Một số công ty bán phá giá để cố gắng tối đa hoá doanh số nhằm thôn tính, độc chiếm thị trường. Sau một thời gian dài chịu lỗ, công ty sẽ loại được các đối thủ cạnh tranh khác ra khỏi thị trường. Sau khi đạt được điều này, công ty sẽ tăng giá lên cao nhằm thu lợi nhuận độc quyền. Có thể thấy rằng, trong trường hợp này công ty đã hy sinh lợi nhuận ngắn hạn để tối đa hóa lợi nhuận dài hạn.
Hành vi độc quyền của công ty rõ ràng sẽ gây thiệt hại lớn cho nước nhập khẩu. Do đó, các nước nhập khẩu thường tỏ ra khá kiên quyết trong việc đối phó với hành vi bán phá giá nhằm chiếm lĩnh thị trường này.
Tuy nhiên, áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu bị bán phá giá kiểu này không phải là giải pháp tối ưu. Điều này xuất phát từ nguyên nhân: (i) việc bán phá giá để chiếm lĩnh thị trường là rất khó khăn vì ngoài việc đẩy các công ty cạnh tranh khác ra khỏi thị trường, công ty còn phải tìm cách ngăn cản sự quay trở lại của các đối thủ cạnh tranh khi giá bị đẩy lên cao. (ii) trên phạm vi quốc tế, hiếm khi xảy ra hiện tượng một công ty có thể độc quyền trên toàn bộ thị trường. Việc kiểm soát giá trên thị trường sẽ do một số công ty lớn nắm giữ. Do đó, ngay cả khi nhà xuất khẩu thành công trong việc loại bỏ tất cả các công ty nội địa thì họ vẫn phải dàn xếp với các công ty quốc tế khác để thống nhất về việc định giá. (iii)nước nhập khẩu có thể triệt tiêu sức mạnh độc quyền của công ty bằng cách đánh thuế đối với lợi nhuận độc quyền sau khi công ty đã tăng giá chứ không cần phải đánh thuế chống bán phá giá ngay trong giai đoạn đầu. Nếu không làm như vậy, nước nhập khẩu sẽ phải chịu mất đi một lượng hàng nhập khẩu rẻ chỉ vì sợ bị thôn tính thị trường.
69 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1198 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thể từ hai đến ba năm. Hơn nữa, thuế chống bán phá giá chỉ được hoàn khi mức thuế vượt quá biên độ phá giá, trong khi phần lớn các trường hợp EU đều đánh thuế thấp hơn biên độ phá giá.
- Rà soát
+ Rà soát thông thường
Các bên liên quan (nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu) có thể đề nghị cơ quan điều tra của EU tiến hành rà soát sớm nhất là 1 năm sau khi kết thúc cuộc điều tra ban đầu. Một nước thành viên EU hoặc cơ quan điều tra của EU cũng có thể kiến nghị tiến hành rà soát, nhưng trường hợp này hiếm khi xảy ra.
Khi có yêu cầu rà soát, cơ quan điều tra của EU sẽ kiểm tra xem có đủ bằng chứng, bao gồm các yếu tố: việc bán phá giá tăng hay giảm, vi phạm cam kết giá, thiệt hại gia tăng, v.v..., về việc bối cảnh thay đổi không. Tùy thuộc bối cảnh cụ thể của từng trường hợp, việc rà soát có thể dẫn đến một cuộc điều tra mới với qui mô như cuộc điều tra ban đầu.
Mặc dù có qui định về việc rà soát, nhưng trên thực tế các nhà xuất khẩu trong cơ chế chống bán phá giá của EU vẫn bị phụ thuộc nhiều vào kết quả của cuộc điều tra đầu tiên, vì cuộc điều tra này quyết định mức thuế mà các nhà xuất khẩu phải chịu chừng nào biện pháp chống bán phá giá chưa được hủy bỏ hoặc sửa đổi. Khi biên độ phá giá giảm hoặc triệt tiêu thì họ có thể đề nghị rà soát. Nhưng rà soát có thể tốn nhiều thời gian như cuộc điều tra đầu tiên và sau khi rà soát, nếu biện pháp chống bán phá giá được sửa đổi thì cũng sẽ chỉ áp dụng với hàng nhập khẩu trong tương lai chứ không áp dụng với hàng đã nhập khẩu.
+ Rà soát cuối kỳ
Qui chế chống bán phá giá của EU qui định rằng thuế chống bán phá giá và cam kết giá chỉ được áp dụng trong vòng 5 năm kể từ ngày các biện pháp này có hiệu lực hoặc kể từ lần sửa đổi gần nhất. Trong vòng 6 tháng trước khi kết thúc giai đoạn 5 năm, cơ quan điều tra của EU sẽ thông báo cho các nhà sản xuất có liên quan của EU về việc chấm dứt áp dụng thuế chống bán phá giá sau khi trao đổi với Ủy ban chống bán phá giá của WTO. Nếu các bên liên quan kiến nghị rằng việc chấm dứt áp dụng thuế chống bán phá giá có thể lại gây hoặc có nguy cơ gây thiệt hại thì cơ quan điều tra sẽ tiến hành rà soát, nếu không thì việc áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ tự động chấm dứt.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG THUẾ
CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TẠI VIỆT NAM
2.1 Các quy định hiện tại của Việt Nam liên quan đến chống bán phá giá và tác động bảo hộ của việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với sản xuất trong nước
2.1.1 Các quy định hiện tại của Việt Nam liên quan đến chống bán phá giá
Việt nam hiện nay đã trở thành thành viên chính thức của WTO và đang dần tiến hành xây dựng chính sách thương mại phù hợp với qui định của WTO. Song song với việc loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan, Việt Nam cần nghiên cứu để đưa vào áp dụng các biện pháp bảo hộ mới được WTO cho phép sử dụng như: thuế chống bán phá giá, tự vệ, hạn ngạch thuế quan.
Hiện nay, Việt Nam đã ban hành một số quy định liên quan đến chống bán phá giá trong nước.
Điều 9 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 04/1998/QH10 ngày 20/5/1998 cho phép áp dụng thuế bổ sung đối với hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt nam.
Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 4/4/2001 cũng qui định việc xây dựng nguyên tắc áp dụng thuế chống bán phá giá trong năm 2001. Việt Nam cũng đã có Pháp lệnh chống bán phá giá có hiệu lực từ tháng 10/2004. Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam gồm 6 chương, 29 điều, qui định cụ thể hình thức của các biện pháp chống bán phá giá; các thủ tục, nội dung và tổ chức cơ quan điều tra để có thể áp dụng biện pháp chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Theo pháp lệnh này, các biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng khi có đủ hai điều kiện là hàng hóa bị bán phá giá vào Việt Nam và biên độ phá giá phải được xác định cụ thể, việc bán phá giá trên là nguyên nhân gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước. Pháp lệnh qui định biện pháp chống bán phá giá có hiệu lực thi hành từ 1/10 và sẽ được áp dụng trong vòng 5 năm.
2.1.2 Tác động bảo hộ của việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với sản xuất trong nước
Áp dụng biện pháp chống bán phá giá mà phổ biến là thuế chống bán phá giá sẽ tạo ra sự bảo hộ cao hơn đối với các nhà sản xuất sản phẩm tương tự ở trong nước. Mức bảo hộ có thể được thực hiện bằng việc xác định biên độ phá giá, hay là sự chênh lệch giữa giá bán của sản phẩm đó tại nước xuất khẩu và giá xuất khẩu (GTTT - GXK).
