Đề tài Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng chè xuất khẩu trên thị trường Mỹ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Để thâm nhập sâu hơn, doanh nghiệp cần lưu ý nhìn nhận từ góc độ “cầu” của thị trường Mỹ về sức mua, thị hiếu, tính đa dạng cũng như phân khúc thị trường, dân số., trong đó điều rất quan trọng là nhận thức và khả năng thích ứng. Các doanh nghiệp cần xây dựng những chiến lược và kế hoạch kinh doanh cụ thể bởi chiến lược kinh doanh này sẽ là định hướng có tính lâu dài, dựa trên kết quả của quá trình nghiên cứu thị trường và sự hài hòa hóa các yếu tố nội lực của chính bản thân các doanh nghiệp. Trong chiến lược kinh doanh đó, cần phải coi trọng công tác tiếp thị, quảng cáo. Có tiếp thị và quảng cáo rộng rãi mới có thể dần tạo ấn tượng cho người tiêu dùng Mỹ về sản phẩm chè của Việt Nam Đặc biệt đối với ngành chè bao bì, nhãn mác được khách hàng rất quan tâm nên chúng ta cũng cần chú ý đầu tư kỹ cho khâu này. Tiếp tục phát triển mạng lưới tiêu thụ để chiếm lĩnh thị trường là một giải pháp trọng điểm để nâng cao thị phần của chè Việt Nam trên thị trường Mỹ. Tổng công ty chè Việt Nam (VINATEA) có thể là đầu mối tập hợp các doanh nghiệp sản xuất trong cả nước để hình thành hệ thống cửa hàng kinh doanh chuyên cung cấp mặt hàng chè chất lượng cao của Việt Nam, trước hết mở tại các thành phố lớn để trong một vài năm tới hệ thống cửa hàng này sẽ có mặt hầu hết tại các tỉnh thành, thành phố lớn trong cả nước và lan rộng ra thị trường nhập khẩu. Ngoài ra, các doanh nghiệp lớn cũng có thể tự xây dựng những đại lý phân phối sản phẩm của mình ngày trên thị trường nước nhập khẩu, dùng chính những người bản địa để cung cấp sản phẩm chè của Việt Nam.

doc75 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1667 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng chè xuất khẩu trên thị trường Mỹ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lâu, không được chăm sóc, cải tạo, đồng thời hiện còn đang bị ô nhiễm nghiêm trọng do tình trạng lạm dụng thuốc trừ sâu của người trồng chè. Chưa nói đến việc chè sử dụng thuốc trừ sâu về tương lai sẽ gây ảnh hưởng đến sức khoẻ người tiêu dùng, nhưng trước mắt nó đã ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ người trồng chè. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do người trồng chè muốn tăng cường diệt trừ sâu bệnh, tăng sản lượng, kích thích cây chè phát triển nhanh. Ngược lại với cách thức trồng chè lạc hậu của Việt Nam, một phương thức trồng chè đang được nhiều quốc gia áp dụng là trồng chè hữu cơ. Những đồn điền trồng chè hữu cơ sẽ được xây dựng ở những vùng đất chưa bị ô nhiễm và biện pháp áp dụng chủ yếu là bón phân ủ và khô dầu, phòng trừ sâu bênh bằng các biện pháp canh tác trồng xen cây họ đậu, sủ dụng giun đất. Hiện nay chè hữu cơ đang được trồng ở Ấn Độ, Sri Lanka và Trung Quốc, chiếm 87% tổng diện tích 7.265 ha chè đã được chứng nhận hữu cơ và 4.590 ha chè đang được chuyển đổi. Việt Nam hiện cũng đã có một vài cơ sở nghiên cứu cách thức trồng chè mới này, tuy nhiên mức sản lượng đạt được vẫn thấp và thiếu vốn để triển khai nghiên cứu rộng hơn. Như vậy, đứng trước vấn đề này, Nhà nước cần phải tăng cường hơn nữa công tác quản lý vệ sinh công nghiệp, đảm bảo vệ sinh môi trường của ngành chè. Đồng thời, hỗ trợ cho công tác triển khai, nghiên cứu những cách thức trồng chè sạch, chè an toàn. Chỉ có thay đổi cách thức trồng chè lạc hậu hiện nay, chất lượng chè Việt Nam mới được cải thiện, có khả năng cạnh tranh với những sản phẩm chất lượng cao của các nước khác, và nâng cao vị thế trên thị trường Mỹ. 2.4 Các biện pháp Việt Nam đã áp dụng để nâng cao sức cạnh tranh của chè xuất khẩu 2.4.1 Biện pháp của Nhà nước Trong thời gian vừa qua Nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp để nâng cao sức cạnh tranh của chè Việt Nam xuất khẩu. Cụ thể là: Trước yêu cầu của thị trường ngày càng đòi hỏi ngành chè phải nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hoá sản phẩm. Muốn nâng cao chất lượng trước hết phải có nguyên liệu chất lượng cao. Vì thế quy hoạch vùng chè có chất lượng cao, an toàn là đòi hỏi cấp bách. Bộ NN&PTNN đã có quyết định số 1870/QĐ-BNN-CB ngày 26/6/2006 quy hoạch lại vùng chè có chất lượng cao phục vụ cho chế biến, trên cơ sở bố trí giống chè gắn chặt với sinh thái của vùng; sản phẩm chè phải phù hợp thị hiếu từng thị trường và có sức cạnh tranh; bổ sung giống tốt phối hợp các giống cũ; các giống chọn lọc, lai tạo, nhập nội phải có lý lịch rõ ràng. Bên cạnh đó, Bộ NN&PTNT đã yêu cầu các địa phương cần rà soát, sắp xếp lại các cơ sở chế biến chè một cách phù hợp nhất. Các địa phương phải có kế hoạch rà soát, đánh giá năng lực thiết bị, công nghệ và khả năng cung cấp nguyên liệu của các cơ sở chế biến trên địa bàn. Từ đó kiên quyết đình chỉ hoạt động hoặc thu hồi giấy đăng ký kinh doanh đối với những đơn vị không đảm bảo các điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy định. Bộ khuyến khích các cơ sở áp dụng tiêu chuẩn về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm đối với chè như ISO 9001-2000 và HACCP. Tất cả các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tham gia sản xuất, chế biến và chứng nhận điều kiện sản xuất và sản phẩm chè của Việt Nam đều phải thực hiện đầy đủ theo quy định số 43/2007/QĐ-BNN, ngày 16/5/2007 của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT về quản lý sản xuất, chế biến và chứng nhận chè an toàn. 2.4.2 Biện pháp của Hiệp hội Chè Việt Nam Hiệp hội Chè Việt Nam đang tích cực đẩy mạnh mối quan hệ với các tổ chức trong ngành thông qua các cuộc hội thảo, tham gia các cuộc hội