Nguyên vật liệu trực tiếp cho sản xuất kinh doanh luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong giá thành, quản lý tốt chi phí nguyên vật liệu đầu vào có ảnh hưởng lớn đến giá thành sản phẩm và hiệu quả sử dụng vốn của Công ty.
Việc thu mua nguyên vật liệu cần phải có các hợp đồng mua bán cụ thể đảm bảo thu mua đúng giá hiện hành trên thị trường, có các đề nghị chiết khấu giảm giá khi mua với khối lượng lớn hoặc thanh toán nhanh. Xác định các hình thức mua bán, thanh toán và vận chuyển tối ưu, đặc biệt là dự trữ hợp lý về số lượng, chất lượng, đảm bảo lượng hàng tồn kho tối ưu. Có thể áp dụng các mô hình kinh tế lượng trong quản lý hàng tồn kho.
Công ty nên tiếp cận nhiều nhà cung cấp để có được giá mua đúng nhưng đồng thời duy trì các nhà cung cấp truyền thống.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh tại công ty dệt vải công nghiệp Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n vốn
Theo công dụng kinh tế của nguồn vốn thì vốn sản xuất kinh doanh chia làm hai bộ phận là vốn cố định và vốn lưu động. Vốn cố định chủ yếu đầu tư vào tài sản cố định là những tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh như máy móc, nhà xưởng, thiết bị, trụ sở giao dịch… Còn vốn lưu động chủ yếu được sử dụng để tài trợ cho tài sản lưu động tham gia chủ yếu vào một kỳ sản xuất kinh doanh như nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ.
a-Vốn cố định của Công ty:
Trong năm 2000 tổng vốn cố định của Công ty là 29.490 triệu đồng chiếm 41,7% tổng vốn kinh doanh. Sang năm 2001, vốn cố định tăng lên 31.052 triệu đồng, đây là do Công ty đầu tư vào tài sản cố định( xây dựng cơ bản). Đặc biệt, năm 2002 vốn cố định của Công ty tăng lên tới 102.249 triệu đồng, tăng 71.179 triệu đồng tương ứng 229,3% so với năm 2001, lượng vốn này tăng đột ngột năm 2002 là do Công ty lắp đặt thêm một phân xưởng mới, đó là phân xưởng sản xuất vải không dệt. Như vậy, nếu như năm 2000 và 2001 tỷ trọng vốn lưu động trên tổng nguồn vốn lớn hơn vốn cố định thì năm 2002 tỷ trọng vốn cố định đã chiếm tới 61% tổng nguồn vốn.
b-Vốn lưu động của Công ty:
Trong năm 2000 tổng vốn lưu động của Công ty là 43.074 triệu đồng, sang năm 2001 tăng lên 52.216 triệu đồng do tiền mặt, các khoản phải thu và hàng tồn kho đều tăng lên. Năm 2000, tiền mặt là 1.297 triệu đồng, năm 2001 là 4.297 triệu đồng tăng 3 tỷ đồng. Hàng tồn kho năm 2001 tăng 3.634 triệu đồng so với năm 2000. Năm 2002 nguồn vốn lưu động tiếp tục tăng lên đến 65.674 triệu đồng chủ yếu là do các khoản phải thu và hàng tồn kho tăng lên, tiền mặt thay đổi không đáng kể. Các khoản phải thu năm 2001 là 29.563 triệu đồng, năm 2002 là 35.147 triệu đồng tăng 5.584 triệu đồng. Hàng tồn kho năm 2001 là 17.285 triệu đồng, năm 2002 lên đến 25.527 triệu đồng tăng 8.242 triệu đồng, trong đó chủ yếu là do nguyên liệu, vật liệu tồn kho tăng lên còn hàng hoá tồn kho tăng ít và thành phẩm tồn kho còn giảm. Điều này cho thấy mặc dù hàng tồn kho khá nhiều nhưng chủ yếu là ở nguyên liệu vật liệu do vậy cũng không ảnh hưởng lắm đến vòng quay của vốn.
Bảng 2: Kết cấu nguồn vốn sản xuất kinh doanh của Công ty
(đ/v triệu đồng)
Năm
Tổng nguồn
vốn
Vốn cố định
Vốn lưu động
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
2000
72.570
29.490
41.7%
43.074
58.3%
2001
83.284
31.052
37%
52.216
63%
2002
167.923
102.249
61%
65.674
39%
(Trích bảng cân đối kế toán của Công ty)
2.2.1.2. Phõn tớch kết cấu nguồn vốn sản xuất kinh doanh của Cụng ty căn cứ vào quyến sở hữu đối với vốn.
Căn cứ vào quyền sở hữu đối với vốn ta cú nợ phải trả và vốn chủ sở hữu.
Nguồn vốn nợ là nguồn vốn được tài trợ bởi những người khụng phải là chủ sở hữu của doanh nghiệp, việc mua bỏn trao đổi được thoả thuận như một hợp đồng vay mượn. vốn nợ được huy động từ trờn thị trường tài chớnh từ cỏc ngõn hàng thương mại, vay của cỏc tổ chức cỏ nhõn, phỏt hành trỏi phiếu doanh nghiệp.
Nguồn vốn cổ phần được tài trợ bởi cỏc chủ sở hữu doanh nghiệp thụng qua việc trao đổi mua bỏn cổ phiếu, huy động vốn gúp cổ phần…
a-Nợ phải trả của Cụng ty:
Năm 2000, nguồn vốn nợ của Cụng ty là 57.693 triệu đồng chiếm tỷ trọng khá cao 79,5%, trong đó nợ ngắn hạn là chiếm tỷ trọng lớn hơn với số tuyệt đối là 36.351 triệu đồng. Sang năm 2001, nguốn vốn chủ sở hữu có tăng nhưng tỷ lệ tăng nhỏ, do vậy nguồn vốn nợ vấn chiếm tỷ trọng lớn, chiếm 81,5% tương ứng với số tuyệt đối là 67.921 triệu đồng. Nguồn vốn nợ tăng lên chủ yếu là do Công ty vay ngắn hạn đầu tư vào tài sản lưu động. Như ta đã nghiên cứu ở phần trước, tỷ trọng vốn lưu động tại Công ty là cao bởi vì ngoài sản xuất sản phẩm Công ty còn tham gia vào kinh doanh thương mại, vì vậy việc tăng vốn cho tài sản lưu động cũng là hợp lý, tuy nhiên năm 2002 thành phẩn tồn kho và hàng hoá tồn kho khá cao so với năm 2000, điều này sẽ không có lợi cho Công ty bởi vì nó ảnh hưởng đến vòng quay của vốn kinh doanh. Sang năm 2002, nguồn vốn nợ tiếp tục tăng cao lên đến 151.925 triệu đồng chiếm tỷ trọng cũng rất cao 90,5%, nguồn vốn nợ chiếm tỷ trọng cao như vậy bởi vì, vốn chủ sỏ hữu có tăng nhưng không đáng kể. Nguồn vốn nợ tăng cao là do Công ty được vay ưu đãi dài hạn từ Quỹ đầu tư phát triển để lắp đặt thêm một phân xưởng mới, đó là phân xưởng vải không dệt. Như vậy, năm 2002 Công ty tiêp tục vay ngắn hạn để đầu tư cho tài sản lưu động nhưng đây không phải là nguyên nhân chính làm nguồn vốn nợ tăng cao mà là vay dài hạn, điều này cho thấy Công ty đang mở rộng quy mô và hoạt động có hiệu quả vì lợi nhuận mấy năm liền đều tăng liên tục. Song, nguồn vốn nợ chiếm tỷ trọng cao tuy tiết kiệm được thuế lại gây khó khăn cho Công ty khi muốn đi vay từ các trung gian tài chính vì hệ số đo khả năng thanh toán sẽ thấp. Để sử dụng vốn một cách hiệu quả và có lợi, Công ty cần có một cơ cấu vốn hợp lý vừa tiết kiệm được thuế TNDN vừa thuận lợi cho việc tham gia vào thị trường tài chính.
