Đối với NH- người cho thuê: Đa dạng hoá việc sử dụng vốn, mở rộng dạng khách hàng, tăng thêm sản phẩm NH, giảm mức độ rủi ro so với cấp tín dụng hoặc bảo lãnh. Vì trong thời gian cho thuê, NH vẫn chỉ có quyền sở hữu pháp lý đối với thiết bị thuê nên NH có khả năng nhanh chóng chiếm lại thiết bị nếu người đi thuê không tuân thủ theo hợp đồng thuê. Tín dụng thuê mua bảo đảm sử dụng đúng đắn số vốn tài trợ, tỷ lệ sử dụng vốn cao.
Đối với người đi thuê: Người đi thuê không phải bỏ ngay một số tiền để mua sắm thiết bị nhưng vẫn có thiết bị sử dụng, có thể tiếp nhận được công nghệ tiên tiến đồng thời hạn chế được sự lỗi thời nhanh chóng của thiết bị. Mô hình tín dụng dịch vụ thuê, mua có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển đất nước, tạo điều kiện giúp đỡ các DN không đủ vốn nhưng vẫn có thể thuê được máy móc, thiết bị hiện đại, thúc đẩy việc sản xuất kinh doanh, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm.
86 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1182 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng trung - Dài hạn tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
còn nhiều khó khăn. Những định hướng chính sách đề ra còn nhiều bất cập, chưa khai thác được hết các dịch vụ trong hoạt động. NH cho vay theo kế hoạch Nhà nước hàng năm một số dự án theo chỉ định của Chính Phủ, nên tính chủ động của NH trong việc quyết định cho vay còn phụ thuộc, nhiều khoản vay có hiệu quả kinh tế chưa cao.
- Thiếu thông tin trong đầu tư và đặc biệt là thiếu sự gắn kế cân đối giữa quy hoạch ngành và lãnh thổ, tạo ra mất quan hệ cân đối trong quan hệ cung- cầu dẫn đến hiệu quả kinh tế, hiệu quả đầu tư thấp.
Cơ cấu nguồn vốn tuy đã được NH rất chú trọng song vẫn còn những điểm chưa hợp lý. Hiện nay nguồn vốn để NH cho các DN vay chủ yếu là lấy từ nguồn dân cư, các tổ chức kinh tế và các nguồn tài trợ uỷ thác của nước ngoài. Tỷ trọng vốn trung- dài hạn còn thấp, vốn ngoại tệ vẫn chỉ có USD, cơ cấu nguồn vốn chưa hợp lý, chưa phù hợp với tính chất thời gian của đồng tiền. Tăng trưởng nguồn vốn trung- dài hạn vẫn là nhiệm vụ chiến lược lâu dài của NH.
Hành lang pháp lý chính sách chế độ ban hành chưa kịp thời, chưa phù hợp với điều kiện hiện tại. Những văn bản hướng dẫn quy chế. Quy trình tín dụng của NHTW vẫn chưa đầy đủ, chặt chẽ; còn nhiều văn bản chế độ và thực tế phát sinh, nhiều chi nhánh còn lúng túng, vướng mắc trong quá trình xử lý phát sinh trong thực tế.
Cán bộ NH vừa thiếu về số lượng, vừa bất cập về năng lực, chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao.
Chương 3
một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng trung- dài hạn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam.
3. 1. Định hướng chính sách tín dụng của NHĐT&PTVN
3. 1. 1. Nhận thức
Chính sách tín dụng là một bộ phận quan trọng, cốt lõi trong chiến lược kinh doanh của NH. Chính sách tín dụng đúng đắn, phù hợp thì khai thác được triệt để các sản phẩm dịch vụ, hoạt động nghiệp vụ khác, các nguồn lực, nội lực vào hoạt động kinh doanh trong sự tồn tại và phát triển của NHĐT&PT trong xu thế hội nhập.
Hoạt động tín dụng hiểu rộng ra phải bao gồm cả các hoạt động bảo lãnh và cho thuê tài chính. Năm 2000 là năm thực hiện đổi mới cơ chế đầu tư và vay vốn đầu tư, việc ghi kế hoạch đầu tư chỉ còn lại những công trình chuyển tiếp. NHĐT&PTVN phảu chủ động tự tìm kiếm dự án để cho vay.
Nền kinh tế và đầu tư đang từng bước được phục hồi phát triển và tăng trưởng, nhu cầu vốn để công nghiệp hoá- hiện đại hoá đòi hỏi rất lớn để đáp ứng cho cho sự phát triển của các ngành theo chương trình mục tiêu và quy hoạch đến năm 2010 và 2020 đang tạo ra những tiền đề, những cơ hội, thời cơ thuận lợi và cũng là những thách thức cho hoạt động tín dụng NH.
Nhiều thành phần kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đang từng bước mở rộng và phát triển dẫn đến các DN và NH trong nước đang chịu sức ép cạnh tranh lẫn nhau không chỉ trong nước mà đối với cả các DN và NH nước ngoài để giành giật khách hàng, giành giật dự án, giành giật thị trường và thị phần ngày một quyết liệt.
Hoạt động tín dụng đòi hỏi phải tăng trưởng nhưng lại phải an toàn trong điều kiện tiềm lực kinh tế và tài chính của các DN và NH còn yếu, môi trường hoạt động kinh doanh đang thiếu hành lang pháp lý đảm bảo cho DN và NH có đủ sức cạnh tranh.
Từ đó đòi hỏi phải có định hướng chính sách tín dụng đúng đắn và phù hợp làm cơ sở để toàn ngành và các chi nhánh triển khai công tác tín dụng.
Chính sách tín dụng là trọng tâm kế hoạch kinh doanh, dịch vụ của NH và cũng từ đó đè ra các chính sách đối với NH nói riêng và hoạt động NH trong nền kinh tế thị trường nói chung, bao gồm:
- Chính sách huy động vốn.
- Chính sách lãi suất dịch vụ.
- Chính sách khách hàng.
- Chính sách đối với các vùng kinh tế trọng điểm.
- Chính sách đối với miền núi và Tây Nguyên.
- Chính sách đối với chương trình kinh tế lớn của nhà nước.
- Chính sách đối với dự án trọng điểm thuộc các ngành kinh tế, vùng, lãnh thổ, các công trình trọng điểm then chốt của trung ương và địa phương.
- Chính sách đối với sản xuất chế biến hàng xuất khẩu.
- Chính sách thu mua, dự trữ (lương thực, cà phê, cao su, mía đường...)
- Chính sách phục vụ khắc phục thiên tai, bão lũ.
- Chính sách tháo gỡ đối với các DN khó khăn tài chính tạm thời v. v. . .
Chính vì vậy, đứng vững và phát triển trong thương trường, tiến lên hay tụt hậu luôn luôn là thách thức thường xuyên liên tục, đối với mỗi người, mỗi bộ phận, mỗi công việc và với toàn hệ thống. Qua đây, toàn hệ thống NHĐT&PTVN, trước hết là các cán bộ chủ chốt từ hội sở chính đến các đơn vị thành viên nhận thức đầy đủ những thuận lợi cơ bản cũng như những khó khăn thách thức và cơ hội của đất nước, của ngành NH nói chung và của bản thân NHĐT&PTVN nói riêng. Nghiêm túc đánh giá những thách thức cơ bản đối với sự phát triển của toàn hệ thống: Sức cạnh tranh của sản phẩm còn yếu, chưa thực sự tạo được năng lực để đi vào thương trường và hội nhập. Trình độ năng lực và phong cách của cán bộ nhân viên còn cách xa so với yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập nhất là năng lực công nghệ đổi mới sản phẩm, mở rộng thị trường, quản trị NH theo đòi hỏi của luật pháp và thông lệ quốc tế.
3. 1. 2. Phương hướng hoạt động năm 2000.