Xét về mặt tăng biên độ phá giá, thep pháp lệnh "biên độ bán phá giá không đáng kể là biên độ bán phá giá không vượt quá 2% giá xuất khẩu hàng hoá vào Việt Nam". Như vậy, nếu biên độ này vượt quá 2% sẽ bị xem là bán phá giá vào thị trường Việt Nam. Theo quy định tại Pháp lệnh, hành vi bán phá giá bị xem là gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước của quốc gia nhập khẩu nếu:
- Số lượng hàng hoá bán phá giá vào thị trường của nước nhập khẩu chiếm từ 3% trở lên so với tổng số lượng hàng hoá tương tự nhập khẩu vào thị trường nội địa của nước nhập khẩu (Điều 3.1 Hiệp định), hoặc cao hơn 3% so với tổng khối lượng, số lượng, trị giá hàng hoá tương tự nhập khẩu vào Việt Nam (khoản 4 Điều 2 Pháp lệnh).
- Hàng nhập khẩu bán phá giá được bán với giá thấp hơn đáng kể so với giá của hàng hoá tương tự.
- Hàng hoá bán phá giá làm giảm giá của hàng hoá tương tự một cách đáng kể tại thị trường của nước nhập khẩu.
- Việc bán phá giá hàng hoá là nguyên nhân gây ra hoặc đe doạ gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước.
Theo quy định này, những thiệt hại xảy ra phải là hệ quả của việc bán phá giá chứ không phải do những nguyên nhân khác (như sự giảm cầu hoặc thay đổi hình thức tiêu dùng của người dân trên thị trường nước nhập khẩu, gây khó khăn cho ngành sản xuất trong nước hoặc do năng suất của ngành sản xuất trong nước giảm sút...)
Ngoài ra, theo WTO, mức độ bảo hộ còn đựơc biểu hiện bằng sự chênh lệch. Do đó, nhà sản xuất hàng hóa tương tự ở trong nước không thể bán sản phẩm của mình ở mức giá cao hơn giá bán của sản phẩm đó ở nước xuất khẩu cộng thêm các chi phí liên quan tới xuất khẩu như bảo hiểm, vận tải, môi giới, v.v nhân với thuế nhập khẩu.
Thực tế cho thấy chỉ có các ngành sản xuất có qui mô đáng kể, có sự liên kết khá chặt chẽ, có sức mạnh chính trị nhất định mới có thể phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền của chính phủ để áp dụng thành công thuế chống bán phá giá. Như vậy, trong ngắn hạn, việc áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ góp phần duy trì sản xuất của những ngành đó, qua đó tạo ra sự ổn định chính trị, giảm thất nghiệp và sự phá sản của một số nhà sản xuất.
Mặc dù áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ có lợi cho nhà sản xuất trong nước do bán được sản phẩm với giá cao hơn nhưng sẽ gây ra thiệt hại cho người tiêu dùng. Nhiều nghiên cứu về khía cạnh kinh tế của hiện tượng bán phá giá cho rằng bán phá giá là một hiện tượng kinh tế phổ biến và bình thường, cả trong trường hợp giá bán trong nước thấp hơn giá xuất khẩu, tức là có sự phân biệt đối xử về giá, cũng như trường hợp giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất, kể cả chi phí cố định. Lợi ích tăng lên đối với các nhà sản xuất trong nước không đủ bù đắp thiệt hại của người tiêu dùng, hay nói cách khác là thiệt hại chung đối với toàn xã hội.
Ngoài ra, áp dụng thuế này cũng sẽ gây ra thiệt hại đối với những nhà sản xuất sử dụng sản phẩm liên quan làm nguyên liệu cho sản xuất các hàng hóa khác. Ví dụ rõ ràng là các nhà chế tạo ô tô Hoa kỳ gặp khó khăn lớn trong cạnh tranh với các đối thủ Châu Âu và Nhật bản do họ phải sử dụng thép với giá cao hơn khi chính phủ áp dụng thuế chống bán phá giá để tăng cường bảo hộ các nhà sản xuất thép.
Thuế chống bán phá giá cũng có thể làm giảm tính cạnh tranh dài hạn. Thật vậy, thuế này chỉ được áp dụng trong một giai đoạn nhất định. Do nhiều nguyên nhân, các nhà sản xuất nước ngoài có thể hạ được chi phí sản xuất và không bán phá giá nữa. Trong trường hợp này giá xuất khẩu có thể không đổi, thậm chí ngày càng thấp đi. Nếu các nhà sản xuất trong nước không nhận thức rõ điều này mà chậm đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, v.v... quá dựa dẫm vào sự bảo hộ cao hơn do áp dụng thuế này mang lại thì về dài hạn họ sẽ mất khả năng cạnh tranh với các nhà sản xuất hàng hóa tương tự của nước xuất khẩu.
Các doanh nghiệp được bảo hộ cần nhận thức sau một giai đoạn nào đó, thường là vài năm, hiện tượng bán phá giá có thể biến mất nhưng hàng nhập khẩu vẫn ngày càng rẻ, do đó phải nhanh chóng nâng cao sức cạnh tranh càng sớm càng tốt.
2.2. Thực trạng áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam
Trước ngưỡng cửa Việt Nam gia nhập WTO, hiện tượng bán phá giá hàng nhập khẩu nước ngoài vào Việt Nam có chiều hướng gia tăng, gần đây đã xảy ra các trường hợp thép giá rẻ của Trung Quốc bán phá giá, nhiều loại nông sản của Trung Quốc và Thái Lan bán giá rẻ “làm mưa làm gió” ở thị trường Việt Nam. Trứng gà Trung Quốc bán tại thị trường trong nước họ khoảng 1.200 đồng nhưng bán ở Việt Nam chỉ vài trăm đồng. Hoặc một kilôgam đường bán ở Thái Lan tương đương giá 15.000 đồng Việt Nam, nhưng khi bán sang nước ta chỉ với giá 6.000 đồng. Trên thực tế những mặt hàng sau đây có khả năng bị bán phá giá:
2.2.1.1. Xi măng
Các nước trong khu vực như Thái lan, Trung quốc là những nước sản xuất xi măng rất mạnh. Sản lượng xi măng của các nước này tại một thời điểm nào đó có thể bị dư thừa so với nhu cầu trong nước do khủng hoảng kinh tế hoặc bất hợp lý trong khâu lập kế hoạch sản xuất, v.v, khi đó rất có khả năng Thái lan hoặc Trung quốc sẽ bán phá giá xi măng sang Việt nam vì Việt nam là thị trường tương đối lớn trong khu vực và có tốc độ xây dựng phát triển mạnh.
Việc bán phá giá xi măng vào thị trường Việt nam trước hết sẽ có lợi cho người tiêu dùng và ngành xây dựng. Tuy nhiên, đối với ngành công nghiệp xi măng của ta, vốn là một ngành được bảo hộ cao, thì đây lại là một khó khăn lớn.
2.2.1.2. Sắt thép
Ở Hoa kỳ thì sắt thép là mặt hàng nhập khẩu bị điều tra phá giá nhiều nhất (chiếm một nửa số vụ điều tra phá giá). Từ năm 2001 trở về trước, Việt nam duy trì giấy phép nhập khẩu đối với thép xây dựng nên ta chưa quan tâm tới việc sắt thép nhập khẩu có bị bán phá giá hay không. Tuy nhiên có nhiều khả năng một số sắt thép nhập khẩu từ Nga, Hàn quốc đã bị bán phá giá vào Việt nam. Ngành thép của các nước phát triển như Hoa kỳ, EU, Nhật bản hiện nay đều đang gặp khó khăn. Khi Việt nam đã bỏ giấy phép nhập khẩu và các nước có nền công nghiệp thép mạnh như Hàn quốc, Nhật bản, các nước thuộc khối SNG bán phá giá sắt thép vào Việt nam thì thiệt hại cho ngành sắt thép trong nước sẽ rất lớn.
Tuy nhiên khi đó các ngành công nghiệp sử dụng sắt thép làm nguyên vật liệu đầu vào sẽ có lợi.
2.2.1.3. Giấy
Trong 6 tháng đầu năm 2002, các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Giấy Việt nam đã gặp nhiều khó khăn vì có khả năng giấy nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt nam: giá giấy nhập khẩu là 380 USD/tấn, trong khi giá bột giấy nhập khẩu đã là 400 USD/tấn. Tuy nhiên muốn khẳng định điều này đúng hay không cần phải tiến hành điều tra vì các giá trên có thể chưa được so sánh một cách xác đáng.
