Qua quá trình nghiên cứu đề án về giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranhcủa các NHTM, em đã rút ra một số vấn đề sau:
Từ lý luận chung về cạnh tranh, có thể cho thấy cạnh tranh là điều tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh trong giai đoạn này sẽ giúp cho các ngân hàng phát triển nhanh hơn, tự hoàn thiện mình để phục vụ khách hàng tốt hơn. Đề án có nghiên cứu về lý luận chung của ngân hàng, trên cơ sở đó nêu ra các yếu tố ảnh hưởng chủ yếu đến quá trình cạnh tranh của các NHTM. Qua việc nêu lên một số thực tiễn về ngành ngân hàgn ở Việt Nam hiện nay, đề án đã đề cập đến một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh.
30 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1410 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài sản, trang thiết bị ban đầu cần thiết cho hoạt động ngân hàng; phát triển kỹ thuật ngân hàng; hùn vốn và liên doanh; kinh doanh (cho vay) và các dịch vụ khác của ngân hàng.
- Vốn coi như tự có: bao gồm các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của ngân hàng. Thí dụ như : lợi nhuận chưa chia, tiền lương chưa đến hạn thanh toán hoặc các quỹ chuyên dùng chưa sử dụng đến như quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ khấu hao tài sản cố định...
- Vốn dự trữ : được hình thành từ lợi nhuận ròng hàng năm của ngân hàng. Từ vốn này các nhà ngân hàng thành lập hai quỹ: quỹ dự trữ để bổ sung vốn điều lệ và quỹ đặc biệt để bù đắp rủi ro. Việc hình thành các quỹ này nhằm làm tăng vốn tự có của ngân hàng, đồng thời bảo đảm an toàn trong kinh doanh.
Vốn của ngân hàng thường chiếm tỉ trọng nhỏ (không quá 10%) trong tổng nguồn vốn mà ngân hàng nắm giữ nhưng lại là nguồn vốn có ý nghĩa đặc biệt vì nó phản ánh thực lực tài chính của ngân hàng, do vậy nó quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng, là cơ sở để ngân hàng tiến hành kinh doanh, thu hút những nguồn vốn khác và cho vay.
+ Vốn huy động: là nguồn vốn quan trọng nhất trong số vốn thu hút từ bên ngoài của các NHTM, chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong nguồn vốn của ngân hàng. Đây là tài sản của các chủ sở hữu, ngân hàng được quyền sử dụng có thời hạn cả vốn lẫn lãi. Vốn này bao gồm:
- Tiền gửi không kỳ hạn: là loại tiền gửi mà người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào. Tiền gửi không kỳ hạn được để trong các tài khoản gọi là tài khoản vãng lai. Do tính chất có thể rút ra bất cứ lúc nào nên dạng tiền gửi này thường chỉ được hưởng lãi suất rất thấp hoặc không được ngân hàng trả lãi nhưng đổi lại người gửi tiền được sử dụng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Với loại tiền gửi này, người gửi không nhằm mục đích hưởng lãi mà chủ yếu là nhằm đảm bảo an toàn cho khoản tiền. Chính vì vậy mà loại tiền gửi này còn được gọi là tiền gửi thanh toán. Tiền gửi không kỳ hạn là một nguồn vốn quan trọng của ngân hàng. Tuy nhiên nguồn vốn này thường xuyên biến động nên ngân hàng chủ yếu dùng nó để cho vay ngắn hạn.
- Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi mà người gửi chỉ được rút ra sau một thời hạn nhất định từ một vài thánh đến vaì năm. Những người gửi tiền loại này không được hưởng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, nhưng được ngân hàng trả lại cao. Mục đích chủ yếu của những người gửi tiền có kỳ hạn là để lấy lãi.
- Tiền gửi tiết kiệm: là khoản tiền để dành của cá nhân được gởi vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi theo định kỳ. Các kỳ hạn gởi thường là 1, 3, 6, 9, 12 tháng hoặc trên một năm, các mức lãi suất tương ứng với từng kỳ hạn gửi được ngân hàng công bố sẵn.
Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng kinh doanh. Nó phản ánh bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay.
+ Vốn đi vay: bao gồm vay của ngân hàng nhà nước; vay ngân hàng nước ngoài, vay các tổ chức tín dụng, vay từ thị trường tài chính... NHTMcó trách nhiệm sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả kinh tế, đem lại lợi nhuận, hoàn trả đúng hạn cả vốn và lãi.
+ Các nguồn vốn khác:
- Vốn tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn uỷ thác đầu tư để cho vay theo các chương trình, dự án xây dựng cơ bản tập trung của nhà nước hoặc trợ giúp cho đầu tư phát triển những chương trình dự án có mục tiêu riêng.
- Vốn hình thành trong quá trình hoạt động nghiệp vụ, sử dụng theo quy định của ngân hàng nhà nước.
2.2.2. Nghiệp vụ có.
Nghiệp vụ này bao gồm các nghiệp vụ liên quan đến việc sử dụng các khoản vốn có được từ nghiệp vụ tài sản nợ.
+ Nghiệp vụ ngân quỹ: với mục đích đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên, ngân hàng luôn giữ một lượng tiền mặt dưới các dạng: tiền mặt tại quỹ của ngân hàng (để thực hiện chi trả trong ngày); tiền gửi tại các NHTM khác (để thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, chuyển tiền cho khách hàng); tiền gửi tại ngân hàng trung ương (bao gồm tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi thanh toán); tiền mặt trong quá trình thu. Ngoài ra ngân hàng còn giữ các chứng khoán ngắn hạn, có thể chuyển thành tiền mặt nhanh chóng khi cần như ngân phiếu, tín phiếu, thương phiếu...
+ Nghiệp vụ cho vay và đầu tư :
- Nghiệp vụ cho vay : chiếm khoảng 2/3 tổng tài sản có, mang lại lợi nhuận chủ yếu cho NHTM. Đây là khoản mục sinh lời cao nhất nhưng nó cũng chứa rất nhiều rủi ro. Tuỳ theo từng góc độ mà người ta chia thành nhiều loại cho vay khác nhau:
Căn cứ vào thời hạn người ta chia thành:
Cho vay ngắn hạn với thời hạn dưới một năm, chủ yếu đấp ứng nhu cầu bổ sung cho vốn lưu động để tăng thêm tài sản lưu động.
Cho vay trung hạn và cho vay dài hạn chủ yếu đáp ứng nhu cầu bổ sung cho vốn cố định để tăng thêm tài sản cố định.
Căn cứ vào đối tượng sản xuất chia thành:
Cho vay đối với khu vực sản xuất như cho vay đối với lĩnh vực công nghiệp, sản xuất nông nghiệp... Tạo ra sản phẩm.
Cho vay đối với khu vực sản xuất lưu thông phân phối trong lĩnh vực thương nghiệp hoặc y tế, văn hoá, thể thao.. trong lĩnh vực hành chính sự nghiệp.
Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền vay:
Cho vay mang tính chất đầu tư là việc cung cấp vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển sản xuất, là hình thức bổ sung thêm nguồn vốn vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của người có nhu cầu vay vốn.
Cho vay mang tính chất thanh toán chi trả: những khoản vay này mang tính chất tạm thời trong khoảng thời gian doanh nghiệp chưa kịp thu tiền bán hàng hoá để thanh toán cho việc mua hàng hay trả dịch vụ. Đây là khoản bổ sung tạm thời giúp cho doanh nghiệp đó thanh toán các khoản nợ nần chứ không phải làm tăng nguồn vố của doanh nghiệp.
Cho vay mang tính chất dự trữ : người có nhu cầu vay vốn không dùng vốn vay mở rộng sản xuất, mà để thanh toán tiền hàng hoá với thời gian dài nhằm phục vụ cho việc dự trữ hàng hoá.