Toàn hệ thống NHĐT&PTVN tiếp tục đổi mới phấn đấu thực hiện tốt các chỉ tiêu nhiệm vụ phát triển 3 năm (1999- 2001); tiếp tục thực hiện các định hướng chiến lược phát triển bền vững với các biện pháp và cơ cấu lại NH với các nội dung: Phát huy nội lực và truyền thống, đẩy mạnh đổi mới công nghệ và phát triển nguồn nhân lực để nâng cao năng lực tài chính, hiện đại hoá công nghệ mục tiêu sống còn của NHĐT&PTVN, cơ cấu lại tổ chức và hoạt động; đào tạo lại đội ngũ quản lý; tăng sức cạnh tranh sản phẩm, mở rộng thị trường nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống. Đồng thời, NH cũng phải đảm bảo an toàn hệ thống và tiếp tục tạo những tiền đề để thực hiện kế hoạch 5 năm (2001 - 2005). Kiên trì phát triển mạnh mẽ tổng công ty theo hướng tập đoàn. Quyết tâm giữ được ngành nghề truyền thống đáp ứng yêu cầu mới ngày càng cao hơn với phương châm hành động chất lượng tốt hơn, quy mô cao hơn.
3. 1. 3. Phương châm thực hiện.
Bước vào năm 2001 – năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới – với đầy khó khăn và thách thức của nền kinh tế, NHĐT&PTVN tiếp tục phát huy nội lực, những truyền thống đã đạt được dựa trên một trí tuệ tập thể, một tinh thần đoàn kết để hoàn thành tốt kế hoạch đã đặt ra, định hướng phát triển bền vững và hội nhập 1999 – 2001 để luôn luôn giữ vững vai trò chủ đạo trong lĩnh vực đầu tư và phát triển của đất nước. Chính vì vậy, NH đã đưa ra phương châm hoạt động của mình:
- Tranh thủ thời cơ thuận lợi để giữ vững và đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng, đáp ứng tốt nhất nhu cầu về vốn, dịch vụ của nền kinh tế, đồng thời tăng trưởng phải đặt trên cơ sở đảm bảo hiệu quả và an toàn hệ thống.
- Tập trung giải quyết những vấn đề cốt yếu để nâng cao một bước công nghệ NH, từng bước sắp xếp lại mạng lưới chi nhánh cơ sở và triển khai tổ chức đơn vị thành viên mới. Tăng cường đào tạo và đào tạo lại cán bộ, quản trị điều hành và nâng cao năng lực đối với cán bộ nghiệp vụ thực hiện để nâng cao năng lực hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường theo luật pháp. Đổi mới mạnh mẽ quản trị, điều hành để nâng cao hiệu lực, đảm bảo sự thống nhất và kỷ cương trong toàn bộ hệ thống.
- Tích cực tạo những tiền đề vững chắc cho phát triển bền vững NHĐT&PTVN bước vào thiên niên kỷ mới và chủ động hội nhập.
3. 1. 4 Các mục tiêu chủ yếu:
- Tổng tài sản nợ (Có) của NH tăng 23 – 25 % (so với năm 1999) đạt trên 46.000 tỷ đồng, trong đó tăng trưởng vốn huy động dân cư là 25%.
- Dư nợ tín dụng tăng 25 – 27%, đạt trên 32.000 tỷ đồng, trong đó tín dụng đầu tư phát triển tăng 27% đạt 18.000 tỷ đồng, dư nợ tín dụng trung – dài hạn là 55 – 60% trên tổng dư nợ tín dụng.
- Dư nợ bảo lãnh tăng 30%, tổng mức phí thực thu tăng 30% so với năm 2000.
Cho vay tài trợ xuất nhập khẩu: Từng bước đẩy mạnh hoạt động cho vay xuất khẩu, lựa chọn các điểm đột phá là các ngành hàng, gắn ngành hàng với tổng công ty có tiềm năng xuất khẩu. Tích cực tìm kiếm (gắn xuất khẩu với nhập khẩu) có chọn lọc kỹ lưỡng những dự án đầu tư có hiệu quả của các DN làm ăn uy tín để tài trợ bằng nguồn vốn hiệp định khung hoặc nguồn vốn trong nước. Đẩy mạnh các hoạt động tín dụng khắc phục cho tài trợ xuất khẩu trực tiếp như hàng xuất khẩu để trả nợ của Chính Phủ, hàng đổi hàng nghiệp vụ mua bán nợ.
Tăng trưởng lợi nhuận ròng trên 15%; thu nhập từ dịch vụ và kinh doanh tiền tệ trên thu nhập ròng tăng 20%.
- Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 25, trong đó nợ quá hạn tín dụng ngắn hạn dưới 1,5%; không phát sinh thêm nợ khó đòi từ các khoản cho vay từ năm 1998.
- Nguồn vốn và dư nợ tín dụng trung – dài hạn đầu tư phát triển từ 55% - 60% trong tổng tài sản.
- Bảo đảm các giới hạn an toàn trong kinh doanh tiền tệ theo quy định .
- Lợi nhuận trên tài sản có (ROA) 0,55, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) 10%.
- Về lao động tăng 15%, bảo đảm cơ cấu chung của ngành: 70% có trình độ đại học và trên đại học.
Về năng suất lao động ( chỉ tiêu lợi nhuận / đầu người) tăng 15 – 17%.
3. 2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng tại NHĐT&PTVN.
3. 2. 1. Giải pháp mang tính trực tiếp.
Xây dựng chiến lược kinh doanh.
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, hoạt động của hệ thống NHVN ngày càng trở nên sôi động và cạnh tranh gay gắt. Chính vì vậy, NHĐT&PTVN, cần xác định rõ mục tiêu, định hướng phát triển lâu dài các nguồn lực... để xây dựng chiến lược kinh doanh nhằm phát huy thế mạnh sẵn có của mình đó là lĩnh vực đầu tư và phát triển đặc biệt trong công nghiệp và xây dựng, đúng như tên gọi của NH.
Giữ vững và phát triển các khách hàng truyền thống, trước hết là các tổng công ty lớn, chủ động lựa chọn khách hàng tốt, dự án tốt để đầu tư đồng thời tích cực xác định những lĩnh vực trọng điểm, các khu vực kinh tế trọng điểm để tiếp tục mở rộng khách hàng, nâng thị phần.
Thiết kế chính sách và mô hình, mở rộng và đẩy mạnh các loại hình dịch vụ NH, tạo lập những hình thức dịch vụ mới để tăng thêm thị phần, doanh lợi và tạo được sự phong phú, đa dạng về sản phẩm dịch vụ, các hình thức phục vụ theo đúng chức năng của NHTM.
Đẩy mạnh tiếp thị mở rộng thị trường bằng việc đổi mới và nâng cao hiệu quả sản phẩm truyền thống, đáp ứng cao nhất nhu cầu vốn, dịch vụ NH cho khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế.
Tiếp tục thâm nhập vào thị trường vốn trong nước thông qua việc đúc rút và phát triển các giải pháp đã có thể tăng cường huy động vốn trung- dài hạn đi đôi với việc giữ và phát triển được nguồn vốn ngắn hạn hiện có. NH cần đẩy mạnh và đa dạng hoá các hình thức huy động vốn có giải pháp tăng cường thu hút tiền gửi của các khách hàng đặc biệt là các khách hàng có số dư tiền gửi lớn như: Tổng công ty điện lực, Tổng công ty dầu khí, Tổng công ty bưu chính viễn thông, các công ty xổ số kiến thiết... Nắm bắt những biến động của thị trường để có những biện pháp ứng phó thích hợp, đảm bảo khả năng thanh toán, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, thi công xây lắp của DN.
Có bước chuyển mạnh mẽ tín dụng đầu tư phát triển theo cơ chế thị trường trong khuôn khổ quy địng của pháp luật, bảo đảm cho vay thu được nợ, không để tăng nợ quá hạn, phát sinh thêm nợ khó đòi.
- Mở rộng kinh doanh tiền tệ trên thị trường liên NH trong nước và tích cực tham gia thị trường vốn trung- dài hạn trong nước.