Nhiều mặt hàng với giá rẻ "bất ngờ" đã được nhập khẩu vào Việt Nam như xe đạp, linh kiện xe máy, động cơ và máy nông cụ, hàng điện tử, kính xây dựng, các loại thực phẩm và nông sản của Trung Quốc; một số hàng hóa tiêu dùng của Hàn Quốc; đường kính, hàng điện tử của Thái Lan;... đã thao túng thị trường trong nước, gây nhiều thiệt hại cho các nhà sản xuất của Việt Nam.
Từ tình hình nêu trên, có thể nhận thấy, những nước bị điều tra bán phá giá nhiều nhất cũng đều là những nước xuất khẩu khá nhiều chủng loại hàng hóa vào Việt Nam (đặc biệt là Trung Quốc, Hàn Quốc, Indonesia và Thái-lan).
Xét ở góc độ người tiêu dùng, việc hàng hóa nước ngoài được bán phá giá tại Việt Nam sẽ mang lại những lợi ích cụ thể, trước mắt cho họ do mua được hàng hóa với giá rẻ. Tuy nhiên, việc bán phá giá sẽ kéo theo hàng loạt những tác động xấu cho các ngành sản xuất trong nước. Nó dần dần bóp chết các ngành sản xuất non trẻ và thiếu sức cạnh tranh của Việt Nam. Ngoài ra, một khi hàng hóa bán phá giá đã chiếm lĩnh được thị trường Việt Nam thì các nhà xuất khẩu chắc chắn không dừng lại ở đó mà họ sẽ nâng dần giá hàng để thu lợi nhằm bù đắp những chi phí của việc bán phá giá. Lúc đó, người tiêu dùng sẽ phải mua hàng hóa với giá cao. Thực tế trên đã và đang diễn ra suốt nhiều năm. Nếu Chính phủ không có sự can thiệp kịp thời bằng các biện pháp đủ mạnh như hạn chế định lượng hoặc nâng thuế suất thuế nhập khẩu thì chắc chắn nhiều ngành sản xuất trong nước khó có thể gượng dậy được do tác động của bán phá giá. Rõ ràng, bán phá giá đã gây ra rất nhiều thiệt hại cho nền sản xuất trong nước. Tuy nhiên, các biện pháp hạn chế về định lượng và thuế nhập khẩu sẽ bị loại bỏ dần trong thời gian tới theo những cam kết trong WTO và ASEAN. Vì thế, để hạn chế những ảnh hưởng của bán phá giá hàng nhập khẩu vào Việt Nam, cần phải có những giải pháp cứng rắn theo đúng luật pháp quốc tế: Đó là một bộ luật về chống bán phá giá. Đây là vấn đề mang tính thời sự, đặt ra cho các doanh nghiệp và các nhà quản lý của Việt Nam để vừa có thể vừa cùng thực thi việc chống phá giá của các nước, vừa khống chế được việc bán phá giá vào thị trường Việt Nam.
Biện pháp đó là hợp lý nhằm bảo vệ quyền lợi của DN Việt Nam, đồng thời có tác dụng răn đe những nước lạm dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa của Việt Nam .
Tóm lại, chống phá giá là một công cụ lợi hại mà các nước đang sử dụng như một con bài để bảo hộ sản xuất trong nước và bảo đảm một nền thương mại công bằng. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Việt Nam đang tích cực tham gia với những cấp độ khác nhau. Điều đó đồng nghĩa với việc hàng hóa của Việt Nam sẽ xuất hiện nhiều hơn ở các nước; đồng thời một khối lượng hàng hóa khổng lồ từ các nước cũng sẽ có mặt tại Việt Nam. Chính điều này đòi hỏi các doanh nghiệp và các nhà quản lý Việt Nam phải chủ động đề phòng và tham gia tích cực vào các vụ kiện bán phá giá trên thị trường quốc tế. Mặt khác, sự ra đời của Pháp lệnh Chống phá giá và việc nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp, các nhà sản xuất là những việc đầu tiên cần phải làm để góp phần hạn chế tình trạng bán phá giá tại Việt Nam, bảo hộ sản xuất trong nước phát triển.
2.3. Đánh giá
2.3.1. Ưu điểm
2.3.1.1. Đã coi chống bán phá giá là công cụ bảo hộ sản xuất trong nước
Hiện nay Việt Nam đã gia nhập WTO và trong những công cụ bảo hộ sản xuất trong nước được WTO thừa nhận có chống bán phá giá. Hiện nay Việt Nam đã có đầy đủ pháp lệnh về chống bán phá giá và là cơ sở cho sự áp dụng công cụ này trong tương lai. Sự gia đời của pháp lệnh này chứng tỏ Việt Nam đã quan tâm hơn đến tầm quan trọng cũng như lợi ích của nó đối với sản xuất trong nước khi hiện nay Việt Nam đang và sẽ đương đầu với cạnh tranh khốc liệt từ các quốc gia khác trên thế giới trong thương mại quốc tế.
2.3.1.2. Đã có đầy đủ cơ sở pháp luật để tiến hành vụ kiện chống bán phá giá trong nước, là cơ sở để áp dụng thuế chống bán phá giá
Về mặt pháp luật, Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý để tiến hành kiện chống bán phá giá hàng hoá có xuất xứ nước ngoài.
Kiện chống bán phá giá đã được quy định trong nhiều văn bản pháp luật (Pháp lệnh về Chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu năm 2003, Nghị định 90/2005 hướng dẫn Pháp lệnh Chống bán phá giá, Nghị định 04/2006 về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, Thông tư 106/2005 Bộ Tài chính hướng dẫn việc thu nộp thuế chống bán phá giá). Các văn bản này đều đã có hiệu lực thi hành.
Hơn nữa, việc kiện chống bán phá giá là vấn đề thuộc pháp luật nội địa và do nước nhập khẩu chủ động thực hiện (trên cơ sở các nguyên tắc chung của WTO về chống bán phá giá).
Về mặt thực tiễn, có những cơ sở để tin tưởng rằng chống bán phá giá không phải là công cụ ngoài tầm tay.
Kiện chống bán phá giá là một thủ tục gần giống như tố tụng tại toà, vì thế còn được gọi là thủ tục “bán tư pháp”. Thủ tục này bắt đầu bằng đơn kiện của ngành sản xuất trong nước gửi đến Cục Quản lý Cạnh tranh - Bộ Thương mại. Chủ thể nộp đơn kiện phải đại diện được cho ngành sản xuất liên quan (tức là phải sản xuất ra ít nhất 25% tổng sản lượng hàng hoá trong nước tương tự với mặt hàng định kiện; và số chủ thể ủng hộ đơn kiện phải chiếm từ 50% trở lên trong số các chủ thể bày tỏ ý kiến). Đơn kiện cần có đủ các nội dung theo quy định, trong đó quan trọng nhất là:
-Mô tả khối lượng, số lượng, giá trị của hàng hoá nhập khẩu bị kiện (cùng với danh tính của các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài) cũng như của hàng tương tự sản xuất trong nước trong suốt thời gian 12 tháng trước đó.
-Thông tin và chứng cứ về viẹc bán phá giá (thông qua giá bán vào Việt Nam của hàng hoá nhập khẩu và giá bán của hàng hoá đó tại thị trường nước xuất khẩu).
-Thông tin và chứng cứ về thiệt hại do việc bán phá giá gây ra đối với ngành sản xuất trong nước (thể hiện qua các thông số về sản lượng, mức độ tiêu thụ, tình hình phát triển, tỷ lệ thất nghiệp... của ngành).
-Yêu cầu cụ thể về biện pháp chống bán phá giá áp dụng (mức độ và thời hạn áp dụng).