b-Vốn chủ sở hữu của Công ty:
Vốn chủ sỏ hữu của Công ty qua mấy năm gần đây có tăng nhưng tăng rất ít, tỷ lệ tăng rất nhỏ so với tỷ lệ tăng của vốn vay, do đó tỷ trọng của vốn chủ sỏ hữu là nhỏ trong tổng nguồn vốn. Năm 2000 vốn chủ sỏ hữu là 14.877 triệu đồng tương ứng 20,5% tổng nguồn vốn. Năm 2001 là 15.363 triệu đồng chiếm 18,5% tổng nguồn vốn. Năm 2001 vốn chủ sở hữu tăng chủ yếu là do lợi nhuận gĩư lại của Công ty. Năm 2002 vốn chủ sở hữu tiếp tục tăng rất chậm trong khi đó vốn vay của Công ty lại tăng mạnh trong năm này vì vậy tỷ trọng vốn chủ sỏ hữu chỉ chiếm có 9,5% với số tuyệt đối là 15.998 triệu đồng. Tình trạng này của Công ty chưa phải là nguy hiểm lúc này nhưng sẽ bất lợi về lâu dài, nó ảnh hưởng đến việc huy động vốn của Công ty và Công ty chịu sự phụ thuộc nhiều hơn vào thị trường tài chính, đặc biệt là từ lúc này về sau , mọi doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp nhà nước đều phải tự chủ về tài chính hơn trước, phải đương đầu với mọi thách thức trong nền kinh tế thị trường.
Bảng 3: Kết cấu nguồn vốn sản xuất kinh doanh của Công ty căn cứ vào quyền sở hữu vốn.
(đ/v : triệu đồng)
Năm
Nguồn vốn nợ
Nguồn vốn chủ sỏ hữu
Số tiền
Tỷ trọng (%)
số tiền
Tỷ trọng (%)
2000
57.693
79,5
14.877
20,5
2001
67.921
81,5
15.363
18,5
2002
151.925
90,5
15.998
9,5
( Trích từ bảng cân đối kế toán hàng năm của Công ty)
2.1.1.3. Phân tích cơ cấu nguồn vốn sản xuất kinh doanh của Công ty theo nguồn hình thành của các khoản vốn
Là một doanh nghiệp nhà nước hình thành trong điều kiện cơ chế thị trường ngoài vốn do NSNN cấp, công ty còn chủ động huy động các nguồn vốn khác nhau cho sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn tự huy động của Công ty chủ yếu là vay các trung gian tài chính như ngân hàng, các quỹ đầu tư phát triển... ngoài ra Công ty còn huy động được một nguồn vốn đáng kể từ cán bộ công nhân viên chức, người lao động trong Công ty đây là một lợi thế mà Công ty đã tận dụng được.
Từ ngày hình thành và đi vào hoạt động, nguồn vốn sản xuất kinh doanh của Công ty tăng hàng năm.
Nguồn vốn NSNN cấp chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ và thường không ổn định, năm 2000 là 500 triệu đồng, đến năm 2001 vốn được cấp có tăng nhưng chỉ là 1tỷ đồng, sang năm 2002 chỉ còn là 500 triệu đồng. Mặc dù chiếm một tỷ lệ nhỏ nhưng so với doanh nghiệp Nhà nước khác vẫn còn là được, điều này nói nên rằng Công ty đang làm ăn có hiệu quả. Mặt khác với tỷ lệ vốn NSNN cấp rất nhỏ, nhưng Công ty vẫn đứng vững trên thương trường và nguồn vốn sản xuất kinh doanh vẫn tăng hàng năm, điều này chứng tỏ khả năng sản xuất kinh doanh độc lập tự chủ của Công ty. Để tăng nguồn vốn chủ sở hữu, Công ty đã đầu tư từ lợi nhuận giữ lại và các khoản tự bổ sung khác.
Nguồn vốn tín dụng chiếm một tỷ lệ rất lớn trong cả vốn lưu động và vốn cố định và đều tăng dần hàng năm qua mấy năm gần đây. Cụ thể năm 2000 các khoản vay ngắn và dài hạn của Công ty là 30.607 triệu đồng trong đó vay ngắn hạn là 24.810 triệu đồng chiếm chủ yếu, vay dài hạn chỉ chiếm 5.797 triệu đồng. Sang năm 2001 các khoản vay là 39.559 triệu đồng, phần tăng là do vay ngắn hạn tăng lên, vay ngắn hạn năm 2001 là 33.904 triệu đồng, tức là năm 2001 vay ngắn hạn tăng lên là 9.094 triệu đồng. Sang năm 2002, vay ngắn và dài hạn tăng mạnh lên đến 111.941 triệu đồng, trong đó vay ngắn hạn cũng vẫn tăng nhưng vay dài hạn mới làm cho các khoản vay năm 2002 tăng lên nhiều như vậy. Vay dài hạn năm 2002 tăng lên 67.582 triệu đồng so với năm 2001, đây là Công ty được vay ưu đãi từ Quỹ đầu tư phát triển để mở rộng quy mô kinh doanh, cụ thể là lắp đặt thêm phân xưởng vải không dệt.
Như vậy nguồn vốn tín dụng đóng một vai trò quan trọng trong cơ cấu nguồn vốn sản xuất kinh doanh của Công ty. Trong tình hình hiện nay, khi thị trường chứng khoán của ta chưa phát triển, việc phát hành các loại chứng khoán để thu hút trực tiếp các nguồn vốn nhàn rỗi từ thị trường rất khó thực hiện được trong khi yêu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao và đổi mới năng lưc sản xuất đòi hỏi Công ty phải tiếp cận các nguồn vốn tín dụng. Việc tiếp cận này là hoàn toàn hợp lý đảm bảo nguồn tài trợ thường xuyên cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Tuy vậy, vốn nợ của Công ty mấy năm trở lại đậy chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu nguồn vốn, đây sẽ là kho khăn cho Công ty khi cần huy động vốn từ thị trường tài chính. Mặt khác, sử dụng vốn nợ sẽ phải trả lãi vay, điều này đòi hỏi Công ty phải sử dụng hợp lý nguồn vốn vay để thu hồi và trả nợ cũng như thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước và người lao động.
Bảng 4 : Nguồn vốn kinh doanh của Công ty mấy năm gần đây
(đ/v : triệu đồng)
Năm
Nguồn vốn kinh doanh
2000
72.564
2001
83.268
2002
167.923
( Trích từ bảng cân đối kế toán hàng năm của Công ty)
2.2.2. Sự biến động về vốn của Công ty
2.2.2.1 Sự biến động về vốn cố định
Vốn cố định của Công ty được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau song chủ yếu là từ NSNN cấp, nguồn lợi nhuận tự bổ sung và tín dụng dài hạn từ các trung gian tài chính. Riêng năm 2002, tài sản cố định của công ty đột ngột tăng cao, đó là việc lắp đặt thêm một phân xưởng lớn, nguồn tài trợ cho tài sản cố định này là do Công ty được vay ưu đãi dài hạn từ Quỹ đầu tư phát triển.
Trong năm 2000 vốn NSNN cấp là 500 triệu đồng, sang năm 2001 Nhà nước cấp thêm 1 tỷ đồng, đây là nhu cầu đòi hỏi từ việc mở rộng sản xuất kinh doanh của Công ty. Năm 2002 vốn NSNN cấp là 500 triệu đồng. Phần lớn vốn được cấp từ NSNN Công ty dùng để đầu tư vào tài sản cố định phục vụ sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, phần vốn NSNN cấp này không đáp ứng nhu cầu, cho nên Công ty phải tăng cường thêm huy động từ các nguồn khác cho tài sản cố định.
Phần lớn lợi nhuận giữ lại hàng năm được bổ sung vào vốn cố định. Mấy năm gần đây hoạt động kinh doanh của Công ty đều đạt kết quả cao, vì vậy đây là một nguồn bổ sung có giá trị.
Việc huy động vốn tín dụng để đầu tư vào tài sản cố định của Công ty chiếm tỷ trọng khá cao, đặc biệt là năm 2002 vốn tín dụng đầu tư vào tài sản cố định là 67.582 triệu đồng, nâng giá trị tài sản cố định lên đến 102.179 triệu đồng.
