Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện công tác đầu tư xây dựng cơ bản ở tỉnh Vĩnh Phúc

Nghiệm thu khối lương nới lỏng gây nên thất thoát lãng phí và chất lượng công trình kém hiệu quả. Nghiệm thu công trình nới lỏng có thể do trình độ, năng lực yếu kém của bộ máy quản lý, hoặc cũng có thể là do có sự liên kết giữa các bên : Bên thi công và bên nghiệm thu, để ăn bớt khối lượng công trình, chất lượng công trình thì không đảm bảo, không đúng thiết kế cũng nghiệm thu. Công tác cấp phát vốn đầu tư có thể theo hướng cụ thể như sau để đảm bảo vốn cho các công trình có thể thực hiện đúng tiến độ: - Dành 40% để thanh toán nợ xây dựng cơ bản hoàn thành. - Dành 45% để phân bổ cho các công trình chuyển tiếp. - Dành 15% để phân bổ cho các công trình mới đã có đủ thủ tục đầu tư theo quy định.

doc62 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 982 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện công tác đầu tư xây dựng cơ bản ở tỉnh Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiêu chủ yếu của các hoạt động kinh tế là hiệu quả kinh tế. Kết quả hoạt động đầu tư rất đa dạng nên phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế trong những trường hợp khác nhau có thể khác nhau tuỳ thuộc vào nội dung, mức độ, phạm vi của các kết quả đó. Hiệu quả kinh tế xã hội do đầu tư xây dựng cơ bản mang lại tương đối lớn, nhất là hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước, nó tạo ra một hiệu ứng đầu tư định hướng, tạo cơ sở phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Từ đặc điểm của một tỉnh mới tái lập, ngay từ những ngày đầu Tỉnh uỷ đã có những chủ trương đúng đắn và phù hợp với hoàn cảnh, UBND đã đề ra những biện pháp chỉ đạo cụ thể, kiên quyết. Với tinh thần nỗ lực phấn đấu bằng nội lực của mình và sự giúp đỡ có hiệu quả của các Bộ, Ngành Trung ương. Kết quả đầu tư trong giai đoạn 2004-2008 như nêu trên đã tạo bước chuyển biến tích cực có hiệu quả trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Vĩnh Phúc trong những năm tiếp theo. * Hiệu quả về kinh tế Hoạt động đầu tư phát triển nói chung và hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển. Hoạt động đầu tư XDCB nhằm tạo ra cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng, những công trình phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động thương mại, giao lưu buôn bán giữa các vùng trong và ngoài Tỉnh. Hoạt động đàu tư xây dựng cơ bản luôn là hoạt động đầu tư tiên phong, tạo tiền đề, cơ sở cho hoạt động đầu tư phát triển khác được tiến hành; góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư vào địa bàn Tỉnh, làm cho nền kinh tế phát triển, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Các công trình đầu tư xây dựng cơ bản hầu hết đều là những công trình mang tính chất xã hội cao, đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài nên mục tiêu lợi nhuận không phải là mục tiêu hàng đầu từ hoạt động đầu tư này. Trong giai đoạn 2004-2008, với sự phát huy tác dụng của các công trình xây dựng từ những năm trước và một loạt các dự án mới được phê duyệt trong giai đoạn đó, trong phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc đã thu được những kết quả to lớn, hiệu quả kinh tế, xã hội mà các công trình đem lại là không thể phủ nhận, trong đó có đóng góp to lớn của các công trình xây dựng được đầu tư từ nguồn vốn tập trung. Tốc độ phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng với tốc độ nhanh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế đạt hiệu quả theo hướng tích cực. BẢNG 9 : CƠ CẤU KINH TẾ VÀ GDP THEO NGÀNH CỦA TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2004-2008 Chỉ tiêu Năm 2004 2005 2006 2007 2008 GDP ngành (tỷ đồng ) Công nghiệp, XD 3.851 5.223 7.808 9.488 12.923 Nông lâm ngư 1.872 2.039 2.304 2.276 3.923 Dịch vụ 2.115 2.697 3.556 4.069 5.306 Cơ cấu kinh tế ngành (%) Công nghiệp, XD 49,13 52,44 57,12 59,9 58,3 Nông lâm ngư 23,88 20,48 16,86 14,25 17,7 Dịch vụ 26,99 27,08 26,04 25,7 24,0 Cơ cấu kinh tế đã có hướng chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, tỷ trọng nông nghiệp có xu hướng giảm, điều đó là hoàn toàn phù hợp với mục tiêu CNH-HĐH của đất nước và mục tiêu của tỉnh Vĩnh Phúc sẽ trở thành một tỉnh công nghiệp trong tương lai gần. Tỷ trọng công nghiệp, xây dựng năm 2004 là 49,13% tăng lên 58,6% trong năm 2008, tỷ trọng ngành dịch vụ năm 2004 là 26,99% và năm 2008 là 24,0%, tỷ trọng nông nghiệp năm 2004 là 23,88% thì đến năm 2008 là 17,7%. Tuy có sự thay đổi tích cực trong cơ cơ cấu GDP các ngành nhưng sự thay đổi đó diễn ra mạnh nhất ở ngành công nghiệp và xây dựng, cho thấy phần nào hiệu quả của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản, công nghiệp trong giai đoạn 2004-2008 của tỉnh là rất lớn; tỷ trọng ngành dịch vụ có chuyển biến theo hướng tích cực nhưng tốc độ tăng trưởng còn thấp chưa tương xứng với tiềm năng của địa phương. Trong thời gian tới khi các công trình xây dựng hoàn thành, đưa vào khai thác, tạo một cơ sở hạ tầng hoàn thiện thì ngành dịch vụ sẽ có mức tăng trưởng cao hơn. Giá trị công nghiệp, xây dựng năm 2004 là 3.851 tỷ đồng, tăng lên 9.488 tỷ đồng năm 2007 và 12.923 tỷ đồng trong năm 2008. Giá trị nông lâm ngư nghiệp cũng tăng từ 1872 tỷ đồng năm 2004 lên 3.923 tỷ đồng trong năm 2008; giá trị dịch vụ năm 2004 là 2.115 tỷ đồng tăng lên 5.306 tỷ đồng trong năm 2008. Tốc độ tăng trưởng bình quân trong cả giai đoạn của ngành công nghiệp, xây dựng là 35,7%; của ngành nông lâm ngư nghiệp là 23,2% và của ngành dịch vụ là 26,.4 %. Hai ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao và cao hơn so với ngành nông lâm ngư nghiệp, điều đó cho thấy cơ cấu trong thu nhập của tỉnh Vĩnh Phúc đang chuyển biến theo hướng tích cực. Hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản còn thể hiện ở các công trình : đầu tư phát triển 9 khu công nghiệp tập trung như khu công nghiệp Quang Minh I, Quang Minh II, Kim Hoa, Khai Quang, Bình Xuyên I, Bình Xuyên II, Bá Thiện, Chấn Hưng và Bá Thiện II và 30 cụm công nghiệp làng nghề, cụm công nghiệp vừa và nhỏ đã tạo ra cho các chủ doanh nghiệp đầu tư mở rộng mặt bằng sản xuất, đầu tư thiết bị hiện đại và công nghệ tiên tiến. Sản xuất nhiều loại sản phẩm có chất lượng cao đảm bảo phục vụ nền kinh tế quốc dân và hội nhập thị trường quốc tế. Phát triển xây dựng cụm công nghiệp làng nghề, cụm công nghiệp vừa và nhỏ còn tạo bước chuyển biến tích cực sự nghiệp phát triển công nghiệp địa phương- phát triển mọi mặt kinh tế -xã hội của địa phương và góp phần vào thay đổi nông thôn theo hướng công nghiệp hoá. Đầu tư cho các công