Căn cứ vào nghiệp vụ cho vay:
Cho vay theo nghiệp vụ kỳ phiếu tức là thực hiện cho vay bằng việc chiết khấu kỳ phiếu thương mại khi các kỳ phiếu này chưa đến hạn thanh toán. Hoặc thông qua các kỳ phiếu này dùng để đảm bảo cho tiền vay là hình thức cho vay theo nghiệp vụ cầm cố kỳ phiếu.
Cho vay theo nghiệp vụ chứng khoán: đây là cấp phát vay kinh doanh chứng khoán.
- Nghiệp vụ đầu tư : NHTM có thể đầu tư theo các hình thức góp vốn liên doanh, kinh doanh bất động sản, lưu giữ chứng khoán.
2.2.3. Nghiệp vụ trung gian:
ở nghiệp vụ này NHTM không cho khách hàng vay mà thực hiện nhiệm vụ phục vụ khách như thực hiện các uỷ thác, uỷ nhiệm của khách hàng trong khâu thanh toán, đòi nợ, giữ hộ... để thu lệ phí.
Nghiệp vụ chuyển tiền.
Khách hàng mang tiền mặt tới ngân hàng nhờ chuyển đến người thứ ba, về mặt kỹ thuật các nghiệp vụ này được thực hiện nhờ các chứng từ chuyển tiền như các séc,phiếu chuyển tiền... Các chứng từ này là lệnh của một ngân hàng khác cho tài khoản của ngân hàng này mở tại đó thanh toán số tiền tương ứng.
Nghiệp vụ thanh toán chứng từ (còn gọi là nghiệp vụ thu hộ hay uỷ thác):
Ngân hàng thay mặt khách thu tiền theo uỷ nhiệm với các chứng từ kèm theo.
Nghiệp vụ thư tín dụng có hai loại: thư tín dụng hàng hoá và thư tín dụng tiền tệ.
Thực hiện nghiệp vụ thư tín dụng hàng hoá là việc người mua hàng hoá không trả trợc tiếp tiền cho bên bán mà thông qua ngân hàng, uỷ nhiệm ngân hàng trả số tiền đó với điều kiện đã nhận hàng hay chứng từ hàng hoá tương ứng.
Nghiệp vụ thư tín dụng tiền tệ khác với thư tín dụng hàng hoá. Thư tín dụng tiền tệ là một chứng từ ngân hàng cấp cho khách, chứng thực việc khách hàng có tại ngân hàng một khoản tiền, có quyền nhận trong giới hạn tổng số tiền đó (toàn bộ hay một phần) ở các thành phố khác, nước khác tại chi nhánh hay đại lý của ngân hàng đó: Thư tín dụng tiền tệ là một loại đặc biệt của chuyển tiền, được sử dụng thông dụng trong việc đi du lịch của khách.
Các nghiệp vụ thu hộ là nghiệp vụ mà ngân hàng thay mặt khách hàng nhận tiền theo các chứng khoán khác nhau như séc, kỳ phiếu, các chứng từ hàng hoá và chứng khoán có giá. Thu hộ séc có liên quan đến việc các khách hàng nhận chi trả bằng séc lập tại ngân hàng khác. Việc chuyển séc đến ngân hàng thu hộ có nghĩa là khách hàng uỷ nhiệm cho ngân hàng của mình nhận tiền chi trả. Thu hộ là nghiệp vụ trung gian với diều kiện kèm theo các chứng từ.
Đối với các nghiệp vụ uỷ thác ngân hàng thực hiện uỷ nhiệm của các khách hàng gồm có: Tạm thời quản lý tài sản hộ khách hàng, thực hiện các uỷ nhiệm về chuyển quyền thừa kế tài sản.
Nghiệp vụ phát hành chứng khoán.
Đây là nghiệp vụ quan trọng nhất trong các nghiệp vụ trung gian. Các công ty cổ phần, các doanh nghiệp muốn phát hành chứng khoán có giá trị như cổ phiếu, kỳ phiếu đầu tư có mục đích, trái khoán xí nghiệp nhằm thu hút vốn để tăng nguồn vốn, bổ sung vào vốn. Hay khi Nhà nước phát hành công trái thì thường nhờ các ngân hàng, thông qua NHTM làm trung gian tiêu thụ các chứng khoán có giá đó, và được nhận số tiền thù lao tỷ lệ quy định từ người phát hành. Nghiệp vụ này ngày càng phát triển trong nền kinh tế hiện đại.
3. Các yếu tố nâng cao năng lực cạnh tranh.
Hoạt động của các NHTM rất phong phú và đa dạng nên có rất nhiều yếu tố ảnh hưởn đến khả năng cạnh tranh của mỗi ngân hàng (bao gồm cả yếu tố chủ quan và khách quan). Hơn nữa, các quan điểm khác nhau cũng sẽ dẫn đến các cách phân chia yếu tố nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi ngân hàng khác nhau. Vì khuôn khổ đề án có hạn và kiến thức hạn chế, em xin chỉ đề cập đến một vài yếu tố cơ bản sau:
3.1. Quy mô vốn chủ sở hữu:
Vốn chủ sở hữu của NHTM đóng vai trò sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật và bảo đảm cho ngân hàng khả năng phát triển lâu dài.
Nguồn vốn này đóng vai trò là một tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá sản, vì vốn giúp trang trải những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ cho tới khi ban quản lý có thể tập trung giải quyết các vấn đề và đưa ngân hàng trở lại trạng thái hoạt động sinh lời.
Vốn tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ (kể cả người gửi tiền) về sức mạnh tài chính của ngân hàng. Ngân hàng cần phải đủ mạnh để có thể đảm bảo với những người đi vay rằng ngân hàng có thể đáp ứng được các nhu cầu tín dụng của họ ngay cả trong điều kiện nền kinh tế đang gặp khó khăn. Hơn nữa, quy mô vốn lớn mạnh sẽ giúp cho ngân hàng huy dộng được nhiều vốn hơn, do các khách hàng thường có quan niệm gửi tiền vào các ngân hàng lớn thì sẽ yên tâm hơn.
Vốn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị mới. Khi một ngân hàng phát triển, nó cần vố bổ sung để thúc đảy tăng trưởng và chấp nhận rủi ro gắn với sự ra đời của những dịch vụ mới và những trang thiết bị mới. Sự bổ sung vốn sẽ cho phép ngân hàng mở rộng trụ sở, xây dựng thêm những văn phòng chi nhánh để theo kịp với sự phát triển của thị trường và tăng cường chất lượng phục vụ khách hàng.
Vốn được xem như một phương tiện điều tiết sự tăng trưởng, giúp đảm bảo rằng sự tăng trưởng của một ngân hàng có thể được duy trì ổn định, lâu dài. Có nghĩa là vốn ngân hàng cần phải được phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh mục cho vay và của những tài sản rủi ro khác.
Ngoài ra, quy mô vốn lớn giúp cho ngân hàng có thể đáp ứng được mọi nhu cầu về vốn của doanh nghiệp. Với các khoản cho vay kinh doanh giá trị lớn thì chỉ có những ngân hàng hàng đầu với trạng thái vốn chủ sở hữu dồi dào mới có thể đáp ứng được. Những ngân hàng có quy mô vốn giảm sút sẽ mất đàn vị trí trên thị trường cho vay kinh doanh giá trị lớn. Như vậy, quy mô vốn của một ngân hàng càng cao khả năng tham gia vào thị trường càng lớn và ngược lại. Hay nói cách khác, quy mô vốn của một ngân hàng xác định phạm vi cạnh tranh của ngân hàng đó.
3.2. Hệ thống thông tin.
Khó có thể tưởng tượng nổi một doanh nghiệp kinh doanh trong môi trường luôn biến động và cạnh tranh gay gắt như ngày nay mà không cần đến thông tin. Thông tin đã trở thành vấn đề thiết yếu, không thể thiếu bởi các lý do sau:
- Thông tin là cơ sở quan trọng trong hoạch định chiến lược kinh doanh cũng như xây dựng kế hoạch tác nghiệp mang tính khả thi cao.