chợ, triển lãm, đồng thời tổ chức các cuộc khảo sát thị trường. Đến nay, Hiệp hội đã dẫn phái đoàn tham gia rất nhiều chương trình như: Festival chè tại Moscow tháng 5 năm 2006, hội chợ chuyên ngành World Food tại Thái Lan, hội chợ chuyên ngành chè và ca phê tại Trung Quốc, đã có cuộc khảo sát thị trường chè của Mỹ vào tháng 12 năm 2005…. Đến ngày 28/1/2005 Hiệp hội đã chính thức công bố thương hiệu quốc gia chè Việt Nam với dòng chữ “CheViet”. Hiệp hội chè cũng đã tiến hành đăng ký bảo hộ nhãn hiệu “CheViet” trực tiếp theo thỏa ước Madrid với 73 quốc gia và vùng lãnh thổ, đồng thời tiến hành quảng bá ở nhiều nước trên thế giới. Những hoạt động này đã góp phần đưa sản phẩm chè Việt Nam đến gần với người tiêu dùng và nâng cao uy tín chè Việt Nam trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, Hiệp hội chè kết hợp Tổng công ty chè và các chuyên gia về chè của Việt Nam xúc tiến thành lập Ủy ban kiểm tra chất lượng của ngành. Ủy ban này sẽ là đầu mối kiểm tra, công nhận và cung cấp thông tin về chất lượng sản phẩm chè của các doanh nghiệp cho các nhà nhập khẩu. Việc công nhận chất lượng sản phẩm sẽ căn cứ theo tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu cũng như quốc tế. Đồng thời để chè Việt Nam có thể bán giá cao trên thị trường, đảm bảo cuộc sống cho người trồng chè, Hiệp hội cùng các nhà khoa học hàng đầu về chè cũng đang triển khai xây dựng bộ tiêu chuẩn chất lượng dựa trên tiêu chuẩn ISO 9001 và tiêu chuẩn HACCP. 2.4.3 Biện pháp của doanh nghiệp Nhận biết được nhu cầu thế giới về sản phẩm chè có chất lượng và an toàn, một số doanh nghiệp đã tiến hành cải tiến công nghệ máy móc sản xuất, kiểm soát chặt chẽ ngay từ khâu trồng chè của người nông dân để có được những sản phẩm chè có chất lượng cao. Nhưng số những doanh nghiệp như thế hiện nay chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, phần lớn vẫn là cở sở sản xuất nhỏ với quy trình chế biến và bảo quản lạc hậu. Không chỉ áp dụng các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp còn tiến hành đa dạng hóa sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú của người tiêu dùng. Các sản phẩm chè có hương vị hoa quả, chè nhúng…của Việt Nam cũng đã xuất hiện trên thị trường. Bên cạnh đó, với quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp sản xuất chè Nhà nước, doanh nghiệp ngày càng chủ động trong công tác tìm kiếm và mở rộng thị trường, xây dựng những đại lý phân phối sản phẩm chè của mình ngay trên nước nhập khẩu. Vào năm 2003, Tổng công ty chè Việt Nam đã được Nhà nước cho phép thành lập công ty 100% vốn tại Liên Bang Nga để từ đó mở rộng thị phần chè Việt Nam tại Nga. Nếu tổ chức tốt các kênh phân phối, xây dựng thương hiệu và quảng cáo thì trong tương lai Việt Nam có thể tiêu thụ hàng vạn tấn chè tại Nga. Tuy nhiên, để thực hiện tốt biện pháp này trong thời gian tiếp theo, các doanh nghiệp cần có sự hỗ trợ nhiều hơn nữa của Nhà nước trong việc cung cấp thông tin về thị trường nhập khẩu. 2.5 Đánh giá chung về sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu trong thời gian qua 2.5.1 Những điểm mạnh Dựa vào những phân tích, đánh giá ở trên có thể khẳng định rằng trong những năm qua sức cạnh tranh mặt hàng chè xuất khẩu đã được nâng lên một cách rõ rệt và đã có những bước phát triển đáng khích lệ. Trước hết, trong thời gian vừa qua ngành chè nước ta đã đạt được những bước phát triển đáng kể cả về sản xuất, chế biến đến xuất khẩu. Điều đó được thể hiện qua diện tích trồng chè không ngừng được mở rộng cả về số lượng lẫn chất lượng. Nếu như năm 1997 diện tích này chỉ đạt 65.000 ha thì đến năm 2006 nó đã tăng lên tới 125.000 ha, tức là chỉ trong vòng chưa đầy 10 năm diện tích trồng chè đã tăng lên gấp đôi. Không chỉ diện tích trồng chè được mở rộng, mà nhờ có đổi mới phương thức canh tác cũng như việc đưa giống mới vào trồng, làm cho năng suất chè tăng lên nhanh chóng từ 3,25 tấn/ha năm 1997 đến 2006 đã đạt tới 5,73 tấn/ha. Chính vì vậy sản lượng xuất khẩu và KNXK chè cũng theo đó mà cũng không ngừng tăng lên với sự đa dạng hoá về chủng loại và chất lượng. Nếu năm 2001 mức sản lượng xuất khẩu là 67,9 nghìn tấn với KNXK là 78 triệu USD thì đến năm 2007 sản lượng xuất khẩu đã tăng lên 112 nghìn tấn với KNXK là 130 triệu USD, tức là trong vòng 6 năm mức KNXK đã tăng lên gần gấp đôi. Bên cạnh đó, chủng loại chè xuất khẩu của Việt Nam ngày càng đa dạng. Nếu như năm 2005 chúng ta chỉ xuất khẩu 6 loại chè vào thị trường quốc tế thì trong năm 2006 số lượng các loại chè đã tăng lên 8 loại, bao gồm: Chè đen, chè xanh, chè nhài, trà lài, chè lên men, trà ô long, chè vàng, chè sen. Thứ hai phải nói đến thị trường chè xuất khẩu không ngừng được mở rộng trong thời gian qua. Nếu như trong những năm 90 thị trường xuất khẩu chè của chúng ta chỉ tập trung chủ yếu ở Liên Xô cũ và Đông Âu thì trong thời gian gần đây thị trường xuất khẩu đã mở rộng sang các thị trường khác như: Đài Loan, Pakistan, Trung Quốc, Mỹ, Đức, Ba Lan, Ấn Độ….Tính đến hết năm 2006 đã có hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ nhập khẩu chè của Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng ra cũng đã đăng ký Thương hiệu Chè Việt ở 77 quốc gia và vùng lãnh thổ trên khắp thế giới, và có thương hiệu quốc gia chè Việt Nam để chứng nhận những mặt hàng chè có chất lượng đảm bảo từ đó nhằm bảo vệ cho những sản phẩm chè có chất lượng tốt không bị ảnh hưởng uy tín bởi những sản phẩm chè chất lượng thấp. Thứ ba là các doanh nghiệp xuất khẩu chè không ngừng được tăng lên, có nhiều doanh nghiệp hăng hái tham gia hoạt động xuất khẩu chè sang những thị trường đầy tiềm năng của Việt Nam. Nếu như năm 