3.2.1.2. Mở rộng hoạt động tín dụng
Đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư trung- dài hạn:
Đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư trung- dài hạn là một hoạt động rất cần thiết đối với NH, bởi lẽ thông qua hoạt động này NH sẽ phân tán được rủi ro, nâng cao hiệu quả tín dụng. Với thế mạnh là một NH chủ đạo trong lĩnh vực đầu tư và phát triển, NHĐT&PTVN có rất nhiều lợi thế trong việc cho vay các dự án đầu tư xây dựng, sản xuất kinh doanh. Song NHĐT&PT vẫn cùng phải tiếp tục điều chỉnh cơ cấu cho vay và đầu tư phù hợp với cơ cấu các thành phần kinh tế, đặc biệt với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Hiện nay, tỷ trọng cho vay trung- dài hạn đối với khu kinh tế này còn quá nhỏ bé và hình như ngày một thu hẹp bởi sự lo lắng về rủi ro đối với NH, vì thế mà nó đánh mất đi của NH một thị trường tiềm năng đầy triển vọng. Mặc dù cho vay đối với cac thành phần kinh tế này còn đòi hỏi rất cao và chặt chẽ nhưng không phải vì thế mà NH không cho vay ra, thờ ơ với khách hàng. NH cần phải làm tốt hơn nữa trong mối quan hệ này, phát triển nó thành một lĩnh vực triển vọng để NH khai thác, đồng thời cũng tạo điều kiện phát triển nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, việc mở rộng quan hệ tín dụng trung- dài hạn đối với thành phần kinh tế này là hết sức cần thiết. Muốn vậy:
Trước hết phải xoá bỏ mặc cảm đối với thành phần kinh tế tư nhân, đối xử thật bình đẳng với họ. Muốn mở rộng thị trường đầu ra NHĐT&PTVN phải vươn tới thành phần này, phải có chính sách, thể lệ tín dụng rõ ràng nhằm thu hút khách hàng, tăng sức cạnh tranh đối với NH khác.
Thứ hai, khi cho vay khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, NH phải thực sự linh hoạt, nhạy bén, biết nhìn nhận đâu là khách hàng đáng tin cậy, đồng thời phân tích xem khách hàng nào có khả năng trả được nợ, khách hàng nào không có khả năng trả được nợ để có biện pháp xử lý kịp thời.
Ngoài ra, NH cũng có thể áp dụng một số hình thức khác để đa dạng hoá các khoản cho vay trung- dài hạn của NH như: thuê mua, cho vay thấu chi, cho vay theo hạn mức tín dụng. . . .
Tuy nhiên, song song với việc đa dạng hoá các hình thức cho vay trung- dài hạn, NH phải luôn luôn chú ý coi trọng hiệu quả các khoản vay. Bởi lẽ, nếu đa dạng hoá các khoản vay mà không nâng cao được hiệu quả các khoản vay thì không những NH không nâng được mức doanh lợi lên mà còn gây nên những thiệt hại cho bản thân NH.
Trong điều kiện của kinh tế của Việt Nam hiện nay, môi trường kinh doanh nói chung và tín dụng NH nói riêng còn có nhiều bất chắc, rủi ro hoạt động của các DN còn thiếu ổn định. Vì vậy, cho vay trung- dài hạn bằng tiền chỉ áp dụng cho DN làm ăn hiệu quả, tình hình tài chính vững vàng, dự án khả thi, có tài sản thế chấp để đảm bảo an toàn kinh doanh trong hoạt động kinh doanh của NH.
Tăng cường hoạt động Marketing NH tại NHĐT&PTVN.
Trong nền kinh tế thị trường, đối với bất kỳ hoạt động kinh doanh nào, đặc biệt là loại hình kinh doanh dịch vụ thì việc chính sách Marketing là hết sức cần thiết. Thông qua chính sách này, NH có những cơ hội đầu tư hơn, hoạt động tín dụng ngày càng được mở rộng hơn. 00Vì vậy trong thời gian tới, NHĐT&PT nên đẩy mạnh công tác Marketing trong hệ thống NH, tổ chức các hội nghị khách hàng, tuyên truyền sâu rộng hơn về NHĐT&PTVN và lợi ích của khách hàng khi đến vay vốn tại NH. Muốn thu hút được nhiều khách hàng, NH cần có những chính sách chiến lược cụ thể:
- Đa dạng hoá sản phẩm, thường xuyên tìm kiếm các dịch vụ mới để phục vụ khách hàng tốt hơn, thực hiện nhanh chóng, chính xác các biện pháp nghiệp vụ để tạo hình ảnh tốt về NH.
- Có chính sách lãi suất hợp lý giúp cho khách hàng thấy rằng việc vay tiền của NH là có lợi so với các NH khác.
- Thường xuyên nghiên cứu, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, sự biến động của thị trường để nắm bắt được tâm lý, tìm hiểu về những khó khăn của khách hàng từ đó tìm hiểu những ứng xử đúng đắn.
- Thường xuyên phân loại khác hàng xem ai là khác hàng truyền thống, ai là khách hàng mới, áp dụng những nguyên tắc ứng xử khác đối với từng loại khách hàng để hiệu quả công việc là cao nhất
- Cung ỡƠÁ G ¿ ~O bjbjŽÙŽÙ 4ỵ ỡ³ ỡ³ ậJ ô ÿÿ ÿÿ ÿÿ ] ỵ ỵ ỵ ỵ F F F F 8 ~ 4 ỡƠÁ G ¿ ~O bjbjŽÙŽÙ 4ỵ ỡ³ ỡ³ ậJ ô ÿÿ ÿÿ ÿÿ ] ỵ ỵ ỵ ỵ F F F F 8 ~ 4 mở rộng quan hệ với khách hàng, nhiệt tình giúp đỡ khách hàng. Thực hiện tốt công tác này; NH sẽ biến những cán bộ tín dụng của mình thành một nhân viên Marketing, thu hút khách hàng cho mình.
Giải pháp này có tầm quan trọng đặc biệt trong xu thế phát triển mới của nền kinh tế đất nước. Do sự cạnh tranh của NHTM trong nước và đặc biệt là các NHTM nước ngoài đòi hỏi NH phải chú trọng đến chính sách Marketing này, nếu bỏ qua nó thì NH không những không thu hút được lực lượng khách hàng mới mà còn khó có thể giữ được khách hàng cũ.
Đơn giản hoá những thủ tục cho vay
Việc thực hiện đầy đủ các thủ tục pháp lý là yêu cầu hết sức cần thiết và nó có thể đảm bảo phần lớn cho hiệu quả của các khoản tín dụng. Song khách hàng đi vay vốn bao giờ cũng ngại những thủ tục xét duyệt rườm rà, phiền hà cho khách hàng đi đến giao dịch, đây là một vật cản rất lớn thường gây tâm lý e ngại cho khách hàng. Chính vì vậy mà:
- Đối với NH: Đơn giản hoá hồ sơ xin vay, thống nhất các mẫu biểu và thực hiện nhanh chóng các thủ tục này. Một số thủ tục NH có thể làm thay cho khách hàng vì NH sẽ thực hiện nhanh hơn, đỡ tốn kém thời gian và có thể giành thời gian nhiều vào công tác thẩm định, kiểm tra, giám sát thực tế. Đối với những bộ hồ nào sơ trùng lặp có thể bỏ bớt đi như Chẳng hạn đối với khách hàng quen thuộc đã từng vay vốn ngắn hạn nhiều lần thì có thể bỏ bớt đi báo cáo thực trạng tài chính DN, báo cáo quyết toán của DN kế tiếp hai năm trước.
NH cũng nên phối hợp với phòng công chứng Nhà nước, trở thành đơn vị thường xuyên giao dịch với công chứng để có thể giúp NH chứng thực các loại các giấy tờ pháp lý có liên quan nhanh chóng, chi phí thấp , có độ chính xác cao.
- Đối với khách hàng: Khách hàng nên cung cấp một cách trung thực những thông tin hay tình hình hoạt động kinh doanh của DN khi NH yêu cầu. Hồ sơ xin vay của khách hàng phải rõ ràng, ngắn gọn chính xác để NH dễ dàng phân tích đánh giá.
Sử dụng biện pháp huy động nguồn vốn nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng.