- Thông qua thông tin p0hản hồi người quản lý theo dõi được tốc độ thực hiện kế hoạch, phát hiện những lệch lạc trong xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch; từ đó đưa ra những điều chỉnh kịp thời.
- Dựa vào thông tin trong quá khứ, hiên tại và các phương pháp dự đoán thích hợp, người quản lý tiên đoán được hiện tượng trong tương lai, giúp cho họ chủ động hơn trong điều hành công việc.
Có hai luồng thông tin cơ bản mà người quản lý quan tâm. Đó là thông tin bên ngoài doanh nghiệp và thông tin bên trong doanh nghiệp.
Luồng thông tin bên ngoài sẽ cung cấp cho người quản lý những diễn biến thay đổi của môi trường kinh tế, dân số, văn hoá, xã hội, chính trị, luật pháp, tự nhiên, công nghệ, đối thủ cạnh tranh, nhu cầu khách hàng... từ đó người quản lý sẽ thấy được các cơ hội kinh doanh tốt cũng như những mối đe doạ đối với ngân hàng mình.
Luồng thông tin bên trong cung cấp cho người quản lý biết rõ các điểm mạnh và điểm yếu của các nguồn lực khác nhau trong ngân hàng mình.
Trên cơ sở hai luồng thông tin đó, người quản lý có thể dự đoán trước được những điều gì sẽ xảy ra đối với ngân hàng mình nếu cứ tiếp tục kinh doanh như hiện tại và chủ động đề ra các phương án huy động các nguồn lực một cách tối ưu nhất, nhằm đối phó thành công với những biến đổi bất lợi của môi trường kinh doanh, giữ vững vị thế cạnh tranh của ngân hàng mình.
Ngày nay thông tin được sử dụng như một nguồn lực kinh tế, một vũ khí trong môi trường cạnh tranh. Các tổ chức kinh tế nói chung, ngân hàng nói riêng phải sử dụng thông tin ngày càng nhiều để tăng năng lực, tăng hiệu quả trong hoạt động và đem lại lợi ích cho nền kinh tế cũng như cho ngân hàng.
3.3. Khả năng cung ứng dịch vụ ngân hàng.
Khả năng cung ứng dịch vụ ngân hàng thể hiện ở việc phục vụ kịp thời, thuận tiên và tính linh hoạt của dịch vụ. Muốn vậy, các ngân hàng phải mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả các dịch vụ ngân hàng hiện có, đồng thời đa dạng hoá các sản phẩm cung cấp cho nền kinh tế và các kênh phân phối dịch vụ với công nghệ tiên tiến.
Các ngân hàng mạnh không chỉ thể hiện ở chỗ cung ứng một khối lượng tín dụng lớn cho thị trường mà là ở chỗ phương thớc cấp tín dụng như thế nào. Đối với các ngân hàng tiên tiến, họ cấp tín dụng cho các doanh nghiệp với một lãi suất đầu vào - đầu ra tối thiểu, bùlại họ có rất nhiều nguồn thu nhập từ các dịch vụ khác, giúp cho doanh nghiệp chuyển tải vốn vay một cách kịp thời đúng lúc, đúng nơi và trôi chảy. Hơn nữa một doanh nghiệp kinh doanh đa năng sẽ có nhiều lợi thế trong nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bởi vì:
- Đa dạng hoá nghiệp vụ giúp ngân hàng phân tán và giảm rủi ro. Theo nghiệp vụ truyền thống và cổ điển, ngân hàng thu lợi nhuận chủ yếu từ hoạt động tín dụng, nhưng tín dụng lại là lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro và bất trắc. Vì thế, thực hiện kinh doanh nhiều nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng khác bên cạnh nghiệp vụ tín dụng sẽ giúp phân tán và giảm rủi ro.
- Đa dạng hoá nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng sẽ làm tăng lợi nhuận của NHTM: khi thực hiên đa dạng hoá nghiệp vụ, dịch vụ NHTM sẽ sử dụng triệt để, có hiệu quả cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ của mỗi ngân hàng; do vậy giảm chi phí quản lý và chi phí hoạt động, tăng lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp.
- Chỉ khi thực hiện đa dạng hoá nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng mới cung cấp đượcnhiều loại dịch vụ ngân hàng một cách nhanh chóng, linh hoạt, có chất lượng cho khách hàng và cho nền kinh tế. Hơn nữa, việc phục vụ khách hàng theo phương thức “trọn gói” bao giờ cũng ưu việt hơn phương thức riêng lẻ.
- Tăng khả năng cạnh tranh của NHTM trong nền kinh tế thị trường: để thu hút được nhiều khách hàng hơn, các ngân hàng phải thay đổi, cải tiến hoạt động sao cho đáp ứng kịp thời, thuạn tiên các nhu cầu của khách hàng. Những ngân hàng hoạt động đơn điêu dễ bị phá sản hoặc tự đóng cửa do không dễ dàng chuyển hướng kinh doanh hay giữ cho ngân hàng luôn hoạt động ổn định.
Ngoài việc đa dạng hoá dịch vụ thì đa dạng hoá các kênh phân phối cũng là một trong những yếu tố quan trọng trong việc nâng coa khả năng cạnh tranh của mỗi ngân hàng. Đa dạng hoá các kênh phân phối sẽ giúp cho các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng nhanh chóng đến tay khách hàng.
3.4. Chiến lược khách hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng chính là người đóng vai trò quyết định sự tồn tại hay không tồn tại của một công ty, một tổ chức hoặc cá nhân tiến hành kinh doanh, cung cấp các sản phẩm dịch vụ trong thị trường. Khách hàng là người lựa chọn sản phẩm, hãng kinh doanh trên thị trường phù hợp với nhu cầu của mình. Nếu doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm không phù hợp với thị trường thì dù cho sản phẩm đó có chất lượng tốt đến đâu đi chăng nữa nó cũng không thể tiêu thụ được, doanh nghiệp sẽ lỗ thậm chí sẽ phá sản.
Trong kinh doanh ngân hàng cũng vậy, sự thành công hay thất bại của ngân hàng đều liên quan đến khách hàng. Khách hàng có quyền chọn bất kỳ một ngân hàng nào để gửi tiền, vay tiền hoặc giao dịch. Trước đây, khi chưa có sự thay đổi trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, ngân hàng quốc doanh giữ vai trò độc quyền. Khách hàng muốn có vốn vay hoặc đầu tư bắt buộc phải đến một ngân hàng nhất định tuỳ theo từng lĩnh vực như ngân hàng Công thương Việt Nam chuyên cho vay trong lĩnh vực công nghiệp, thương nghiệp, ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chuyên cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp... Khách hàng không có quyền lựa chọn nên các ngân hàng không cần phải quan tam đến khách hàng, họ chỉ cung cấp những dịch vụ mà họ có. Ngày nay, với sự thay đổi lớn trong hệ thống ngân hàng và sự xuất hiện của hàng chục ngân hàng mới, cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng ngày càng trở nên khốc liệt. Nếu các ngân hàng không quan tâm đến nhu cầu của khách hàng, đến khả năng phục vụ, cách tiếp thị, giới thiệu sản phẩm và ngân hàng mình... hay nói ngắn gọn hơn là quan tâm đến chiến lược khách hàng, thì các ngân hàng đó khó mà tồn tại và phát triển được. Các nhà ngân hàng buộc phải chủ động quan tâm đến việc đáp ứng nhu cầu và mong muốn của khách hàng, ngân hàng cần phải nắm bắt nhanh chóng, chính xác nhu càu của khách hàng để có thể đáp ứng kịp thời. Hơn nữa, sản phẩm mà các ngân hàng cung cấp cho khách hàng thường ít có tính khác biệt, vì vậy chỉ cần ngân hàng có chiến lược khách hàng tốt như thái độ nhân viên hoà nhã, dịch vụ thuân tiện, quảng cáo rộng rãi...thì ngay lập tức ngân hàng sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn.