Sử dụng tổng hợp các nguồn tài trợ nhằm nâng cao nguồn vốn cố định của Công ty là một giải pháp có tính khả thi vừa đảm bảo tốt việc huy động tối đa lại giảm thiểu tính rủi ro của các nguồn vốn tài trợ vì đầu tư vào tài sản cố định là đầu tư dài hạn.
* Sự biến động về nguyên giá tài sản cố định: nguyên giá tài sản cố định năm 2001 so với năm 2000 tăng rất ít. Năm 2000 nguyên giá TSCĐ là 38.518 triệu đồng, sang năm 2001 là 39.618 triệu đồng, tức là tăng 1.100 triệu đồng tương ứng 2,86% so với năm 2000. Sang năm 2002, nguyên giá tài sản cố định tăng rất mạnh do Công ty lắp đặt thêm một phân xưởng sản xuất lớn. Nguyên giá tài sản cố định năm 2002 là 114.725 triệu đồng tăng số tuyệt đối là 75.107 triệu đồng, tương ứng 189,58% so với năm 2001.
Sự gia tăng về nguyên giá tài sản cố định năm 2001 so với năm 2000 là do quá trình đổi mới tài sản cố định hữu hình hàng năm, tài sản cố định vô hình không thay đổi vẫn cố định ở mức 13 triệu đồng. Năm 2002 nguyên giá tài sản cố định tăng là do bên cạnh việc đổi mới, Công ty còn đầu tư thêm TSCĐ hữu hình có giá trị rất lớn, TSCĐ vô hình cũng tăng thêm làm nguyên giá TSCĐ vô hình cuối năm tăng lên 146 triệu đồng.
Bảng 5: Tình hình tăng giảm tài sản cố định của Công ty
(đ/v: triệu đồng)
chỉ tiêu
năm 2001
năm 2002
Số dư đầu kỳ
38.518
39.618
Số tăng trong kỳ
2.157
75.721
Số giảm trong kỳ
1.057
614
Số cuối kỳ
39.618
114.725
* Sự biến động về giá trị còn lại của TSCĐ: Giá trị còn lại của TSCĐ năm 2001 là 28.488 triệu đồng có tăng so với năm 2000 nhưng tăng rất chậm, tăng chậm hơn so với tỷ lệ gia tăng về nguyên giá TSCĐ. Tỷ lệ gia tăng về nguyên giá TSCĐ năm 2001 so với năm 2000 tăng 2,86% trong khi đó giá trị còn lại chỉ tăng 74 triệu đồng tương ứng 0,26%. Nguyên nhân là do Công ty tăng mức khấu hao, khấu hao luỹ kế năm 2000 là 10.104 triệu đồng, sang năm 2001 tăng lên 11.130 triệu đồng, tức là tăng 1.026 triệu đồng so với năm 2000. Năm 2002, giá trị còn lại của TSCĐ là 101.642 triệu đồng tăng 73.154 triệu đồng tương ứng 256,79% so với năm 2001. Năm 2001 tài sản cố định đã khấu hao hết 28,09% còn 71,91%, sang năm 2002 do đầu tư thêm tài sản cố định mới nên tỷ lệ đã khấu hao giảm xuống còn 1,4%.
2.2.2.2. Sự biến động về vốn lưu động của Công ty
Có thể thấy rằng từ năm 2001 trở về trước, vốn lưu động chiếm tỷ trọng khá cao trong cơ cấu tổng nguồn vốn của Công ty. Năm 2000 tổng vốn lưu động là 43.074 triệu đồng chiếm 58,3% tổng nguồn vốn sản xuất kinh doanh của Công ty. Năm 2001 vốn lưu động tiếp tục tăng lên 52.216 triệu đồng và chiếm tới 63% tổng nguồn vốn, như vậy là có một lượng lớn các khoản vốn tín dụng, vốn vay được đầu tư vào tài sản lưu động. Vốn lưu động tăng lên là do các khoản vay ngắn hạn bổ sung, đặc biệt là vay ngắn hạn ngân hàng. Năm 2002 mặc dù vốn lưu động vẫn tiếp tục tăng nhưng tỷ trọng trong tổng nguồn vốn sản xuất kinh doanh đã giảm xuống 39%, đây không phải là vì vốn lưu động tăng ít mà là vì năm 2002 vốn cố định đột ngột tăng cao. Vốn lưu động năm 2002 là 65.674 triệu đồng tăng 13.458 triệu đồng tương ứng 25,77% so với năm 2001. Như vậy, vốn lưu động của Công ty tăng liên tục qua các năm gần đây, nguồn bổ sung vào vốn lưu động chính là các khoản vay ngắn hạn. Vốn lưu động chiếm tỷ trọng cao bởi vì Công ty ngoài sản xuất sản phẩm còn tham gia kinh doanh thương mại.
* Sự biến động về vốn bằng tiền : Vốn bằng tiền của Công ty luôn chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn lưu động, điều này chứng tỏ những cố gắng của Công ty trong việc tối thiểu hoá lượng tiền mặt dự trữ vì vốn bằng tiền là loại tài sản có tính lưu động nhất, có thể sử dụng ngay để mua hàng hoá, thanh toán nợ nguyên vật liệu hoặc trang trải các khoản chi phí trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng lại là những đồng tiền chết không có khả năng sinh lời hoặc có tính sinh lời thấp ( nếu đem gửu không kỳ hạn tại ngân hàng ). Vì vậy, tính toán kỹ một lượng là bao nhiêu để phù hợp với tình hình, khả năng thanh toán của công ty là một yêu cầu đặt ra.
Năm 2000 vốn bằng tiền của Công ty là 1.297 triệu đồng chiếm 1,79% tổng nguồn vốn, đến năm 2001 tăng lên 4.297 triệu đồng chiếm 5,04% tổng nguồn vốn. Mặc dù vẫn chiếm tỷ trọng thấp nhưng lượng vốn bằng tiền đã tăng lên nhằm đáp ứng đáp ứng yêu cầu thanh toán các khoản phải trả của Công ty. Năm 2002 vốn bằng tiền tương đối ổn định so với năm 2001, nhưng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn chỉ chiếm 2,6% bởi vì tổng nguồn vốn năm 2002 tăng mạnh do vốn đầu tư vào tài sản cố định tăng mạnh.
* Các khoản nợ phải thu trong vốn lưu động :
Nợ phải thu là các khoản tiền của doanh nghiệp do các cá nhân, doanh nghiệp khác chiếm dụng một cách hợp pháp. Các khoản phải thu của Công ty tăng đều qua các năm, năm 2000 là 27.129 triệu đồng. Đến năm 2001 tăng lên 29.479 triệu đồng và tiếp tục tăng đến năm 2002 là 35.147 triệu đồng. Trong đó chủ yếu là phải thu của khách hàng, như vậy vốn bị chiếm dụng hợp lý của Công ty ngày càng tăng bởi các khách hàng. Việc biến động của nợ phải thu phụ thuộc vào tình hính sản xuất kinh doanh không phải chỉ riêng công ty mà còn của các đối tác. Tìm cách giảm bớt lượng vốn bị chiếm dụng hợp pháp là vấn đề đặt ra đối với công ty nhằm nâng cao hiệu quả vốn sản xuất kinh doanh.
* Vốn lưu động trong khâu dự trữ :
Trong sản xuất kinh doanh, công ty luôn phải có các khoản dự trữ dưới dạng tồn kho nguyên vật liệu, thành phẩm, hàng hoá, các công cụ dụng cụ tồn kho mà gọi chung là hàng tồn kho nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của công ty trong các kỳ tiếp theo. Đầu tư vào lượng hàng tồn kho chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng nguồn vốn lưu động của Công ty, năm 2000 là 13.649 triệu đồng chiếm 31,69%, đến năm 2001 là 17.283 triệu đồng chiếm 33,1%. Vốn lưu động trong hàng tồn kho cao là do chi phí SXKD dở dang, thành phẩm tồn kho và hàng tồn kho cao. Năm 2002 hàng tồn kho là 25.527 triệu đồng chiếm 38,87% tổng vốn lưu động. Hàng tồn kho năm 2002 tăng cao chủ yếu là do nguyên liệu và vật liệu tồn kho tăng mạnh, hàng hoá tồn kho cũng tăng tương đối. Như vậy, hàng tồn kho của Công ty tăng liên tục và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng vốn lưu động, mặt khác trong đó thành phẩm tồn kho và hàng hóa tồn kho liên tuc tăng khá lớn, điều này không có lợi cho Công ty và cũng nói lên rằng công tác đẩy nhanh tốc độ sản xuất kinh doanh và khai thác thị trường của Công ty chưa được tốt.