2003 chỉ có 160 nhà xuất khẩu thì đến năm 2006 đã có tới 195 doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu chè và đứng đầu là Công ty chè Sài Gòn với 3.352 tấn. Trong các doanh nghiệp này có đến 12 doanh nghiệp đạt từ 1.000 tấn trở lên chiếm 48,73% về lượng và 47,19% về giá trị. Những bước phát triển đáng kể trên đây cho thấy hiệu quả có được từ công tác xúc tiến thương mại là rất lớn. Các đơn đặt hàng tiếp tục được gửi tới, các cơ hội hợp tác liên doanh xuất hiện cùng những trao đổi kinh nghiệm và học hỏi thêm nhiều quy trình sản xuất, công nghệ mới. Trong thời gian vừa qua chúng ta đã tuyên truyền quảng bá và tham gia hội chợ chuyên ngành kết hợp với khảo sát thị trường nước ngoài như: tham gia Festival chè tại Moscow vào tháng 5 năm 2006, tham gia hội chợ chuyên ngành chè và cà phê kết hợp với khảo sát thị trường tại Trung Quốc…..Đồng thời Hiệp hội chè Việt Nam đã đăng ký bảo hộ nhãn hiệu “CheViet” trực tiếp theo Thoả ước Madrid với 73 quốc gia và vùng lãnh thổ, đồng thời quảng bá ở nhiều quốc gia trong đó có thị trường Mỹ. 2.5.2 Những điểm yếu và nguyên nhân 2.5.2.1 Những điểm yếu Mặc dù sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu đang được nâng lên, nhưng nhìn chung vẫn còn ở mức thấp và so với yêu cầu phát triển trong điều kiện hội nhập KTQT còn bộc lộ những điểm yếu, hạn chế sau đây: Tốc độ tăng trưởng của giá trị xuất khẩu mặt hàng chè tuy có tăng qua các năm nhưng chưa thực sự tương xứng với tiềm năng sản xuất chè của nước ta, nhất là về điều kiện đất đai, khí hậu và lao động. Thị phần của chè xuất khẩu trên thị trường thế giới nói chung và thị trường Mỹ nói riêng vẫn còn nhỏ bé, không ổn định, thiếu các bạn hàng lớn và chủ yếu xuất khẩu qua trung gian. Tỷ lệ mặt hàng chè xuất khẩu tiếp cận với thị trường có sức mua cao như Mỹ còn thấp do tính cạnh tranh cao, yêu cầu khắt khe và các bảo hộ nghiêm ngặt của thị trường này. Trong khi đó, mặt hàng chè xuất khẩu của ta lại phụ thuộc quá nhiều vào những thị trường lớn khác như Irắc, Pakistan…nên khi những thị trường này biến động đã gây những tác động lớn và tiêu cực đến hoạt động sản xuất và tiêu thụ các mặt hàng. Giá cả của mặt hàng chè xuất khẩu nói chung còn bị thuộc vào sự biến động của giá cả chè trên thế giới. Trong những năm gần đây, mặc dù khoảng cách giá cả của chè Việt Nam và thế giới được thu hẹp dần do chất lượng hàng tăng lên, những giá chè xuất khẩu của Việt Nam luôn thấp hơn giá chè xuất khẩu của thế giới. Giá chè xuất khẩu của Việt Nam hiện nay chưa bằng một nửa so với Ấn Độ và Sri Lanka..v..v… Một điều đáng lưu ý là chè xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là dưới dạng thô, sơ chế nên khi xuất khẩu, phần giá trị tăng lên thấp và dễ gặp rủi ro trong hoạt động kinh doanh do giá cả sản phẩm chè thô trên thị trường thế giới đang có xu hướng giảm và thường xuyên biến động với biên độ cao. Mức độ đáp ứng các yêu cầu về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm của chè Việt Nam đã được cải thiện nhiều nhưng hiện vẫn ở mức thấp so với đối thủ cạnh tranh như Trung Quốc, Ấn Độ, Sri Lanka….Phần lớn chè Việt Nam xuất khẩu dưới dạng thô, được các nước nhập khẩu đấu trộn với cốt các loại chè khác hoặc để chiết xuất rồi bán ra với thương hiệu khác, tỷ lệ sản phẩm đã qua chế biến để xuất khẩu còn thấp. Hơn nữa, mặt hàng chè xuất khẩu của ta chưa đảm bảo được các tiêu chuẩn kỹ thuật và các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm như tạp chất, lẫn loại, dư lượng thuốc trừ sâu trong chè….Tỷ lệ chè chất lượng tốt (P, OP, FBOPO) chiếm tỷ trọng thấp, dưới 50% lượng chè xuất khẩu, số sản phẩm chè khuyết tật công nghệ lên tới 60-70%. Trong khi đó, Mỹ lại là một thị trường đòi hỏi khắt khe về chất lượng và an toàn thực phẩm. Tình hình xây dựng và phát triển thương hiệu mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường quốc tế còn yếu kém dẫn đến sự thua thiệt khi cạnh tranh với mặt hàng chè của nước ngoài. Cho đến nay, số các doanh nghiệp xuất khẩu chè có ý thức quảng bá nâng cao uy tín sản phẩm luôn gắn liền với nâng cao chất lượng sản phẩm như xây dựng và áp dụng quản lý chất lượng theo ISO, HACCP, xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm của mình chưa nhiều. Nước ta đã chính thức có thương hiệu trên 77 quốc gia và vùng lãnh thổ, đăng ký Logo “CheViet” trên 73 quốc gia nhưng sản phẩm chè của chúng ta lại hầu như ít được biết đến một cách phổ biến và thông dụng. Ngoài ra do phần lớn chè của ta được xuất khẩu vào thị trường thế giới thông qua trung gian dưới dạng thô nên người tiêu dùng thế giới chưa biết nhiều về nhãn hiệu chè Việt Nam đã dẫn đến sự thua thiêt lớn cho chè của Việt Nam ở nước ngoài. 2.5.2.2 Những nguyên nhân chủ yếu Trước hết, mặc dù chủ trương tự do hoá thương mại nhưng cho đến nay hàng nông sản nói chung trên thị trường Mỹ vẫn được bảo hộ chặt chẽ bằng hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Đặc biệt là ngày càng xuất hiện nhiều rào cản thương mại mới tinh vi hơn như chống bán phá giá, tiêu chuẩn xã hội, môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm, chống khủng bố sinh học..v…v…trên thị trường Mỹ. Những rào cản này đã gây khó khăn lớn cho những nước mà sức cạnh tranh của hàng nông sản trong đó có mặt hàng chè xuất khẩu còn chưa cao như Việt Nam. Thứ hai, do tình hình trên thế giới nhiều biện động, cung và cầu chè không ổn định đã gây nên những biến động về giá cả nói chung ảnh hưởng đến xuất khẩu chè của nước ta. Thêm vào đó, trên thế giới hiện nay các nước tham gia sản xuất và xuất khẩu chè ngày một nhiều, chất lượng chè cao gây cạnh tranh đối với chè Việt Nam đã một phần khiến sức cạnh