Bộ trưởng Thương mại ra quyết định khởi xướng điều tra nếu người đi kiện và đơn kiện đáp ứng đủ các yêu cầu. Cục Quản lý Cạnh tranh tiến hành điều tra để xác định có việc bán phá giá gây thiệt hại hay không (thông qua một loạt các hoạt động như gửi bảng câu hỏi cho các bên liên quan, điều tra thực địa, tiến hành các buổi tham vấn để các bên trình bày...), bên đi kiện và bên bị kiện phải tham gia vào tất cả các hoạt động này. Trong vòng 90 ngày, cơ quan này phả ra kết luận sơ bộ, trong vòng 12 tháng phải ra kết luận điều tra cuối cùng. Trong thời gian này, vụ kiện có thể bị chấm dứt nếu kết luận sơ bộ cho thấy không có bán phá giá, biên độ bán phá giá thấp (dưới 2%), không có thiệt hại, hoặc lượng hàng nhập khẩu bị kiện không đáng kể (dưới 3% tổng lượng hàng tương tự nhập khẩu). Khi có kết luận cuối cùng, cơ quan điều tra sẽ chuyển kết luận này lên Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, Hội đồng này sẽ tiến hành bỏ phiếu và gửi kiến nghị lên Bộ trưởng Bộ Thương mại để Bộ trưởng ra quyết định áp dụng hoặc không áp dụng thuế chống bán phá giá. Lệnh áp thuế về nguyên tắc sẽ kéo dài 5 năm (với mức thuế tương đương với biên độ phá giá được xác định trong kết luận điều tra), có thể được xem xét lại từng năm và sẽ không chấm dứt chừng nào hàng hoá liên quan vẫn bị bán phá giá vào Việt Nam gây thiệt hại.
Nhìn qua thì thấy các điều kiện về nội dung và thủ tục kiện chống bán phá giá khá phức tạp và không dễ đáp ứng. Tuy nhiên, có những cơ chế trợ giúp hữu hiệu mà doanh nghiệp, hiệp hội có thể sử dụng để vượt qua những điều kiện nói trên và bảo vệ thành công lợi ích hợp pháp của mình. Ví dụ, các hiệp hội doanh nghiệp (hiệp hội chuyên ngành, Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam – VCCI...) có thể làm đầu mối để tập hợp và liên kết các doanh nghiệp đủ để đáp ứng các điều kiện về tính đại diện cũng như thống nhất phương án hành động trong suốt quá trình tố tụng. Các số liệu thống kê tình hình nhập khẩu, diễn tiến về giá, tình hình phát triển sản xuất... mà cơ quan hải quan, cơ quan thống kê và các cơ quan quản lý chuyên ngành khác hiện đang lưu giữ có thể rất hữu dụng cho việc kiện. Ngoài ra, một số văn phòng luật sư và chuyên gia pháp lý có kiến thức và kinh nghiệm trong các vụ việc chống bán phá giá ở Việt Nam có thể tư vấn, hỗ trợ cho doanh nghiệp đi kiện trong hầu hết các vấn đề (từ thu thập chứng cứ, sắp xếp các số liệu, chuẩn bị lập luận, tranh tụng trong điều trần...). Trên thế giới, hầu như không có doanh nghiệp hay hiệp hội nào tự tiến hành các vụ kiện chống bán phá giá mà không có sự hỗ trợ và tư vấn của các công ty luật chuyên nghiệp. Ngoài ra, nếu ý thức đầy đủ về vấn đề này, bản thân doanh nghiệp và hiệp hội có thể tự bố trí theo dõi thường xuyên và lưu trữ thông tin về hàng hoá xuất khẩu liên quan để có thể sử dụng khi cần thiết. Cục Quản lý Cạnh tranh, VCCI và các cơ quan khác cũng có thể cung cấp những hỗ trợ chung (thông tin về trình tự thủ tục, hỗ trợ hoàn thiện thủ tục...) cho doanh nghiệp, hiệp hội trong các vụ kiện chống bán phá giá.
2.3.1.3. Chính sách để bảo vệ và phát triển nền sản xuất trong nước được thực hiện nhất quán
Đất nước chúng ta có nền chính trị ổn định dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam chúng ta luôn luôn nhất quán về các chính sách để bảo vệ và phát triển nền sản xuất trong nước.
Để bảo hộ sản xuất trong nước, Việt Nam đã xây dựng hệ thống chính sách cũng như luật pháp nhằm bảo hộ sản xuất trong nước như: pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam, pháp lệnh chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam
2.3.2 Hạn chế
2.3.2.1. Chưa áp dụng thuế chống bán phá giá cho bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào
Hiện tại, Việt Nam mặc dù đã có pháp lệnh chống bán phá giá và các pháp lệnh khác liên quan nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, tuy vậy tại Việt Nam, việc áp dụng các thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu dường như đã được bàn luận ở đâu đó trong vài vụ việc đơn lẻ rồi lặng lẽ đi vào quên lãng.
Cho đến nay, chúng ta chưa từng áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu mặc dù đã có những cơ sở xác định. Chẳng hạn như sự khó khăn của những doanh nghiệp sản xuất thép của Việt Nam trước sức cạnh tranh về giá của thép xuất xứ từ Trung Quốc chưa nhưng Việt Nam vẫn chưa tìm kiếm căn cứ để kết luận trong cơ quan có thẩm quyền chưa có bất cứ động thái pháp lý nào để điều tra và các doanh nghiệp Việt Nam cũng tiến hành thủ tục khiếu nại cần thiết theo pháp luật cho dù có những nghi ngờ về sự bất thường của giá thép nhập khẩu và thiệt hại mà doanh nghiệp Việt Nam đang gánh chịu.
2.3.2.2. Chưa có vụ kiện pháp lý chứng tỏ đây là công cụ bảo hộ mạnh
Hiện nay, mặc dù đã có gần như đầy đủ văn bản pháp luật làm cơ sở cho việc xác định hàng nhập khẩu từ nước ngoài vào Việt Nam có bán phá giá hay không, tuy nhiên, mọi sự nghi ngờ đều không có câu trả lời thực sự và Việt Nam hiện nay vẫn chưa tiến hành một vụ kiện pháp lý nào với tư cách là nguyên đơn về việc hàng nhập khẩu bán phá giá trên thị trường Việt Nam. Do vậy, theo xu hướng hiện nay, các quốc gia đều coi đây là công cụ bảo hộ được WTO thừa nhận và có vai trò quan trọng để bảo hộ sản xuất trong nước thì công cụ này vẫn còn chưa được áp dụng mạnh mẽ ở Việt Nam.
2.3.2.3. Pháp luật còn hạn chế
Có thể khẳng định rằng pháp luật của Việt Nam còn quá nhiều hạn chế. Mặc dù, Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004 và Nghị định hướng dẫn thi hành đã được ban hành, tuy nhiên nội dung mới chỉ nhận dạng cơ bản thế nào là bán phá giá, các biện pháp chống bán phá giá và quy định những bước cơ bản trong tố tụng vụ việc chống bán phá giá. Với những nội dung đó, việc điều tra và xử lý vụ việc sẽ khó có thể tiến hành tử tế và hiệu quả bởi chắc chắn từ nó sẽ phát sinh những tranh cãi về học lý và thực tiễn trong từng vụ việc cụ thể liên quan đến các chuẩn mực xác định sự vi phạm và mức độ xử lý. Vì thế, dường như sứ mệnh của pháp lệnh này chỉ là giúp cho cánh cửa WTO mở ra mà khó có thể sử dụng để bảo vệ cho doanh nhân Việt Nam trên con đường thênh thang nhưng đầy chông gai đang chờ đợi sau đó.