Trong chiến lược ổn định và phát triẻn kinh tế- xã hội đến năm 2000. Đảng ta đã chỉ rõ: “ Chính sách tài chính quốc gia hướng việc tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, điều tiết quan hệ tích luỹ, tiêu dùng theo hướng nâng dần tỷ lệ tích luỹ...” NHĐT&PTVN phục vụ chủ yếu trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước nên luôn coi tạo vốn là khâu mở đường, tạo một mặt bằng vốn vững chắc ngày càng tăng trưởng, việc đa dạng hoá các hình thức, các biện pháp, các kênh huy động vốn từ mọi nguồn trong nước và nước ngoài. Ngoài ra lợi nhuận nó mang lại chiếm 50%- 60% tổng lợi nhuận của NH. Chính vì vậy, huy động nguồn vốn nào với chi phí thấp nhất luôn là vấn đề NH quan tâm. Trong đó NH luôn coi nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọnh trên cơ sở đầu ra có hiệu quả an toàn.
Để tăng cường vốn trong nước, NH phải hoàn thiện thị trường tiền tệ ngắn hạn. Thị trường tiền tệ ngắn hạn có tác dụng gián tiếp hỗ trợ việc triển khai chiến lược vốn và ổn định được nhu cầu vốn ngắn hạn sẽ tạo điều kiện cho các DN phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy quá trình tích luỹ, tích tụ tập trung vốn tự nhiên. Nhờ đó NH cũng sẽ có thêm nhiều cơ hội đầu tư vốn trung- dài hạn. Muốn vậy NH cần giải quyết những vấn đề sau:
- Tiến hành những chương trình thu hút vốn của dân cư và các DN thông qua việc mở nhiều loại tài khoản Sec, tài khoản tiền gửi hưu trí, bảo hiểm, tiền gửi các tổ chức xã hội và phát hành các đợt trái phiếu. Điều này NHĐT đã rất thành công qua đợt phát hành trái phiếu 1.200 tỷ đồng vào năm 1998.
- Từng chi nhánh trong hệ thống NH cần phải có mục tiêu biện pháp tăng thị phần huy động vốn của chi nhánh trên địa bàn, có những hình thức huy động vốn phù hợp, mức lãi suất linh hoạt theo từng loại huy động và kỳ hạn căn cứ diễn biến lãi suất trên từng địa bàn. Thực hiện các chính sách khuyến khích NH trong huy động vốn có chính sách thoả đáng với NH truyền thống.
- NH cũng phải tăng cường tìm kiếm các nguồn tài trợ uỷ thác của các Chính Phủ, tổ chức kinh tế, tổ chức phi Chính Phủ đối với các dự án phát triển kinh tế, văn hoá- xã hội trong nước.
Đồng thời NH cũng cần khai thác các nguồn vốn nước ngoài với mức lãi suất ưu đãi như các nguồn cuả ODA. . .
Bên cạnh đó NHĐT&PTVN cần khai thác triệt để và làm tốt chức năng NH đại lý, NH phục vụ để tiếp nhận ngày càng nhiều vốn trung- dài hạn từ các quỹ, các tổ chức quốc tế, các Chính Phủ và phi Chính Phủ cho đầu tư và phát triển, mở rộng huy động vốn nước ngoài bằng việc đẩy mạnh tài trợ xuất khẩu, vay hợp vốn... để đảm bảo 50% vốn cho vay dài hạn.
Việc huy động nguồn vốn trung- dài hạn giúp NH có thể lựa chọn và quyết định cho vay những dự án có hiệu quả nhưng thời hạn thu hồi vốn dài, tránh tình trạng do nguồn vốn ngắn hạn, NH phải rút ngắn thời hạn cho vay không phù hợp với thời gian hoàn vốn của dự án dẫn đến phải gia hạn nợ hay nợ quá hạn.
3.2.1.4. Hoàn thiện quy chế chính sách, trình tín dụng, tổ chức hợp lý và khoa học quy trình cho vay:
Cơ chế nghiệp vụ có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của NH cũng như sự phát triển kinh tế. Vì vậy, cần sửa đổi kịp thời hoặc bãi bỏ những cơ chế không còn phù hợp gây ách tắc hay còn nhiều sơ hở trong quản lý hay để tạo điều kiện thông thoáng trong hoạt động tín dụng của NH
Cần nghiên cứu ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn về quy trình , thao tác nghiệp vụ tín dụng phù hợp với từng loại cho vay, từng nhóm khách hàng.
NH cần xây dựng quy trình xét duyệt cho vay theo nguyên tắc đảm bảo tính độc lập và phân định rõ trách nhiệm cá nhân trách nhiệm liên đới khâu thẩm định, quyết định cho vay. Tại các chi nhánh nên thành lập một phòng thẩm định có nghiệp vụ về kiểm tra, thẩm định về khách hàng, dự án phương án vay vốn đối với những khách hàng, dự án, khoản vay mới để trình Hội đồng tín dụng hay ban giám đốc ra quyết định cho vay. Sau khi có quyết định cho vay mới chuyển hồ sơ sang phòng tín dụng để thực hiện việc giải ngân, kiểm tra, thu nợ. . .
Trong công tác cho vay, đặc biệt là đối với các dự án lớn, cần phải tiến hành các bước sau:
- Quá trình thẩm định dự án: Phân tích đánh giá về khách hàng, dự án, khoản vay.
- Giám sát khách hàng vay: Thực hiện kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay một cách chặt chẽ, kịp thời.
- Thu nợ: Thực hiện theo sát, nắm chắc khách hàng, nguồn thu để thực hiện thu hồi nợ vay đầy đủ, đúng hạn.
Quá trình thẩm định là giai đoạn khởi đầu có tính chất quyết định đối với sự an toàn của khoản vay, mức độ an toàn của khoản vốn vay phụ thuộc nhiều vào việc xem xét hồ sơ vay vốn, đánh giá khách hàng và tình hình sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính lành mạnh; đánh giá tính khả thi của dự án cho vay kèm theo xem xét đánh giá tài sản đảm bảo nợ vay để từ đó đưa ra quyết định cho vay hay không.
Quá trình giám sát người vay sử dụng đồng tiền cho vay như thế nào có tính chất quyết định giúp NH có thể định lượng cũng như kịp thời phát hiện các rủi ro có thể xảy ra đối với mình. Việc giám sát có thể thực hiện dưới nhiều hình thức như kiểm tra việc sử dụng vốn vay, xem xét quá trình tiền vay được chuyển đi đâu, trả cho ai, kiểm tra vật tư tài sản đảm bảo nợ vay, kiểm tra tài chính DN dưới nhiều hình thức như kiểm tra báo cáo tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh thực tế, kiểm tra về khả năng chi trả thanh toán của DN để từ đó NH có những giải pháp kịp thời ứng phó trước khi có rủi ro xảy ra.
Quá trình thu nợ và thanh lý nợ là một khâu rất quan trọng, có tính chất quyết định đến sự tồn tại của NH, NH có thể thu hồi nợ trước thời hạn nên thấy khoản nợ có vấn đề, có những khả năng dẫn đến sự tổn thất cho nhà NH, hay NH phải áp dụng những biện pháp xiết nợ buộc NH phải thanh toán nợ đúng hạn.
3.2.1.5. Vấn đề tài sản bảo đảm tiền vay.
Tài sản bảo đảm nợ vay là một biện pháp quan trọng trong quá trình cho vay của NH. Nó tạo cơ sở pháp lý giúp cho NH có khả năng thu hồi nợ vay một khi khách hàng không có khả năng trả nợ, giúp giảm tối đa sự thiệt hại khi có rủi ro xảy ra.
Chúng ta không phủ nhận vai trò giúp ích tích cực của NH nhưng không vì thế mà chúng ta lại tuyệt đối hoá vai trò của nó trong cơ chế tín dụng hiện nay. Mục đích của cho vay trước tiên phải là giúp khách hàng có vốn để duy trì hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh, mang lại hiệu quả kinh tế cho khách hàng, cho xã hội nhưng phải đảm bảo cho vay thu được nợ cả gốc và lãi vay chính là đảm bảo an toàn và hiệu quả cho chính bản thân NH. Đặc biệt, đối với NHĐT&PTVN – NH chủ yếu phục vụ trong lĩnh vực đầu tư và phát triển, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Khi phải mang tài sản cầm cố thế chấp ra phát mại thì mọi chuyện đã rõ ràng: sản xuất khách hàng thua lỗ, vốn đã mấtvà quan hệ giữa khách hàng với NH đã chấm dứt. Mặt khác, không phải tài sản thế chấp nào cũng có thể bán ra một cách dễ dàng để NH thu nợ kịp thời, đặc biệt đó là tài sản cầm cố, thế chấp cùa DN Nhà nước, thực tế hiện nay việc phát mại tài sản là rất khó thực hiện.
