ cấp thất nghiệp. Nhằm nâng cao và mở rộng năng lực sản xuất kinh doanh cũng như phòng ngừa các rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì việc trích lập các quỹ trên là điều cần thiết, đặc biệt là trong điều kiện như hiện nay khi mà các khoản phải thu và lượng hàng tồn kho chiếm khá lớn, điều này có thể dẫn đến nhiều rủi ro như rủi ro nợ khó đòi, giảm giá... . Các khoản này sẽ được lấy từ quỹ dự phòng tài chính và các quỹ khác trong quá trình xây dựng các báo cáo tài chính doanh nghiệp là điều cần thiết đối với công ty, điều này không chỉ giúp cho công ty đảm bảo ổn định và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình mà còn đảm bảo tuân thủ các chế độ quy định của Nhà nước về tài chính kế toán doanh nghiệp, là cơ sở pháp lý cho Công ty hoạt động sản xuất kinh doanh trong điều kiện hiện nay. 3.1.6. chú trọng hoạt động Marketing nghiên cứu thị trường Nghiên cứu tốt nhu cầu thị trường là điều kiện cần thiết để phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp, mở rộng và chiếm lĩnh thị trường. Thực tiễn trong những năm vừa qua, lượng hàngtồn kho của Công ty khá lớn, chứng tỏ công tác nghiên cứu thị trường chưa được tốt. Trong thời gian tới, Công ty cần có kế hoạch Marketing quảng bá sản phẩm là hình ảnh của Công ty thông qua các phương tiện như báo chí, các kỳ hội chợ... Việc quảng cáo sẽ giúp Công ty tìm kiếm được nhiều nhà đầu tư và khách hàng mới, mở rộng thị trường và lĩnh vực sản suất kinh doanh. Công ty có thể nghiên cứu nhu cầu thị trường thông qua sự phối hợp hoạt động của các phòng ban trong Công ty, đồng thời thu thập các số liệu trên báo chí, internet... Các số liệu này sẽ là cơ sở cho việc xác định nhu cầu thị trường. Thăm dò khai thác thị trường nước ngoài là công việc đòi hỏi tốn nhiều thời gian và chí phí, đặc biệt là các rủi ro trong kinh doanh là rất lớn. Trong thời gian tới Công ty cần tiếp tục củng cố các thị trường quen thuộc thông qua các hoạt động xúc tiến thưong mại, quảng cáo, đồng thời tìm kiếm các đối tác mới, mở rộng thị trường. Có thể phát triển thêm các hình thức liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài, vừa tận dụng vốn, công nghệ tiên tiến của họ lại tranh thủ mở rộng thị trường. Marketing nghiên cứu thị trường là điều sống còn cho mỗi doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và Quốc tế hiện nay. Là một doanh nghiệp Nhà nước, đi lên từ trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chưa có kinh nghiệm nhiều về nghiên cứu thị trường, để tồn tại và phát triển trong tình hình hiện nay Công ty cần đầu tư thích đáng cho vấn đề này để nâng cao uy tín mở rộng sản xuất kinh doanh và từng bước hội nhập vào thị trường khu vực và Quốc tế. 3.1.7. Lựa chọn và đào tạo đội ngũ lao động có trình độ tay nghề cao Ngày nay, trong nền kinh tế chi thức, nguồn nhân lực ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của mỗi doanh nghiệp và của toàn xã hội. Đầu tư vào con người là quá trình đầu tư tốn kém nhưng đảm bảo sự phát triển bền vững. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, trong những năm qua chúng ta thường tận dụng lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn nguyên vật liệu dồi dào... nhưng những lợi thế khó có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của chúng ta trong thế kỷ XXI. Thực tiễn trong những năm vừa qua, nguồn nhân lực của xã hội và của các doanh nghiệp vừa thừa lại vừa thiếu, thường so với nhu cầu của thị trường và thiếu cán bộ nhân viên giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, khả năng ngoại ngữ... Tại Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội, phần lớn cán bộ công nhân viên được phân về làm, đến nay tuổi đời của họ cũng khá, thời gian gắn bó với Công ty cũng tương đối, họ có kinh nghiệm lâu năm, tuy nhiên trong thời đại ngày nay, nó đã thay đổi rất nhiều so với trước, vì vậy Công ty cần phải có những chính sách nhân sự hợp lý vừa có lực lượng trẻ có năng lực, chuyên môn, khả năng ngoại ngữ cao thích hợp với thời đại vừa duy trì lực lượng có kinh nghiệm, có tay nghề cao trong công việc. Đối với nguồn nhân lực hiện có, Công ty có thể nâng cao trình độ tay nghề và trình độ chính trị lý luận thông qua các lớp tập huấn ngắn hạn hoặc các khoá học tu nghiệp ở nước ngoài. Tuy vậy