trình thuỷ lợi – nông nghiệp đảm bảo đúng hướng góp phần đáng kể thúc đẩy nông nghiệp của Tỉnh phát triển vững chắc với mức độ khá. Nhịp độ tăng trưởng bình quân đạt 8,85%/năm. Đầu tư ngành điện đảm bảo 100% số xã phường trên địa bàn có điện lưới quốc gia và 100% số dân sử dụng điện lưới quốc gia. Sản lượng điện thương phẩm phục vụ sản xuất đời sống tăng bình quân 14,3%/năm. Điện cho sản xuất, sinh hoạt ổn định. Giá bán điện sinh hoạt nông thôn giảm từ 800-900đ/KWh xuống thấp hơn hoặc bằng 700đ/KWh. Nộp ngân sách nhà nước hàng năm đều tăng. BẢNG 10 : TỔNG THU NHẬP CỦA TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2004-2008 Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2004 2005 2006 2007 2008 Tổng sản phẩm trong tỉnh (giá năm 1994) Tỷ đồng 4581.7 6242 7.450 8.255 9.271 Tốc độ tăng trưởng % 14.1 17.9 12.92 15.5 16.25 GDP bình quân (giá thực tế ) Triệuđồng/ người 5.66 8.2 14.1 15.7 21.8 Tốc độ tăng trưởng GDP toàn tỉnh qua các năm : 14,1% năm 2004, 17,9% năm 2005; 15,5% năm 2007; 16,25% năm 2008. Trong giai đoạn 2004-2008, tổng sản phẩm trong Tỉnh tăng liên tục năm sau cao hơn năm trước, tốc độ tăng trưởng bình quân cả giai đoạn là 15,34%, đây là một tốc độ tăng trưởng cao so với các tỉnh trong nước. Qua đó, GDP bình quân đầu người cũng tăng liên tục qua các năm và đạt mức cao, điều đó cho thấy đời sống nhân dân trong tỉnh được cải thiện đáng kể. * Hiệu quả xã hội Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn đã tạo việc làm cho nhiều lao động và đảm bảo ổn định đời sống cho người lao động. Số cơ sở sản xuất, số lao động được giải quyết việc làm hàng năm tăng, Số cơ sở sản xuất năm 1997 là 10.138 cơ sở, năm 2004 là 39.457 cơ sở, năm 2005 tăng lên 52.843 cơ sở. Số lao động năm 2000 là 587,29 người, năm 2004 là 645,15 nghìn người, và năm 2008 là 680,83 nghìn người. Bình quân mỗi năm ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp thu hút 17.165 lao động. Năm 2007 tăng gấp 3,5 lần so với năm 1997. Đảm bảo việc làm không những đảm bảo thu nhập và đời sống cho người lao động. Mặt khác còn giảm bớt được tệ nạn xã hội nảy sinh khi còn số đông người lao động không có việc làm. Kết quả xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị, các công trình công cộng, các công trình giao thông, y tế, giáo dục vừa góp phần mang lại hiệu quả kinh tế, vừa góp phần tăng hiệu quả xã hội rõ rệt. Đầu tư xây dựng kỹ thuật hạ tầng đô thị Vĩnh Phúc và các huyện thị khác trong tỉnh thực tế đã minh chứng rõ ràng việc xây dựng là đúng hướng, qóp phần tăng vẻ đẹp, mỹ quan cho đô thị - bộ mặt đô thị khang trang hơn, qóp phần làm trong sạch môi trường, giảm ùn tắc giao thông, tăng giao lưu giữa các vùng, thúc đẩy dịch vụ đô thị phát triển. Hệ thống cấp nước Thành phố Vĩnh Yên hoàn thành đưa vào sử dụng với công suất 50.000m3/ ngày đêm, nhân dân Thành phố Vĩnh Yên được hưởng nguồn nước sạch đảm bảo vệ sinh ( theo tiêu chuẩn quốc tế), nâng cao sức khoẻ cho mọi người dân đô thị Vĩnh Phúc, đây là hiệu quả thiết thực cho lợi ích cộng đồng. Song song việc đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật - kết quả đầu tư các công trình công cộng như : Nâng cấp, cải tạo trụ sở Tỉnh Uỷ, trụ sở HĐND và UBND tỉnh, trụ sở các ban ngành, câu lạc bộ người cao tuổi, công viên, quảng trường và các công trình công cộng khác đưa vào sử dụng đã tạo ra nơi làm việc khang trang, rộng rãi, góp phần nâng cao hiệu quả công tác chuyên môn của các cơ quan Đảng và Quản lý nhà nước, các tầng lớp nhân dân đã có nơi vui chơi giải trí, nâng cao tái tạo sức lao động, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng và chính quyền các cấp. Kết quả đầu tư các dự án giao thông Quốc lộ và Tỉnh lộ đã tạo ra vị thế vô cùng thuận lợi và hấp dẫn cho đầu tư tại Vĩnh Phúc, cải thiện hoàn thành việc vận tải, lưu thông hàng hoá và rút ngắn được khoảng cách địa lý giữa các vùng kinh tế trong khu vực, tạo sự phát triển kinh tế cân đối giữa các vùng. Các dự án giao thông trọng điểm: cải tạo nâng cấp Quốc lộ 2A, Quốc lộ 2B đã được hoàn thành, đưa vào khai thác, sử dụng. Các công trình hạ tầng ngoài hàng rào KCN thuộc huyện Bình Xuyên tổng mức đầu tư 160 tỷ đồng cũng được tập trung thực hiện, đã hoàn thành, bàn giao đi vào sử dụng trong năm 2007. Dự án Đường Nguyễn Tất Thành nối Quốc lộ 2A qua 4 khu công nghiệp tổng mức đầu tư là 283 tỷ đồng, đã được Bộ Tài chính thông báo cho vay 200 tỷ đồng, đã tổ chức đấu thầu và đền bù xong. Các tuyến tỉnh lộ khác được đầu tư bằng nguồn vốn NSNN như: Tỉnh lộ 308; Tỉnh lộ 312; Tỉnh lộ 305 (địa phận Yên Lạc); Tỉnh lộ 301; Tỉnh lộ 303; Tỉnh lộ 307; Tỉnh lộ 306. Các tuyến đường huyện lộ, các tuyến đường liên xã trên địa bàn các huyện, thị đã và đang triển khai 93 tuyến, với 279 km. Các công trình hạ tầng giao thông nông thôn cũng được quan tâm đầu tư như các chương trình bê tông hoá đường giao thông nông thôn. Kết quả đầu tư các lĩnh vực y tế, giáo dục – đào tạo, bưu chính - viễn thông đến tận xã phường, nâng cấp cải tạo các bệnh viện, chống quá tải, các trạm xá xã đảm bảo điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân ở cấp cơ sở, các trường học xây dựng đủ điều kiện phục vụ cho học tập và giảng đường, hệ thống thông tin liên tục đến tận thôn xóm - đời sống nhân dân từng bước được cải thiện rõ rệt. Kết quả đầu tư XDCB giai đoạn 2004-2008 là khả quan và có ý nghĩa to lớn. Các đô thị trong Tỉnh được đổi mới khang trang sạch đẹp, các khu công nghiệp, cụm công nghiệp làng nghề, cụm công nghiệp vừa và nhỏ, các nhà máy, xí nghiệp được xây dựng với tốc độ khá nhanh, hệ thống giao thông rất thuận lợi. Với kết quả ấy đã góp phần tích cực trong việc phát triển kinh tế - xã hội của Vĩnh Phúc từ khi mới tái lập đến nay đã tạo tiền đề thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đến năm 2015 Vĩnh Phúc trở thành tỉnh công nghiệp. 