Hiện nay, theo nghị định về bảo đảm tiền vay 178/1999/NĐ - CP ngày 29/12/1999 của Chính Phủ, có đưa ra nhiều hình thưc bảo đảm khác nhau như: cầm cố, thế chấp tài sản của khách hàng vay vốn, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba, bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, cho vay không có bảo đảm bằng tài sản,bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị xã hội cho cá nhân vay vốn.
Việc thu nợ bằng tài sản cầm cố, thế chấp không phải là biện pháp tốt nhất nhưng nó cũng giúp NH phần nào giải quyết được những thiệt hại khi có rủi ro xảy ra. Vì vậy, tôi thiết nghĩ:
- Tài sản bảo đảm là biện pháp cuối cùng và cơ sở pháp lý của NH trong việc thu hồi khoản nợ vay khi gặp rủi ro bất khả kháng, do đó NH cần thực hiện nghiêm túc về thủ tục thế chấp trong quá trình cho vay. Giải pháp này gắn liền với việc nâng cao năng lực công tác và phẩm chất đạo đức của người cán bộ tín dụng. Việc nâng cao năng lực cán bộ tín dụng trong việc thẩm định dự án, đánh giá lại tài sản thế chấp... cũng là một biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng NH, tránh tình trạng đánh giá quá cao hoặc không đúng thực tế giá trị tài sản thế chấp khiến cho việc phát mại tài sản khi có rủi ro xẩy ra sẽ không thể bù đắp nổi thiệt hại của NH hoặc tài sản không có khả năng phát mại.
- Hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh hoặc dự án đầu tư và khả năng vay trả được nợ được nợ củaNH mới là điều kiện tiên quyết để NH quyết định cho vay vốn, vì vậy không phải khách hàng nào cũng đòi hỏi tài sản thế chấp thì NH mới cho vay, vì vậy cần phải “Trông mặt mà bắt hình dong”. Tất nhiên việc “trông mặt” phải bao gồm việc xem xét thẩm định kỹ lưỡng của NH đối với hiệu quả kinh tế của dự án, khả năng quản lý, khả năng tài chính mối quan hệ tín nhiệm trong vay trả nợ...Tất cả những điều ấy sẽ cho NH nhìn thấy bao quát và xây dựng được một chân dung khách hàng hoàn chỉnh để đưa ra quyết định đúng đắn với mức độ rủi ro thấp nhất.
Vì vậy, vấn đề chính trong việc NH quyết định cho vay đối với một khách hàng không phải ở chỗ khách hàng có tài sản cầm cố, thế chấp hay không.
3.2.1.6. Ngăn ngừa các khoản vay dẫn đến nợ quá hạn
Trong số các khoản cho vay đôi khi các NHTM gặp phải một số khoản cho vay có rủi ro thất thoát lớn hơn dự đoán ban đầu, hoặc rủi ro lớn hơn mức mà NH chấp nhận được, khoản cho vay loại này trở thành một khoản cho vay có vấn đề (một khoản cho vay có vấn đề là khoản cho vay mà thoả thuận hoàn toàn bị đổ vỡ lớn, gây ra một sự chậm trễ bất hợp lý trong việc thu hồi nợ của NH, trong đó dường như cần phải có hành động pháp lý để thực hiện thu hồi hoặc trong một khoản vay đó dường như có khả năng thất thoát gặp nhiều khó khăn). Muốn tránh những tổn thất bất hợp lý thì cán bộ tín dụng phải xác định được ngay lập tức khi các khoản vay có vấn đề, nếu không tình hình sẽ trở nên xấu hơn tới mức không còn có giải pháp nào khác ngoài việc chấp nhận lỗ hoặc mất. Nếu có thể thực hiện được các biện pháp sửa chữa thích hợp thì nguyên nhân, mức độ của vấn đề cũng phải được xác định và giải quyết.
Đối với những khoản vay dẫn đến nợ quá hạn mà nguyên nhân chính của nó là do những nguyên nhân khách quan, nằm ngoài tầm kiểm soát của DN như thời tiết, thiên tai, bệnh tật, chết chóc hoặc nguyên nhân chủ quan có thể sửa chữa được thì NH có thể áp dụng một số biện pháp sau: Gia tăng khối lượng khoản cho vay đối với đối với các DN có phương án phục hồi sản xuất có tính khả thi cao. Giải pháp này chỉ thực sự có hiệu quả khi mà cả NH và DN cùng nỗ lực vực DN đi lên néu không sự gia tăng các khoản cho vay của NH càng làm cho món nợ của DN mất khả năng thanh toán và khi đó rủi ro của NH càng lớn càng lớn.
- NH có thể kêu gọi người bảo lãnh cho DN như các cổ động viên chủ chốt, người cung ứng hay tiêu thụ sản phẩm hoặc một vài người cho vay dài hạn.
- Đề nghị người vay giảm bớt kế hoạch phát triển dài hạn để tăng cường vốn kinh cho doanh.
- Cán bộ NH có thể tư vấn cho DN trong việc tìm ra chiến lược kinh doanh mới. Việc làm này không chỉ giúp cho DN có thể thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng mà còn thắt chặt sự thân thiết trong quan hệ NH- khách hàng.
- Trong thực tế thời gian qua, những biện pháp trên đây đã và đang được NH áp dụng một cách có hiệu quả. Những biệ pháp này, có thể gây thêm chi phí cho NH nhưng thiết nghĩ nếu so chi phí này với những khoản tín dụng mà không có khả năng thanh toán thì nó cũng chỉ là “muối bỏ bể” mà thôi.
Đối với những khoản vay dẫn tới nợ quá hạn mà nguyên nhân ở đây là chủ quan không sửa chữa được mang tính chất lừa đảo như: DN cung cấp sai về tình hình tài chính, mục đích khoản vay và khả năng hoàn trả của mình nhằm rút vốn của NH thì NH phải ngay lập tức dừng lại các khoản vay đó, tiến hành thu nợ trước thời hạn ngay để tránh những rủi ro xảy ra đối với NH.
3.2.1.7. Các biện pháp sử lý các khoản vay nợ quá hạn.
Đối với các khoản vay mà sau khi đã phát hiện và thực hiện các biện pháp ngăn ngừa nhưng không có tác dụng vẫn dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi, khi đó NH cần thực hiện các biện pháp như:
Biện pháp khai thác:
áp dụng biện pháp này để xử lý các khoản cho vay có vấn đề có thể mô tả như một chương trình phục hồi để áp đặt lên người vay với sự thoả thuận và cộng tác của họ. Đây không phải là công cụ pháp lý, mà có thể NH hướng dẫn cho người đi vay trên nhiều khía cạnh nhằm tác động đến khả năng tạo ra và thu được lợi nhuận như: đối với DN, NH có thể khuyên thực hiện lại một chương trình mở rộng sản xuất, cải tiến phương thức bán, tăng thêm sản phẩm mới, hoặc loại bỏ một số hoạt động không sinh lợi hay không có viễn cảnh sáng sủa...Tất cả được hoạch định để giảm bớt chi phí, tăng doanh số bán ra và lợi nhuận, như vậy, tăng khả năng trả nợ của người vay, giảm bớt được rủi ro cho NH.
- NH giúp DN thu hồi các khoản công nợ từ các DN khác có quan hệ với NH để tạo thêm nguồn trả nợ cho khách hàng.
- NH đề nghị người vay quản lý chặt chẽ ngân quỹ, khuyên bán nốt tài sản có giá trị, giảm lượng hàng tồn kho, thanh lý bứt tài sản không sử dụng...
- Nếu do nguyên nhân về thiên tai, tai nạn, trộm cắp... người vay không thể trả được nợ cũng như trả được một phần cho NH thì NH có thể xem xét ra hạn hoặc điều chỉnh hợp đồng cho vay tương ứng với các kỳ hạn có thể thu được lợi nhuận của khách hàng.