2.2.3. Chi phí vốn của Công ty
Là một doanh nghiệp Nhà nước, Công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội khi huy động vốn sản xuất kinh doanh phải chịu các chi phí chủ yếu là chi phí nợ vay và lợi nhuận giữ lại.
Chi phí từ lợi nhuận giữ lại là chi phí của vốn, được đo bằng tỷ lệ lãi suất trái phiếu kho bạc cộng với phần thưởng rủi ro, thực tế xác định chi phí này là rất khó, bản thân Công ty cũng như nhiều doanh nghiệp khác chưa chú ý đến vấn đề này.
Công ty thường huy động vốn vay, chủ yếu từ các ngân hàng thương mại với lãi suất trung bình là 0,65 %/tháng. Tổng chí phí phải trả hàng tháng là khá lớn bởi vì nguồn vốn vay của Công ty chiếm tỷ trọng khá cao, tuy nhiên có những khoản vay Công ty được vay ưu đãi với lãi suất thấp, thời hạn dài như khoản vay từ Quỹ đầu tư phát triển năm2002. Năm 2002, lãi vay phải trả của Công ty là 2.885 triệu đồng.
Sử dụng vốn vay thì phải trả lãi vay và chịu rủi ro từ sự biến động của lãi suất. Vốn vay chiếm tỷ trọng cao sẽ phải chịu chi phí cao, do đó công ty cần cân nhắc lựa chọn phương thức huy động vốn tối ưu đảm bảo giảm thiểu chi phí.
2.2.4. Tình hình khả năng thanh toán của Công ty
Khả năng thanh toán cũng là một trong các chỉ tiêu quan trọng liên quan đến rủi ro trong hoạt dộng sản xuất kinh doanh của công ty. Khi xét đến khả năng thanh toán, ta thường đánh giá chủ yếu trên hai phương diện: Khả năng thanh toán với nhà nước (tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước) và khả năng thanh toán đối với khách hàng.
a-Khả năng thanh toán của Công ty đối với Nhà nứoc
Là một doanh nghiệp Công ty cũng phải nộp đầy đủ các khoản thuế như các doanh nghiệp khác. Thông thường phần thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước phải được đặt lên hàng đầu, đặc biệt khi doanh nghiệp giải thể hay phá sản.
Thuế và các khoản phải nộp cho Nhà nước năm 1999 là 5.525 triệu đồng.
Trong những năm gần đây thuế TNDN và VAT đều tăng, điều đó cho thấy doanh thu và lợi nhuận của Công ty ngày càng tăng.
b-Khả năng thanh toán của Công ty đối với khách hàng
Bảng 6: Khả năng thanh toán của Công ty
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
1- Tiền mặt
4,298,535,729
4,362,036,199
2- Các khoản phải thu
29,563,184,387
35,147,012,369
3- Vốn lưu động
52,314,321,774
65,674,483,249
4- Nợ ngắn hạn
46,260,236,735
61,519,827,519
5-Khả năng thanh toán ngắn hạn:(3)/(4)
1,13
1,07
6- Khả năng thanh toán nhanh
0,73
0,64
(Trích từ bảng cân đối kế toán của Công ty)
Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn của Công ty được xác định bằng mối tương quan giữa vốn lưu động và nợ ngắn hạn. Năm 2001 hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn là 1,13 và sang năm 2002 là 1,07. Cả hai năm này hệ số đều lớn hơn một một ít, như vậy nhìn chung là phù hợp, Công ty có khả năng đảm bảo khả năng thanh toán trong ngắn hạn. Năm 2002 hệ số này giảm so với năm 2001 vì tốc độ tăng của vốn lưu động nhỏ hơn tốc độ tăng của nợ ngắn hạn.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh của Công ty được xác định bằng mối tương quan giữa tiền mặt, các khoản phải thu với tổng vốn lưu động. Hệ số này năm 2001 là 0,73 và giảm xuống chút ít ở năm 2002. Hệ số này giảm cũng là vì tốc độ tăng của nợ ngắn hạn lớn hơn tốc độ tăng của các khoản phải thu. Trong cả hai năm 2001 và 2002, các khoản phải thu đáp ứng phần lớn khả năng thanh toán nhanh của Công ty, tiền mặt chiếm tỷ trọng nhỏ trong vốn lưu động. Năm 2001 các khoản phải thu đáp ứng 87,3% khả năng thanh toán nhanh của Công ty và năm 2002 đáp ứng 88,96%. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của các khoản phải thu đồng thời thể hiện nguy cơ có thể bi thiếu hụt tiền mặt của Công ty. Xét về mặt tổng thể, tiền mặt và các khoản phải thu có thể giải quyết 73% nợ ngắn hạn năm 2001 và 64% nợ ngắn hạn năm 2002. Như vậy, khả năng thanh toán ngắn hạn của Công ty là tốt, song khả năng thanh toán nhanh còn hơi thấp, đặc biệt lại có xu hướng giảm. Việc cải thiện tình hình khả năng thanh toán nhanh của Công ty sẽ giúp cho Công ty ngày càng nâng cao uy tín của thị trường, từ đó có thể giúp Công ty dễ dàng hơn trong việc huy động vốn mở rộng sản xuất kinh doanh.
2.3. Đánh giá chung về hiệu quả sử dụng vốn của công ty dệt vải công nghiệp hà nội
a. Những kết quả đạt được
Như trên đã trình bày, chúng ta thấy rằng tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội diễn ra theo chiều hướng thuận lợi trong tình hình cạnh tranh ngày càng khốc liệt của nền kinh tế thị trường.
Là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt dộng trong điều kiện cơ chế thị trường tự do cạnh tranh sẽ gặp không ít khó khăn, đặc biệt khi ngày càng phải tự chủ về tài chính hơn nhưng toàn thể ban lãnh đạo công nhân viên của Công ty đã không ngừng nỗ lực để phấn đấu khắc phục khó khăn và nâng cao hiệu quả hoạt dộng sản xuất kinh doanh. Do đó quy mô hoạt dộng sản xuất kinh doanh ngày càng mở rộng, lợi nhuận và doanh thu không ngừng tăng qua từng năm hoạt dộng.
Bảng 7: Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của Công ty
(đ/v: triệu đồng)
Tt
Chỉ tiêu
đơn vị
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1
Doanh thu thuần
Tr.đồng
62.412
78.793
83.050
2
Lợi nhuận trước thuế
-
25
106
334
3
Lợi nhuận sau thuế
-
25
72
227
4
Vốn KD bình quân
-
14.078
15.100
15.570
5
Vốn CSH bình quân
-
14.100
15.120
15.630
6
Tỷ suất LN VKD(2/4)
Đồng
0,0018
0,007
0,0215
7
Tỷ suất LN ròngVKD(3/4)
-
0,0018
0,0048
0,0146
8
Tỷsuất LNròngVCSH(3/5)
-
0,0018
0,0048
0,0145
Nhìn vào bảng trên ta thấy:
Năm 2000 một đồng vốn kinh doanh tạo ra 0,0018 đồng lợi nhuận sau thuế, sang năm 2001 tỷ suất này đã tăng lên, một đồng vốn tạo ra được 0,0048 đồng lợi nhuận sau thuế. Đến năm 2002 tỷ suất này tăng mạnh so với năm 2001, một đồng vốn sản xuất kinh doanh đem lại 0,0146 đồng lợi nhuận sau thuế. Lợi nhuận sau thuế trên một đồng vốn chủ sở hữu cũng tăng liên tục qua các năm. Như vậy, với một đồng vốn sản xuất kinh doanh , số đồng lợi nhuận thu được ngày càng tăng lên, điều đó chứng tỏ sự tiến bộ trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội.
b. Những hạn chế của Công ty và nguyên nhân
* Các khoản phải thu của khách hàng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn sản xuất kinh doanh của Công ty. Năm 2002, các khoản phải thu của khách hàng là 27.197 triệu đồng chiếm 37,5% tổng nguồn vốn sản xuất kinh doanh. Năm 2001 là 29.479 triệu đồng chiếm 35,4%. Như vậy tỷ lệ này đã giảm xuống, điều này cho thấy những cố gắng của Công ty trong việc giảm tỷ lệ vốn bị khách hàng chiếm dụng trong tổng nguồn vốn sản xuất kinh doanh. Năm 2002 mặc dù tỷ lệ này đã giảm xuống 20,9% nhưng các khoản phải thu vẫn ở mức cao vì đây là do tổng nguồn vốn tăng mạnh trong năm này. Năm 2002 các khoản phải thu là 35.147 triệu đồng. Như vậy các khoản phải thu đã làm ứ đọng một lượng lớn vốn sản xuất kinh doanh của Công ty.