tranh của chè Việt Nam giảm sút trên thị trường. Thứ ba, do đầu tư không tuân theo quy hoạch tổng thể, chưa đồng bộ nên việc phát triển công nghệ chế biến chè đã không gắn chặt với quy hoạch của Nhà nước về xây dựng vùng sản xuất tập trung hướng về xuất khẩu, đã dẫn đến chi phí chế biến chè cao, kém cạnh tranh. Không ít vùng nguyên liệu chè được đầu tư không đồng bộ của nhiều yếu tố sản xuất như điện, tưới tiêu nước, thu mua, chế biến, vốn tín dụng, thị trường….cùng với cơ sở hạ tầng thấp kém đã dẫn đến hạn chế khả năng cạnh tranh khai thác và phát huy lợi thế so sánh của từng vùng. Hơn nữa, do tình trạng bất cập trong quy hoạch vùng sản xuất chè trong thời gian qua, hiện tượng một loạt các nhà máy, xí nghiệp cũng như các xưởng chế biến chè mọc lên đã gây lên tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa khả năng cung cấp nguyên liệu và khả năng sản xuất, các nhà máy không sử dụng hết công suất, gây nên lãng phí trong sản xuất làm tăng chi phí. Thứ tư, hoạt động sản xuất và chế biến chè còn nhiều yếu kém so với các nước trong khu vực. Các yếu tố quan trong ảnh hưởng đến chất lượng chè như chọn giống, kỹ thuật canh tác, công nghệ chế biến, chăm sóc và bảo quản chè vẫn còn nhiều lạc hậu. Sự nghiên cứu và đưa vào sử dụng các giống mới vẫn còn nhỏ lẻ, thời gian nghiên cứu dài gây khó khăn cho người sản xuất chè. Việc chăm sóc chè chưa đúng quy trình, vườn chè chưa thu hút được đầu tư đúng mức, không đủ dinh dưỡng do phân hữu cơ ít được sử dụng, thiếu nguyên tố vi lượng, đạm, kali…làm cho cây chè bị giảm chất tan, búp không to, không khỏe khiến vườn chè năng suất thấp, chất lượng nguyên liệu kém. Ngoài ra, công tác thu hái và bảo quản chè còn nhiều bất cập. Người dân phải trực tiếp hái chè bằng tay nên tình trạng hái không theo tiêu chuẩn Việt Nam còn nhiều, thu hái ẩu và chỉ tiêu nặng về số lượng. Việc bảo quản chè sau thu hoạch cũng gặp những vấn đề bất cập như bao tải đựng chè không đúng quy định, cự ly vận chuyển xa khiến cho chất lượng búp chè không được tươi nguyên như ban đầu. Mặt khác, công nghệ sau thu hoạch và chế biến chè đang ở trong tình trạng lạc hậu là một nguyên nhân quan trọng khiến chất lượng chè của ta không sánh bằng với các nước khác. Sự đầu tư và hỗ trợ của Nhà nước cho công tác cải tiến công nghệ còn mang tính rời rạc, thiếu hệ thống và không đồng bộ. Các doanh nghiệp tuy rất tích cực đổi mới công nghệ song do nguồn vốn hạn hẹp, nhiều doanh nghiệp chấp nhận sử dụng công nghệ và thiết bị lạc hậu, chắp vá, thiếu đồng bộ. Thứ năm phải kể đến quan niệm coi nhẹ chất lượng sản phẩm tồn tại cố hữu trong chính những doanh nghiệp sản xuất chè xuất khẩu. Tại cơ sở chế biến chưa có sự phân loại chè, xảy ra tình trạng đánh đồng trộn lẫn các mẻ chè có chất lượng thấp với mẻ có chất lượng cao, sản phẩm đạt tiêu chuẩn với sản phẩm không đạt tiêu chuẩn gây thiệt hại cho giá chè của chúng ta. Tuy trong thời gian vừa qua, nhờ sự nỗ lực của Bộ NN&PTNN, cùng những chương trình nhằm hỗ trợ các nhà máy nâng cao chất lượng quy trình chế biến chè, nhưng tại một số cơ sở nhỏ lẻ địa phương vẫn còn tình trạng coi nhẹ quy trình chế biến như: sản phẩm chè đen bị rút ngắn khâu vò và khâu hoàn thiện sản phẩm, chè có mùi than ướt do sấy không đảm bảo, thời gian sấy chưa hợp lý, chế biến lẫn loại nên khó khăn, vấn đề vệ sinh công nghiệp bị buông lỏng…..Những vấn đề này đặt ra yêu cầu đòi hỏi các cơ quan chức năng cần có những biện pháp quản lý sâu sát hơn nữa tới các khu vực sản xuất nhỏ lẻ mang tính địa phương. Thứ sáu, tổ chức hệ thống kinh doanh xuất khẩu chè tuy đã có nhiều thay đổi nhưng năng lực kinh doanh và tổ chức liên kết giữa các lực lượng tham gia thị trường chưa chặt chẽ, còn bộc lộ nhiều yếu kém. Tình trạng nhiều doanh nghiệp ngành chè cùng tham gia vào xuất khẩu, mua bán phá giá nguyên liệu đã ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất và giá cả chè nói chung. Với tình trạng tranh mua, tranh bán như vậy nguồn nguyên liệu không những bị hạn chế mà chất lượng cũng kém đi ảnh hưởng đến uy tín chung của toàn ngành. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp xuất khẩu tuy đã dần dần gắn chặt với người sản xuất hơn nhưng sự gắn đó chưa thực sự tốt. Đã xảy ra tình trạng khi mà giá cả thị trường lên cao thì người trồng chè có xu hướng bán nguyên liệu ra bên ngoài để thu lợi nhuận cao hơn, nhưng khi giá cả thị trường không ổn định lại ép nhà máy thu mua. Thứ bảy, đầu tư của Nhà nước cho công tác nghiên cứu phục vụ nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng chè vẫn còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực. Điều đáng lưu ý là mức đầu tư này không những ít mà còn bị dàn trải, chưa có những dự án đầu tư quy mô lớn nhằm tập trung khai thác tiềm năng xuất khẩu chè. Bên cạnh đó, công tác đào tạo cán bộ, phát triển nguồn nhân lực chưa đáp ứng được đòi hỏi cả về số lượng và chất lượng. Đại bộ phận doanh nghiệp xuất khẩu chè có quy mô nhỏ, yếu về năng lực, kém về kiến thức và kinh nghiệm kinh doanh thương mại quốc tế, phần nhiều doanh nghiệp không có chiến lược kinh doanh và xuất khẩu dài hạn, mức độ thụ động cao. Trong khi đó, hoạt động của Hiệp hội Chè Việt Nam chưa thực sự hiệu quả, chưa tập hợp và phát huy tối đa được sức mạnh vật chất và tinh thần của cộng đồng doanh nghiệp. Tóm lại, trong chương 2, đề án đã đi sâu phân tích và đánh giá thực trạng sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ trong điều kiện hội nhập KTQT dựa theo các tiêu chí được nghiên cứu ở chương 1. Mặt hàng chè đã và đang trở thành mặt hàng chiến lược, có sức cạnh tranh khá cao trên thị trường thế giới và đặc biệt là trên thị trường