tổ chức cho một lực lượng đông đảo là khá tốn kém, do đó Công ty cần cân nhắc đảm bảo chi phí hợp lý. Để nâng cao vai trò cua đội ngũ nhân viên nhằm nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh không chỉ là khâu tuyển chọn hợp lý mà còn phải bố trí đúng ngưòi đúng việc, bố trí hợp lý đội ngũ nhân viên vừa đảm bảo tăng năng suất lao động lại giúp cho người công nhân chú tam vào công việc hơn. Do đó mỗi bộ phận phòng ban trong Công ty cần tuyển chọn sắp đặt nhân viên đúng với ngành nghề đã đào tạo, chẳng hạn như các nhân viên tài chính kế toán, nhân viên Marketing, nhân viên phụ trách tin học ... ngoài ra để giảm chi phí nhân công, tăng năng suất lao động, công ty cần ứng dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý sản xuất kinh doanh. Quản lý tốt nguồn nhân lực sẽ giúp Công ty nâng cao được giá trị của mình, đảm bảo nâng cao hiệu quả mỗi đồng vốn đầu tư. 3.2. một số kiến nghị để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty dệt vải công nghiệp hà nội 3.2.1. Đảm bảo cơ chế quản lý phù hợp Nhà nước cần nắm vai trò chủ động trong việc quản lý điều hành các doanh nghiệp thông qua luật doanh nghiệp và luật doanh nghiệp nhà nước, trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh lành mạnh là động lực cho sự phát triển của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế do đó nhà nước đóng vai trò như người trọng tài không trực tiếp tham gia vào hoạt dộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp mà chỉ điều tiết ở tầm vĩ mô thông qua các luật, pháp lệnh, chỉ tiêu chính sách điều hành quản lý. Đặc biệt ở nước ta vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường còn phải theo định hướng XHCN. Đối với hoạt động nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, nhà nước cần tạo điều kiện cho việc huy động, sử dụng vốn có hiệu quả. Đảm bảo mức công bằng không phân biệt các doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế khác nhau, từ đó mọi loại hình doanh nghiệp đều có quyền tiếp cận các nguồn tài trợ cho hoạt dộng sản xuất kinh doanh điều đó làm cho cung cầu vốn diễn ra cân đối giúp cho nước ta hình thành đồng bộ một thị trường tài chính. Để đảm bảo nâng cao hiệu quả đồng vốn huy động từ bên ngoài, cần có những đánh giá chính xác tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp dựa trên những tiêu thức quy định, từ đó có thể có những ưu đãi khác nhau đối với từng điều kiện tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tiễn trong thời gian qua ở nước ta các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường huy động vốn và các nguồn tài trợ ngoại sinh một cách khó khăn hơn các doanh nghiệp quốc doanh, chủ yếu là do những lợi thế của các doanh nghiệp này được nhà nước bảo hộ. Điều này cần được xoá bỏ thay vào đó là dựa trên đảm bảo từ chính uy tín, khả năng hoạt dộng sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường của doanh nghiệp. Đó là các doanh nghiệp được hệ số uy tín cao sẽ được hưởng các ưu đãi về vay vốn. Việc đánh giá hệ số uy tín dựa vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hoặc tính khả thi của dự án đầu tư. Đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần được tiến hành thường xuyên định kỳ chủ yếu dựa trên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, do đó yêu cầu tất cả các doanh nghiệp phải công khai tình hình tài chính doanh nghiệp, đồng thời các cơ quan chủ quản có thể giám sát việc huy động và sử dụng vốn tại doanh nghiệp, có biện pháp, quy chế gắn trách nhiệm quyền lợi của cán bộ quản lý doanh nghiệp đối với sự tăng giảm thất thoát vốn, tài sản trong doanh nghiệp. Đánh giá tình hình và khả năng thanh, chi trả của các doanh nghiệp đối với mỗi dự án vay. Có thể kết hợp giữa các uỷ ban thanh tra nhà nước với các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng cho vay vốn để giám sát phát hiện kịp thời những sai phạm trong công tác huy động vốn, lập đề án và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Từ đó có thể giúp doanh nghiệp tránh thất thoát vốn và nâng cao hiệu quả của mỗi đồng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Cải cách các thủ tục hành chính giảm bớt sự phiền hà cho các doanh nghiệp đây là vấn đề rất quan trọng đã đưọc xem xét nhiều năm qua nhưng vẫn chưa đạt