* Lượng hàng tồn kho: hàng tồn kho luôn chiếm một tỷ trọng nhất định và khá lớn, điều đó dẫn tới sự gia tăng vốn lưu động và làm giảm vòng quay của vốn sản xuất kinh doanh. Thông thường lượng hàng tồn kho này không sinh lời làm ứ đọng vốn. Năm 2000 tổng lượng hàng tồn kho là 13.649 triệu đồng chiếm 18,8% tổng nguồn vốn, chiếm 31,7% nguồn vốn lưu động. Năm 2001 tổng lượng hàng tồn kho là 17.283 triệu đồng chiếm 20,75% tổng nguồn vốn sản xuất kinh doanh. Như vậy, lượng vốn bị ứ đọng trong hàng tồn kho năm 2001 cao hơn năm 2000. Năm 2002 tỷ lệ này đã giảm nhưng không phải do hàng tồn kho giảm xuống mà là do tổng nguồn vốn sản xuất kinh doanh tăng lên, hàng tồn kho vẫn tăng và ở mức 25.527 triệu đồng.
Giảm bớt lượng hàng tồn kho ở mức hợp lý vừa đảm bảo hoạt dộng sản xuất kinh doanh diễn ra đúng tiến độ lại tăng nhanh vòng quay của vốn sẽ tốt cho Công ty hơn.
* Các khoản tín dụng của Công ty chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu tổng nguồn vốn sản xuất kinh doanh. Việc này sẽ gây kho khăn cho Công ty trong việc phải trả chi phí vay lớn, thường xuyên. Mặt khác tỷ trọng vốn vay cao sẽ gây khó khăn cho Công ty trong việc huy động thêm vốn khi có nhu cầu. Năm 2000 và 2001 trong các khoản vốn tín dụng, vay ngắn hạn chiếm khá lớn so với vay dài hạn, việc này làm tăng tính rủi ro trong thanh toán, giảm khả năng đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh và thường xuyên chịu áp lực của việc trả lãi vay, ngoài ra trong điều kiện hàng tồn kho và các khoản phải thu chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn vốn lưu động thì các khoản này chiếm một lượng vốn tín dụng lớn và Công ty sẽ phải trả lãi vay cho một khoản vốn ứ đọng. Năm 2002 vay ngắn hạn đã giảm xuống trong tổng cơ cấu, nhưng đây là do vay dài hạn để đầu tư vào tài sản cố định mới tăng mạnh lên chứ vay ngắn hạn không giảm xuống mà tiếp tục tăng lên 38.703 triệu đồng.
* Trong quá trình hoạt động sản xuất, Công ty đã chưa xác định được đầy đủ nhu cầu thị trường, điều này đã dẫn tới việc dư thừa một lượng hàng tồn kho khá lớn và các khoản phải thu của khách hàng. Đảm bảo xác định tốt nhu cầu của khách hàng là một trong những yếu tố rất quan trọng trong thị trường cạnh tranh hiện nay mà công ty cần phải giải quyết.
Chương iii
Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tai công ty dệt vải công nghiệp hà nội
Qua thực tế khảo sát tình hình sử dụng vốn kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội. Trong vài năm gần đây cho thấy rằng: mặc dù hoạt động trong điều kiện gặp nhiều khó khăn, nhưng do có sự cố gắng nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty nên Công ty đã đạt được những thành tích đáng kể trong quá trình hoạt dộng sản xuất kinh doanh nói chung, trong công tác nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói riêng xét thấy cần phải đưa ra một số biện pháp hữu hiệu khắc phục những hạn chế của Công ty.
Từ thực tế trên đây, qua phân tích và đánh giá như đã trình bày, được sự góp ý của cán bộ phòng KTTC của Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội, đồng thời với nhận thức của bản thân, em xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến sau đây nhằm góp phần hoàn thiện cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty.
3.1. Giải pháp về huy động vốn cho sản xuất kinh doanh
Hầu hết các doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt dộng sản xuất kinh doanh đều phải huy động vốn trên thị trường tài chính và chủ yếu là vốn nợ. Nguồn vốn chủ sở hữu luôn bị hạn chế bởi khả năng huy động và tích luỹ, vốn huy động thông qua thị trường chứng khoán bằng việc phát hành cổ phiếu cũng chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ không đáng kể. Do đó để có đủ vốn cho hoạt dộng sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải huy động các nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại từ các tổ chức tài chính trung gian.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh hiện nay, đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao năng lực sản xuất là yêu cầu tất yếu đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên huy động mọi nguồn lực tài chính của xã hội với cơ cầu và chi phí hợp lý.
Thông thường có hai nguồn tài trợ: tài trợ nội sinh và tài trợ ngoại sinh.
3.1.1. Tài trợ nội sinh
Đây là nguồn vốn rất quan trọng mà công ty phải tập trung để khai thác triệt để, nó thể hiện sức mạnh, khả năng năng lực của công ty qua các kỳ kinh doanh vừa giúp nâng cao được uy tín vị thế của công ty trên thị trường, là cơ sở để công ty có thể huy động thêm các nguồn tài trợ ngoại sinh.
Nguồn vốn huy động từ bên trong này chủ yếu hình thành từ lợi nhuận giữ lại qua các kỳ sản xuất kinh doanh của công ty và khấu hao tài sản cố định thông qua việc trích lập các quỹ như quỹ đầu tư phát triển, quỹ khấu hao… trong những năm gần đây lợi nhuận sau thuế của Công ty liên tục tăng từ 72 triệu năm 2001 lên 227 triệu năm 2002. Công ty cần xem xét phân bổ khoản lợi nhuận này vào việc bổ sung đáp ứng nhu cầu tăng trưởng của mình. Nếu việc phân bổ là hợp lý sẽ giúp Công ty giải quyết được khó khăn trong việc giảm bớt các khoản nợ lãi vay ngân hàng, đặc biệt là các khoản vay ngắn hạn.
Là một Công ty trực thuộc Tổng công ty Nhà nước, Công ty cũng có thể huy động vốn nội sinh thông qua sự cấp vốn bổ sung từ Tổng công ty. Đây là một nguồn tài trự dồi dào nâng cao nguồn vốn chủ sở hữu của công ty, giúp cho công ty có đủ vốn hoạt động sản xuất kinh doanh lại không chịu gánh nặng về các khoản trả lãi vay hay chi trả các khoản lợi từ cổ phần.
3.1.2. Tài trợ ngoại sinh
Trong điều kiện kinh tế thị trường, việc huy động vốn sản xuất kinh doanh từ bên ngoài công ty là điều tất yếu. Công ty hoạt dộng trong cơ chế thị trường có kế hoạch điều đó tạo ra nhiều khả năng và nhiều hình thức huy động vốn từ bên ngoài không chỉ là các nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính trung gian mà còn có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu, hùn vốn liên doanh dài hạn.