3.5. Chất lượng nhân viên ngân hàng.
Chúng ta đều biết ngân hàng thuộc ngành kinh doanh dịch vụ, vì vậy có thể nói chất lượng nhân viên ngân hàng là một yếu tố quan trọng để kiến tạo sức mạnh cạnh tranh của các NHTM.
Nhân viên ngân hàng là người trực tiếp thực hiện các chiến lược kinh doanh (bao gồm cả chiến lược cạnh tranh) của các NHTM.
Trong quá trình giao dịch trực tiếp với khách hàng, nhân viên ngân hàng chính là một “hiện hữu” chủ yếu của dịch vụ. Vì vậy với kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn, nhân viên ngân hàng có thể làm tăng thêm giá trị cho dịch vụ cũng như làm giảm đi, thậm chí làm hỏng giá trị của dịch vụ.
Bằng việc gây thiện cảm với khách hàng trong quá trình giao dịch, nhân viên ngân hàng đã trực tiếp tham gia quá trình xúc tiến bán dịch vụ.
Đa số các ý tưởng cải tiến dịch vụ hoặc cung ứng dịch vụ được đề xuất bởi một nhân viên ngân hàng.
Là lực lượng chủ yếu chuyển tải những thông tin tín hiệu từ thị trường, từ khách hàng, từ đối thủ cạnh tranh đến các nhà hoạch định chính sách ngân hàng.
Nhân viên ngân hàng có trình độ chuyên môn cao thì sẽ làm giảm rủi ro trong các khoản vay. Ngoài ra, họ còn có khả năng thực hiện tốt vai trò tư vấn, giúp đỡ khách hàng trong việc thực hiện các dự án, phương án sản xuất kinh doanh.
Tóm lại, chất lượng nhân viên ngân hàng càng cao, lợi thế cạnh tranh của ngân hàng càng lớn.
3.6.Các yếu tố khác.
- Hiện đại hoá công nghệ: hiện đại hoá công nghệ sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm bảo phục vụ khách hàng một cách nhanh chóng, chính xác. Ngoài ra, công nghệ hiện đại còn giúp cho ngân hàng mở rộng thêm loại hình dịch vụ cũng như thị trường hoạt động của mình.
- Vị trí, địa điểm kinh doanh: ngân hàng có địa điểm kinh doanh tốt, ở những nơi tập trung dân cư, gần những trung tâm thương mại lớn sẽ có nhiều khả năng tiếp cận với khách hàng hơn. Nếu ngân hàng đặt trụ sở ở cạnh ngân hàng khác có nhiều ưu thế hơn hoặc nơi đặt trụ sở không phù hợp thì sẽ gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, làm giảm khả năng cạnh tranh.
- Danh tiếng và uy tín ngân hàng: được tạo ra từ chính mức độ thoả mãn của khách hàng trong các lần giao dịch trước, từ những người quen biết, truyền miệng, từ quảng cáo... Dịch vụ ngân hàng là vô hình, khách hàng không thể thử trước dịch vụ mình định mua, vì vậy cơ sở dẫn đến quyết định giao dịch với ngân hàng của khách hàng là hoàn toàn dựa vào danh tiếng và uy tín của ngân hàng. Vì thế đây là nguồn lực vô hình có giá trị lớn lao tạo nên sức mạnh cạnh tranh cho các NHTM.
- Giá cả dịch vụ: cơ chế lãi suất hợp lý sẽ là một cơ hội để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế đồng thời NHTM sẽ phải hạ thấp lãi suất đầu ra nhằm tăng trưởng tín dụng trên cơ sở hạn chế tối đa các chi phí không cần thiết.
Chương II : Cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng ở việt nam
1. Hoạt động kinh doanh của NHTM Việt Nam.
1.1. Tổng quan về hệ thống NHTM Việt Nam.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã phát triển và biến đổi qua một quá trình lịch sử lâu dài, đến nay nó bao gồm nhiều loại hình NHTM với những hình thức sở hữu khác nhau, tổ chức và hoạt động dưới một hành lang pháp lý với văn bản quy phạm pháp luật cao nhất là luật các tổ chức tín dụng. Theo luật các tổ chức tín dụng cũng như trên thực tiễn hiện nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã bao gồm nhiều loại hình ngân hàng khác nhau: ngân hàng quốc doanh (100% sở hữu của Nhà nước); chi nhánh ngân hàng nước ngoài (100% sở hữu của ngân hàng nước ngoài); ngân hàng liên doanh (sở hữu hỗn hợp giữa ngân hàng Việt Nam và ngân hàng nước ngoài); ngân hàng cổ phần (sở hữu cổ phần giữa Nhà nước, nhân dân, có thể có sở hữu cổ phần của nước ngoài); ngân hàng hợp tác (sở hữu tập thể).
Tính đến thời điểm 31.7.1999, hệ thống NHTM Việt Nam có 6 ngân hàng quốc doanh, 51 NHTM cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh và 22 chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Ngân hàng quốc doanh: trong số 6 ngân hàng quốc doanh, chúng ta có 4 NHTM quốc doanh (ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, ngân hàng Công thương Việt Nam, ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam). Các NHTM quốc doanh hoạt động kinh doanh đa năng, phục vụ mọi ngành, mọi lĩnh vực. Còn 2 ngân hàng quốc doanh là Ngân hàng phục vụ người nghèo và ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long được thành lập nhằm các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước, hoạt động với tư cách là ngân hàng chuyên doanh hoặc ngân hàng chính sách. Do ưu thế về vốn, mạng lưới và kinh nghiệm hoạt động lâu năm với độ an toàn cao hơn và là ngân hàng của Chính phủ nên các ngân hàng quốc doanh luôn phát huy được vai trò chủ đạo của mình trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và hoạt động ngân hàng, góp phần ổn định và phát triển kinh tế, chính trị và thực thi chính sách tiền tệ của nhà nước. Trong quá trình hoạt động, các ngân hàng quốc doanh không ngừng hoàn thiện và phát triển quy mô, vốn, tổ chức và hoạt động, đáp ứng nguồn vốn cho nền kinh tế, đa dạng hoá các nghiệp vụ ngân hàng, mở rộng quan hệ quốc tế. Các ngân hàng quốc doanh có mạng lưới rộng khắp trong cả nước phục vụ cho phát triển kinh tế, bên cạnh các hoạt động kinh doanh ngân hàng, các ngân hàng quốc doanh còn thực hiện các mục tiêu chính sách kinh tế xã hội của nhà nước. Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng này đều có lãi, tuy nhiên tỉ lệ lãi có khác nhau. Các ngân hàng này đều đóng góp cho ngân sách những khoản thu khá lớn. Cơ sở vật chất và công nghệ bước đầu đã được hiện đại hoá. Hoạt động của ngân hàng quốc doanh hiện đang chiếm trên 70% thị phần trong phạm vi cả nước về cung ứng vốn và các dịch vụ ngân hàng. Tuy vậy, trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, các ngân hàng quốc doanh cần phải nhanh chóng giải quyết được những tồn đọng về công nợ, phải tăng thêm vốn nhiều hơn, phát triển công nghệ và dịch vụ mạnh hơn mới duy trì được vai trò chủ đạo của mình.
NHTM cổ phần: là một loại hình tài chính tín dụng được tổ chức dưới hình thức sở hữu cổ phần trong đó có vốn góp của nhà nước và nhân dân. Với tư cách là NHTM, NHTM cổ phần hoạt như NHTM đa năng. Các ngân hàng cổ phần hiện nay với hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi của dân để cho vay. Quy mô ngân hàng nhỏ, đặc biệt là các ngân hàng cổ phần nông thôn. Do đó, mức độ rủi ro trong hoạt động kinh doanhcủa các ngân hàng loại này nhìn chung cao hơn các ngân hàng quốc doanh. Trong quá trình hoạt động, các ngân hàng luôn phát triển cả về quy mô, về vốn , về tổ chức và hoạt động, đáp ứng được một số lĩnh vực phát triển kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá, kể cả trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Bước đầu mở rộng quan hệ với các nước, đa dạng hoá các hoạt động ngân hàng, qua đó tăng cường độ an toàn trong hoạt động của các ngân hàng này. Các ngân hàng cổ phần đã cùng các ngân hàng quốc doanh hình thành hệ thống ngân hàng đủ sức mạnh cạnh tranh với các loại hình ngân hàng khác, giữ vai trò phục vụ sản xuất kinh doanh cho mọi thành phần kinh tế, qua đó phát triển kinh tế đất nước và khi đó tính hội nhập của các ngân hàng này sẽ ngày càng cao, cũng như khả năng hội nhập của hệ thống ngân hàng Việt Nam vào cộng đồng tài chính quốc tế là rất lớn.