2.4. Nguyên nhân
2.4.1. Nguyên nhân chủ quan
Những hạn chế về khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá trên thị trường Việt Nam hiện nay xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có những nguyên nhân thuộc về yếu tố bên ngoài. Tuy vậy, cũng không có ít những nguyên nhân do chủ quan gây ra. Một số nguyên nhân chủ quan chủ yếu bao gồm:
Thứ nhất, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của nền kinh tế Việt Nam còn yếu, vị trí kinh tế của Việt Nam chưa mạnh và còn đứng trong hàng ngũ của những nước nghèo. Điều này cũng ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của việc chống bán phá giá bởi một vấn đề tế nhị là sự ràng buộc của nhiều lợi ích làm cho mỗi quốc gia phải cân nhắc hiệu quả thực tế mà họ sẽ có được hoặc mất đi từ những vụ việc cụ thể. Với tư cách là biện pháp bảo hộ cho nền sản xuất nội địa trước sức tàn phá của mức giá bán thấp hơn giá thông thường của sản phẩm, các biện pháp chống bán phá giá tạo ra sự đối đầu giữa ngành sản xuất sản phẩm tương tự nhau của hai quốc gia có giao dịch thương mại với nhau. Vì thế, khởi sự một vụ việc chống bán phá giá đôi khi không chỉ gây ra tranh chấp giữa các doanh nghiệp với nhau mà còn là sự xung đột lợi ích giữa các quốc gia, các vùng kinh tế. Ở một chừng mực nhất định, vị thế thương mại của quốc gia có ảnh hưởng đáng kể đến phán quyết về việc có áp dụng biện pháp chống bán phá giá hay không. Thực tế cho thấy, các quốc gia đang phát triển khó có thể áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với các sản phẩm nhập khẩu chiến lược từ các nước phát triển bởi nếu áp dụng họ có thể phải trả giá bằng sự cắt giảm viện trợ, cắt giảm các khoản vay.
Thứ hai, Việt Nam vẫn chưa xác định được chính xác liệu những hàng hoá từ những nước này có bán phá giá tại Việt Nam hay không do ở Việt Nam chưa có luật về chống phá giá, có cơ sở tiến hành điều tra chống bán phá giá nhưng do các doanh nghiệp cũng như Nhà nước dường như “thờ ơ” với vấn đề này mà chỉ quan tâm đến vấn đề Việt Nam bị kiện bán phá giá ở nước ngoài.
Thứ ba, những hạn chế về tài chính và kiến thức, việc thiếu vắng các nhà chuyên môn, chuyên nghiệp như luật sư, kế toán, kiểm toán, kinh tế gia... vẫn còn là một thiệt thòi lớn và giảm khả năng phân tích, tổng hợp và xác định trường hợp hàng nhập khẩu có bán phá giá trên thị trường Việt Nam hay không?. Điều này sẽ gây ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá trong nước và làm giảm khả năng phát triển của các doanh nghiệp trong nước cũng như vấn đề áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam trong tương lai.
2.4.2. Nguyên nhân khách quan
Ngoài những nguyên nhân chủ quan đã được đề cập trên, những hạn chế về khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam còn xuất phát từ một số nguyên nhân khách quan như:
Thứ nhất, những khó khăn trong việc xác định trường hợp bán phá giá
Một là, khó khăn trong việc tìm được chi phí sản xuất hợp lý của doanh nghiệp nước ngoài nhất là các mặt hàng tiểu ngạch, do vậy căn cứ để xác định bán phá giá là rất khó.
Hai là, khó khăn trong việc tìm được bằng chứng về việc trợ giá của chính phủ đối với các hàng hoá được nhập khẩu vào Việt Nam vì ngày nay người ta đủ khéo léo để giấu dưới những hình thức mà bên nguyên không thể buộc lỗi.
Ba là, trên thực tế, quá trình điều tra về bán phá giá của EU, Mỹ và một số nước khác cho thấy, việc xác định giá trị thông thường của hàng hoá để làm căn cứ xác định biên độ phá giá quá phức tạp và đôi khi không minh bạch, vẫn còn rất nhiều áp đặt.
Do những nguyên nhân trên, Việt Nam rất khó có thể xác định trường hợp hàng nhập khẩu bán phá giá mặc dù có gần như đầy đủ pháp luật.
Thứ hai, yếu kém về tài chính
Nếu như Việt Nam đã có cơ sở để xác định trường hợp hàng hoá nhập khẩu này đã bán phá giá trên thị trường Việt Nam thì cũng rất khó khăn để có thể áp dụng ngay thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng này. Nguyên nhân do chi phí của một vụ kiện bán phá giá là rất lớn, nó đòi hỏi người theo kiện (nhất là nguyên đơn) phải bỏ rất nhiều thời gian, với những đoàn điều tra, lực lượng luật sư hùng hậu và đầy kinh nghiệm mà trên thực tế Việt Nam là nước nghèo và tài chính cho việc khởi kiện thường không đáp ứng được.
Thứ ba, khó khăn trong việc thi hành án về chống bán phá giá
Thực tiễn thương mại thế giới cũng cho thấy, việc thi hành án về chống bán phá giá không hề đơn giản. Và nếu một nước không công nhận kết quả vụ kiện vì cho là bất hợp lý, họ có thể tuyên bố trả đũa thương mại bằng việc tăng thuế nhập khẩu với nước kia, kết quả là các nước nhỏ sẽ bị thiệt nhiều hơn.
Phân tích như vậy để chúng ta thấy được những khó khăn đang chờ đợi chúng ta phía trước khi chúng ta chủ động đối phó với các tranh chấp thương mại quốc tế, nhất là về bán phá giá. Nhưng như vậy không có nghĩa là chúng ta sẽ phải chấp nhận sự bất hợp lý, cạnh tranh thiếu lành mạnh ngay trên sân nhà mình!
Thứ tư, thực trạng những doanh nghiệp Việt Nam
Với hơn 90% doanh nghiệp là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên thị trường Việt Nam có chỉ số tập trung thấp (trừ những ngành có tồn tại độc quyền nhà nước), mức độ phân tán nguồn lực và phân hoá lợi ích cao. Trong điều kiện đó, khả năng liên kết giữa các doanh nghiệp sẽ là thấp. Cho đến nay chúng ta có được nhiều làng nghề, nhiều hiệp hội ngành nghề song tất cả vẫn chỉ là sự chuẩn bị mà chưa chứng minh sức mạnh của tập thể bằng hành động cụ thể. Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam có thể cạnh tranh với hàng hoá từ nước ngoài. Không chỉ vậy, chính sự liên kết thiếu chặt chẽ này mà khả năng xác định trường hợp bán phá giá cũng thấp vì theo Pháp lệnh chống bán phá giá của Việt Nam, một trường hợp bán phá giá trên thị trường cần được sự đồng ý và xác nhận của một số lượng các doanh nghiệp trong ngành nhất định.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TẠI VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP WTO
3.1 Dự báo tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam khi áp dụng thuế chống bán phá giá
Việt nam đang xây dựng nền kinh thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời đang chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Sau hơn một thập kỷ phát triển kinh tế khá ngoạn mục, Việt nam đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 với mục tiêu tăng gấp đôi GDP sau mười năm và đến năm 2020 Việt nam sẽ là nước công nghiệp. Đường lối phát triển này của Việt nam có liên quan rất lớn tới việc áp dụng thuế chống bán phá giá.
Trong tương lai sẽ xuất hiện ngày càng nhiều ngành sản xuất hàng hóa lớn mạnh. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của sự hình thành và phát triển, những ngành này là những ngành non trẻ với những đặc điểm điển hình là đầu tư vào sản xuất lớn nhưng chưa thu hồi vốn, giá thành cao. Ngoài ra, là nước đi sau nên phần lớn những ngành này là những ngành sử dụng nhiều lao động.