Công ty có thể tận dụng uy tín của mình trên thị trường như năng lực sản xuất kinh doanh của Công ty, bản thân là một doanh nghiệp nhà nước… đảm bảo thuận lợi cho việc huy động các nguồn tài trợ ngoại sinh. Công ty có thể xem xét đến hình thức cổ phần hoá vừa nâng cao nguồn vốn sản xuất kinh doanh, phát huy tối đa năng lực của đội ngũ nhân viên và người lao động giúp cho họ yên tâm sản xuất kinh doanh. Khi họ có cổ phần trong doanh nghiệp, trách nhiệm của mỗi cổ đông trong Công ty được nâng cao, do đó sẽ tăng được năng suất lao động, tiết kiệm các chi phí sản xuất và nguyên vật liệu, kỷ luật của Công ty được tăng cường, hiệu quả sử dụng vốn được nâng cao.
Trong những năm qua, các khoản tín dụng ngắn hạn thường chiếm tỷ trong lớn. Đến năm 2002 mặc dù tỷ trọng tín dụng ngắn hạn đã giảm nhưng đây là do Công ty vay dài hạn đầu tư vào một tài sản cố định mới chứ vay ngắn hạn năm 2002 vẫn tăng lớn. Huy động các khoản nợ tín dụng từ ngân hàng là điều tất yếu song cần chú ý hạn chế các khoản vay ngắn hạn, giữ một cơ cấu tín dụng ngắn hạn và dài hạn hợp lý. Nên sử dụng các khoản vay trung va dài hạn cho đầu tư dài hạn và mở rộng sản xuất kinh doanh. Công ty lên tranh thủ lợi thế hiện nay lãi suất vay thương mại và công nghiệp từ các ngân hàng không cao có thể tài trợ cho các dự án dài hạn.
Mặc dù tự ý thức trong việc nâng cao tính độc lập sáng tạo trong sản xuất kinh doanh nhưng nguồn tài trợ từ ngân sách không nên coi nhẹ. Vốn từ ngân sách cấp thường khá lớn, có nhiều thuận lợi, đặc biệt là chi phí vốn thấp. Năm 2000, vốn ngân sách cấp là 500 triệu đồng. Năm 2001, vốn ngân sách cấp là 1 tỷ đồng. Năm 2002 là 500 triệu đồng. Công ty cần phải tận dụng ưu thế của một doanh nghiệp nhà nước tăng cường khai thác nguồn tài trợ này nhằm đáp ứng đủ vốn cho hoạt dộng sản xuất kinh doanh của Công ty.
Các nguồn tài trợ ngoại sinh khác như vốn liên doanh liên kết hợp tác với các doanh nghiệp khác, nguồn kinh phí… vẫn chưa được khai thác. Trong thời gian tới Công ty cần có những chính sách phù hợp để có thể huy động được các nguồn vốn vay này.
Huy động vốn cho sản xuất kinh doanh phải luôn xác định một cơ cấu vốn hợp lý tối ưu lựa chọn nguồn huy động nào đảm bảo chi phí vốn là thấp nhất lại có thể giảm thiểu các rủi ro tín dụng là yêu cầu đặt ra đối với Công ty trong thời gian tới. Hiện nay Công ty có tích luỹ từ nội bộ và có thể dựa vào uy tín của mình huy động được các nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại do đó Công ty nên chú trọng tập trung vào hai nguồn huy động trên.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định
Thường xuyên đổi mới năng lực hoạt dộng bằng việc cải tiến máy móc thiết bị. Hiện nay trong cuộc cách mạng khoa học công nghệ, các doanh nghiệp phải thường xuyên tự đổi mới để tránh tụt hậu trong sản xuất kinh doanh và nâng cao được khả năng cạnh tranh.
Đi vào hoạt dộng từ năm 1970, măc dù được sửa đổi bổ sung thường xuyên, trang thiết bị của Công ty đã hao mòn nhiều. Năm 2000 tổng nguyên giá TSCĐ là 38.518 triệu đồng trong đó giá trị còn lại là 28.414 triệu đồng, như vậy tổng mức khấu hao năm 2000 là 10.104 triệu đồng chiếm 26,2% đây là tỷ lệ khấu hao chưa cao nhưng cũng đặt ra yêu cầu đối với Công ty nên đầu tư đổi mới máy móc dây truyền thiết bị sản xuất. Việc lựa chọn công nghệ để đổi mới cần được tính toán thẩm định rõ ràng tránh lãng phí kém hiệu quả, do đó yêu cầu đặt ra là phải lựa chọn được những công nghệ phù hợp bởi nhiều khi chọn lựa những công nghệ hiện đại nhưng công ty chưa sẵn sàng thích ứng với công nghệ đó lại gây ra phản ứng tiêu cực có thể dẫn đến việc khai thác chưa tối đa công suất làm giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Chọn lựa dây truền công nghệ hiện đại phù hợp sẽ là nhân tố quan trọng cho phép tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, ít tốn kém nguyên vật liệu và cả chi phí nhân công điều hành quản lý. Trong thời gian tới Công ty cần chú trọng vào các nguồn vốn vay dài hạn để lựa chọn, đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh bằng công nghệ máy móc phù hợp.
Đối với các tài sản cố định đã khấu hao hết hoặc những tài sản cố định đang chờ thanh lý cần nhanh chóng sử lý để bổ sung vốn cho hoạt dộng sản xuất kinh doanh. Viẹc sử lý chậm chễ có thể gây ra việc ứ đọng vốn cố định lại bị chậm đổi mới công nghệ làm giảm năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Luôn gắn trách nhiệm của các cán bộ quản lý và người lao động với các tài sản, máy móc thiết bị. Để đảm bảo cho các quá trình hoạt dộng sản xuất diễn ra thông suốt, an toàn và có hiệu quả thì luôn luôn đòi hỏi trách nhiệm của người lao động, trách nhiệm đó phải được gắn với suốt quá trình vận hành của máy móc thiết bị. Do đó Công ty phải gắn trách nhiệm cụ thể từng máy móc cho từng tổ đội, phân xưởng, kịp thời phát hiện những thiếu sót sai lầm để có biện pháp khắc phục không làm ảnh hưởng, gián đoạn quá trình sản xuất. Kiểm tra theo dõi việc vận hành sử dụng tài sản cố định đi kèm các chính sách khen thưởng kỷ luật thích đáng sẽ nâng cao ý thức kỷ luật của người công nhân, khuyến khích họ không ngừng nâng cao năng suất lao động làm nâng cao hiệu quả của đồng vốn đầu tư vào tài sản cố định.
3.3. giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Đối với vốn lưu động ở dạng tiền mặt cần xác định quy mô dự trữ tiền mặt tối ưu. Quy mô tiền mặt hợp lý đảm bảo giảm thiểu rủi ro trong thanh toán không bị mất đi các cơ hội đầu tư tức thời, tránh bị ứ đọng các khoản tiền không sinh lời. Ngoài lượng tiền mặt tồn quỹ dùng để chi tiêu hàng ngày tại đơn vị, công ty nên đầu tư vào các loại hình đầu tư ngắn hạn có tính thanh khoản cao mà vẫn đem lại một tỷ lệ sinh lời nhất định như trái phiếu kho bạc, tài khoản séc ...
Đối với vốn lưu động ở dạng các khoản phải thu, trong những năm gần đây các khoản phải thu luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các khoản này đã làm ứ đọng một lượng vốn khá lớn của Công ty dây nên tình trạng thiếu hụt vốn. Công ty cần giảm lượng vốn bị chiếm dụng một cách hợp pháp của khách hàng, cần phải thu hồi đủ số vốn bị chiếm dụng hợp pháp hiện nay và tránh bị chiếm dụng nhiều trong thời gian tới.