- NH cũng có thể điều chỉnh hợp đồng tín dụng, giảm quy mô hoàn trả trước mắt hoặc cho vay tiếp vốn để tăng sức mạnh về tài chính của khách hàng, khôi phục sản xuất kinh doanh. NH có thể giãn nợ cho DN, tức là kéo dài thời hạn trả nợ (tối đa không quá 12 tháng), nếu không thể ra hạn được thì chưa chuyển sang nợ quá hạn hoặc tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng vốn hoặc khách hàng bổ sung thêm tài sản thế chấp, cầm cố thì bổ sung thời hạn cho vay. Thời hạn này, chỉ áp dụng cho những khách:
+ Đang còn hoạt động sản xuất kinh doanh có nguồn thu nhập và có khả năng trả nợ.
+ Có thiện chí trả nợ, trong quá trìng sử dụng vốn đã trả được một phần nợ gốc, trả lãi hàng tháng đều đặn.
+Tài sản thế chấp, cầm cố thuộc sở hữu hợp pháp của khách hàng, dễ phát mại.
Biện pháp thanh lý tài sản thế cháp
Trong trường hợp NH thấy rõ việc tổ chức khai thác là không tiện lợi , không có hy vọng thu hồi được nợ thì NH sẽ áp dụng biện pháp thanh lý để sử lý các khoản nợ cho vay khó đòi. Biện pháp thanh lý được thực hiện khi người đi vay không sẵn lòng chi trả, có hành động lẩn trốn, lừa đảo, tình trạng tài chính là vô vọng. Thật ra, biện pháp thanh lý là không nhân đạo đối với người vay hay người bảo lãnh nhưng NH vẫn phải tiến hành, coi nó như cứu cánh cho sự tồn tại của mình.
- Nếu là các khoản cho vay có thế chấp hoặc đảm bảo, NH cùng chuyên gia tư vấn pháp luật, nhân viên thanh lý thực hiện bán đấu giá các tài sản đó theo pháp luật hiện hành.
- Nếu các khoản cho vay không có thế chấp, đảm bảo thì NH phải chờ sự phán quyết của toà án kinh tế mới có biện pháp thu hồi vốn như bán taì sản của người vay. Nếu người vay không có tài sản thì kết quả đòi nợ vô hiệu hoá hoặc người vay phải thụ án dân sự.
Việc áp dụng phương pháp nào là phụ thuộc vào các yếu tố như : khả năng chi trả của khách hàng; thái độ của khách hàng đối vơi các khoản đi vay; thái độ của các chủ nợ; các chi phí cho việc thu hồi nợ.
3.2.1.7 Các biện pháp phân tán rủi ro
Trên thực tế, có rất nhiều các loại rủi ro khác nhau mà các nhà quản lý tín dụng không thể lường trước được. Các rủi ro này xuất phát từ các nguyên nhân khác quan như: thiên tai, hoả hoạn, kinh tế, chính trị... hay những nguyên nhân chủ quan (từ phía khách hàng) như: lừa đảo, chiếm dụng vốn, thông tin không trung thực... Vì vậy, NH phải có các biện pháp thích hợp để hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất. Có thể áp dụng một số biện pháp sau:
Tránh dồn vốn:
NH nên đầu tư vào nhiều các dự án khác nhau. Tránh đấu tư tập chung vào một hay một số ít khách hàng, nhất là những khách hàng sản xuất kinh doanh những sản phẩm hàng hoá không mang tính thiết yếu, sản xuất những mặt hàng Nhà nước không khuyến khích, nhu cầu, năng lực cạnh tranh không ổn định, trong quá trình sản xuất kinh doanh dễ gặp rủi ro. Không đầu tư quá nhiều để sản xuất kinh doanh một loại sản phảm hàng hoá.
Liên kết đầu tư ( cho vay hợp vốn):
Có thể hạn chế, phân tán rủi ro bằng cách liên kết các NH với nhau để cùng đầu tư vào một dự án lớn nào đó mà một NH không thể đáp ứng được vì nhu cầu vay vốn quá lớn hoặc bị ràng buộc bởi Luật NH: “ không được cho vay một DN quá 15% vốn tự có của NH” trong cho vay hợp vốn, các NH phải cùng nhau ký kết hợp đồng đầu tư, thoả thuận rõ trách nhiệm, quyền hạn của mỗi bên trong hợp đồng đầu tư. Do đó, nếu có rủi ro xảy ra thì sẽ không ảnh hưởng lớn hơn đến hoạt kinh doanh của mỗi NH.
Tham gia bảo hiểm tín dụng:
Là một giải pháp mang tính nguyên tắc cần phải có trong kinh doanh tín dụng. Biện pháp này được áp dụng phổ biến ở các nước phát triển, nhưng ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay hoạt động bảo hiểm tín dụng chưa được áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên, chúng ta vẫn đề cập tới một số hình thức bảo hiểm tín dụng:
- Khách hàng vay vốn tín dụng, tham gia mua bảo hiểm ngành nghề mà họ kinh doanh hoặc mua bảo hiểm cuả tài sản vay. Vì vậy, những khoản tín dụng trong trường hợp này coi như cùng được bảo hiểm một cách gián tiếp. Phương pháp này không phát sinh thao tác nghiệp vụ cho NH. Để sử dụng tốt hình này, về phía NH cần có những chính sách ưu tiên về vốn cho vay, lãi xuất đối với các DN, cá nhân mua bảo hiểm.
- Sử dụng biện pháp bảo lưu, có nghĩa là NH tự bảo hiểm cho mình bằng cách lập quỹ dự phòng để bù đắp rủi ro tín dụng, từ đó hạn chế được những hậu quả xấu. Khi có rủi ro xảy ra, NH chủ động nguồn để bù đắp. Quỹ dự phòng sẽ càng lớn qua các năm và khả năng bù đắp của nó lại càng lớn.
- Ngoài ra, để đảm bảo khi rủi ro xảy ra vẫn có nguồn để bù đắp cho những khoản tiền gửi huy động, NH trực tiếp bảo hiểm tiền gửi của các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp. ở nước ta hiện nay, chưa có tổ chức nào thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi nên câu hỏi đặt ra là NH sẽ mua bảo hiểm ở đâu. Để giải quyết vấn đề này, giải pháp nêu ra là thành lập một tổ chức bảo hiểm tiền gửi thuộc Chính Phủ. Bảo hiểm tiền gửi cũng là một biện pháp tích cực hỗ trợ phòng chống rủi ro tín dụng, bảo đảm uy tín và sự bền vững của NH.
3.2.1.9. Nâng cao chất lượng thông tin phòng ngừa rủi ro.
Một trong những nguyên nhân gây nên rủi ro trong công tác cho vay của NH nói chung là sự thiếu thông tin một cách chính xác từ người vay, từ thị trường và từ dự án. Vì vậy, vấn đề thông tin và xử lý thông tin là vấn đề đặc biệt quan trọng trong hoạt động đầu tư để giảm bớt rủi ro, để tìm đến những khách hàng chắc chắn và có hiệu quả nhất. Do vậy, muốn nâng cao hiệu quả tín dụng thì NH cũng cần phải nâng cao chất lượng của thông tin.
NH cần thực hiện triệt để việc khai thác thông tin từ nhiều nguồn kết hợp, từ DN, từ bạn hàng của DN, từ trung tâm phòng ngừa rủi ro của NH Nhà nước, từ cơ quan pháp luật từ các NH bạn, tránh tình trạng thông tin không cân xứng.
NH phải cử cán bộ có năng lực chuyên môn nghề nghiệp phụ trách theo dõi kiểm tra từng khách hàng, từng khoản vay. Thường xuyên nắm bắt thông tin về mọi mặt của DN, từ tổ chức cán bộ, quản lý điều hành,đến tình hình tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh... để có biện pháp xử lý kịp thời với các rủi ro có thể xảy ra từ phía DN.
NH cần hiện đại hoá công nghệ để nâng cao hiệu quả hoạt động của phòng thông tin phòng ngừa rủi ro. Trang bị thêm nhiều máy móc thông tin, hệ thống vi tính nối mạng trong toàn ngành và nối mạng với các NH bạn để có thể truy cập tìm kiếm thông tin một cách nhanh nhất.