Trong những năm qua đã hình thành một số ngành sản xuất như vậy. Trong lĩnh vực công nghiệp là những ngành như dệt may, da giầy, sắt thép, xi măng, phân hóa học, v.v... Trong lĩnh vực nông nghiệp là một số ngành trồng trọt như mía đường, gạo, cà phê, cao su thiên nhiên, hạt tiêu, v.v... Trong lĩnh vực thủy sản là nuôi tôm, nuôi cá. Có thể thấy rằng những ngành sản xuất Việt nam có lợi thế so sánh cao như lúa gạo hay nuôi cá thì khả năng bị nước ngoài áp dụng thuế chống bán phá giá khá lớn. Ngược lại, những ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ tương đối tiên tiến như sắt thép, xi măng lại được bảo hộ rất cao bằng các công cụ thuế quan và hạn chế định lượng. Do đó, mặc dù có nhiều khả năng nước ngoài đã bán phá giá vào Việt nam một số mặt hàng, chẳng hạn sắt thép hay xi măng, nhưng nhu cầu sử dụng công cụ thuế chống bán phá giá chưa xuất hiện.
Trong những năm tới tình hình sẽ thay đổi. Một mặt, nhiều ngành sẽ xuất hiện với qui mô sản xuất hàng hóa như công nghiệp hóa dầu, điện tử, chăn nuôi lợn, chế biến sữa, chế biến nông sản, v.v... Mặt khác, do các cam kết với các tổ chức kinh tế - thương mại quốc tế và khu vực, Việt nam sẽ dần dần phải cắt giảm và tiến tới loại bỏ các biện pháp hạn chế định lượng. Phần lớn những ngành này có sức cạnh tranh chưa cao nên nhu cầu áp dụng thuế chống bán phá giá để tăng cường bảo hộ sẽ ngày càng lớn.
Ngoài ra, đường lối lâu dài của Việt nam là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong một số lĩnh vực sản xuất hàng hóa, nhưng các doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ phát triển nhanh về số lượng cũng như qui mô.
Điều này đặt ra vấn đề triển khai áp dụng thuế chống bán phá giá như thế nào để đảm bảo được lợi ích cao nhất cho toàn xã hội. Rõ ràng là các doanh nghiệp lớn có sức mạnh chính trị đáng kể nên có nhiều cơ hội hơn trong việc vận động các cơ quan có thẩm quyền điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá cho các sản phẩm của họ. Nhưng với hàng trăm doanh nghiệp tư nhân, trong nhiều trường hợp là hàng vạn hộ nông dân, thì sức mạnh chính trị của họ nhiều khi lại không cao. Do đó, cần có cơ chế thực thi thích hợp để có thể bảo hộ được nhóm các nhà sản xuất này.
3.2 Giải pháp nâng cao khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO
Chống phá giá luôn là một công cụ lợi hại mà các nước đã, đang và sẽ sử dụng để bảo hộ sản xuất trong nước và bảo đảm một nền thương mại công bằng. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Việt Nam đang tích cực tham gia với những cấp độ khác nhau. Chính điều này đòi hỏi các doanh nghiệp và các nhà quản lý Việt Nam phải chủ động đề phòng và tham gia tích cực vào các vụ kiện bán phá giá trên thị trường quốc tế.
3.2.1 Một số giải pháp đối với doanh nghiệp
Bán phá giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đối với những doanh nghiệp trong nước. Do vậy, để có thể đứng vững và tiếp tục sản xuất, doanh nghiệp trong nước cần thực hiện một số giải pháp:
3.2.1.1. Nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp, nhà sản xuất
Nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp, các nhà sản xuất là những việc đầu tiên cần phải làm để góp phần hạn chế tình trạng bán phá giá tại Việt Nam, bảo hộ sản xuất trong nước phát triển.
Nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp bao gồm một số vấn đề chính:
Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức trong việc sẵn sàng và chủ động tham gia vụ kiện về bán phá giá. Đây được xem là cơ hội để các doanh nghiệp thu thập thông tin về vấn đề này và chứng minh tính hợp lý của giá xuất khẩu hàng hóa. Một khi các doanh nghiệp Việt Nam đứng ngoài là đã tự đánh mất quyền được khiếu nại và quyền kháng nghị của mình. Khi đó, các cơ quan điều tra sẽ đưa ra những phán quyết của riêng họ và áp đặt các biện pháp chống phá giá, tất nhiên là có lợi cho họ. Mặt khác, khi các doanh nghiệp nước ngoài thắng kiện, họ sẽ không ngần ngại tiếp tục kiện các hàng hóa khác, và như vậy thì cơ hội xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ giảm đi nhanh chóng. Tham gia vụ kiện (rất có thể bị thua do những áp đặt vô lý), các doanh nghiệp có thể rất tốn kém, nhưng từ chối tham gia là sẽ chấp nhận thiệt hại mà thông thường còn lớn hơn nhiều.
Thứ hai, kêu gọi các doanh nghiệp hình thành những Hiệp hội sản xuất để có thể vừa đứng vững và phát triển khi các công ty cùng với sản phẩm nước ngoài ồ ạt vào Việt Nam. Cần nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp rằng hình thành nên những hiệp hộ như vậy không có nghĩa phải chia sẻ thị trường, khách hàng và giảm hiệu quả sản xuất, kinh doanh mà là hợp tác nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá Việt Nam đối với hàng hoá nước ngoài trên thị trường trong nước. Thuế chống phá giá sẽ áp đặt cho tất cả các doanh nghiệp có hàng xuất khẩu, vì thế khi bị kiện, rất cần có sự tham gia và ủng hộ của tất cả các doanh nghiệp. Nếu đứng ngoài cuộc sẽ luôn bị áp đặt mức thuế suất cao nhất. Do đó, cùng đoàn kết thống nhất để tham gia vụ kiện là bài học quan trọng mà các doanh nghiệp Trung Quốc đã rút ra khi tham gia vụ kiện về nước táo ép của họ và các vụ kiện khác.
Thứ ba, cần tổ chức, tuyên truyền cho các doanh nghiệp có những hiểu biết nhất định về quyền của họ đối với việc tiến hành điều tra áp dụng thuế chống bán phá giá, nghĩa vụ tham gia của họ trong tiến trình điều tra.
3.2.1.2. Tăng cường công tác điều tra nhằm phát hiện trường hợp bán phá giá
Các doanh nghiệp cần cố gắng để cuộc điều tra sơ bộ về chống bán phá giá dẫn đến kết luận tốt nhất. Vấn đề rất quan trọng là, các doanh nghiệp phải tìm hiểu thật kỹ và trả lời tất cả các câu hỏi do cơ quan điều tra nêu ra trong bảng câu hỏi điều tra một cách hợp lý nhất và trong thời gian sớm nhất. Sự minh bạch và rõ ràng trong các câu trả lời sẽ tạo ấn tượng tốt với các cơ quan điều tra. Sự tham vấn các ý kiến của các luật sư có uy tín trong trường hợp này là rất quan trọng.
Cần có những chứng cứ xác đáng để chứng minh việc bán giá thấp (nếu có) đã không gây thiệt hại cho nền sản xuất của nước nhập khẩu (lượng hàng xuất khẩu chiếm dưới 3% tổng khối lượng nhập khẩu mặt hàng đó của nước có hàng bán giá thấp) và nếu có chăng thì biên độ bị coi là phá giá là không đáng kể (dưới 2%). Đồng thời, có thể thương lượng với cơ quan đưa ra phán quyết của nước này nhằm đạt được thoả thuận về hạn chế định lượng hoặc chấp nhận một mức giá tối thiểu thay vì bị áp đặt thuế chống phá giá.
Ngoài ra, trong điều kiện có thể, hãy thuyết phục các công ty nhập khẩu của nước ngoài cùng lên tiếng trước các cơ quan điều tra rằng, thực sự không có tổn hại đáng kể.
3.1.2.3. Nâng cao sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước
Sức cạnh tranh của doanh nghiệp đóng vai trò lớn trong điều kiện hội nhập WTO như Việt Nam hiện nay. Khả năng cạnh tranh cao sẽ giúp các doanh nghiệp trong nước đứng vững hơn với hàng hoạt hàng hoá và công ty nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong nước. Không chỉ vậy, khi sức cạnh tranh doanh nghiệp trong nước cao thì khả năng xác định trường hợp bán phá giá cũng dễ dàng hơn vì vị thế của doanh nghiệp trong nước lúc này cao hơn.