Trong khi các khoản phải thu không ngừng tăng lên thì Công ty vẫn phải đi vay nợ từ phía các ngân hàng thương mại và chịu các khoản phải trả lãi vay có nghĩa là Công ty đã bị thiệt hại một khoản đúng bằng khoản phải thu nhân với lãi suất tại thời điểm đó. Để có thể thu hồi nhanh các khoản vốn bị chiếm dụng hợp pháp từ phía khách hàng, Công ty có thể sử dụng biện pháp chiết khấu, giảm gía hàng bán cho những khách hàng thanh toán ngay tiền hàng hoặc những khách hàng đặt mua với khối lượng lớn, từ đó hạn chế các khoản nợ khó đòi. Mặt khác cần quy định rõ thời hạn trả tiền, hình thức thanh toán... . Và các biện pháp phạt khi vi phạm hợp đồng mua bán theo đúng quy định hiện hành. Tuy vậy cũng cần xác định rõ việc tồn tại tín dụng thương mại vay nợ lẫn nhau giứa các doanh nghiệp là điều tất yếu trong tình hình sản xuất kinh doanh hiện nay, nhiều khi đó còn là các mối quan hệ giúp Công ty có thể hợp tác lâu dài với các khách hàng của mình, do đó mục tiêu của Công ty cần đề ra trong thời gian tới là giảm thiểu các khoản phải thu các khoản chiếm dụng hợp pháp của khách hàng.
Tăng tốc độ luân chuyển vốn, giải quyết nhanh lượng hàng tồn kho. Như đã nêu trên, hàng tồn kho chiếm một tỷ trọng khá lớn làm gia tăng vốn lưu động và làm giảm vòng quay của vốn sản xuất kinh doanh. Lượng hàng tồn kho không sinh lời mà Công ty còn tốn chi phí lưu kho, bảo quản. Giảm bớt lượng hàng tồn kho ở mức hợp lý vừa đảm bảo cung ứng đầy đủ kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh lại không gây ứ đọng nhiều vốn tốn kém chi phí khác là yêu cầu đặt ra. Công ty có thể thực thu một số giải pháp như sau:
-Phải xác định nhu cầu của khách hàng, của thị trường, có kế hoạch sản xuất kinh doanh hợp lý, từ đó đảm bảo duy trì lượng hàng tồn kho vừa đủ cho sản xuất kinh doanh.
-Công ty có thể dựa vào nhu cầu sản phẩm qua các năm và tình hình sản xuất hiện tại để xác định nhu cầu thị trường.
Để có thể xác định một cách chính xác nhu cầu của khách hàng, Công ty còn phải biết rõ thị phần, khả năng, uy tín của chính mình trên thị trường, thông thường nhu cầu của thị trường đối với sản phẩm của công ty được tính bằng tỷ lệ phần thị trường công ty chiếm giữ.
3.4. Các giải pháp nhằm hạ giá thành sản xuất
3.4.1. Quản lý tốt chi phí nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu trực tiếp cho sản xuất kinh doanh luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong giá thành, quản lý tốt chi phí nguyên vật liệu đầu vào có ảnh hưởng lớn đến giá thành sản phẩm và hiệu quả sử dụng vốn của Công ty.
Việc thu mua nguyên vật liệu cần phải có các hợp đồng mua bán cụ thể đảm bảo thu mua đúng giá hiện hành trên thị trường, có các đề nghị chiết khấu giảm giá khi mua với khối lượng lớn hoặc thanh toán nhanh. Xác định các hình thức mua bán, thanh toán và vận chuyển tối ưu, đặc biệt là dự trữ hợp lý về số lượng, chất lượng, đảm bảo lượng hàng tồn kho tối ưu. Có thể áp dụng các mô hình kinh tế lượng trong quản lý hàng tồn kho.
Công ty nên tiếp cận nhiều nhà cung cấp để có được giá mua đúng nhưng đồng thời duy trì các nhà cung cấp truyền thống.
3.4.2. Quản lý tốt chi phí lương và các khoản trích theo lương
Tiền lương và các khoản trích theo lương thường chiếm tỷ lệ lớn trong chi phí đầu vào của sản xuất kinh doanh. Nâng cao mức lương cho đội ngũ cán bộ và công nhân viên trong Công ty là yêu cầu đặt ra nhưng nhiều khi có sự mâu thuẫn vơí mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
Hiện nay mức lương bình quân của Công ty trả cho cán bộ công nhân viên là chưa cao. Để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty diễn ra đúng tiến độ, hợp lý thì đảm bảo mức lương khá cho đội ngũ công nhân viên là yêu cầu đặt ra, điều này còn phù hợp với cả chủ trương của Nhà nước. Mức lương khá giúp cho họ yên tâm làm việc, không bị chi phối bởi các việc làm ngoài khác. Xác định đúng đắn hơp lý chế độ cho người lao động không những có thể giúp Công ty quản lý tốt chi phí đầu vào mà còn có thể tăng năng suất lao động, chất lượng lao động.
Các khoản trích theo lương cũng cần xác định hợp lý. Nếu như phải thực hiện các công việc ngoài giờ để đảm bảo tiến độ công việc, thường thì mức lương bao giờ cũng phải cao hơn so với lương cố định trong giờ điều này làm cho chi phí sản xuất kinh doanh tăng lên. Do đó cần có kế hoạch phân bổ hợp lý, nếu cần thiết có thể huy động thêm lao động ngoài công ty để đẩy nhanh tiến độ công việc mà không phải tăng chi phí lương cao hơn bình thường.
3.4.3. Quản lý tốt các chi phí khác
Các chi phí khác đầu tư vào trụ sở, trang thiết bị văn phòng, xe cộ phải được kiểm soát hợp lý. Có thể đầu tư một lần và sử dụng lâu dài. Đặc biệt là các chi phí điện, nước, điện thoại, giao dịch đi lại cần được sử dụng hợp lý tránh lãng phí không cần thiết.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì cần phải làm giảm hợp lý các chi phí đầu vào đảm bảo từ một đồng vốn bỏ ra mang lại nhiều hơn một đồng doanh thu. Giảm các chi phí đầu vào nhằm hạ giá thành sản xuất là một yêu cầu quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp.
3.5. Đảm bảo thực hiện đầy đủ về chế độ kế toán
Trong quá trình xác lập các báo cáo tài chính doanh nghiệp, Công ty cần tuân thủ đầy đủ các chế độ về kế toán doanh nghiệp. Đó là việc đảm bảo trích lập các quỹ như quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ trợ cấp thất nghiệp. Nhằm nâng cao và mở rộng năng lực sản xuất kinh doanh cũng như phòng ngừa các rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì việc trích lập các quỹ trên là điều cần thiết, đặc biệt là trong điều kiện như hiện nay khi mà các khoản phải thu và lượng hàng tồn kho chiếm khá lớn, điều này có thể dẫn đến nhiều rủi ro như rủi ro nợ khó đòi, giảm giá... . Các khoản này sẽ được lấy từ quỹ dự phòng tài chính và các quỹ khác trong quá trình xây dựng các báo cáo tài chính doanh nghiệp là điều cần thiết đối với công ty, điều này không chỉ giúp cho công ty đảm bảo ổn định và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình mà còn đảm bảo tuân thủ các chế độ quy định của Nhà nước về tài chính kế toán doanh nghiệp, là cơ sở pháp lý cho Công ty hoạt động sản xuất kinh doanh trong điều kiện hiện nay.
3.6. chú trọng hoạt động Marketing nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu tốt nhu cầu thị trường là điều kiện cần thiết để phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp, mở rộng và chiếm lĩnh thị trường. Thực tiễn trong những năm vừa qua, lượng hàngtồn kho của Công ty khá lớn, chứng tỏ công tác nghiên cứu thị trường chưa được tốt.
Trong thời gian tới, Công ty cần có kế hoạch Marketing quảng bá sản phẩm là hình ảnh của Công ty thông qua các phương tiện như báo chí, các kỳ hội chợ... Việc quảng cáo sẽ giúp Công ty tìm kiếm được nhiều nhà đầu tư và khách hàng mới, mở rộng thị trường và lĩnh vực sản suất kinh doanh.
Công ty có thể nghiên cứu nhu cầu thị trường thông qua sự phối hợp hoạt động của các phòng ban trong Công ty, đồng thời thu thập các số liệu trên báo chí, internet... Các số liệu này sẽ là cơ sở cho việc xác định nhu cầu thị trường.