3.2.1.10. Thiết lập quỹ dự phòng bù đắp rủi ro.
Rủi ro trong hoạt động NH bao gồm nhiều lĩnh vực: rủi ro về tỷ giá, rủi ro trong thanh toán, rủi ro trong hoạt động tín dụng... trong đó rủi ro trong hoạt động tín dụng được quan tâm đặc biệt. Quá trình đầu tư cho nền kinh tế phát triển đòi hỏi nhu cầu vốn lớn, thời hạn dài nên rủi ro dễ xảy ra. Thiết lập quỹ dự phòng bù đắp rủi ro của NHĐT&PTVN là rất cần thiết.
Đây là vấn đề các NH quan tâm từ nhiều năm nay nhưng do chưa có các quy định cũng như cơ chế tài chính để thực hiện. Hiện nay, Thống đốc NH Nhà nước Việt Nam đã ban hành quy định về phân loại tài sản có, trích lập và sử dụng dự phòng và xử lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng tại quyết định số 488/2000/QĐ - NHNN5 ngày 27/11/2000 do đó NH sẽ chủ động hơn trong việc xử lý bù đắp rủi ro của mình.
Để thiết lập quỹ dự phòng rủi ro một cách thích hợp và có hiệu quả, người ta thường phân loại các khoản vay theo 4 nhóm:
- Nhóm 1: Các khoản vay bình thường, chưa đến kỳ hạn trả nợ và chưa có dấu hiệu của nợ quá hạn. Nhóm này không cần phải trích dự phòng rủi ro.
- Nhóm 2: Các khoản vay có bảo đảm quá hạn dưới 180 ngày hoặc không có bảo đảm quá hạn trả nợ dưới 90 ngày, những khoản chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn; số tiền trả thay cho người được bảo lãnh đã quá hạn thanh toán dưới 30 ngày, những khoản cho thuê tài chính chưa trả được tiền thuê trong thời gian 180 ngày.
- Nhóm 3: Các khoản có bảo đảm quá hạn từ trên 180 ngày đến dưới 360 ngày, hoặc không có bảo đảm quá hạn từ trên 90 ngày đến dưới 180 ngày, những khoản chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá ngắn hạn; số tiền trả thay cho người được bảo lãnh đã quá hạn thanh toán từ 30 đến dưới 90 ngày.
- Nhóm 4: Các khoản vay có bảo đảm quá hạn từ 360 ngày trở lên hoặc không có bảo đảm quá hạn từ 180 ngày trở lên, những khoản chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn; số tiền trả thay cho người được bảo lãnh đã quá hạn thanh toán từ 90 ngày trở lên.
Căn cứ vào phân loại các khoản vay như trên, NH có thể trích lập quỹ bù đắp rủi ro cho các khoản nợ quá hạn đủ điều kiện theo pháp luật quy định.
Hiện nay, các chi nhánh NHĐT&PT còn chưa mạnh dạn trích quỹ dự phòng bù đắp rủi ro hoặc trích không đáng kể vì sợ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh dẫn đến vẫn để tình trạng nợ quá hạn kéo dài mà DN đó là ai và hiệu quả sử dụng vốn như thế nào?
3. 2. 2. Giải pháp mang tính hỗ trợ
Từng bước chuẩn hoá cán bộ, đẩy mạnh công tác đào tạo, có danh sách đãi ngộ đối với cán bộ tín dụng
Vai trò con người trong công cuộc phát triển của nền kinh tế- xã hội nói chung và ngành NH nói riêng là không thể phủ nhận. Thực tế đã cho thấy rằng, nếu một NH nào có đội ngũ cán bộ nhanh nhạy, sáng tạo trong công việc, có trách nhiệm tinh thần tập thể, vì lợi ích của NH thì NH đó chắc chắn có thể đứng vững và phát triển trước những sóng gió của kinh tế thị trường khắc nghiệt. Đối với NHĐT&PTVN tuy những năm qua đã bổ sung nhiều cán bộ trẻ song với nhu cầu hoạt động của NH trong nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới thì khả năng tiếp thị cũng như phong cách giao dịch còn nhiều khả năng bộc lộ nhiều điểm chưa đáp ứng nhu cầu. Đôi khi các cán bộ NH chưa đáp ứng được quyền lợi sát sườn của họ đối với sự phát triển của hệ thống NH.
Con người là yếu tố quyết định trong việc quản lý an toàn vốn tín dụng. Do đó, để hạn chế rủi ro trong kinh doanh, NH đòi hỏi phải tiêu chuẩn hoá cán bộ trong và những người lãnh đạo công tác này vì tín dụng là mặt trận hàng đầu trong hoạt động của NH. Tiêu chuẩn hoá cán bộ tín dụng đòi hỏi người cán bộ phải có trình độ nghiệp vụ, năng lực công tác, phẩm chất đạo đức tốt, nhạy bén, có khả năng nắm bắt và xử lý thông tin kịp thời, có ý thức trách nhiệm và kiên định.
Để có một đội ngũ cán bộ tín dụng như vậy. NH phải quan tâm đến công tác đào tạo cán bộ tín dụng. Thường xuyên tổ chức tập huấn, đào tạo nghiệp vụ nhằm góp phần năng cao trình độ chuyên môn, đặc biệt chú trọng về khả năng phân tích, thẩm định phân tích kết quả kinh doanh và tình hình sử dụng vốn vay. NH thường xuyên cử cán bộ sang tham quan, học hỏi kinh nghiệm của các NH trong và ngoài nước trong các lĩnh vực liên quan đến tín dụng, ngoài những kiến thức về chuyên môn, đòi hỏi người cán bộ cũng phải am hiểu về pháp luật, ngoại ngữ để phục vụ tốt cho công việc của mình, NH cần tạo điều kiện cho cán bộ, nhân viên đi học thêm để năng cao kiến thức.
NH cần định rõ ràng trách nhiệm và quyền hạn của từng cán bộ tín dụng. Đồng thời, đối với cán bộ tín dụng phải có hệ số tiền lương kinh doanh cao hơn ở các bộ phận khác, có chế độ thưởng phạt riêng vì họ là những người phải đối mặt với rủi ro để động viên khuyến khích những cán bộ có thành tích suất sắc và xử phạt đối với những cán bộ cố tình vi phạm quy định chế độ của NH. Đa dạng hoá các lĩnh vực đầu tư trung- dài hạn.
3. 3. Một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt những giải pháp đề ra
3. 3. 1. Kiến nghị đối với nhà nước
Nhà nước cần hoàn thiện môi trường pháp lý và môi trường hoạt động cho các NH và các DN. Trong quan hệ tín dụng NH với các tổ chức kinh tế phải chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố. Bên cạnh Luật NH, Nhà nước cần có những văn bản luật rõ ràng như; Luật đầu tư trong nước, Luật bảo hiểm, Luật thế chấp... việc ban hành các luật nói trên đảm bảo cho quan hệ tín dụng được dựa trên một nền tảng vững chắc, đảm bảo an toàn cho hoạt động của NH.
Nhà nước cần xây dựng các chính sách kinh tế ổn định tránh gây ra những đột biến trong nền kinh tế gây ra những rủi ro kinh doanh của DN và của NH.
Nhà nước cần tăng cường biện pháp quản lý nhà nước đối với các DN, mạnh dạn giải thể các DN làm ăn không có hiệu quả, không còn khả năng thanh toán nợ đến hạn. Đặc biệt Nhà nước tăng cường trách nhiệm trong việc cấp giấy phếp thành lập các công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, tránh thành lập tràn lan gây hậu quả xấu cho đối tác cũng như cho xã hội. Nhà nước cũng cần buộc các DN phải chấp hành đúng pháp lệnh kế toán, có chế độ kiểm toán hàng năm đối với các DN, để tránh tình trạng cung cấp sai số liệu đối với phía đối tác.