1.2.5.Những hạn chế trong đầu tư xây dựng cơ bản và nguyên nhân. 1.2.5.1.Những hạn chế cơ bản: * Trong huy động vốn đầu tư xây dựng cơ bản Vĩnh Phúc là một tỉnh còn nhiều khó khăn về kinh tế, thu không bù chi, hàng năm vẫn phải có trợ cấp của Trung ương. Một tỉnh mới tái lập phải đầu tư đồng loạt nhiều hạng mục công trình với tổng vốn đầu tư lớn,hơn nữa tốc độ phát triển kinh tế, đô thị hoá, tốc độ phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp nhanh vì vậy tình trạng thiếu vốn so với yêu cầu đầu tư phát triển của Tỉnh là một khó khăn, khó khăn về vốn và quản lý vốn bao gồm : + Do tình trạng thiếu vốn đầu tư nên tuỳ tiện bổ sung vốn hoặc bố trí vốn cho dự án khi dự án còn nhiều điều kiện thủ tục theo quy định. + Do nguồn vốn kế hoạch ít so với nhu cầu vì vậy việc ghi kế hoạch vốn cho các dự án chỉ đảm bảo 10 – 20% tổng vốn đầu tư của dự án, nhiều dự án nhóm C theo quy định phải bố trí vốn trong 2 năm, nhưng thực tế phải bố trí vốn 4-5 năm mới hoàn trả hết. +Một số dự án được bổ sung vốn cuối năm - để chạy vốn phải ứng khối lượng để thanh toán được vốn gây khó khăn trong công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng. +Việc bố trí vốn kế hoạch hàng năm ít so với nhu cầu gây tâm lý cho A – B cầm chừng gây tình trạng dồn vốn vào cuối năm mới thanh toán được. Thiếu vốn đầu tư xây dựng là nguyên nhân đẻ ra nạn cửa quyền, tiêu cực trong bố trí vốn, chất lượng công trình kém do phải chi phí tiêu cực. * Trong phân bổ và sử dụng vốn +Thất thoát trong sử dụng vốn: Quyết định đầu tư vội vàng thiếu chính xác : do tính cấp bách, một số công trình vẫn phải áp dụng hình thức vừa thiết kế vừa thi công. Việc lập và thẩm định dự án chưa được sát thực tế, để phát sinh tăng quá lớn. Nhiều khi bên B lợi dụng những sơ hở này mà khai quá so với tỷ lệ tăng thực tế. Nếu bên A thiếu kinh nghiệm hoặc giám sát thi công không chặt chẽ sẽ dễ chấp nhận khối lượng bên B giao cho một cách thiếu căn cứ, gây tổn thất lớn mà vẫn không kiểm soát được chất lượng công trình. Một thực tế tồn tại trong ngành XDCB hiện nay, không chỉ riêng ở tỉnh Vĩnh Phúc, đó là : các công trình XDCB khép kín từ quy hoạch, quyết định đầu tư, khảo sát thiết kế, đấu thầu, thi công, quyết toán ...Chẳng hạn khâu giám sát thi công vì “ anh em họ hàng trong nhà” nên dễ thông cảm với nhau. Khâu đấu thầu cũng thể hiện tính cục bộ quá trình đầu tư. Nhiều công trình dùng chỉ định thầu, hoặc đấu thầu một cách hình thức để tạo thêm việc làm cho người trong nhà. Vẫn còn tồn tại tình trạng “đi đêm” giữa nhà thầu với chủ đầu tư và giữa các nhà thầu với nhau. Từ đó dẫn tới tình trạng thất thoát lãng phí trong sử dụng vốn đầu tư XDCB . Chính sách bố trí vốn đầu tư theo các ngành kinh tế chưa hợp lý, phân tán, đưa số dự án công trình vào kế hoạch đầu tư quá lớn, không có đủ vốn để đảm nhận hoàn thành công trình nên số vốn nợ đọng ở khâu xây dựng cơ bản dở dang hàng năm tương đối nhiều mà không phát huy được hiệu quả của công trình dẫn đến lãng phí vốn đầu tư. Khoảng cách giữa thời gian giao kế hoạch và triển khai kế hoạch còn lớn, do vậy làm đình trệ nhiều định hướng có liên quan đến công trình. Khâu kế hoạch cũng là một khâu gây nên thất thoát vốn đầu tư; nhìn chung việc bố trí và điều hành kế hoạch đầu tư hàng năm còn bộc lộ nhiều nhược điểm : -Phân phối vốn đầu tư còn mang tính chất phân chia, dẫn đến bố trí kế hoạch phân bổ vốn không theo tiến độ thực hiện dự án thực tế. -Thiều kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản tổng quát -Triển khai kế hoạch đầu tư hàng năm chậm Tình hình trên dẫn đến nợ đọng gây khó khăn cho ngân sách nhà nước và làm cho các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực xây dựng khó khăn về vốn vì không thể thanh quyết toán được Công tác quản lý của chủ đầu tư : Ban quản lý dự án là người đại diện cho chủ đầu tư, nhưng không phải là chủ đầu tư đích thực nên thiếu sự ràng buộc về trách nhiệm quản lý tài sản, kể cả trách nhiệm bảo toàn vốn đầu tư khi dự án đi vào hoạt động bởi họ thiếu ý thức tiết kiệm trong tính toán, chi tiêu mà thiên về chủ nghĩa “cá nhân”, điều này cũng là một nguyên nhân dẫn đến thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản. +Chất lượng lập dự án đầu tư: Nhìn chung còn thấp, một số dự án thiếu các cơ sở, luận cứ khoa học khách quan, thiếu các số liệu điều tra khảo sát cập nhật, thiếu các số liệu báo cáo chính xác, do đó tính khả thi của dự án chưa cao, do đó không xác định được chính xác tổng mức vốn đầu tư. Một số ít dự án lập còn theo ý chủ quan của chủ đầu tư. +Chất lượng thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán còn sai sót: Chất lượng thiết kế còn nhiều sai sót như : Chi tiết kiến trúc còn sơ sài, phương án kết cấu còn thiên về an toàn làm cho hiệu quả đầu tư thấp, công trình xấu và lãng phí.Chất lượng lập dự án còn nhiều sai sót, hiện tượng bỏ sót khối lượng là phổ biến, một số công trình đấu thầu không có điều chỉnh giá, nhà thầu phải bù phần thiếu hụt đó dẫn đến chất lượng thi công công trình đạt thấp, như thiết kế và dự toán đầu tư xây dựng hệ thống kiên cố hoá kênh mương loại 2 và loại 3 của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong năm 2004-2005. +Trình tự đầu tư xây dựng còn vi phạm : Một số dự án do yêu cầu cấp bách phải đầu tư bố trí vốn khi chưa có dự án. Thực hiện công tác đấu thầu và chủ định thầu chưa nghiêm. Hàng năm ít các gói thầu tổ chức đấu thầu rộng rãi, chủ yếu tổ chức đấu thầu hạn chế và chỉ định thầu. Nhà thầu thiếu tính cạnh tranh, hiệu quả về giá thành công trình đạt thấp ( bình quân giảm 1,5%). *Công tác quản lý Tình trạng vi phạm các quy định về quản lý chất lượng, quy trình xây dựng của các chủ đầu tư, các nhà thầu còn khá phổ biến như : -Các chủ đầu tư thiếu kiểm tra giám sát thường xuyên, liên tục nhằm ngăn ngừa những sai phạm kỹ thuật, đảm bảo nghiệm thu khối lượng, chất lượng của công tác xây lắp của các nhà thầu thực hiện theo thiết kế được duyệt, tiêu chuẩn kỹ thuật và quy chuẩn xây dựng. -Chưa tuân thủ các quy trình nghiệm thu, cập nhật hồ sơ nghiệm thu còn thiếu và chậm. -Thiếu kiểm tra chất lượng vật liệu, cấu kiện sản phẩm đưa vào thi công. -Đối với các nhà thầu thiếu các biện pháp tự kiểm tra chất lượng về vật liệu, cấu kiện sản phẩm đưa vào xây lắp công trình. Thiếu chứng chỉ về chất lượng vật tư, vật liệu xây dựng. Theo số liệu thông báo của Sở Xây dựng qua kiểm tra một số công trình sử dụng vật liệu không đúng phẩm cấp quy định như : gạch không đảm bảo mác, sỏi và cát không đúng chủng loại yêu cầu. Trong thực tế phương thức đấu thầu chưa được áp dụng rộng rãi, nguyên nhân có nhiều song chủ yếu là việc xác định dự toán làm giá chuẩn, giá trần để xem xét giá trúng thầu còn chậm, thiếu chính xác; việc bố trí kế hoạch đấu thầu không theo tiến độ dự án là một trở ngại phổ biến làm cho việc triển khai diễn ra khó khăn. Mặt khác, thủ tục đấu thầu còn phải trải qua nhiều khâu, trình tự đấu thầu chưa hợp lý, gây ách tắc, trì trệ trong việc triển khai dự án cũng như kế hoạch đấu thầu hàng năm, gây phiền hà cho chủ đầu tư cũng như các đơn vị tham gia đấu thầu. 1.2.5.2.Nguyên nhân của những hạn chế Do trình độ quản lý của cán bộ thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ bản còn yếu, thiếu kinh nghiệm thực tiễn. Một số cơ quan được giao chủ đầu tư lại không có chuyên môn nghiệp vụ về quản lý đầu tư xây dựng. Ban quản lý dự án chuyên ngành thuộc các lĩnh vực vừa yếu về năng lực lại vừa yếu về số lượng. Các phòng giao thông – xây dựng, Phòng quản lý đô thị các huyện, thị xã cán bộ chưa ngang tầm với nhiệm vụ đầu tư xây dựng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thời kỳ công nghệ tiên tiến. Do nhận thức của các cấp, các ngành ở địa phương chưa đầy đủ và thấy rõ tầm quan trọng của lĩnh vực đầu tư xây dựng, việc thực hiện quy chế quản lý đầu tu xây dựng chưa nghiêm túc và còn vi phạm như : bố trí vốn đầu tư xây dựng chưa nghiêm túc và còn vi phạm như : bố trí vốn đầu tư các dự án không tuân theo quy định, chất lượng các dự án thấp, quản lý chất lượng thi công các công trình chưa chặt chẽ, thực hiện quy chế đấu thầu và chỉ định thầu chưa nghiêm túc, thiếu cạnh tranh gây thất thoát ngân sách nhà nước. Thực hiện giao vốn kế hoạch hàng năm còn dàn trải, thiếu tập trung, nhiều công trình kéo dài 3 – 4 năm( dự án nhóm C) công trình chậm đưa vào khai thác sử dụng, do vậy phát huy hiệu quả thấp. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đánh giá đầu tư không thường xuyên liên tục và thực hiện chưa nghiêm. Việc xử lý các vi phạm về đầu tư và xây dựng chưa kiên quyết như: xây dựng không đúng quy hoạch, chất lượng cấu kiện công trình kém, công trình hoàn thành đưa vào sử dụng không lập quyết toán theo quy định. Ngoài ra, còn có một nguyên nhân không kém phần quan trọng tạo nên chất lượng công trình kém, hiệu quả thấp là do một số nhà thầu năng lực hạn chế, thiết bị thi công thiếu. Ngoài ra còn có nguyên nhân khách quan của các nhà thầu thường xuyên phải đối mặt với một khó khăn là thiếu vốn và chậm thanh toán, lại còn phải chịu nhiều chi phí bất hợp lý khác trong quá trình thi công công trình. Cơ chế chính sách quản lý đầu tư xây dựng ban hành không đồng bộ, một số cơ chế chính sách không còn phù hợp chậm được sửa đổi, bổ sung gây nên tâm lý chờ đợi kéo dài, mất thời gian. CHƯƠNG II GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CÔNG TÁC ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở TỈNH VĨNH PHÚC. 2.1.PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN TRONG THỜI GIAN TỚI 2.1.1.Định hướng phát triển ngành 2.1.1.1.Nông, lâm nghiệp Khai thác mọi tiềm năng đất đai, lao động, vốn để đẩy nhanh tốc độ phát triển nông nghiệp, chuyển mạnh nền nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá có năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao. Tích cực chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Trong nông nghiệp, giảm tỷ trọng trồng trọt, tăng tỷ trọng chăn nuôi, thuỷ sản. Phát triển nông nghiệp gắn với việc xây dựng nông thôn mới, kinh tế phát triển, văn minh, lành mạnh. Đẩy mạnh sảnh xuất lương thực nhằm đảm bảo an toàn vững chắc lương thực, phấn đấu năm 2010 đạt 750.000tấn, lương thực bình quân đầu người là 500kg, diện tích lúa 79.000ha, năng suất lúa 61tạ/ha/vụ, cây công nghiệp ngắn ngày 6500ha, rau đậu các loại 15.000ha. Trong trồng trọt chú trọng đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất, có kế hoạch sử dụng đất hợp lý để phát triển các loại cây trồng có hiệu quả kinh tế cao, mở rộng diện tích lúa mùa sớm. Điều chỉnh cơ cấu cây trồng vụ đông theo hướng phát triển cây lạc thu đông, khoai tây và các cây rau cao cấp. Tiếp tục phát triển lúa xuân muộn và gieo cấy các giông lúa mới có năng suất, chất lượng cao. Có cơ chế hỗ trợ, khuyến khích để nhanh chóng hình thành vùng hàng hoá, vùng cây trồng có giá trị và xuất khẩu như dưa chuột, ớt, tỏi, lạc...Nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống các đơn vị dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp. Phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá: Phát triển mạnh đàn bò lấy thịt và sữa; phát triển chăn nuôi lợn hướng nac; nuôi cá giông mới có năng suất, chất lượng cao, phát triển nuôi cá đồng trũng và các con đặc sản theo kiểu trang trại chăn nuôi công nghiệp; phát triển trồng dâu để sản xuất tơ tằm xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2010: đàn bò đạt 52.000con, tăng 23%; đàn lợn 670.000con, tăng 31%; gia cầm : 5,5triệu con, tăng 28,5%, sản lượng cá : 10.000 tấn, tăng 47,6% so với năm 2000. 2.1.1.2.Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Cải tạo và đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất, khai thác một cách có hiệu quả các cơ sở công nghiệp hiện có . Phát triển công nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp nông thôn. Hình thành và phát triển các khu, cụm công nghiệp và làng nghề và đa nghề. Có cơ chế hỗ trợ để phát triển các làng nghề truyền thống, ưu tiên phát triển các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu và phát triển sản xuất các mặt hàng có lợi thế của địa phương như giày da, vật liệu xây dựng, đồ may mặc, hàng linh kiện điện tử, phụ tùng ôtô, xe máy, chế biến tinh bột nông sản thực phẩm, dược liệu, nước giải khát, thức ăn gia súc, bao bì nhựa, chế tạo phụ tùng, lắp ráp xe máy, gạch ốp lát, bao bì nhựa.... Đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp Bá Thiện, Khai Quang, tạo môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tu trực tiếp của nước ngoài vào địa bàn tỉnh. 2.1.1.3.Các ngành dịch vụ Phát triển mạnh các loại hình dịch vụ, mở thêm các loại hình mới bao gồm cả dịch vụ cho sản xuất và tiêu dùng, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, đáp ứng nhu cầu đa dạng của sản xuất kinh doanh cũng như đời sống của nhân dân. Tranh thủ mọi nguồn vốn để từng bước nâng cao chất lượng của các khu du lịch, nghỉ cuối tuần như Tam Đảo, Đại Lải, Tây Thiên nhằm thu hút du khách tới tham quan. Thực hiện dịch vụ hoá và xã hội hoá các dịch vụ văn hoá, thể dục thể thao, vui chơi giải trí nhằm từng bước tăng trưởng kinh tế dịch vụ, tăng tỷ trọng của dịch vụ trong cơ cấu GDP. Tăng khối lượng, nâng cao chất lượng và an toàn trong vận tải hành khách, hàng hoá trên cả đường bộ, đường sông. Tiếp tục hiện đại hoá thông tin liên lạc, mở rộng dịch vụ điện thoại thêu bao. Phát triển các dịch vụ đa dạng như : dịch vụ thông tin, tư vấn kỹ thuật công nghệ, tài chính, ngân hàng, pháp luật, tư vấn tìm kiếm mở rộng thị trường, tư vấn đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh. 2.1.1.4.Văn hoá - xã hội : *Sự nghiệp giáo dục - đào tạo Phấn đấu nang cao chất lượng giáo dục và đào tạo nhằm thực hiện mục tiêu “Nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài ”; có chính sách và cơ chế khuyến khích để tạo nguồn lực góp phần đắc lực vào công cuộc đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển giáo dục mầm non, tăng tỷ lệ trẻ em được chăm sóc ở các nhà trẻ, mẫu giáo. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Đẩy mạnh công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia trong các ngành học, cấp học. Mở rộng và nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ, tin học, dạy nghề. Tăng cường cơ sở vật chất trường học, phấn đấu đến năm 2010 có 100% số phòng học phổ thông được xây dựng kiên cố. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng về mọi mặt đối với đội ngũ giáo viên các cấp. Có chính sách hỗ trợ đối với các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn, gia đình chính sách. *Sự nghiệp y tế, chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân Thực hiện tốt công tác y tế dự phòng, kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền, lấy chăm sóc sức khỏe ban đầu và phòng bệnh làm trọng tâm, xã hội hoá công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, nhằm nâng cao thể lực và tuổi thọ trung bình cho nhân dân. Thực hiện tốt các chương trình quốc gia về y tế. Bảo vệ, chăm sóc và phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em, phòng chống AIDS và các bệnh xã hội khác. Tranh thủ mọi nguồn lực tiếp tục đầu tư nâng cấp các bệnh viện trên địa bàn Tỉnh, huyện và trạm y tế xã. Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, đào tạo đội ngũ cán bộ y tế chuyên sâu, tiếp tục thực hiện mua bảo hiểm y tế cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội. *Văn hoá thông tin - Thể dục thể thao Từng bước đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị nhằm phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thông tin, báo chí đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về đời sống tinh thần của nhân dân. Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động phong trào văn hoá cơ sở, nhất là việc xây dựng gia đình, khu phố và làng văn hoá mới. Đẩy mạnh phong trào văn nghệ quần chúng, giữ gìn các phong tục văn hoá cổ truyền đậm đà bản sắc dân tộc, hướng dẫn hoạt động lễ hội truyền thống. Xây dựng và đổi mới hoạt động : phát hành sách, bảo tàng, thư viện, nhà văn hoá, thông tin lưu động phục vụ cho các vùng sâu vùng xa. Quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của đội ngũ những người làm công tác văn hoá, văn nghệ, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng tài năng văn hoá, văn nghệ. Thường xuyên tu tạo, bảo tồn các di tích văn hoá, di tích lịch sử và cách mạng. Từng bước nâng cao chất lượng các lĩnh vực : Phát thanh, truyền hình, báo chí theo hướng thông tin rộng rãi, đa dạng có tác dụng sâu sắc về nhiệm vụ chính trị và nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân. *Giải quyết việc làm và chính sách xã hội Thực hiện được mục tiêu phát triển và chuyển dịch kinh tế nêu trên sẽ là phương hướng cơ bản để giải quyết việc làm cho người lao động trong thời gian tới. Vì vậy phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển và mở rộng sản xuất, tạo thêm việc làm mới. Quan tâm đầu tư và xã hội hoá các loại hình đào tạo nghề cho người lao động. Phấn đấu đến 2010 có 38% số lao động được đào tạo nghề cơ bản, chủ động đáp ứng nhu cầu lao động có tay nghề cho sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Thực hiện tốt chương trình quốc gia về giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo, phấn đấu đến năm 2010, giảm hộ nghèo xuống còn 4,5% . 2.1.2.Định hướng đầu tư và phát triển đô thị 2.1.2.1.Đầu tư xây dựng các đô thị Ngân sách tỉnh đã giành 90 tỷ đồng đầu tư cho hệ thống hạ tầng thành phố Vĩnh Yên và thị xã Phúc Yên. Do vậy, các tuyến đường nội thị được cải tạo, nâng cấp, dải thảm, hệ thống cây xanh, vỉa hè được đầu tư khang trang, sạch sẽ. Các nút giao thông quan trọng được đầu tư đảm bảo mỹ quan đô thị và giảm thiểu tai nạn giao thông và giành ra 10 tỷ đồng để nâng cấp, bảo trì các tuyến đường tỉnh lộ. - Đặc biệt trong năm 2007, công tác chuẩn bị đầu tư dự án Cải thiện môi trường đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc bao gồm các hợp phần: Đường trục chính khu đô thị Mê Linh; Hệ thống cấp nước và thoát nước Vĩnh Yên; Hệ thống điện Vĩnh Yên và Phúc Yên sử dụng vốn ODA JBIC với tổng mức đầu tư 93 triệu USD, tương đương với khoảng 1.500 tỷ đồng đã được triển khai tích cực. 2.1.2.2. Đầu tư xây dựng các khu vực khác Đầu tư xây dựng đến năm 2010 cơ bản hoàn thành kiên cố hoá kênh mương kênh loại III và 50% kênh loại II, hoàn thành nhựa hoá các tuyến đường tỉnh lộ, tập trung xây dựng các tuyến đường huyện, đảm bảo 75-85% đường giao thông liên thôn, liên xã được bê tông hoá, đầu tư cải tạo nâng cấp các trạm bơm hiện có, xây dựng một số trạm bơm đảm bảo tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp. Đầu tư xây dựng trung tâm y tế huyện, các bệnh viện chuyên khoa đảm bảo đủ điều kiện phục vụ khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Đảm bảo xây dựng các trạm y tế xã kiên cố đủ điều kiện chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp làng nghề, cụm công nghiệp vừa và nhỏ để thu hút các nhà đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn Tỉnh. Đầu tư xây dựng trường trung học phổ thông, trung học cơ sở, trường tiểu học đảm bảo kiên cố 100%. Xây dựng mỗi cấp học sẽ tăng số trường đạt chuẩn quốc gia. Đầu tư xây dựng các công trình văn hoá, phát thanh truyền hình, bưu điện, đảm bảo 100% nhân dân trong tỉnh được phủ sóng truyền hình của Tỉnh, mỗi thôn có một nhà văn hoá, câu lạc bộ vui chơi, cứ 10 người dân có 5 người có điện thoại. Phấn đấu đến năm 2010 có hệ thống kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở trình độ cao trong giai đoạn tiếp theo.Xây dựng thành phố Vĩnh Yên trở thành một trong những thành phố vệ tinh quan trọng của Hà Nội. Ước tính nguồn vốn đầu tư xã hội bình quân mỗi năm khoảng 2.200 – 2.700tỷ đồng. Trong đó nguồn vốn đầu tư tập trung từ ngân sách nhà nước khoảng 200-220 tỷ đồng. Để thực hiện mục tiêu phương hướng trên phải huy động mọi nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Điều quan trọng là sự giúp đỡ, tạo điều kiện của các Bộ, Ngành TW và bằng nỗ lực của địa phương để huy động từ các nguồn cho đầu tư phát triển. 2.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC 2.2.1. Nhóm giải pháp về chính sách và môi trường pháp lý 2.2.1.1. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch Cần chủ động cập nhật, bổ sung các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, phát triển ngành; trong đó xây dựng các chương trình phát triển, xác định các dự án đầu tư. Gắn quy hoạch với kế hoạch và nhu cầu thị trường. Trên cơ sở đó hình thành cơ cấu đầu tư hợp lý trong từng ngành, từng vùng. * Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội Trước hết phải rà soát lại quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội (2001 – 2010). Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch cho phù hợp điều kiện cụ thể và hướng phát triển theo tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Quy hoạch tổng thể kinh tế-xã hội luôn đóng vai trò định hướng trong phát triển kinh tế xã hội, nó được ví như một cái khung để định hướng các kế hoạch, quy hoạch ngắn hạn phát triển theo. Để nền kinh tế phát triển đúng định hướng, theo chiều hướng tích cực thì công tác lập quy hoạch tổng thể đóng vai trò quan trọng trong đó. Khi quy hoạch tổng thể chính xác thì việc lập quy hoạch cho từng ngành, từng lĩnh vực cũng có căn cứ, định hướng đúng đắn. Quy hoạch tổng thể cần được lập dựa trên cơ sở quy hoạch kinh tế - xã hội chung của cả nước, gắn với điều kiện cụ thể của địa phương, nhằm phát huy những lợi thế của địa phương mình, tận dụng những cơ hội phát triển từ bên ngoài, theo đúng xu thế phát triển chung của kinh tế đất nước và thế giới. Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế ngành, vùng, trọng điểm đảm bảo ưu tiên đầu tư xây dựng cho những mục tiêu quan trọng, mũi nhọn của nền kinh tế. Việc xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùnh, ngành lại căn cứ vào quy hoạch chung của Tỉnh, đảm bảo yêu cầu về tính khả thi, hiện thực, đúng thực tế, phát huy những tiềm năng phát triển của ngành và của vùng kinh tế. Cụ thể là những vùng (huyện) nào phát triển ngành nghề gì, trồng cây gì, nuôi con gì đều cần căn cứ vào điều kiện kinh tế, tự nhiên, xã hội của vùng đó, trên cơ sở phù hợp với quy hoạch chung. Cần chú ý đến việc quy hoạch phát triển những vùng, ngành trọng điểm nhằm tận dụng lợi thế so sánh của ngành nghề và của vùng đó so với các ngành, vùng khác trong tỉnh và so sánh với các địa phương khác. Xây dựng quy hoạch phát triển không gian đô thị như quy hoạch chung Thành phố Vĩnh Yên, quy hoạch phát triển không gian ven quốc lộ...... Có quy hoạch cụ thể phát triển thành phố Vĩnh Yên thành trung tâm kinh tế văn hoá xã hội của Tỉnh, phát triển cơ sở hạ tầng, không gian ven đường quốc lộ 2A, 2B mới nhằm tận dụng lợi thế, những điều kiện phát triển thuận lợi thu được từ giao thông thuận tiện, qua đó thu hút các nhà đầu tư vào đầu tư trên địa bàn Tỉnh. * Quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết Điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Vĩnh Yên theo sự phát triển không gian, phù hợp hiện tại và xu hướng trong tương lai trên cơ sở khoa học và thực tiễn. Tiếp tục soát xét lại quy hoạch chi tiết các khu thương mại – dịch vụ, văn hoá thể thao, vui chơi giải trí và khu dân cư, khu đô thị mới. Có sự rà soát liên tục về sự hợp lý của các khu thương mại, văn hoá thể thao, dân cư để có sự đánh gía, điều chỉnh kịp thời, đáp ứng nhu cầu phát triển chung; đồng thời giải quyết kịp thời những vướng mắc có liên quan. Việc quy hoạch các khu công nghiệp luôn có ý nghĩa quan trọng với bất kỳ tỉnh nào, và với Vĩnh Phúc cũng vậy. Các khu công nghiệp cần được quy hoạch tốt, đảm bảo tính đồng bộ về điều kiện giao thông, hệ thống điện, nước, an ninh ... đảm bảo các điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, công ty hoạt động trong khu công nghiệp. Bên cạnh các yếu tố trên cũng cần trú trọng đến việc quy hoạch hệ thống tài chính ngân hàng, với những ngân hàng nhằm đáp ứng việc cung ứng vốn cho các doanh nghiệp đảm bảo hoạt động sản xuất. Bên cạnh việc tập trung quy hoạch các khu công nghiệp cũng cần chú ý tới công tác quy hoạch các cụm công nghiệp làng nghề, qua đó đảm bảo cho sự phát triển của các làng nghề, cụm công nghiệp tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho Tỉnh. Rà soát quy hoạch chi tiết các huyện lỵ, điều chỉnh bổ sung cho phù hợp, đầu tư xây dựng đảm bảo đúng quy hoạch được duyệt. Việc rà soát lại các quy hoạch chi tiết các huyện lỵ có ý nghĩa đảm bảo cho các quy hoạch đó thống nhất với quy hoạch chung của Tỉnh, quy hoạch phát triển vùng, phát triển ngành; qua đó giải quyết kịp thời những vướng mắc liên quan, đảm bảo sự phát triển kinh tế - xã hội lành mạnh cho địa phương. 2.2.1.2.Hoàn thiện các văn bản pháp lý qui định về công tác xây dựng cơ bản Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực XDCB của Tỉnh, Đảm bảo tính thống nhất về nội dung giữa các văn bản của Sở , Ban, Ngành liên quan; và sự thống nhất giữa văn bản của TW với văn bản của địa phương, tránh tình trạng luật của Nhà nước quy định một kiểu, văn bản của địa phương lại ban hành không phù hợp, thống nhất với những quy định của nhà nước gây khó khăn cho nhà đầu tư, cản trở công tác thi hành pháp luật tại địa phương. Tổ chức tập huấn thường xuyên về nghiệp vụ quản lý đầu tư xây dựng ở các cấp, các ngành, ít nhất 6 tháng 1 lần về nội dung: Cung cấp kiến thức cơ bản về quản lý đầu tư xây dựng hiện có và mới bổ sung, công tác quản lý chất lượng công trình, công tác quản lý đô thị đối với cán bộ trực tiếp làm công tác quản lý đầu tư xây dựng. Trên cơ sở quyết định số 83/2003/QĐ-UB, ngày 16/9/2003 của UBND tỉnh và phân công phân cấp quản lý đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc,tiếp tục đề xuất UBND tỉnh mạnh dạn phân cấp nhiều hơn nữa cho các ngành và địa phương nhằm nâng cao trách nhiệm quyền hạn, nghĩa vụ, lợi ích, có như vậy mới phát huy được tính chủ động, sáng tạo của các cấp, các ngành trong công tác quản lý đầu tư xây dựng. Đề nghị UBND tỉnh ban hành chế tài quản lý lực lượng tư vấn giám sát kỹ thuật xây dựng trên địa bàn, chế tài về công tác quyết toán công trình hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng theo quy định của Nhà nước. Để đảm bảo cho việc thực thi pháp luật tại địa phương trong lĩnh vực XDCB, nâng cao chất lượng công trình XDCB có thể áp dụng một số biện pháp hành chính sau : -Kiên quyết bố trí chủ đầu tư dự án cho các đơn vị đã vi phạm quản lý dây dưa, kéo dài thời gian quyết toán công trình không theo quy định của pháp luật. -Không chấp nhận dự án đầu tư, khi chủ trì kiến trúc không có chứng chỉ hành nghề được cấp của cơ quan có thẩm quyền( Sở xây dựng). -Không cho phép cán bộ giám sát thi công công trình không có chứng chỉ về tư vấn giám sát do cơ quan có thẩm quyền cấp( Cục giám định nhà nước và chất lượng công trình –Bộ xây dựng). -Các nhà thầu có vi phạm những điều sau đây không được tham gia đấu thầu công trình tại tỉnh Vĩnh Phúc: +Thi công công trình trước đó đã hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng không thực hiện quyết toán theo quy định. +Phạm quy định từ 2 lần trở lên khi tham gia vào dự thầu tại Vĩnh Phúc (hồ sơ bị