Thăm dò khai thác thị trường nước ngoài là công việc đòi hỏi tốn nhiều thời gian và chí phí, đặc biệt là các rủi ro trong kinh doanh là rất lớn. Trong thời gian tới Công ty cần tiếp tục củng cố các thị trường quen thuộc thông qua các hoạt động xúc tiến thưong mại, quảng cáo, đồng thời tìm kiếm các đối tác mới, mở rộng thị trường. Có thể phát triển thêm các hình thức liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài, vừa tận dụng vốn, công nghệ tiên tiến của họ lại tranh thủ mở rộng thị trường.
Marketing nghiên cứu thị trường là điều sống còn cho mỗi doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và Quốc tế hiện nay. Là một doanh nghiệp Nhà nước, đi lên từ trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chưa có kinh nghiệm nhiều về nghiên cứu thị trường, để tồn tại và phát triển trong tình hình hiện nay Công ty cần đầu tư thích đáng cho vấn đề này để nâng cao uy tín mở rộng sản xuất kinh doanh và từng bước hội nhập vào thị trường khu vực và Quốc tế.
3.7. Lựa chọn và đào tạo đội ngũ lao động có trình
độ tay nghề cao
Ngày nay, trong nền kinh tế chi thức, nguồn nhân lực ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của mỗi doanh nghiệp và của toàn xã hội. Đầu tư vào con người là quá trình đầu tư tốn kém nhưng đảm bảo sự phát triển bền vững. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, trong những năm qua chúng ta thường tận dụng lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn nguyên vật liệu dồi dào... nhưng những lợi thế khó có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của chúng ta trong thế kỷ XXI.
Thực tiễn trong những năm vừa qua, nguồn nhân lực của xã hội và của các doanh nghiệp vừa thừa lại vừa thiếu, thường so với nhu cầu của thị trường và thiếu cán bộ nhân viên giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, khả năng ngoại ngữ... Tại Công ty Dệt Vải Công Nghiệp Hà Nội, phần lớn cán bộ công nhân viên được phân về làm, đến nay tuổi đời của họ cũng khá, thời gian gắn bó với Công ty cũng tương đối, họ có kinh nghiệm lâu năm, tuy nhiên trong thời đại ngày nay, nó đã thay đổi rất nhiều so với trước, vì vậy Công ty cần phải có những chính sách nhân sự hợp lý vừa có lực lượng trẻ có năng lực, chuyên môn, khả năng ngoại ngữ cao thích hợp với thời đại vừa duy trì lực lượng có kinh nghiệm, có tay nghề cao trong công việc.
Đối với nguồn nhân lực hiện có, Công ty có thể nâng cao trình độ tay nghề và trình độ chính trị lý luận thông qua các lớp tập huấn ngắn hạn hoặc các khoá học tu nghiệp ở nước ngoài. Tuy vậy tổ chức cho một lực lượng đông đảo là khá tốn kém, do đó Công ty cần cân nhắc đảm bảo chi phí hợp lý.
Để nâng cao vai trò cua đội ngũ nhân viên nhằm nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh không chỉ là khâu tuyển chọn hợp lý mà còn phải bố trí đúng ngưòi đúng việc, bố trí hợp lý đội ngũ nhân viên vừa đảm bảo tăng năng suất lao động lại giúp cho người công nhân chú tam vào công việc hơn. Do đó mỗi bộ phận phòng ban trong Công ty cần tuyển chọn sắp đặt nhân viên đúng với ngành nghề đã đào tạo, chẳng hạn như các nhân viên tài chính kế toán, nhân viên Marketing, nhân viên phụ trách tin học ... ngoài ra để giảm chi phí nhân công, tăng năng suất lao động, công ty cần ứng dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý sản xuất kinh doanh.
Quản lý tốt nguồn nhân lực sẽ giúp Công ty nâng cao được giá trị của mình, đảm bảo nâng cao hiệu quả mỗi đồng vốn đầu tư.
Kết luận
“Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh” không phải còn là một vấn đề mới mẻ cho một nền kinh tế sau hơn 15 năm mở cửa. Ngay từ khi chúng ta bắt tay vào công cuộc công nghiệp hoá XHCN ở Miền Bắc từ những năm 60, vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đã được đề cập, bởi vì hiệu quả sử dụng vốn ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, của cả nền kinh tế. Điều này càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, sâu sắc từ năm 1986. Bởi vì chỉ có nâng cao hiệu quả sử dụng vốn mới có thể nâng cao được năng lực, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, và khả năng cạnh tranh trong tiến tình hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay. Điều tiết được các chi phí đầu vào của doanh nghiệp nhằm giảm chi phí sản xuất, hạ thấp giá thành sản phẩm là một trong các vấn đề mang tính sống còn hiện nay khi mà chúng ta chuẩn bị gia nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA năm 2006 và xa hơn nữa là gia nhập WTO trong tương lai. Chính vì vậy, trong những năm qua, cơ cấu lại các doanh nghiệp Nhà nước, ban hành luật doanh nghiệp… nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế làm ăn có hiệu quả là điều mà Đảng và Nhà nước đã kịp thời nhìn nhận, và đang từng bước hoàn thiện.
Chúng ta đã bước vào thế kỷ XXI với nhiều cơ hội, thách thức và những trách nhiệm nặng nề. Mục tiêu hoàn thành cơ bản công nghiệp hoá vào năm 2020 đã đạt yêu cầu huy động một lượng vốn đầu tư rất lớn trong thời gian tới. Tuy vậy vấn đề hoàn thành mục tiêu công nghiệp hoá mà toàn Đảng, toàn dân đã đề ra lại mâng cao được vai trò độc lập, tự chủ của quốc gia, phát huy nội lực là điều hết sức quan trọng. Trong những năm đổi mới vừa qua, chúng ta đã bước đầu có tích luỹ cho đầu tư phát triển nhưng còn rất nhỏ bé trong khi yêu cầu thực tế là rất lớn, vì vậy việc nâng cao hiệu quả của mỗi đồng vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp là điều vô cùng quan trọng.
Điều quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh phụ thuộc vào chính bản thân mỗi doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh như hiện nay yêu cầu đặt ra cho mỗi doanh nghiệp là phải luôn hoạt động sản xuất của mình, tránh ỷ lại vào các ngoại lực bên ngoài. Đặc biệt là phải xác định đúng đắn vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Một môi trường đầu tư năng động, hấp dẫn, một thể chế luật pháp nghiêm minh, lành mạnh, một xã hội ổn định… sẽ là những tác nhân quan trọng cho mỗi doanh nghiệp và cả nền kinh tế nâng cao được hiệu quả đầu tư.
Thực tiễn trong năm qua, tình hình hiệu quả sử dụng vốn ở một bộ phận doanh nghiệp càng đặt chúng tá trước những yêu cầu đòi hỏi cấp thiết. Quản lý tốt nguồn vốn sản xuất kinh doanh là vấn đề có tính cấp thiết trong tình hình hiện nay. Tuy vậy chúng ta cũng không được nóng vội chủ quan duy ý chí đề ra các biện pháp tràn lan nhiều khi gây ra những hiệu quả nặng nề, chẳng hạn như trong những năm vừa qua công tác cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Nhận thức đúng đắn vấn đề “ Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh” trong doanh nghiệp, từ đó có các chính sách đúng đắn, phù hợp là điều quan trọng giúp cho doanh nghiệp nước ta, trong đó có Công ty Dệt vải Công nghiệp Hà Nội có thể có được những hướng đi đúng nhằm nâng cao vị thế cuả mình trên thị trường trong và ngoài nước, góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế để chúng ta có thể sớm hoàn thành mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy giáo phụ trách - TS. Vũ Duy Hào và các cô chú trong phòng Tài chính Kế toán đã giũp đỡ em trong suốt quá trình thực tập và hoàn thiện Chuyên đề tốt nghiệp.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình “quản trị tài chính doanh nghiệp”
Tg: TS. Vũ Duy Hào
2. Các tạp chí Tài Chính, Ngân hàng
3. Các tạp chí khác
4. Luận văn tốt nghiệp khoá 40 khoa Ngân Hàng -Tài Chính
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0169.doc