được hiệu quả, cải cách thủ tục hành chính làm giảm bớt chi phí đầu vào của các doanh nghiệp, đặc biệt là công tác huy động và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đối với Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội, qua phân tích tình hình tài chính trong những năm gần đây cho thấy hiêu quả kinh doanh của Công ty là khá tốt, có xu hướng tích cực và đang đứng trước các yêu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh. Các cơ chế chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước có những tác động lớn đến những hoạt dộng sản xuất kinh doanh của Công ty, đặc biệt là tình hình nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh. Một cơ chế chính sách đồng bộ đảm bảo hài hoà giữa lợi ích của Nhà nước, Công ty và người lao động sẽ tạo điều kiện cho Công ty phát huy được các tiềm năng, thế mạnh của mình, mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. 3.2.2. Bảo đảm môi trường pháp luật ổn định Pháp luật chính là công cụ quản lý của nhà nước về kinh tế và các hoạt động xã hội khác. Một môi trường luật pháp ổn định là tiền đề cho một xã hội ổn định và phát triển kinh tế, từng bước hoà nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Các chính sách luật pháp ổn định giúp các nhà đầu tư yên tâm sản xuất kinh doanh mở rộng các hoạt động nghiên cứu và triển khai, tránh được các rủi ro chính trị tạo một môi trường hấp dẫn thu hút các luồng vốn đầu tư. Trong nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay ở nước ta, nhà nước có chủ trương thực hiện chính sách bình đẳng giữa các thành phần kinh tế nhằm tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Do đó Nhà nước phải không ngừng kiện toàn hệ thống luật pháp, đặc biệt là luật kinh tế đảm bảo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Hiện nay luật doanh nghiệp ra đời đã giải quyết nhiều vướng mắc tồn đọng xung quanh sự hoạt động của các doanh nghiệp nhưng cũng còn nhiều vướng mắc chưa được giải quyết. Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội cũng như các doanh nghiệp khác phải được đặt trong sân chơi bình đẳng hơn với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là các ưu đãi về đất đai trụ sở, vốn nhà nước cấp… thì mới thật sự tạo động lực thúc đẩy các doanh nghiệp nhà nước phát triển bền vững. Như vậy một môi trường pháp luật, đặc biệt là luật kinh tế ổn định sẽ là tiền đề cho các doanh nghiệp nâng cao khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. 3.2.3. Kiện toàn các chính sách về thuế Thuế đóng một vai trò chủ đạo chiếm trên 90% nguồn thu cho NSNN, do đó các chính sách về thuế ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Theo quy định trước đây, các doanh nghiệp nhà nước phải nộp thuế thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước, được hạch toán khoản nộp vào chi phí sản xuất kinh doanh. Hiện nay theo nghị định 59/C P của Thủ tướng chính phủ thì các khoản thuế vốn này được trừ vào lợi nhuận sau thuế chứ không được tính là một khoản chi phí. Điều này góp phần tạo ra sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh, bởi các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường không được cấp vốn từ NSNN họ phải huy động trên thị trường và phải chịu một khoản lãi suất nhất định. Tuy nhiên nộp thuế vốn đôi khi cũng gặp khó khăn, đặc biệt là các doanh nghiệp mới thành lập và đi vào hoạt động, khả năng tích luỹ chưa cao, vốn cho hoạt động sản xuất chưa nhiều và đặc biệt là lợi nhuận sau thuế còn thấp do những năm đầu tỷ lệ khấu hao còn cao. Do đó để giúp cho các doanh nghiệp vừa đủ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh lại đảm bảo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần trong nền kinh tế, nhà nước có thể giảm bớt các khoản thu này trong những năm đầu hoạt động hoặc cấp vốn ngân sách một lần khi thành lập doanh nghiệp và yêu cầu tự hạch toán sản xuất kinh doanh đảm bảo đúng công tác bảo toàn và phát triển vốn. Hàng năm, Công ty đều đóng một khoản vốn lớn VAT và các loại thuế khác vào ngân sách nhà nước, nếu được Nhà nước xem xét điều chỉnh hợp lý sẽ giúp tạo được động lực thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tiết kiệm chi phí sản xuất. 3.2.4. Đổi mới mô hình cấp phát ngân sách Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội cũng như các doanh nghiệp Nhà nước khác hàng năm đều được cấp phát ngân sách phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Việc cấp phát này đã đem lại cho các doanh nghiệp Nhà nước được tiếp cận với các nguồn vốn dồi dào, chi phí vốn thấp đảm bảo đủ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên việc cấp vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước nhiều khi chưa tạo ra sự bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác ảnh hưỏng đến môi trường cạnh tranh lành mạnh. Vốn được cấp phát do không phân bổ hợp lý dễ gây ra tình trạng kém hiệu quả trong sử dụng, nhiều khi bị thất thoát, sử dụng không đúng mục đích. Do vậy thay vì cấp phát trực tiếp cho các doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước có thể thành lập các tổ chức tín dụng, công ty tài chính, quỹ đầu tư…dựa trên hoạt động cho các doanh nghiệp Nhà nước vay. Vốn hoạt động không phải được huy động từ thị trường như các ngân hàng thương mại mà được Nhà nước cung cấp và giao trách nhiệm cho các tổ chức tín dụng này. Định kỳ các tổ chức tín dụng này sẽ cấp phát cho các doanh nghiệp Nhà nước nhưng phải thẩm định đầu tư và đưa ra các mức lãi suất cho phù hợp. Các tổ chức này sẽ chuyên môn hoá nghiệp vụ cấp phát ngân sách nên hoạt động có hiệu quả hơn. còn các doanh nghiệp Nhà nước do khi nhận vốn cấp phải chịu chi phí nhất định lại chịu các điều kiện ràng buộc giám sát nên sử dụng vốn cấp hiệu quả hơn, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh. Khi hoạt động cấp phát ngân sách đi vào ổn định, các tổ chức tín dụng có thể tích lập các mối quan hệ với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tiếp nhận nguồn vốn từ thị trường bên ngoài…Tuy nhiên vốn chủ yếu là vốn từ ngân sách Nhà nước cấp. Nhà nước cần gắn trách nhiệm cụ thể cho các cá nhân tổ chức để nâng cao trách nhiệm sử dụng vốn. Sự tồn tại cảu các doanh nghiệp Nhà nước là điều tất yếu khi mà Đảng và Nhà nước xây dựng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngay cả ở các nước tư bản chủ nghĩa, các doanh nghiệp Nhà nước và sở hữu Nhà nước vẫn đóng một vai trò quan trọng, chính vì vậy hoạt động cấp phát vốn ngân sách cho các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh chưa thể bị xoá bỏ. Vốn của Nhà nước cấp vẫn đóng một vai trò quan trọng đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên sử dụng như thế nào để có hiệu quả là vấn đề đặt ra mà mô hình tổ chức tín dụng Nhà nước có thể mang lại một hướng đi cho các doanh nghiệp Nhà nước. 3.2.5. Về phía Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội cần luôn thực hiện tốt chức năng sản xuất kinh doanh của mình, từng bước nâng cao uy tín của mình trên thị trường trong và ngoài nước. Công ty cần biết phát huy những lợi thế của mình như bản thân là một doanh nghiệp Nhà nước được nhiều ưu đaĩ về vốn về công nghệ ngoài ra bản thân Công ty đã có những thành công trên thị trường…tuy vậy chủ động hội nhập, đảm bảo tính độc lập tự chủ là điều kiện cần thiết cho tất cả các doanh nghiệp hiện nay trong đó có Công ty, qua đo Công ty mới có thể phát huy được tốt nhất tiềm năng hiện có. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh Công ty cần đề phòng các rủi ro đặc biệt là các rủi ro tài chính do vậy Công ty cần đảm bảo thực hiện đầy đủ theo quy định về kế toán, tài chính doanh nghiệp. Để có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn không chỉ cần thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh nâng cao doanh thu lợi nhuận mà còn phải tính đến khả năng thanh toán giảm thiểu các rủi ro không đáng có trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong thời gian tới mở rộng thị trường mới trong nước và ngoài nước là điều đã nằm trong kế hoạch. Công ty cần nghiên cứu kỹ tính khả thi của các dự án mở rộng năng lực quy mô sản xuất kinh doanh đảm bảo sử dụng có hiệu quả các đồng vốn đầu tư. Công ty nên đề nghị Nhà nước cấp thêm vốn trong các lĩnh vực cần mở rộng đảm bảo đủ vốn đầu tư lại tránh được các chi phí huy động khi vay vốn trên thị trường. Ngoài ra Công ty còn phải đảm bảo quản lý tốt nguồn nhân lực nâng cao phúc lợi cho các nhân viên và người lao động. Thường xuyên đổi mới tài sản cố định nhằm tiếp cận với công nghệ mới…đảm bảo thực hiện tốt