loại) +Vi phạm về quản lý chất lượng công trình theo Bộ xây dựng. 2.2.2. Những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc 2.2.2.1 Cải tiến phương pháp giao kế hoạch vốn đầu tư xây dựng hàng năm Trong công tác quản lý kinh tế nói chung và trong công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng, công tác lập kế hoạch luôn đóng vai trò quan trọng, nó có vai trò quyết định trong sự thành công hay thất bại và tính hiệu quả của công tác đầu tư. Kế hoạch phân bổ vốn đầu tư thường được xác định vào cuối năm để phân bổ vốn cho năm sau, qua đó vốn đầu tư sẽ tập trung vào những ngành, công trình nào có vai trò quan trọng, mang tính cấp thiết hơn, cần phải đầu tư ngay, để làm động lực thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế. Việc phân bổ khối lượng vốn đầu tư bao nhiêu cho một ngành được tính toán dựa trên nhu cầu thực tế của ngành đó, định hướng phát triển kinh tế. Để nâng cao hiệu quả trong việc phân bổ, cấp phát vốn đầu tư có thể tập trung vào một số biện pháp sau : - Giao kế hoạch vốn đầu tư xây dựng ngay từ đầu năm kế hoạch. Việc giao kế hoạch vốn đầu tư ngay từ đầu năm giúp cho các chủ đầu tư, cơ quan quản lý vốn đầu tư thuộc các Sở, Ban, Ngành chủ động và có kế hoạch cụ thể cho việc sử dụng vốn đầu tư cho các dự án của mình, qua đó chủ động trong việc phân bổ vốn cho từng công trình, đảm bảo tiến độ và chất lượng thi công công trình đã được phê duyệt. - Ưu tiên vốn và tập trung vốn cho các dự án trọng điểm, không bố trí vốn dàn trải cho các công trình. Bố trí đủ vốn cho các dự án nhóm C trong 2 năm, nhóm B trong 4 năm. Các công trình trọng điểm là những công trình đóng vai trò quan trọng, định hướng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh, giải quyết những nhu cầu cấp bách trên địa bàn tỉnh, do vậy việc tập trung bố trí vốn cho các công trình trọng điểm để đảm bảo tiến độ cũng như chất lượng cho các công trình là điều cần thiết. Đồng thời tránh được thất thoát lãng phí do việc kéo dài thời gian thi công các công trình này. - Kiên quyết không bố trí vốn các dự án không có thủ tục đầu tư, dự án không phù hợp kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và phát triển đô thị. Việc bố trí vốn cho các công trình không có trong quy hoạch, không được phê duyệt là sai nguyên tắc, vi phạm các quy định quản lý nhà nước về kinh tế. Mặt khác, khi bố trí vốn cho các dự án không có thủ tục đầu tư, không phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế, cho sự phát triển chung của Tỉnh. Các hậu quả đó có thể là:gây ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên, xã hội, gây thiệt hại về kinh tế cho người dân chịu ảnh hưởng từ việc thực hiện những dự án đó, hậu quả nghiêm trọng hơn đó là khi dự án chưa được phê duyệt thì có thể thiết kế, tính hiệu quả về kinh tế và xã hội của dự án là không đảm bảo, nếu đầu tư có thể gây lãng phí sau này. 2.2.2.2. Nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư, chất lượng thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán và thẩm định thiết kế kỹ thuật tổng dự toán Nâng cao chất lượng lập thẩm định dự án đầu tư, chất lượng và tính khả thi của dự án đầu tư là yếu tố rất quan trọng đối với đầu tư xây dựng, nhất là các dự án sản xuất kinh doanh sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Do vậy phải quản lý nâng cao chất lượng lập thẩm định các dự án đầu tư để đảm bảo hiệu quả dự án đầu tư. Dự án đầu tư phải phù hợp quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, phù hợp phát triển quy hoạch đô thị và kiến trúc hiện đại. Dự án đầu tư sản xuất kinh doanh phải phù hợp với công nghệ hiện đại, tiên tiến, đảm bảo đủ sức cạnh tranh thị trường, đảm bảo hiệu quả kinh tế và thời hạn thu hồi vốn đầu tư. Chất lượng thẩm định dự án đầu tư là điều kiện tiên quyết phải đạt được các điều kiện trên. Đảm bảo tính khả thi, khoa học, khách quan. Đội ngũ cán bộ thẩm định phải là chuyên gia giỏi trên nhiều lĩnh vực, có phẩm chất đạo đức và phong cách làm việc khoa học, chặt chẽ. Nâng cao chất lượng thiết kế kỹ thuật đảm bảo đầy đủ các chi tiết, đảm bảo chất lượng hệ số an toàn cho phép, tránh lãng phí, gây tốn kém không cần thiết trong lựa chọ phương án kết cấu công trình. Nâng cao chất lượng thiết kế nhằm nâng cao chất lượng tổng dự toán công trình chíng xác, không còn hiện tượng bổ sung gây nên kẽ hở để tham ô, tiêu cực trong thực hiện đầu tư xây dựng. Thẩm định thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán đảm bảo tính chính xác cao, khoa học và chặt chẽ. Thẩm định thiết kế kỹ thuật chính xác còn đảm bảo cho tính chính xác của việc dự toán công trình, tính toán các chỉ tiêu kinh tế đánh giá hiệu quả dự án. Dự toán công trình cần đảm bảo dựa trên thiết kế kỹ thuật của công trình,căn cứ theo giá cả thị trường tại thời điểm tính toán, so sánh sự hợp lý với các công trình tương tự, có tính đến các yếu tố ảnh hưởng như : lạm phát, giá cả tăng, yếu tố thiên tai bất thường .... Công việc thẩm định dự án đầu tư cần những chuyên gia có kinh nghiệm, có đạo đức, do đó càn có kế hoạch cụ thể cho việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ có năng lực, phẩm chất tốt. Đánh giá đúng hiệu quả kinh tế cũng như hiệu quả xã hội của dự án trên cơ sở phân tích độ nhạy của dự án, nếu tính hiệu quả đó của dự án vẫn đảm bảo thì dự án đó là khả thi. Việc thẩm định dự án, thiết kế kỹ thuật phải có căn cứ thực tế, dựa trên các quy định về chất lượng các công trình xây dựng ban hành theo các văn bản pháp luật của Bộ Xây dựng, của Tỉnh. 2.2.2.3. Quản lý chặt chẽ trong công tác đấu thầu và chỉ định thầu Thực tế cho thấy, công tác đấu thầu vẫn mang tính hình thức, thiếu tính minh bạch, khách quan, công bằng, bởi đã có sự liên kết khéo léo giữa các nhà thầu, để tăng giá thầu. Thậm chí có cả trường hợp thông đồng thoả thuận với chủ đầu tư để thực hiện quá trình đấu thầu. Việc đầu thầu như vậy vừa không khách quan, công bằng và làm thiệt hại cho ngân sách nhà nước. Thường xảy ra ở các cuộc đấu thầu hạn ché cho số lượng nhà thầu tham gia có hạn ( theo quy định là 5 nhà thầu hoặc 3 nhà thầu đối với gói thầu nhỏ ). Khi xét thầu đã có 2-3 nhà thầu phạm quy, chỉ còn 1-2 nhà thầu được xem xét. Như vậy tính cạnh tranh kém và khả năng lựa chọn nhà thầu xứng đáng để trao thầu không cao. Đối với nhà thầu, cần nâng cao chất lượng các hồ sơ dự thầu, các thiết kế cần đảm bảo yêu cầu kỹ thuật trên cơ sở tiết kiệm tối đa có thể chi phí, và có một tỷ lệ lãi nhất định. Mặt khác, cũng cần nâng cao nhận thức, đề cao vấn đề đạo đức của các nhà thầu, điều này có ý nghĩa quan trọng trong công tác thi công công trình, tránh được