Để nâng cao sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước cần thực hiện một số giải pháp:
Trước hết, ở cấp vĩ mô, để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, cần tập trung cao độ cho một số khâu: Từng bước tạo dựng và củng cố một cơ cấu kinh tế có năng lực cạnh tranh bằng cách chuyển mạnh hướng đầu tư nhà nước sang phát triển các ngành hướng vào xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động và dựa chủ yếu trên cơ chế thị trường định hướng XHCN. Tập trung phát triển một số thể chế thị trường đang kém phát triển, thí dụ thị trường bất động sản, thị trường tài chính và thị trường lao động, để tạo lập khung thể chế thị trường đồng bộ. Ðẩy mạnh quá trình đổi mới các doanh nghiệp nhà nước, trên cơ sở đó mà nâng cấp và hoàn thiện dần môi trường kinh doanh bình đẳng. Ðẩy mạnh cải cách hành chính, tập trung vào việc phân định rõ chức năng của các khâu quản lý nhà nước và tăng cường công tác giám sát, chế tài việc thừa hành công vụ.
Ở cấp vi mô, để nâng cao sức cạnh tranh doanh nghiệp, có rất nhiều việc cụ thể phải làm. Trên bình diện chung, xin được nêu hai điểm quan trọng:
Một là, tăng cường mức độ sẵn sàng hội nhập kinh tế quốc tế trên mọi phương diện. Mỗi doanh nghiệp cần nhanh chóng xây dựng một chiến lược hội nhập với lộ trình rõ ràng và các giải pháp tích cực, khả thi. Ðây là điều kiện tiên quyết cho mọi hành động đúng xu thế phát triển của doanh nghiệp hiện nay.
Hai là, định hướng phát triển doanh nghiệp với một tầm nhìn chiến lược đủ xa và phù hợp xu hướng phát triển của thế giới và khả năng tạo dựng lợi thế cạnh tranh mới của chính mình.
Thực chất, việc thực hiện hai yêu cầu nêu trên đã bao hàm việc giải quyết nhiều vấn đề khác liên quan toàn bộ hoạt động kinh doanh theo hướng hội nhập của doanh nghiệp. Tuy nhiên, có thể coi đó là hai khâu đột phá cần được xử lý sớm.
3.2.2 Một số kiến nghị đối với Nhà nước
Nhà nước với vai trò quản lý ở cấp vĩ mô cúng cần thực hiện những giải pháp nhằm tăng khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá ở Việt Nam, đưa công cụ này trở thành công cụ bảo hộ mạnh. Những giải pháp Nhà nước cần phải thực hiện:
Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế chống bán phá giá.
Cơ chế chống bán phá giá bao gồm văn bản pháp luật và cơ quan thực hiện. Để hoàn thiện hơn cơ chế này, Nhà nước cần thực hiện:
Một là, để chống lại việc bán phá giá tại Việt Nam, rõ ràng đến thời điểm này, sự ra đời của một văn bản pháp luật về chống phá giá là rất cấp bách, nhất là khi Việt Nam đã ký hiệp định thương mại song phương với nhiều nước và đang chuẩn bị để gia nhập WTO. nghiệm.
Hai là, hoàn thiện bộ máy quản lý bao gồm:
* Tổ chức bộ máy thực hiện:
- Cơ quan làm đầu mối quản lý Nhà nước về việc chống bán phá giá: tiếp nhận đơn yêu cầu điều tra, tiến hành điều tra và ra kết luận về mức thuế chống bán phá giá.
- Cơ quan thu thuế chống bán phá giá.
- Các cơ quan phối hợp: trách nhiệm và quyền hạn cụ thể.
* Tổ chức bộ máy thực thi thuế chống bán phá giá
Trên thực tế ban hành Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá đã khó nhưng thực thi nó còn khó hơn. Các chương trước đã phân tích chi tiết về sự phức tạp của hoạt động điều tra hàng nhập khẩu bị bán phá giá theo qui định tại Hiệp định về Chống bán phá giá của WTO cũng như điều tra thiệt hại đối với các nhà sản xuất sản phẩm tương tự trong nước do hàng nhập khẩu bị bán phá giá gây ra. Cần phải có bộ máy thực thi hiệu quả thì mới đạt được mục tiêu của Pháp lệnh cũng như tránh được các tranh chấp quốc tế do việc áp dụng thuế chống bán phá giá không phù hợp với Hiệp định về Chống bán phá giá.
Nếu tách cơ quan điều tra thiệt hại độc lập với cơ quan điều tra bán phá giá thì sẽ đảm bảo khách quan hơn nhưng tổ chức lại cồng kềnh. Như vậy Việt nam nên tiếp cận theo hướng chỉ có một cơ quan chung vừa điều tra bán phá giá vừa điều tra thiệt hại. Đồng thời cần có những qui định chặt chẽ và tuyển chọn cán bộ có đạo đức tốt để đảm nhận công việc điều tra thiệt hại.
Cơ quan thực thi có thể là một Ủy ban do Bộ trưởng Thương mại đứng đầu, các thành viên là các thứ trưởng Bộ Tài chính, Công nghiệp, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Xây dựng, Giao thông vận tải và một số chuyên gia về luật thương mại quốc tế, kế toán, kinh tế.
Thứ hai, cần xác định trường hợp cụ thể cần áp dụng thuế chống bán phá giá
Khi áp dụng thuế chống bán phá giá thì lợi ích chung về mặt kinh tế của toàn xã hội có thể bị giảm. Do đó, vấn đề đầu tiên đặt ra là có nên áp dụng thuế này không ngay cả khi các điều kiện cần thiết để áp dụng thuế này đã được tuân thủ. Nói cách khác, ngay cả khi đã có đủ các điều kiện để áp dụng thuế chống bán phá giá theo các qui định của Hiệp định về thuế chống bán phá giá của WTO, cơ quan chức năng vẫn cần cân nhắc mọi yếu tố liên quan để quyết định có nên áp dụng thuế này không. Ví dụ, thịt cừu của New Zealand bị bán phá giá vào Việt nam và gây thiệt hại cho một số nông dân nuôi cừu. Nhưng một mặt chính phủ thấy rằng hiệu quả của việc nuôi cừu ở Việt nam rất thấp nên cần khuyến khích những nông dân đó nuôi dê, mặt khác chính phủ đang khuyến khích phát triển du lịch, trong đó việc cung cấp thịt cừu chất lượng cao với giá thấp là một yếu tố thúc đẩy du khách vào Việt nam. Trong trường hợp đó không nhất thiết phải áp dụng thuế chống bán phá giá với thịt cừu nhập khẩu từ New Zealand.
Thứ ba, bổ sung nguồn nhân lực
Song song với việc ban hành văn bản pháp lý về thuế chống bán phá giá, Việt nam cần nhanh chóng đào tạo nguồn nhân lực ở nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan tới áp dụng thuế này. Chẳng hạn, cần có kế hoạch đào tạo sớm các luật sư chuyên về thương mại quốc tế để họ có thể tham gia giải quyết tranh chấp liên quan tới việc áp dụng thuế này. Thật vậy, việc áp dụng thuế chống bán phá giá phải tuân thủ nghiêm ngặt các qui định của WTO. Do đó có nhiều tình huống Việt nam phải đương đầu với cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này. Nếu không có sự đào tạo các luật sư có đủ năng lực thì Việt nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan tới áp dụng thuế chống bán phá giá.
Thứ tư, khuyến khích doanh nghiệp, nhà sản xuất hình thành những hiệp hội
Việt nam cũng cần củng cố và khuyến khích các nhà sản xuất thành lập các hiệp hội. Thông qua hiệp hội các nhà sản xuất sẽ dễ dàng hơn trong việc nộp đơn yêu cầu cơ quan chức năng khởi đầu điều tra phá giá. Ngoài ra, chính các hiệp hội mới có nhiều điều kiện để cung cấp và thẩm định nhiều thông tin liên quan tới việc nhà xuất khẩu bán phá giá, giá bán trong nước, chi phí sản xuất tại nước xuất khẩu, v.v... Nhà nước cần có kế hoạch phổ biến cho các hiệp hội về các vấn đề liên quan tới thuế chống bán phá giá.