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài và liên doanh: ngân hàng liên doanh là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp của bên ngân hàng Việt Nam và bên ngân hàng nước ngoài, có trụ sở tại Việt Nam, hoạt động theo pháp luật Việt Nam. Ngân hàng liên doanh là một pháp nhân độc lập, là pháp nhân Việt Nam, là NHTM hoạt động tại Việt Nam. Ngân hàng liên doanh ở Việt Nam hiện nay là ngân hàng IndoVina, ngân hàng VidPublic, ngân hàng FirstVina, ngân hàng VinaSiam. Các ngân hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài đều hoạt động như các NHTM đa năng ở các lĩnh vực khác nhau, hoạt động tại Việt Nam, theo pháp luật Việt Nam. Mặc dù vốn điều lệ hiện tại của chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 15 triệu USD, song do được ngân hàng mẹ ở nước ngoài bảo lãnh nên độ an toàn khá cao. Ngay kể cả ngân hàng liên doanh hiện nay, ngoài vốn điều lệ 15 triệu USD (có ngân hàng 20 triệu USD) đều là liên doanh giữa các ngân hàng quốc doanh với các ngân hàng lớn trong khu vực và trên thế giới. Do vậy độ an toàn của các ngân hàng này cũng rất cao. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh hiện có khả năng cạnh tranh rất lớn với các ngân hàng quốc doanh. Do ưu thế về công nghệ và kỹ thuật hiện đại cũng như khả năng và trình độ quản lý, kinh doanh tiền tệ ngân hàng có nhiều nghiệp vụ ngân hàng mới và hiện đại. Hiện nay để bảo hộ các ngân hàng Việt Nam đang chưa thực sự đủ mạnh, ngân hàng nhà nước có chính sách hạn chế hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh qua việc hạn chế hoạt động bằng ĐVN của loại hình này. Tuy nhiên, các hạn chế này đang được mở rộng dần theo từng nấc cùng với sự phát triển của các ngân hàng và thị trường tài chính trong nước. Việc xuất hiện các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh Việt Nam là nhân tố kích thích quá trình đổi mới, phát triển công nghệ ngân hàng và khả năng đáp ứng các dịch vụ ngân hàng của các NHTM Việt Nam, đồng thời thể hiện khả năng hội nhập của các NHTM Việt Nam vào cộng đồng tài chính quốc tế.
1.2. Hoạt động cho vay của các NHTM.
Kể từ khi hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển từ một cấp sang hai cấp cùng với sự xuất hiện của các ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng cổ phần. Hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Số lượng các NHTM ngoài quốc doanh ra đời và phát triển nhanh, do đó 4 NHTM quốc doanh của nhà nước từ chỗ độc quyền chiếm 70 - 74% thị phần cho vay năm 1990, thì đến hết năm 1999 chỉ chiếm khoảng 68% thị phần cho vay của toàn ngành ngân hàng. Số lượng các NHTM tăng lên cũng góp phần đáp ứng tốt hơn nguồn vốn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng đang phát triển nhanh, đóng góp ngay càng lớn vào tỉ trọng GDP quốc gia. Tỉ trọng cho vay giữa doanh nghiệp nhà nước và kinh tế ngoài quốc doanh trong tổng dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng đã và đang thay đổi nhanh chóng.Trong cả nước, phân tích xu hướng diễn biến tỉ trọng cho vay giữa doanh nghiệp nhà nước và kinh tế ngoài quốc doanh trong mười năm qua (1990-2000) có thể thấy như sau: Năm 1991, dư nợ cho vay các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỉ trọng 90%, khu vực ngoài quốc doanh chiếm 10%, đến năm 1993 tỉ trọng này lần lượt là 68,5% và 31,5%; năm 2000 là 48,5% và 51.5%. Qua đó ta thấy, tỉ trọng cho vay kinh tế ngoài quốc doanh của hệ thống ngân hàng tăng nhanh, điều này phù hợp với định hướng phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.
Tuy nhiên, thời điểm hiện nay thị trường vốn của nền kinh tế đang bị ứ đọng trong hệ thống ngân hàng. Lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay giảm xuống thấp nhất từ trước tới nay, một bộ phận lớn vốn bị khê đọng trong các doanh nghiệp và luồng vốn ngoại tệ đang bị chảy ra nước ngoài. Trong mấy năm gần đây, mặc dù lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn giảm liên tục, giảm xuống thấp nhất từ trước tới nay, nhưng vốn huy động vào hệ thống ngân hàng vẫn tăng nhanh, vốn cho vay giảm. Chỉ riêng trong năm 1999, hệ thống ngân hàng thực hiện 5 đợt giảm lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn. Trong 6 tháng đầu năm 2000, lãi suất tiếp tục giảm, mức lãi suất huy động vốn cao nhất của hệ thống ngân hàng chỉ có 0,4-0.5%/tháng,giảm 1/2 so với mức lãi suất của 2 năm trước đó. Lãi suất cho vay chung của các ngân hàng giảm xuống chỉ còn 0,85%/tháng, riêng lãi suất cho vay của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam giảm xuống còn 0,6- 0,65%/tháng, ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và ngân hàng Công thương Việt Nam giảm xuống còn 0,7- 0,8%/tháng.Thực ra tình trạng tỉ trọng vốn cho vay và đầu tư ở mức độ thấp so với tổng nguồn vốn huy động, hay tình trạng thừa vốn đã xuất hiện từ trong hệ thống ngân hàng từ 2- 3 năm gần đây. Song trong thời gian gần đây tình trạng này càng được quan tâm nhiều hơn, vì lãi suất tiếp tục hạ thấp mà vốn huy động vào hệ thống ngân hàng vẫn tăng nhanh, vốn cho vay ra thì tăng chậm. Năm 1998, tốc độ tăng vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng là 25,7%, nhưng tốc độ tăng dư nợ cho vay là 23%.Năm 1999, vốn huy động tăng 27,3%,dư nợ cho vay tăng 12,4%.Trong 6 tháng đầu năm 2000, vốn huy động tăng13.5%, trong khi dư nợ cho vay là 17,5%, riêng số vốn huy động bằng ngoại tệ tăng 24,8%. Như vậy có thể thấy vốn huy động luôn luôn tăng nhanh hơn cho vay và đầu tư. Điều này làm cho môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng càng trở nên gay gắt và quyết liệt.
1.3. Các dịch vụ của ngân hàng thương mại
Tình hình phát triển tín dụng ngân hàng thời gian gần đây gặp nhiều trở ngại đã anh hưởng lớn đến tài chính, doanh thu và sự tăng trưởng của ngân hàng. Để thoát ra khỏi khó khăn, duy trì ổn định và tăng trưởng,hệ thống ngân hàng đang trong quá trình cơ cấu lại, xử lý nợ tồn đọng, tăng năng lực tài chính, nâng cao hiệu quả điều hành, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, đảm bảo an toàn hệ thống; đồng thời xây dựng chất lượng tăng trưởng hoạt động kinh doanh dựa trên cơ sở đa dạng hoá sản phảam dích vụ ngân hàng.