Mỹ. Tuy nhiên, xét về tổng thể, sức cạnh tranh này vẫn còn thấp chưa phản ánh được hết tiềm năng và thực lực của đất nước. Trên cơ sở phân tích những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân làm giảm sức cạnh tranh mặt hàng chè xuất khẩu trên thị trường thế giới nói chung, đặc biệt trên thị trường Mỹ, đề án đã đưa ra những quan điểm mang tính chất định hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng chè xuất khẩu trong điều kiện hội nhập KTQT ở chương 3. CHƯƠNG 3 Định hướng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Mỹ trong thời gian tới 3.1 Định hướng phát triển xuất khẩu mặt hàng chè của Việt Nam Theo quy hoạch phát triển ngành chè, dự kiến đạt sản lượng chè xuất khẩu là 110.000 tấn và đạt kim ngạch khoảng 200 triệu USD vào năm 2010. Mở rộng diện tích trồng chè ở các vùng có điều kiện, ưu tiên phát triển chè ở vùng trung du, miền núi phía bắc đạt năng suất cao ổn định ở mức 104.000 ha. Hình thành các vùng sản xuất chè với quy mô lớn, thâm canh để đạt năng suất, chất lượng cao, gắn với cơ sở chế biến chủ yếu phục vụ cho hoạt động xuất khẩu. Cải tạo và thay thế toàn bộ giống chè cũ năng suất thấp bằng các loại giống chè mới cho năng suất và chất lượng cao, sản xuất với quy trình công nghệ sạch. Đầu tư khuyến khích trồng các loại giống tốt có hương vị đặc chủng mới như giống lai LDP1, LDP2, Tô Hiệu, 1A.v.v.. Mục tiêu vẫn là giữ vững thị trường hiện có và mở rộng thị trường xuất khẩu mới. Hướng thị trường xuất khẩu mục tiêu trong giai đoạn tới là các nước châu Âu như Anh, Pháp, Đức và các nước châu á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc và Singapore và các nước Trung Đông. Tiếp tục mở rộng thị trường Trung Cận Đông (20-25 ngàn tấn/năm), thị trường châu Âu (10-15 ngàn tấn/năm), thị trường châu á (10-15 ngàn tấn/năm), thị trường châu Mỹ-châu Phi (5-8 ngàn tấn/năm). Về mục tiêu dài hạn, ngành chè phấn đấu tổng KNXK là 650-700 triệu USD (gần bằng thu nhập về chè hiện nay của Sri Lanka là 750 triệu USD). Tổng doanh thu chè, các sản phẩm phát sinh từ chè và doanh thu từ hoạt động kinh doanh đa dạng là 1.000 triệu USD (trong đó phấn đấu trở thành nhà phân phối chè chủ yếu cho thị trường Asean cùng với Indonesia). Đồng thời sẽ cải biến căn bản các hoạt động của Hiệp hội chè Việt Nam trên cơ sở đồng thuận, chuyên nghiệp hóa, phát triển các lĩnh vực mới của các tổ chức phi Cính phủ là Hiệp hội kinh tế- doanh nghiệp ngành hàng: tư vấn chuyên nghiệp, phản biện xã hội, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, phát triển thương hiệu, truyền thông và thông tin, kiện toàn và đổi mới phương thức hoạt động của hội viên. Mở rộng đối ngoại và hợp tác quốc tế với cộng đồng chè thế giới. (Theo nguồn thông tin từ Tạp chí thế giới chè, số Xuân 2007 ). 3.2 Một số giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Mỹ 3.2.1 Giải pháp từ phía Nhà nước 3.2.1.1 Giải pháp về hoàn thiện, đổi mới cơ chế và quản lý của Nhà nước Nhà nước cần tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách theo hướng minh bạch, đồng bộ và phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chính phủ Việt Nam đang đẩy nhanh cải cách thể chế nhằm cải thiện khung pháp lý cần thiết cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập khu vực và thế giới. Trong bối cảnh đó, hoạt động thương mại cần tiếp tục đổi mới ở cấp độ quản lý Nhà nước và hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên quá trình điều chỉnh chính sách cần phải đảm bảo không chỉ tạo ra một môi trường thuận lợi để khuyến khích sản xuất và kinh doanh xuất khẩu mặt hàng chè cho mọi thành phần kinh tế trong nước mà còn cả các nhà đầu tư nước ngoài. Nhà nước cần giúp đỡ các doanh nghiệp thông qua quỹ hỗ trợ phát triển với lãi suất ưu đãi để khuyến khích các doanh nghiệp có thể tự lực phát triển nội lực của mình phục vụ cho việc xuất khẩu chè. Đồng thời đi đôi với đó là các biện pháp đảm bảo các khoản vay này sử dụng một cách đúng mục đích và có hiệu quả. Các cơ quan chuyên trách như Bộ NN & PTNN, Bộ thương mại, Hiệp hội chè cũng như Tổng công ty chè Việt Nam cũng phải giám sát, giúp đỡ các doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn trong việc sản xuất chè. Trong quá trình các công ty sản xuất chè đang tiến hành cổ phần hóa sâu rộng, Nhà nước cần phải đẩy mạnh và tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến về chủ trương đổi mới, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, các kết quả, kinh nghiệm của Tổng công ty, của doanh nghiệp làm tốt cổ phần hóa. Đồng thời, Nhà nước nên giảm sự chi phối của mình trong những doanh nghiệp cổ phần hóa, nên tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự do kinh doanh, tìm kiếm bạn hàng cũng như hoạt đông xuất khẩu chè của mình. Một mặt có thể cạnh tranh và cọ xát được với các doanh nghiệp khác, mặt khác phát huy được những nội lực của mỗi doanh nghiệp nói riêng. 