Thứ năm, nghiên cứu xu hướng áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới
Việt nam cũng cần nghiên cứu về xu hướng áp dụng thuế này trên thế giới để có thể có những quyết định thích hợp với các đối tác thương mại, vừa cân bằng được lợi ích của nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng trong nước, vừa không gây căng thẳng trong quan hệ thương mại, ngoại giao với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ sáu, cần kết hợp áp dụng thuế chống bán phá giá với một số công cụ bảo hộ khác
Rõ ràng là từ nay trở đi các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước, cả thuế quan lẫn phi thuế quan - đặc biệt là các biện pháp hạn chế định lượng như cấm nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu không tự động, sẽ ngày càng giảm. Việt nam cần phải áp dụng các công cụ mới vừa có tác động bảo hộ sản xuất trong nước theo hướng tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng vừa phù hợp với luật thương mại quốc tế. Thuế chống bán phá giá là một công cụ như vậy. Bán phá giá là một hiện tượng kinh tế bình thường, không bị cấm theo qui định của luật thương mại quốc tế. Khi mà Việt nam phải cắt giảm các biện pháp hạn chế định lượng thì khả năng hàng nhập khẩu bị bán phá giá vào Việt nam sẽ càng tăng. Vì vậy, Việt nam cần phải nhanh chóng áp dụng thuế chống bán phá giá. Đây vừa là công cụ bảo hộ hợp pháp cho sản xuất trong nước, vừa đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng với các nhà sản xuất của nước ngoài.
Thứ bảy, nâng cao nhận thức cho các cơ quan quản lý và nghiên cứu
Muốn áp dụng được thuế chống bán phá giá cần có sự tham gia phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan từ trung ương tới địa phương và doanh nghiệp.
Đối với những cơ quan quản lý nhà nước cần nhanh chóng tổ chức các khóa đào tạo về áp dụng thuế chống bán phá giá cho đông đảo cán bộ các bộ ngành. Nội dung của các khóa đào tạo này sẽ bao gồm những vấn đề kinh tế liên quan tới bán phá giá, những qui định về thuế chống bán phá giá của WTO, kinh nghiệm áp dụng thuế chống bán phá giá của một số nước và những vấn đề đang nổi lên tại Vòng đàm phán Doha của WTO liên quan tới vấn đề chống bán phá giá.
Đối với các cơ quan nghiên cứu, cần triển khai nghiên cứu các đề tài về chống bán phá giá và tư vấn cho các nhà hoạch định chính sách về những ưu điểm cũng như nhược điểm của hệ thống chính sách hiện tại liên quan tới chống bán phá giá. Đồng thời, các cơ quan nghiên cứu cũng phải đi tiên phong trong việc đưa ra các khuyến nghị về áp dụng thuế chống bán phá giá trong các trường hợp cụ thể, đặc biệt là khi cơ quan chức năng đã quyết định điều tra. Những khuyến nghị cần cụ thể như có nên áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu đang được điều tra hay không, lợi ích và thiệt hại đối với mỗi nhóm là bao nhiêu, thuế suất có đúng bằng mức biên độ phá giá không hay nên thấp hơn, những phản ứng quốc tế khi áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ như thế nào, v.v...
KẾT LUẬN
Trong thương mại quốc tế bán phá giá là một hiện tượng kinh tế bình thường. Tuy nhiên những năm gần đây song song với thương mại toàn cầu ngày càng tự do hoá thì các biện pháp chống bán phá giá được áp dụng ngày càng tăng. Đã có những ý kiến cho rằng biện pháp này đã bị lạm dụng như một hàng rào phi thuế quan để bảo hộ cho sản xuất trong nước.
Trong những năm qua, chính sách thương mại của Việt nam đã tiến một bước dài theo hướng tự do hóa và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Chính sách này đã góp phần tích cực cho sự phát triển kinh tế khá nhanh và ổn định của Việt nam trong những năm qua. Trong khi Việt nam chưa có công cụ pháp lý để ngăn chặn hàng nhập khẩu bị bán phá giá và gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hoá tương tự trong nước thì hàng xuất khẩu của ta lại càng ngày càng hay bị điều tra bán phá giá. Do vậy, Việt nam cần tăng cường khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá để bảo hộ sản xuất trong nước và đây cũng là nội dung nghiên cứu của chuyên đề thực tập.
Chuyên đề đã trình bày những vấn đề chung về bán phá giá và tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới. Cùng với quá trình nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng thuế chống bán phá giá ở Việt Nam, chuyên đề đã xác định nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp về phía doanh nghiệp và nhà nước để đưa chống bán phá giá là công cụ hữu hiệu.
Với khối lượng kiến thức và sự hiểu biết còn bị hạn chế chính vì vậy đề tài của em còn nhiều thiếu sót rất mong được sự giúp đỡ của Thầy và cán bộ cơ quan nơi em thực tập để đề tài của em hoàn thiện hơn nữa. Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo của Uỷ ban Chống bán phá giá, Ban Thư ký WTO, cập nhật hàng tháng
Bộ Thương mại, Kiến thức cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế, 2004.
Các liên kết kinh tế-thương mại quốc tế, Nguyễn Vũ Hoàng, NXB Thanh Niên, 2003
4. Hiệp định chống bán phá giá của WTO
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1994)
Ngân hàng thế giới, Việt Nam sẵn sàng gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), NXB Khoa học xã hội, 2004.
Pháp lệnh chống bán phá giá của Việt Nam, 2003
Trường Đại học Luật Hà Nội Giáo trình quan hệ kinh tế quốc tế, , NXB Công an nhân dân, 2004.
Các trang Web:
www.vnexpress.net
www.Vietnamnet.TV
www.Nciec.gov.vn
www.mof.gov.vn
home.netnam.vn
MỤC LỤC
Lời cảm ơn 1
Lời mở đầu 1
Chương 1: Những vấn đề tổng quan về bán phá giá và tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới 4
1.1. Quan điểm về bán phá giá 4
1.1.1. Khái niệm 4
1.1.2. Cơ sở kinh tế của việc bán phá giá 17
1.1.3. Quy định WTO về chống bán phá giá 17
1.2. Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới 20
Chương 2: Thực trạng áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam 39
2.1. Quan điểm hiện tại của Việt Nam liên quan đến chống bán phá giá
và tác động của việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với sản xuất
trong nước 39
2.1.1. Quan điểm 39
2.1.2. Tác động 40
2.2. Thực trạng áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam 42
2.3. Đánh giá 42
2.3.1. Ưu điểm 46
2.3.2. Hạn chế 49
2.4. Nguyên nhân 51
2.4.1. Nguyên nhân chủ quan 51
2.4.2. Nguyên nhân khách quan 52
Chương 3: Giải pháp 55
3.1. Dự báo tình hình phát triển kinh tế Việt Nam khi áp dụng thuế chống bán phá giá 55
3.2. Giải pháp 57
3.2.1. Giải pháp về phía doanh nghiệp 57
3.2.2. Giải pháp về phía nhà nước 60
Kết luận 66
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Chữ viết tắt
Giải thích
1
AVC
Chi phí biến đổi trung bình
2
ATC
Chi phí trung bình
3
BDPG
Biên độ phá giá
4
CIF
Giá
5
EU
Liên minh Châu Âu
6
GATT
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
7
GS
Giáo sư
8
GTTT
Giá trị gia tăng
9
GXK
Giá xuất khẩu
10
MC
Chi phí biên
11
MR
Thu nhập biên
12
NXB
Nhà xuất bản
13
QH
Quốc hội
14
TS
Tiến sĩ
15
WT
Uỷ ban chống bán phá giá
16
WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5275.doc