Các NHTM đã và đang nỗ lực nâng cao chất lượng dịch vụ và phát triển hàng loạt dịch vụ mới tại Việt Nam. Chi nhánh Citibank tại Việt Nam cung cấp dịch vụ bao gồm việc chi trả và thu nhận nội địa paylink, expresspay, speed collect giúp khách hàng nhận và chuyển tiền ngay trong ngày ở cả 61 tỉnh, thành phố.ANZ Bank cung cấp dịch vụ ngân hàng qua Internet (Internet banking), dịch vụ này cung cấp cho khách hàng một loạt tiện ích trong giao dịch như kiểm tra số dư tài khoản, thanh toán chuyển tiền. Hongkong bank tung ra dịch vụ ngân hàng điện thoại(Telephone Banking), dịch vụ này cho phép khách hàng truy cập vào tài khoản 24/24giờ cung cấp đầy đủ thông tin về tài khoản, tỉ giá,số dư, sao kê.Và mới đây với lợi thế có hệ thống mạng lưới rộng có dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tìm đối tác kinh doanh, chỉ trong thời gian ngắn, NHTM cổ phần á Châu thu hút 50 doanh nghiệp, NHTM cổ phần á Châu cũng được xem như điển hình về phát triển dịch vụ ngân hàng, ngày 20/12/2000 đã phát hành thẻ tín dụng nội địa đầu tiên ở nước ta với mô hình mới và sáng tạo: thẻ liên kết Saigontourist-ACB và thẻ Saigonco.Op.ACB hiện có hơn 2000 đại lý thanh toán. Mới đây, ngân hàng này cung cấp thêm dịch vụ “Ngân hàng tại nhà”, qua máy tính cá nhân tại nhà khách hàng có thể truy cập các thông tin có liên quan như :số dư tài khoản, lãi suất, các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, biểu phí dịch vụ. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam cung cấp dịch vụ thanh toán thẻ, Ngân hàng tại nhà, thành lập công ty chứng khoán cung cấp 5 loại hình kinh doanh, tham gia hoạt động bảo hiểm dưới hình thức công ty liên doanh bảo hiểm VIDV-QBE. Ngân hàng ngoại thương Việt Nam phát triển hình thức ngân hàng bán lẻ Vietcombank Vision 2010 cung cấp nhiều dịch vụ hiện đại: trả lương tự động, quản lý vốn tự động, thanh toán thẻ, dịch vụ ngân hàng điện tử (e-banking) mang lại rất nhiều lợi ích cho khách hàng: sử dụng nguồn vốn hiệu quả nhất, chuyển đổi ngoại tệ, mở L/C không phải ký quỹ, dịch vụ quản lý vốn...
Tuy nhiên các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng vẫn chưa thông dụng. Hoạt động thanh toán qua ngân hàng vẫn còn bỏ ngỏ. Khối lượng thanh toán bằng tiền mặt hiện nay ở nước ta còn quá lớn so với tổng phương tiện thanh toán: 42% năm 1994; 34% năm 1995; 33% năm 1996 và 30% năm 1997.
2. Cạnh tranh giữa các ngân hàng.
Trong lĩnh vực ngân hàng nhiều năm gần đây, các doanh nghiệp, đông đảo khách hàng được chủ động lựa chọn NHTM để quan hệ gửi tiền, vay vốn, mở L/C, thanh toán... Một doanh nghiệp có thể cùng một lúc quan hệ với nhiều NHTM khác nhau. Ngược lại, các NHTM cũng đã chủ động đến với khách hàng, mời chào các doanh nghiệp và đưa ra các hình thức khuyến mại khác nhau.
Trong khoảng thời gian giữa năm 1998, khi ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam tổ chức và tổ chức thành công đợt phát hành 1000 tỉ đồng trái phiếu trả lãi trước với lãi suất huy động vốn thực tế vượt trội hơn các ngân hàng khác, tương ứng hoặc cao hơn cả lãi suất cho vay; ngân hàng Công thương Việt Nam giảm 10 – 15% lãi suất cho vay đối với các tổng công ty 90 – 91 và tăng lãi suất tiền gửi cho các tổng công ty có số dư nợ từ 10 tỉ đồng trở lên; ngành bưu điện trình chính phủ đề án “Dịch vụ tiết kiệm qua bưu điện”, cùng các hình thức khuyến mại trong cho vay và huy động vốn của một số NHTM kkhác thì mức độ cạnh tranh trong hoạt động tiền tệ – tín dụng – ngân hàng ở nước ta thực sự bắt đầu sôi động.
Đến nay có thể khẳng định một thực tế là thực trạng cạnh tranh gay gắt trong hoạt động của các tổ chức kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng vô cùng phức tạp, đó là sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng trong nước và ngoài nước, cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng thuộc các thành phần kinh tế khác nhau trong nước... Việc cạnh tranh không chỉ diễn ra trên bình diện cả nước, khu vực mà còn diễn ra trong phạm vi hẹp, trong một vùng lãnh thổ, một tỉnh, một huyện, thậm chí ngay trong từng địa bàn kinh tế hay khu vực dân cư tập trung. Tình trạng cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa những tổ chức tín dụng khác nhau mà còn diễn ra giưã các tổ chức tín dụng cùng hệ thống trên cùng một địa bàn hoạt động. Có nhiều tổ chức đã áp dụng các biện pháp cạnh tranh lành mạnh như: Đổi mới tác phong giao dịch, đổi mới thái độ dối với khách hàng, thực sự coi khách hàng là thành công của ngân hàng; có chiến lược trước mắt và lâu dài trong việc mở rộng địa bàn hoạt động đến tận vùng sâu, vùng xa,vùng dân cư tập trung; không ngừng cải tiến theo hướng đơn giản hoá các thủ tục hành chính, tạo thuận lợi tối đa cho khách hàng vay vốn, gửi tiền cũng như sử dụng các tiện ích khác do dịch vụ ngân hàng mang lại; Hợp tác với các tổ chức hội đoàn thể, phối hợp với các cấp chính quyền địa phương trong việc mở rộng cho vay; không ngừng nghiên cứu để tìm tòi và đáp ứng các nhu cầu vốn phát sinh trên mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội; có chiến lược lãi suất phù hợp từng thời kỳ, huy động vốn nhàn rỗi từ dân cư và các nguông vốn rẻ khác để có cơ sở thực hiện lãi suất cho vay mang tính cạnh tranh cao, giúp các doanh nghiệp và khách hàng có điều kiện giảm giá thành; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, quảng bá hoạt động của ngân hàng.
Bên cạnh đó, còn rất nhiều trường hợp các tổ chức tín dụng bất chấp quy định của nhà nước và của ngành, tìm mọi cách và bằng mọi cách lôi kéo khách hàng dặc biệt là các khách hàng lớn về với mình. Đành rằng mục tiêu cuối cùng trong hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng nói riêng là đạt được lợi nhuận cao và phát triển bền vững, ngày một lớn mạnh song không vì thế mà có thể cho phép mình áp dụng mọi hình thức và biện pháp cạnh tranh. Có thể nêu một vài ví dụ điển hình về những biểu hiện của cạnh tranh bất hợp pháp trong hoạt động ngân hàng như:
Bất chấp các quy định của nhà nước và của ngành, đặc biệt là những quy định về thẩm định dự án vay vốn. Cụ thể là đánh giá giá trị tài sản thế chấp, tài sản đảm bảo tiền vay không có cơ sở pháp lý, gây hậu quả nghiêm trọng, thậm chí dẫn đến nguy cơ mất vốn như một số vụ án hình sự kinh tế lớn liên quan trực tiếp đến cacs NHTM xảy ra thời gian qua. Nhỏ hơn nữa nhưng lại vô cùng nhiều là tình trạng kê hàng loạt tài sản, khai tăng giá trị tài sản của khách hàng vay vốn nhằm “giúp” khách hàng được vay theo yêu cầu. Bên cạnh đó lại còn coi thường việc nắm thông tin khách hàng, thông tin về doanh nghiệp vay vốn từ hệ thống thông tin tín dụng; coi tài sản thế chấp là ưu tiên trong việc xét duyệt cho vay.