3.2.1.2 Giải pháp quy hoạch và phát triển vùng chè Nhà nước cần nâng cao chất lượng công tác quy hoạch tổng thể trên cơ sở tiếp tục chỉ đạo triển khai việc rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển ngành sản xuất chè trên phạm vi cả nước và từng tỉnh để có một quy hoạch về diện tích trồng ổn định lâu dài, phù hợp với điều kiện, lợi thế của từng vùng, tiểu vùng và cung cầu trên thị trường thế giới. Việc rà soát và xây dựng quy hoạch này phải đảm bảo sự cân đối giữa phát triển vùng nguyên liệu chè và công nghiệp chế biến chè. Để có thể phát triển tốt các vùng chè trên cả nước Nhà nước cần có các cơ quan chuyên trách điều tra về tiềm năng cây chè Việt Nam trên khía cạnh nông học để xác định mức độ chất lượng của các chủng loại chè trên thực tế. Dựa vào đặc điểm khí hậu của từng vùng, từng khu vực trên cả nước để có những hướng đi đúng đắn phù hợp cho từng vùng tạo năng suất cao nhất. Nhà nước sẽ quy hoạch cho từng vùng nguyên liệu phù hợp với những kết quả đã khảo sát theo hướng tránh lãng phí nguồn lực và thiếu hụt nguyên liệu do thừa công suất. Quy hoạch vùng chè có tác dụng to lớn trong việc tạo ra một vùng nguyên liệu ổn định từ đó đẩy mạnh công tác sản xuất, chế biến chè, tạo ra giải pháp nhằm nâng cao năng suất cũng như chất lượng sản phẩm phục vụ cho hoạt động xuất khẩu chè của Việt Nam. Muốn xâm nhập sâu hơn vào thị trường Mỹ đòi hỏi ngành chè phải không ngừng nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm. Muốn nâng cao chất lượng trước hết phải có nguyên liệu chất lượng cao. Vì thế quy hoạch vùng chè có chất lượng cao, an toàn là đòi hỏi cấp bách. Nhà nước cần mở rộng diện tích các giống chè mới cho năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng, kể cả trồng mới và trồng thay thế giống cũ theo phương thức cuốn chiếu. Bố trí các vùng theo 3 hướng chủ yếu: vùng sản xuất chè sạch, chè hữu cơ; vùng phát triển chè chất lượng cao và an toàn ; vùng chè năng suất cao và an toàn. Đối với các trang trại và hộ trồng chè nằm trong vùng quy hoạch phát triển chè dài hạn, cần thực hiện các chính sách nâng cao năng lực canh tác chè dài hạn (cho vay tín dụng để đầu tư dài hạn, nâng cao năng lực ký hợp đồng với các cơ sở chế biến...) Cuối cùng, Nhà nước cần tăng cường các biện pháp kiểm soát mặt hàng chè từ khâu trồng, thu hoạch, chế biến đến xuất khẩu. Nhà nước cần tiến hành tuyên truyền, phổ biến về tính tất yếu phải nâng cao chất lượng sản phẩm trong điều kiện hội nhập KTQT đến người trồng chè, các doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ thông qua các buổi hội thảo, các phương tiện truyền thông như ti vi, báo, đài, loa phóng thanh.....Nhà nước cần kết hợp tốt với chính quyền địa phương kiểm tra, giám sát những cơ sở trồng chè trong công tác chọn giống, kỹ thuật canh tác, thu hái. Đối với những cơ sỏ sản xuất chè vừa và nhỏ cần tiến hành kiểm tra, thay thế dần những thiết bị, máy móc lạc hậu, đồng thời kiểm soát chặt chẽ khâu chế biến và bảo quản chè theo Quy định số 43/2007/QD-BNN của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT về quản lý, chế biến và chứng nhận chè an toàn. Đối với khâu xuất khẩu, Nhà nước cần thành lập hệ thống kiểm dịch kiểm tra nghiêm ngặt chất lượng sản phẩm xuất khẩu, đặc biệt là khâu vệ sinh an toàn thực phẩm. Kiên quyết không cho phép doanh nghiệp sử dụng công nghệ lạc hậu, không đảm bảo chất lượng sản phẩm Như vậy, công tác quy hoạch và phát triển vùng chè là vấn đề cấp thiết đòi hỏi Nhà nước phải tiếp tục tiến hành trong thời gian tới. Mục tiêu trước mắt là giải quyết sự mất cân đối giữa vùng nguyên liệu chè và công nghiệp chế biến chè, sau đó là phát triển những vùng sản xuất chè sạch và an toàn nhằm nâng cao khả năng xâm nhập và sức cạnh tranh của chè Việt Nam trên những thị trường đòi hỏi cao về chất lượng, đặc biệt là thị trường Mỹ. 3.2.1.4 Giải pháp hỗ trợ nâng cao chất lượng chè xuất khẩu - Nhà nước cần đẩy mạnh hoạt động của chương trình khuyến nông, khuyến lâm, đầu tư của Nhà nước cho công tác nghiên cứu giống cây chè và quy trình sản xuất chè tiên tiến đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Đây là các biện pháp hỗ trợ nông nghiệp trong nước dạng “hộp xanh” có tác dụng hỗ trợ và khuyến khích xuất khẩu mặt hàng chè nhưng lại không vi phạm quy định của WTO. Đồng thời, cần ưu tiên hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất chè xây dựng và quản lý chất lượng sản phẩm theo ISO, HACCP, tăng cường áp dụng các biện pháp vệ sinh kiểm dịch động thực vật theo Hiệp định SPS. Xây dựng và quản lý chất lượng sản phẩm như vậy sẽ tạo thuận lợi hơn cho chè Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Mỹ và được người tiêu dùng Mỹ tin dùng. - Thực hiện các giải pháp hỗ trợ về giống chè – một yếu tố quan trọng hàng đầu và có tính chất quyết định trực tiếp tới chất lượng chè xuất khẩu. Để đẩy mạnh hiệu quả của giống cây chè cần phải đầu tư hơn nữa cho công tác nghiên cứu lai tạo ra và áp dụng những giống cây con có năng suất cao, chất lượng và giá trị kinh tế cao phù hợp với các vùng. Đối với những giống, cây con tốt trên thế giới phù hợp với điều kiện khí hậu, đất đai của Việt Nam và thị hiếu người tiêu dùng mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ thì cần khuyến khích nhập khẩu. Đồng thời tiếp tục có những chương trình giống hỗ trợ các hộ cải tạo các vườn chè đã cũ cho năng suất thấp nhằm xây dựng những vùng nguyên liệu chất lượng cao, đồng đều và ổn định phục vụ chế biến. - Các chính sách và giải pháp của Nhà nước cần có sự hỗ trợ và khuyến khích việc nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ canh tác chè mới hoặc phương thức canh tác hữu cơ bền vững với một quy trình khép kín từ khâu làm đất, trồng, chăm sóc, quản lý các dư lượng có hại đối với sản phẩm chè đến khâu thu hoạch, bảo quản. Về khâu chế biến và bảo quản, Nhà nước cần có những giải pháp hỗ trợ tăng cường nghiên cứu khoa học, công nghệ ứng dụng các tiến bộ kĩ thuật, kết hợp nhập khẩu các công nghệ cao nhằm đổi mới quy trình sản xuất, thiết bị theo hướng tiên tiến, hiện đại. 3.2.1.5 Giải pháp về hỗ trợ xúc tiến thương mại Trước hết, trong điều kiện hiện nay, giá cả thị trường mặt hàng chè biến động rất khó dự đoán, các nước nhập khẩu mặt hàng chè, trong đó có thị trường Mỹ, thường có sự thay đổi về pháp luật và chính sách thương mại. Để có thể chủ động nắm bắt kịp thời và đối phó với những thay đổi về giá cả