hiện tượng liên kết nhằm rút ruột các công trình. Với mỗi công trình đảm bảo một tỷ lệ lãi nhất định cho nhà thầu, cùng với việc tăng cường công tác quản lý đầu tư thì việc đảm bảo chất lượng công trình là khả thi,đặc biệt khi có sự hợp tác tích cực giữa nhà thầu - chủ đầu tư, cơ quan quản lý. Đối với công tác quản lý nhà nước trong hoạt động đấu thầu : Trước hết là cần tuân thủ các nguyên tắc trong công tác đấu thầu, đảm bảo tính minh bạch, công bằng. Cần có hướng dẫn cụ thể về quy trình, thủ tục, các giấy tờ pháp lý về việc đấu thầu cho các nhà thầu, giúp nhà thầu hiểu rõ về gói thầu mà mình tham gia, đảm bảo tính công khai, công bằng giữa các nhà thầu, tránh hiện tượng tiêu cực trong công tác đấu thầu. Do vậy phải quy định chặt chẽ, giảm đấu thầu hạn chế và khuyến khích hoặc bắt buộc đấu thầu rộng rãi, hạn chế chỉ định thầu để đấu thầu. Phẩm chất, đạo đức của đội ngũ quản lý cũng cần được đề cao trong công tác quản lý đấu thầu, tránh tình trạng có “quan hệ anh – tôi ” giữa bên giám sát, quản lý đấu thầu với các nhà thầu nhằm tạo thuận lợi cho một số nhà thầu và gây khó khăn cho các nhà thầu khác, có năng lực cao hơn nhưng không có mối quan hệ tốt với các quan chức trong bộ máy quản lý. 2.2.2.4. Quản lý tốt việc cấp phát và thanh toán vốn đầu tư Quản lý tốt việc cấp phát và thanh toán vốn đầu tư phải đảm bảo đúng quy định của Nhà nước. Việc cấp phát vốn đầu tư phải gắn với nhu cầu thực tế của công trình, phù hợp với tiến độ thi công các hạng mục, tránh tình trạng cấp vốn tràn lan dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư không cao. Việc cấp phát vốn tràn lan, thừa so với yêu cầu vốn để thực hiện xây dựng công trình trong một thời điểm sẽ dẫn tới tình trạng thừa vốn cho công trình đó, nhưng lại thiếu vốn cho công trình khác, qua đó dẫn đến tình trạng chỗ thiêu, chỗ thừa vốn, nơi thì khối lượng vốn nợ đọng, không thanh quyết toán được công trình, nơi thì thất thoát vốn. Nghiêm cấm việc ứng vốn, nợ khối lượng dẫn tới quản lý không chặt chẽ. Đây là hiện tượng xin ứng trước vốn khi mà khối lượng công trình thực hiện chưa đảm bảo, chưa được nghiệm thu. Nghiệm thu khối lương nới lỏng gây nên thất thoát lãng phí và chất lượng công trình kém hiệu quả. Nghiệm thu công trình nới lỏng có thể do trình độ, năng lực yếu kém của bộ máy quản lý, hoặc cũng có thể là do có sự liên kết giữa các bên : Bên thi công và bên nghiệm thu, để ăn bớt khối lượng công trình, chất lượng công trình thì không đảm bảo, không đúng thiết kế cũng nghiệm thu. Công tác cấp phát vốn đầu tư có thể theo hướng cụ thể như sau để đảm bảo vốn cho các công trình có thể thực hiện đúng tiến độ: - Dành 40% để thanh toán nợ xây dựng cơ bản hoàn thành. - Dành 45% để phân bổ cho các công trình chuyển tiếp. - Dành 15% để phân bổ cho các công trình mới đã có đủ thủ tục đầu tư theo quy định. - Đảm bảo đủ vốn để hoàn thành công trình nhóm C trong 2 năm, công trình nhóm B trong 4 năm kể từ khi khởi công. Mặt khác cần nâng cao chuyên môn của các cán bộ quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, đề cao phẩm chất đạo đức của các cán bộ quản lý, đảm bảo cho công tác nghiệm thu công trình đúng với thiết kế, đảm bảo chất lượng công trình đưa vào sử dụng, qua đó nâng cao chất lượng công tác thanh quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Thực hiện bảo hành công trình theo đúng quy định của quy chế quản lý đầu tư và xây dựng. 2.2.2.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đánh giá đầu tư xây dựng. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá đầu tư xây dựng là một nhiệm vụ cần thực hiện thường xuyên nhằm phát hiện, uốn nắn những sai phạm trong quá trình quản lý và thực hiện đầu tư xây dựng để đảm bảo công tác đầu tư xây dựng mang lại hiệu quả cao. Do vậy, công tác thanh tra, kiểm tra đầu tư xây dựng phải được thực hiện thường xuyên, liên tục, ở tất cả các giai đoạn chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, dự án hoàn thành đưa vào khai thác sủ dụng, tiến hành thanh tra, kiểm tra ở tất cả các lĩnh vực đầu tư xây dựng. Thanh tra, kiểm tra ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư nhằm đảm bảo cho tính hiệu quả của công trình, dự án sau này, tránh lãng phí khi mà dự án không có tính khả thi, việc thanh tra ở giai đoạn này cần tập trung vào đánh giá sơ bộ tính hiệu quả dự án, công trình, địa điểm thực hiện dự án, xây dựng công trình. Thanh tra ở giai đoạn thực hiện đầu tư cần tiến hành thường xuyên, kết hợp kiểm tra định kỳ và kiểm tra bất kỳ khi thấy có dấu hiệu bất thường trong việc thực hiện dự án nhằm đảm bảo cho tiến độ cũng như chất lượng công trình được đảm bảo đúng thiết kế và dự toán đã được duyệt. Thanh tra, kiểm tra ở giai đoạn vận hành, khai thác công trình cần tập trung vào việc xem xét, đánh giá tính hiệu quả về kinh tế và hiệu quả xã hội của dự án, công trình, qua đó nhận định và giải quyết kịp thời những phát sinh ảnh hưởng tới tính hiệu quả trong khai thác công trình. Trước hết UBND tỉnh phải kiện toàn lực lượng thanh tra, kiểm tra công tác đầu tư xây dựng đủ mạnh, có chuyên môn và là những chuyên gia giỏi của các lĩnh vực đầu tư xây dựng, cán bộ phải có phẩm chất đạo đức, có uy tín và trung thưc. Tỉnh cần có kế hoạch thanh tra thường xuyên và bất kỳ đối với tất cả các công trình xây dựng thuộc thẩm quyền quản lý của mình nhằm đảm bảo việc vận hành, khai thác các công trình đó mang lại hiệu quả như dự tính. Cụ thể : - Thanh tra Tỉnh xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra trên phạm vi toàn tỉnh, trình UBND phê duyệt. - Thanh tra các huyện, ngành có kế hoạch thanh tra, kiểm tra trong phạm vi ngành và địa phương mình. - Các đơn vị xây dựng kế hoạch tự kiểm tra thực hiện công tác đầu tư xây dựng. Định kỳ 6 tháng sơ kết 1 lần và tổng kết vào cuối năm kế hoạch. Kiên quyết xử lý những vi phạm như : tham ô, lợi dụng chức quyền làm thất thoát vốn đầu tư xây dựng, thiếu trách nhiệm quản lý làm tổn hại đến chất lượng công trình xây dựng. Chống thất thoát, lãng phí trong xây dựng cơ bản là nhiệm vụ khó khăn phức tạp, không chỉ là nhiệm vụ của cán bộ thanh tra mà là của toàn xã hội. Trách nhiệm của các ngành,các cấp là phải nâng cao ý thức trách nhiệm, giúp đỡ, tạo điều kiện cùng lực lượng thanh tra của tỉnh thực hiện. BẢN THẢO CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP Chuyên đề : Hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản ở tỉnh Vĩnh Phúc: Thực trạng và giải pháp Gi¸o viªn h­íng dÉn : PGS.TS. Tõ Quang Ph­¬ng Sinh viªn thùc hiÖn : NguyÔn Kim Ph­¬ng Líp : KT§T 47A

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6281.doc