Mở rộng địa bàn hoạt động ngân hàng ở những địa phương chưa được đánh giá kỹ tiềm năng kinh tế và nhu cầu sử dụng vốn của nền kinh tế, kèm theo việc co vay ồ ạt bước đầu có thể chiếm lĩnh được một phần thị phần tín dụng, song nếu không có bước đánh giá, tổng kết một cách nghiêm túc sẽ dẫn đến rủi ro sau này, chưa nói đến chi phí cho việc mở một chi nhánh (xây dựng cơ bản, đào tạo, tuyển dụng...) không phải là nhỏ.
Tìm mọi cách nói xấu tổ chức tín dụng khác không có căn cứ bên cạnh việc ca tụng nhằm lôi kéo khách hàng về giao dịch với đơn vị mình. Từ đó, làm giảm sự tin tưởng của khách hàng đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam, đặc biệt trong tình hình thực lực tài chính cũng như các mặt hoạt động của các ngân hàng nước ngoài lớn mạnh hơn các tổ chức tín dụng Việt Nam nhiều lần.
Cạnh tranh hạ lãi suất chỉ để giữ chân khách hàng. Hiện nay lãi suất cho vay nội tệ của các tổ chức tín dụng ở nước ta đều sát và thấp hơn trần lãi suất quy định của ngân hàng nhà nước, thấp hoặc tương đương với lãi suất cho vay của các nước trong khu vực. Theo quy định của ngân hàng nhà nước, lãi suất cho vay tối đa ở đô thị hiện nay là 0,85%/ tháng hay 10,2%/năm, nhưng nhiều NHTM chỉ cho vay 0,6% - 0,7%/ tháng, nhìn chung ở mức 7%-9%/năm.
Việc cạnh tranh như vậy đang là mối đe doạ cho sự an toàn và hiệu quả của các NHTM. Cạnh tranh không chỉ diễn ra trên lĩnh vực tín dụng, cạnh tranh cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng cũng đang diễn ra sôi động không chỉ giữa các NHTM mà còn với cả các tổ chức có hoạt động ngân hàng (như các công ty cho thuê tài chính, các công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm, quỹ đầu tư và phát triển, công ty dịch vụ cầm đồ, dịch vụ kiều hối). Sự xuất nhập của các tổ chức này đã gây ra sự suy giảm liên tục thị phần của các ngân hàng.
Chương III. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ở việt nam
1. Giải pháp đối với các NHTM.
1.1. Bổ sung tăng vốn chủ sở hữu.
Các ngân hàng có thể sử dụng hai phương pháp là: tăng vốn từ nguồn nội bộ và tăng vốn từ nguồn bên ngoài.
Tăng vốn từ nguồn nội bộ chủ yếu là thu nhập giữ lại. Nguồn vốn này có thuận lợi là giúp ngân hàng không phải phụ thuộc vào thị trường vốn nhờ vậy tránh được chi phí huy động vốn. Tỉ lệ thu nhập giữ lại sẽ do ban giám đốc và hội đồng quản trị thống nhất xác định.
Tăng vốn từ nguồn bên ngoài, ngân hàng có thể sử dụng các cách sau :
Bán cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi: các NHTM có thể phát hành cổ phiếu để tăng nguồn vốn sau khi được sự cho phép của ngân hàng Nhà nước. Qua việc phát hành cổ phiếu quy mô vốn tăng lên sẽ tăng cường khả năng vay nợ trong tương lai của ngân hàng.
Bán tài sản và thuê lại: các ngân hàng có thể bán tất cả hoặc một phần phương tiện văn phòng của mình và thuê lại từ người chủ mới để phục vụ cho các hoạt động của nó. Với những giao dịch như vậy, ngân hàng thường thu về những dòng tiền mặt rất lớn (có thể được tái đầu tư với lãi suất hiện tại) và củng cố sức mạnh về vốn. Tuy nhiên ở Việt Nam các công ty cho thuê tài chính chưa phát triển nên khó sử dụng phương pháp này.
Ngoài ra, các NHTM quốc doanh có thể tăng thêm vốn chủ sở hữu bằng cách đề nghị chính phủ xem xét cấp thêm vốn bổ sung. Phương án này có ưu điểm là tạo nguồn vốn kinh doanh mới, củng cố tiềm lực tài chính và tạo đà cho việc hội nhập, cạnh tranh của ngân hàng.
1.2. Hệ thống thông tin.
Ngân hàng phải không ngừng hoàn thiện hệ thống thông tin của mình. Khi cho vay ngân hàng phải tìm kiếm thông tin về khách hàng càng nhiều càng tốt để tránh rủi ro. Ngân hàng phải không ngừng theo dõi quá trình sản xuất và kinh doanh của khách hàng bằng cách đến thăm quan cơ sở sản xuất, thường xuyên xem xét, phân tích các báo cáo tài chính của doanh nghiệp vay vốn. Với thị trường bên ngoài, ngân hàng phải nắm được các thông tin về đối thủ cạnh tranh, các loạ hình dịch vụ mới, các chính sách khuyến mại ưu đãi của họ để có những phương án xử lý thích hợp. Ngoài ra còn phải theo dõi diễn biến thị trường, các chính sách, chủ trương của nhà nước để điều chỉnh kinh doanh một cách hợp lý. Để thu thập thông tin, ngoài mạng lưới nhân viên của mình ngân hàng có thể sử dụng các công nghệ thông tin khác như máy tính, mạng internet để thu thập thông tin mộtcách nhanh chóng và chính xác hơn. Ngoài ra qua mạng internet ngân hàng có thể cung cấp thông tin về các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, phân tích cổ phiếu... Nhờ hệ thống này, yêu cầu của khách hàng có thể được đáp ứng mà không cần sự tham gia của con người với vai trò như một thành phần trung gian.
1.3. Mở rộng các loại dịch vụ ngân hàng.
Thực tế là cho đến nay, sản phẩm mà các NHTM đang cung cấp cho nền kinh tế là khá đơn điệu. Vì vậy, để nâng cao vị trí và vai trò của NHTM trên thị trường tín dụng, đồng thời có thể phân tán và hạn chế bớt rủi ro thi bản thân ngân hàng phải đa dạng hoá các sản phẩm với biện pháp đi kèm là tăng cường trang bị các phương tiện hiện đại về công nghệ ngân hàng, về thông tin để đáp ứng các dịch vụ cho khách hàng có yêu cầu.
Trước hết ngân hàng phải mở rộng mạng lưới tiếp cận khách hàng, ngoài việc cho vay trực tiếp còn có thể cho vay theo hình thức bán buôn, cho vay thông qua các tổ chức kinh tế làm trung gian.
Phát triển sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Để cạnh tranh ngân hàng phải tìm cách nâng giá cả đầu vào (tăng lãi suất tiết kiệm và hạ giá cả đầu ra (giảm lãi suất cho vay). Để bù đắp vào khoản thu nhập giảm do giảm lãi suất cho vay, ngân hàng có thể áp dụng các hình thức thu nhỏ giọt từ phí chuyển tiền, đổi tiền , mở rộng kinh doanh hối đoái, dịch vụ tư vấn...
1.4. Chiến lược khách hàng.
Xây dựng một chiến lược khách hàng đúng đắn, ngân hàng và khách hàng luôn gắn bó với nhau, phải tạo ra, giữ vững và phát triển mối quan hệ lâu bền với tất cả khách hàng. Cần thiết phải đánh giá cao khách hàng truyền thống và khách hàng có uy tín. Đối với những khách hàng này, khi xây dựng chiến lược ngân hàng phải hết sức quan tâm, gắn hoạt động của ngân hàng với hoạt động khách hàng, thẩm định và đầu tư kịp thời các dự án có hiệu quả. Cần xây dựng trong lòng khách hàng này một hình ảnh ngân hàng luôn gần gũi và hỗ trợ kịp thời để sản xuất nhiều sản phẩm có chất lượng cao. Có chính sách lãi suất hợp lý, ưu đãi và mở rộng thị trường, thị phần thông qua hoạt động ngân hàng.