chè xuất khẩu, về chính sách của các nước, đặc biệt là các bạn hàng quan trọng như thị trường Mỹ, việc Nhà nước hỗ trợ cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thời về các thị trường xuất khẩu chè để giúp cho các doanh nghiệp là rất cần thiết. Thứ hai, Nhà nước cần tiếp tục đàm phán ký kết mới, sửa đổi, bổ sung các Hiệp định thương mại song phương và đa phương, các cam kết quốc tế. Riêng đối với thị trường Mỹ Nhà nước cần tiến hành đàm phán ký kết nhiều hơn nữa các Hiệp định thương mại song phương liên quan đến mặt hàng nông sản để từ đó tạo điều kiện mở cửa thị trường Mỹ cho hàng nông sản Việt Nam nói chung và mặt hàng chè xuất khẩu nói riêng. Thứ ba là tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ và điều hành xúc tiến thương mại nói chung và các hoạt động xúc tiến thương mại chè xuất khẩu nói riêng. Nhà nước cần tiếp tục đổi mới cả về hình thức tổ chức và hệ thống cơ quan tham gia hoạt động xúc tiến thương mại theo hướng chú trọng khâu tổ chức và cung cấp thông tin thị trường, tăng cường hoạt động xúc tiến thông qua việc hỗ trợ tổ chức các đoàn khảo sát, giảm bớt các chương trình khảo sát thị trường mang tính nhỏ lẻ. Đồng thời các tổ chức xúc tiến thương mại cần tăng cường cung cấp các dịch vụ hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp sản xuất chè như: cung cấp thông tin về các thị trường, đối thủ cạnh tranh, tư vấn pháp lý, giúp giải quyết các vướng mắc trong quan hệ thương mại. Tóm lại, những giải pháp xúc tiến xuất khẩu chè nêu trên sẽ đóng vai trò tiên phong mở cửa, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất chè khi xuất khẩu sản phẩm vào thị trường Mỹ, từ đó có lợi thế cạnh tranh cao hơn. Đồng thời càng hiểu rõ hơn về thị trường Mỹ, những đối thủ cạnh tranh trên thị trường đó, các nhà sản xuất chè càng sớm có những đối sách thích hợp để mở rộng thị phần sản phẩm chè của mình trên thị trường. 3.2.2 Giải pháp từ phía Hiệp hội Chè Việt Nam Trong xu thế hội nhập hiện nay, khi Nhà nước hầu như không can thiệp vào hoạt động kinh doanh thì vai trò của Hiệp hội Chè Việt Nam ngày càng quan trọng và cần thiết trong việc định hướng sản xuất kinh doanh, phối hợp có hiệu quả các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mặt hàng chè trong nước và ngoài nước. Để nâng cao hơn nữa vai trò của Hiệp hội Chè Việt Nam và để có thể tăng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu trên thị trường thế giới nói chung và thị trường Mỹ nói riêng, Hiệp hội Chè Việt Nam cần phải tập trung thực hiện một số giải pháp sau đây: - Hiệp hội cần có cơ chế quản lý chuyên nghiệp với các quy định về hội viên, tổ chức bộ máy, tài chính và quỹ của Hiệp hội, chức năng quản lý, đàm phán, kiểm tra, giám sát các hội viên. - Nghiên cứu thị trường và đưa ra các thông tin chính xác về thị trường, đối tác cho các doanh nghiệp. Các vấn đề liên quan đến thị hiếu tiêu dùng, các qui định nghiêm ngặt, các tiêu chuẩn chất lượng. … Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng rất cần những thông tin liên quan đến đối thủ cạnh tranh để từ đó đưa ra được các chiến lược phát triển đúng đắn cho công ty. Việc cung cấp thông tin có thể được thực hiện thông qua các trang web, các trung tâm tư vấn, và cả những đường dây điện thoại nóng… - Hiệp hội Chè Việt Nam cần tổ chức các hoạt động xây dựng hình ảnh tốt đẹp về ngành chè Việt Nam tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm. Đồng thời xúc tiến xây dựng một số thương hiệu nổi tiếng mang tính quốc gia tại các thị trường xuất khẩu, tổ chức các hoạt động xâm nhập mạng lưới bán lẻ tại thị trường nước ngoài, đề xuất các chế độ, cơ chế, chính sách tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp trong ngành. Cần tăng cường hơn nữa, việc đưa các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào các kì triển lãm hội chợ tại thị trường Mỹ, cũng như tại các thị trường khác trên thế giới. - Liên kết, bảo vệ lẫn nhau chống những hành vi độc quyền, tranh chấp thị trường tiêu thụ chè, đầu cơ gây tổn hại đến lợi ích chung. Đồng thời giúp đỡ nhau trong những vấn đề về vốn, đào tạo, môi giới, tư vấn kỹ năng quản lý doanh nghiệp và áp dụng công nghệ mới trong trồng, chăm sóc, bảo quản và chế biến chè. - Hiệp hội cần nâng cao vai trò cầu nối trung gian của mình nhằm tạo sự thống nhất, liên kết giữa các cơ quan Nhà nước ban hành chính sách và các doanh nghiệp Việt Nam. Tham gia với cơ quan Nhà nước trong việc thẩm định các chủ trương chính sách, các văn bản pháp quy có liên quan đến sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu mà hội viên là đối tượng thi hành. Trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị xuất phát từ thực tiễn sản xuất kinh doanh của cơ sở vì lợi ích chung. 3.2.3 Giải pháp từ phía doanh nghiệp 3.2.3.1 Giải pháp tăng doanh thu cho doanh nghiệp Để tăng tính cạnh tranh bằng doanh thu, các doanh nghiệp sản xuất chè cần cố gắng giảm giá thành sản phẩm thông qua các biện pháp nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí cố định trong quản lý, giảm tiêu hao năng lượng điện trong sản xuất (ở Việt Nam thường cao hơn 2,4 đến 3,6 lần so với các nước trong khu vực), chia sẻ giữa các doanh nghiệp chi phí tiếp thị, chi phí thông tin thị trường. Trong đó, nâng cao năng suất lao động được coi là vấn đề nổi cộm khi mà nguồn cung cấp nguyên liệu chè của các hộ, các cơ sở trồng chè chỉ đáp ứng được 2/3 công suất sản xuất. Mỗi doanh nghiệp cần phải khoanh vùng được nguồn nguyên liệu chè của mình, ký hợp đồng dài hạn với các nhà trồng chè để đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định. Tóm lại, bằng cách thực hiện các biện pháp cắt giảm giá