Nhà nước cũng cần sớm hình thành thị trường chứng khoán. Nếu thị trường chứng khoán ra đời, việc tạo vốn qua thị trường này của các DN sẽ tăng cường, tạo sự phát triển chung cho nền kinh tế. Các NH có thể tham gia vào thị trường chứng khoán bằng cách phát hành trái phiếu nhằm huy động vốn trung- dài hạn phục vụ nhu cầu cho vay đối với các DN trong nền kinh tế. Ngoài ra NH còn có thể tạo ra nhiều nghiệp vụ đa dạng phong phú hơn như đại lý phát hành, tư vấn về các vấn đề tài chính NH, lưu trữ và quản lý chứng khoán, thanh toán chứng khoán.
Nhà nước nên sớm thành lập cơ quan bảo hiểm tín dụng. Bảo hiểm tín dụng là một trong những biện pháp hết sức quan trọng nhằm dàn trải rủi ro. Quỹ bảo hiểm tín dụng có tác dụng hạn chế thiệt hại về vốn khi NH cho vay gặp rủi ro và còn hạn chế rủi ro phá sản NH. ở Việt Nam, thị trường, bảo hiểm tín dụng còn bỏ ngỏ, chưa có công ty bảo hiểm tín dụng chính thức ra đời trong khi đó tình hình rủi ro tín dụng tại các NHTM vẫn thường xuyên xảy ra, với mức độ thiệt hại khá lớn. Vì vậy, một yêu cầu cấp bách đặt ra là Nhà nước cần sớm nghiên cứu và thành lập công ty bảo hiểm tín dụng.
3.3.2. Kiến nghị đối với NHĐT&PTVN
3.3.2.1. Trong lĩnh vực kinh doanh:
NH cần phải giữ vững và phát triển các khách hàng truyền thống, trước hết là các tông công ty lớn. NH cần chủ động các khách hàng lớn, dự án tốt để đầu tư, đồng thời tích cực nghiên cứu để xác định những lĩnh vực trọng điểm để tiếp tục mở rộng khách hàng, nâng thị phần.
NH nên đẩy mạnh công tác Maraketing, mở rộng thị trường bằng đổi mới và nâng cao hiệu quả sản phẩm truyền thống, đáp ứng cao nhất nhu cầu vốn, dịch vụ NH cho khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế.
NH tiếp tục thâm nhập vào thị trường vốn trong nước thông qua việc đúc rút và phát triển các giải pháp đã có thể tăng cường huy động vốn trung- dài hạn đi đôi với việc giữ và phát triển được nguồn vốn ngắn hạn hiện có.
NH nên mở rộng hoạt động kinh doanh tiền tệ trên thị trường liên NH trong nước và tích cực tham gia thị trường vốn trung- dài hạn trong nước.
3.3.2.2. Trong lĩnh vực công nghệ.
NH nên đẩy mạnh ứng dụng công nghệ theo hướng thực tiễn và chủ động hội nhập công nghệ hiện đại đã được kinh nghiệm và thông lệ quốc tế khẳng định. Tập trung giải quyết dứt điểm mạng truyền thông, hệ thống các chương trình ứng dụng song song với đổi mới trang thiết bị để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ưu tiên phát triển công nghệ tạo ra một số sản phẩm mới, có sức cạnh tranh để phục vụ khách hàng, phục vụ cho lĩnh vực thanh toán trong nước và quốc tế, nâng cao năng lực và xử lý thông tin phục vụ cho thẩm định, đánh giá khả năng vay trả, an toàn tín dụng và thông tin quản trị hệ thống. Tranh thủ tối đa hỗ trợ, giúp đỡ của các dự án quốc tế tài trợ cho NH Việt Nam.
3.3.2.3 Trong lĩnh vực tài chính
NH tập trung tích luỹ thoả đáng để năng lực tài chính của bản thân NH đảm bảo yêu cầu đổi mới công nghệ, phòng ngừa rủi ro, ổn định thu nhập của người lao động, gắn liền thu nhập với hiệu quả của người lao động kinh doanh, với chất lượng sản phẩm, dịch vụ cung cấp (đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin) để thu hút cán bộ giỏi, chuyên gia giỏi mà ngành đang cần.
3.3.2.4. Tổ chức và phát triển mạng lưới
NH tiếp tục đổi mới mô hình, mạng lưới kinh doanh theo hướng xây dựng tập đoàn kinh doanh đa năng trên cơ sở củng cố phát triển năng cao hiệu quả kinh doanh của các công ty hiện có. Từng bước sắp xếp lại mạng lưới chi nhánh khu vực theo yêu cầu kinh doanh của từng vùng lĩnh vực theo hướng tập trung vào các địa bàn trọng điểm, có tiềm năng phát triển. Đồng thời trên cơ sở xây dựng những chỉ tiêu chuẩn cần thiết cho một chi nhánh trực thuộc và phòng giao dịch, tiến hành đánh giá, tổ chức lại đối với những đơn vị kinh doanh có hiệu quả thấp.
3.3.2.5. Quản trị điều hành
NH nên tiếp tục đổi mới quản trị điều hành từ hoạch định chính sách kinh doanh, tạo môi trường pháp luật, chỉ đạo điều hành, kiểm tra, kiểm soát... mô hình quản lý nhằm phát huy truyền thống đoàn kết nâng cao trách nhiệm kỷ cương để khai thác mọi tiềm năng bên trong của mỗi tổ chức, cá nhân đi liền với củng cố và hoàn chỉnh mạng lưới kinh doanh, đào tạo và bố trí, sắp xếp cán bộ điều hành và các cấp.
Tăng cường kiểm tra, kiểm soát, thực hiện kiểm toán độc lập toàn hệ thống, đảm bảo hệ thống kiểm tra nội bộ phải phát hiện được mọi sai sót tại từng chi nhánh và trong toàn hệ thống.
3.3.2.6. Hợp tác phát triển
Phát triển chiều sâu quan hệ hợp tác với các bạn hàng truyền thống, các tổ chức tài chính tín dụng trong nước và ngoài nước để nâng cao hiệu quả kinh doanh của NH. NH nên chú trọng tranh thủ hợp tác quan hệ trong nước, hợp tác đối với các NH lớn có quan hệ lâu năm thuộc khu vực Đông Nam á, Mỹ, Châu Âu để đẩy mạnh kinh doanh trên thị trường quốc tế.
Kết luận
Qua một thời gian thực tập nghiên cứu về hoạt động tín dụng trung- dài hạn tại NHĐT&PTVN đã giúp tôi nhận thức được phần nào vai trò quan trọng của tín dụng trung- dài hạn đối với nền kinh tế nói chung và NH nói riêng, đồng thời tôi cũng thấy được những bước tiến triển mạnh mẽ của NHĐT&PTVN trong hoạt động tín dụng. Qua bài viết này, em mong muốn đóng góp một phần ý kiến nhỏ bé của mình trong vấn đề nâng cao hiệu quả tín dụng trung- dài hạn tại NHĐT&PTVN, để NH ngày một phát triển bền vững, đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Trong những năm vừa qua, vượt lên trên tất cả nhưng khó khăn thử thách của nền kinh tế, NHĐT&PTVN đã có những tăng trưởng đáng kể. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được NHĐT&PTVN còn một số hạn chế nhất định. Để vững bước phát triển thành một NH chủ lực trong lĩnh vực đầu tư phát triển của đất nước, NH cần khắc phục những khiếm khuyết của mình bằng cách phát huy những điểm mạnh của mình, tìm tòi, sáng tạo những điều mới, Đồng thời NH phải luôn chú trọng đến vấn đề hiệu quả tín dụng, coi đó như mục tiêu quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển bền vững của NH. Bên cạnh đó cũng cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp có liên quan để tạo ra một hành lang vững chắc cho NH phát huy chất lượng, hiệu quả.
Như đã đề cập, tín dụng trung- dài hạn có ảnh hưởng đến nhiều vấn đề kinh tế- xã hội khác nhau, đồng thời bản thân loại tín dụng này cũng chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố. Tuy vậy với tốc độ phát triển kinh tế- xã hội như hiện nay, cùng với sự nỗ lực của cán bộ công nhân viên trong NH, đặc biệt là với truyền thống và thế mạnh trong phục vụ tín dụng trung- dài hạn em tin chắc rằng trong một tương lai không xa, NHĐT&PTVN sẽ đạt được mục tiêu nâng cao hiệu quả tín dụng trung- dài hạn như mong muốn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3780.doc