Ngoài ra, các đặc tính sản phẩm từ các ngân hàng khác nhau đều có điểm giống nhau nên tạo ra sự khác biệt là điểm tố quan trọng. Vì vậy ta phải thực hiện:
Thứ nhất là chiến lược thu hút tiền gửi. Thực chất, để thu hút tiền gửi không chỉ tạo niềm tin trong dân cư là đã đủ mà phải tạo cho họ một thái độ nghiêm túc với việc tiết kiệm, và quan trọng hơn là cần có kiến nghị với chính phủ để xây dựng một hệ thống thanh toán điện tử rộng khắp nhằm tạo cho nhân dân thói quen sử dụng tài khoản ngân hàng. Bên cạnh đó những thủ tục rắc rối phải được chấn chỉnh lại và đặc biệt là cần tạo ra nhiều loại hình tiền gửi thật linh hoạt và tiện lợi. Cần suy xét kỹ để có hình thức tiếp thị thật tế nhị và có sức cuốn hút. Tăng cường hoạt động trên các phương tiện thông tin đại chúng để ngân hàng tự giới thiệu về mình với khách hàng.
Thứ hai là chiến lược đẩy mạnh tín dụng hay nói cụ thể là lôi kéo khách hàng vay. Hiện nay, chế độ tín dụng của các ngân hàng Việt nam vẫn chưa thực sự linh hoạt. Hoạt động cho vay bị giới hạn bởi các điiêù kiện và lãi suất cứng nhắc xuất phát từ sự trì trệ của các cán bộ tín dụng. Ngân hàng Nhà nước chỉ quy định mức chênh lệch lãi suất tối đa đầu ra - đầu vào mà thôi chứ không hề có mức hạn chế. Do đó nên tự tạo lấy tính linh hoạt cho sản phẩm của mình. Điều này có thể thể hiện với khách hàng có tiềm năng mà ngân hàng muốn đặt quan hệ lâu dài bằng cách dưa ra điều kiện cho vay và lãi suất ưu đãi hơn theo thoả thuận giữa hai bên.
1.5. Đào tạo cán bộ, nhân viên ngân hàng.
Trước hết phải củng cố, thừa kế và phát huy sức mạnh của đội ngũ cán bộ đang có. Cần phải có kế hoạch nâng cao trình độ nhận thức về khoa học tiền tệ cho đội ngũ này. Chúng ta cần phải có một kế hoạch đào tạo lại thường xuyên đối với đội ngũ cán bộ ngân hàng đương chức nhằm giúp cho họ hiểu một cách thấu đáo về lý luận khoa học tiền tệ. Trên cơ sở đó vận dụng một cách sáng tạo các công nhệ ngân hàng mới vào thực tiễn có hiệu quả.
Bên cạnh việc đào tạo lại và bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ đương chức, cần phải quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ có khả năng kế thừa và phát huy kinh nghiệm của lớp người đi trước, đồng thời tiếp nhận những công nghệ mới của thế giới một cách tích cực và có hiệu quả. Đào tạo đội ngũ cán bộ mới cần phải được thực hiện theo một quy trình khoa học bao gồm những kiến thức lý luận kinh tế tiền tệ cơ bản làm nền tảng và những công nghệ hoạt động mang tính thực tiễn gắn liền với hoạt động thực tiễn ở các cấp ngân hàng.
Hoạt động ngân hàng hiện đại là một hoạt động bao trùm trên toàn bộ hoạt động các ngành kinh tế xã hội. Vì vậy cần trang bị cho học viên của ngành ngân hàng nhiều kiến thức cơ bản khác nhau của nhiều ngành kinh tế khác nhau, nhiều lĩnh vực khác nhau, bên cạnh những kiến thức của ngành ngân hàng.
1.6. Cơ sở vật chất, địa điểm giao dịch, tác phong nhân viên.
Nói chung, về mặt tâm lý, khách hàng luôn mong muốn tiến hành giao dịch, kinh doanh với những ngân hàng có trụ sở bề thế, kiên cố và các nhân viên lịch sự, hoà nhã và dễ mến hơn. Vì vậy phải xây dựng nếp sống văn hoá, cơ quan văn minh lịch sự. Nhân viên khi trả lời khách hàng phải từ tốn, đầy đủ thông tin, dễ hiểu và mạch lạc. Trụ sở kiên cố sẽ làm khách hàng tin tưởng vào sự an toàn.
Các ngân hàng cần có địa điểm giao dịch ở những nơi thuận lợi, đông dân cư. Địa điểm giao dịch có thể là trụ sở, chi nhánh, hoặc bàn tiết kiệm... Có thể đặt tại các tu điểm dân cư, khu tập thể quy mô lớn, hay các nhà máy có đông công nhân... Các địa điiểm giao dịch phải thuận lợi, an toàn về giao thông, nơi đễe... Và phải được trang bị các thiết bị hiện đại để đảm bảo an toàn tài sản của ngân hàng và khách hàng, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
2. Vai trò của ngân hàng nhà nước trong hoạt động cạnh tranh của các NHTM.
Với vai trò là “Ngân hàng của các ngân hàng”, ngân hàng nhà nước phải hướng tới mục tiêu quản lý và điều chỉnh có hiệu quả hoạt động của các NHTM theo đúng pháp luật, đúng chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, thanh toán, đấp ứun kịp thời nhu cầu vốn đầu tư cho nèn kinh tế.
Với chức năng là “trung tâm”, ngân hàng Nhà nước phải hướng các NHTM vào hoạt động cạnh tranh lành mạnh. Muốn vậy , ngân hàng Nhà nước phải đổi mới một số hoạt động như sau:
Tăng cường giám sát kiểm tra hoạt động của các NHTM.
Xây dựng một đội ngũ thanh tra có chất lượng có trình độ, có trách nhiệm cao đủ sức thực hiện nhiệm vụ. Nâng cao quyền hạn cho cán bộ thanh tra, đặc biệt là tính độc lập trong công tác thanh tra.
Tiên phông trong lĩnh vực hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Xây dựng các chương trình ứng dụng cho công tác giám sát hoạt động kịp thời và có hiệu quả cao.
Chủ động nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy chế, quy định về nghiệp vụ tín dụng, huy động vốn, thanh toán phù hợp với tình hình kinh tế xã hội trong từng thời kỳ và yêu cầu đổi mơi kinh tế thị trường.
Phải thể hiện tính chủ động, khách quan, trung thực trong công tác thanh tra, kiểm tra, trong giải quyết các vấn đề tranh chấp khách hàng giữa các NHTM trên địa bàn.
Kết luận
Qua quá trình nghiên cứu đề án về giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranhcủa các NHTM, em đã rút ra một số vấn đề sau:
Từ lý luận chung về cạnh tranh, có thể cho thấy cạnh tranh là điều tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh trong giai đoạn này sẽ giúp cho các ngân hàng phát triển nhanh hơn, tự hoàn thiện mình để phục vụ khách hàng tốt hơn. Đề án có nghiên cứu về lý luận chung của ngân hàng, trên cơ sở đó nêu ra các yếu tố ảnh hưởng chủ yếu đến quá trình cạnh tranh của các NHTM. Qua việc nêu lên một số thực tiễn về ngành ngân hàgn ở Việt Nam hiện nay, đề án đã đề cập đến một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh.
Tóm lại qua quá trình nghiên cứu đề án ta có thể thấy được việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM là yếu tố sống còn trong thời đại hiên nay. Nó là điiêù kiện đảm bảo cho NHTM tồn tại và phát triển.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Trần Đăng Khâm đã cung cấp phần lớn kiến thức và phương pháp luận để em hoàn thành đề án này. Tuy nhiên trong quá trinh thực hiện đề án sẽ không thể không có những sai sót về kiến thức, về cách trình bày, em mong thầy thông cảm.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35142.doc