các yêu cầu đặt ra sẽ giúp cho Công ty có được thế và lực mới trên thị trường hiện nay. Kết luận “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh” không phải còn là một vấn đề mới mẻ cho một nền kinh tế sau hơn 15 năm mở cửa. Ngay từ khi chúng ta bắt tay vào công cuộc công nghiệp hoá XHCN ở Miền Bắc từ những năm 60, vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đã được đề cập, bởi vì hiệu quả sử dụng vốn ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, của cả nền kinh tế. Điều này càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, sâu sắc từ năm 1986. Bởi vì chỉ có nâng cao hiệu quả sử dụng vốn mới có thể nâng cao được năng lực, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, và khả năng cạnh tranh trong tiến tình hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay. Điều tiết được các chi phí đầu vào của doanh nghiệp nhằm giảm chi phí sản xuất, hạ thấp giá thành sản phẩm là một trong các vấn đề mang tính sống còn hiện nay khi mà chúng ta chuẩn bị gia nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA năm 2006 và xa hơn nữa là gia nhập WTO trong tương lai. Chính vì vậy, trong những năm qua, cơ cấu lại các doanh nghiệp Nhà nước, ban hành luật doanh nghiệp… nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế làm ăn có hiệu quả là điều mà Đảng và Nhà nước đã kịp thời nhìn nhận, và đang từng bước hoàn thiện. Chúng ta đã bước vào thế kỷ XXI với nhiều cơ hội, thách thức và những trách nhiệm nặng nề. Mục tiêu hoàn thành cơ bản công nghiệp hoá vào năm 2020 đã đạt yêu cầu huy động một lượng vốn đầu tư rất lớn trong thời gian tới. Tuy vậy vấn đề hoàn thành mục tiêu công nghiệp hoá mà toàn Đảng, toàn dân đã đề ra lại mâng cao được vai trò độc lập, tự chủ của quốc gia, phát huy nội lực là điều hết sức quan trọng. Trong những năm đổi mới vừa qua, chúng ta đã bước đầu có tích luỹ cho đầu tư phát triển nhưng còn rất nhỏ bé trong khi yêu cầu thực tế là rất lớn, vì vậy việc nâng cao hiệu quả của mỗi đồng vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp là điều vô cùng quan trọng. Điều quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh phụ thuộc vào chính bản thân mỗi doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh như hiện nay yêu cầu đặt ra cho mỗi doanh nghiệp là phải luôn hoạt động sản xuất của mình, tránh ỷ lại vào các ngoại lực bên ngoài. Đặc biệt là phải xác định đúng đắn vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Một môi trường đầu tư năng động, hấp dẫn, một thể chế luật pháp nghiêm minh, lành mạnh, một xã hội ổn định… sẽ là những tác nhân quan trọng cho mỗi doanh nghiệp và cả nền kinh tế nâng cao được hiệu quả đầu tư. Thực tiễn trong năm qua, tình hình hiệu quả sử dụng vốn ở một bộ phận doanh nghiệp càng đặt chúng tá trước những yêu cầu đòi hỏi cấp thiết. Quản lý tốt nguồn vốn sản xuất kinh doanh là vấn đề có tính cấp thiết trong tình hình hiện nay. Tuy vậy chúng ta cũng không được nóng vội chủ quan duy ý chí đề ra các biện pháp tràn lan nhiều khi gây ra những hiệu quả nặng nề, chẳng hạn như trong những năm vừa qua công tác cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước còn bộc lộ nhiều hạn chế. Nhận thức đúng đắn vấn đề “ Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh” trong doanh nghiệp, từ đó có các chính sách đúng đắn, phù hợp là điều quan trọng giúp cho doanh nghiệp nước ta, trong đó có Công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội có thể có được những hướng đi đúng nhằm nâng cao vị thế cuả mình trên thị trường trong và ngoài nước, góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế để chúng ta có thể sớm hoàn thành mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy giáo phụ trách - TS. Vũ Duy Hào và các cô chú trong phòng Tài chính Kế toán đã giũp đỡ em trong suốt quá trình thực tập và hoàn thiện Chuyên đề tốt nghiệp. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình “Quản trị tài chính doanh nghiệp” Tg: TS. Vũ Duy Hào. Giáo trình “Tài chính doanh nghiệp” Tg: TS. Lưu Thị Minh Hương. 2. Các tạp chí Tài Chính, Ngân hàng 3. Tạp chí thời báo kinh tế Việt Nam, các tạp chí kinh tế khác. 4. Luận văn tốt nghiệp khoá 40 khoa Ngân Hàng -Tài Chính 5. Các Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0164.doc
Tài liệu liên quan