thành trên, các doanh nghiệp sản xuất chè mới tạo được giá cả sản phẩm có tính cạnh tranh trên thị trường và được nhiều người tiêu dùng chấp nhận. 3.2.3.2 Giải pháp nâng cao thị phần Để thâm nhập sâu hơn, doanh nghiệp cần lưu ý nhìn nhận từ góc độ “cầu” của thị trường Mỹ về sức mua, thị hiếu, tính đa dạng cũng như phân khúc thị trường, dân số..., trong đó điều rất quan trọng là nhận thức và khả năng thích ứng. Các doanh nghiệp cần xây dựng những chiến lược và kế hoạch kinh doanh cụ thể bởi chiến lược kinh doanh này sẽ là định hướng có tính lâu dài, dựa trên kết quả của quá trình nghiên cứu thị trường và sự hài hòa hóa các yếu tố nội lực của chính bản thân các doanh nghiệp. Trong chiến lược kinh doanh đó, cần phải coi trọng công tác tiếp thị, quảng cáo. Có tiếp thị và quảng cáo rộng rãi mới có thể dần tạo ấn tượng cho người tiêu dùng Mỹ về sản phẩm chè của Việt Nam Đặc biệt đối với ngành chè bao bì, nhãn mác được khách hàng rất quan tâm nên chúng ta cũng cần chú ý đầu tư kỹ cho khâu này. Tiếp tục phát triển mạng lưới tiêu thụ để chiếm lĩnh thị trường là một giải pháp trọng điểm để nâng cao thị phần của chè Việt Nam trên thị trường Mỹ. Tổng công ty chè Việt Nam (VINATEA) có thể là đầu mối tập hợp các doanh nghiệp sản xuất trong cả nước để hình thành hệ thống cửa hàng kinh doanh chuyên cung cấp mặt hàng chè chất lượng cao của Việt Nam, trước hết mở tại các thành phố lớn để trong một vài năm tới hệ thống cửa hàng này sẽ có mặt hầu hết tại các tỉnh thành, thành phố lớn trong cả nước và lan rộng ra thị trường nhập khẩu. Ngoài ra, các doanh nghiệp lớn cũng có thể tự xây dựng những đại lý phân phối sản phẩm của mình ngày trên thị trường nước nhập khẩu, dùng chính những người bản địa để cung cấp sản phẩm chè của Việt Nam. 3.2.3.3 Giải pháp về nâng cao chất lượng sản phẩm Chất lượng chè giữ vai trò quan trọng trong việc củng cố và mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè trên thị trường Mỹ. Để có thể vượt qua được hàng rào về chất lượng của thị trường Mỹ, các doanh nghiệp sản xuất phải tiến hành kiểm tra sản phẩm từ giai đoạn đầu đến giai đoạn cuối, đồng thời tiến hành các biện pháp cải thiện chất lượng ở từng khâu. Để thực hiện những giải pháp này cần có sự phối hợp tốt giữa doanh nghiệp xuất khẩu và các nhà trồng chè. Đối với khâu giống, cần phải thay thế dần các giống chè đã thoái hóa bằng các giống chè mới có năng suất cao, chất lượng tốt như các loại giống PH1, 1A, 777, BT95, YA94....và các giống mới như NT95, VX95....Bên cạnh đó, cần trồng thêm các loại chè đặc sản như chè Shan Tuyết, BP95, LDP1-2, 777, VX95, YA94. Các doanh nghiệp cũng cần phối hợp với các cơ sở nghiên cứu giống của Nhà nước để tìm ra những giống chè mới cho năng suất cao và phù hợp với khí hậu, địa hình từng vùng. Đối với khâu chăm sóc, cần thực hiện đồng bộ quy trình kỹ thuật công nghệ tiên tiến trong sản xuất nguyên liệu và bảo quản chế biến. Do đó, cần thực hiện tốt quy trình thâm canh tổng hợp trong đó có các khâu rất cơ bản là: quy vùng sản xuất thích hợp cho các giống chè với các sản phẩm tương ứng, bón phân cân đối hợp lý, hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc trừ sâu, hóa học trên cây chè, tăng cường áp dụng phương pháp dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây chè. Đối với vườn chè trồng mới và trồng thay thế, cần áp dụng đúng quy trình thiết kế nương đồi, làm đất bằng cơ giới, đảm bảo mật độ phù hợp với điều kiện địa hình, đặc điểm giống chè, bón đủ phân hữu cơ, trồng cây cải tạo đất, chống xói mòn. Đối với vườn chè kinh doanh, cần áp dụng quy trình hái dãn lứa, sửa tán và bón phân đủ. Riêng những nương chè cằn cỗi, phải tăng cường bón bổ sung phân hữu cơ vi sinh, phân bón lá để chè nhanh phục hồi và sinh trưởng tốt. Đối với chè hữu cơ, chỉ sản xuất loại chè này khi xác định được nhu cầu đầu ra của sản phẩm theo các đơn đặt hàng. Cần kiểm soát việc áp dụng quy trình sản xuất chè hữu cơ một cách nghiêm ngặt theo nguyên tắc không sử dụng phân bón hóa học và các loại hóa chất bảo vệ thực vật. Đối với khâu chế biến và bảo quản, các doanh nghiệp nên ưu tiên sử dụng những công nghệ hiện đại, công nghệ sạch trong khâu này, đảm bảo an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời từng bước loại bỏ những dây chuyền công nghệ chế biến đã lỗi thời, có chất lượng sản phẩm chế biến thấp. Về vấn đề bố trí nhà máy sản xuất, các doanh nghiệp cần quan tâm đến việc xây dựng quy mô nhà máy sao cho phù hợp với vùng nguyên liệu. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần tiếp tục tiến hành đa dạng hóa sản phẩm như chè ướp hương hoa quả, chế các loại thuốc chè, chè nhúng, chè hòa tan chất lượng cao, chế biến các loại chè đặc sản, độc đáo mang phong cách riêng của chè Việt Nam. Mặt khác, cần tiếp tục nâng cấp hệ thống kho tàng phục vụ cho việc cất giữ. Hiên nay số lượng kho tương đối nhiều nhưng lại mắc phải tình trạng xuống cấp, các điều kiện bảo quản không đủ tiêu chuẩn gây ảnh hưởng đến chất lượng hàng hóa. Trong thời gian tới, các doanh nghiệp cần chú ý đến việc đầu tư xây dựng các hệ thống bảo quản sao cho tránh được hiện tượng ẩm mốc, nhiễm khuẩn cho sản phẩm, ảnh hưởng đến chất lượng chè khi đem ra ngoài xuất khẩu. Đối với khâu xuất khẩu, các doanh nghiệp cần thực hiện nghiêm chỉnh khâu kiểm tra chất lượng trước khi giao, đảm bảo hàng xuất đúng với yêu cầu đã ký kết trong hợp đồng và cao hơn nữa là đáp ứng được với các tiêu chuẩn về chất lượng của quốc tế. Trước đó, các doanh nghiệp cũng phải không ngừng ý thức tính cần thiết của vấn đề sản xuất đúng quy trình chất lượng cho đội ngũ cán bộ trong doanh nghiệp và các nhà trồng chè. Cần luôn nêu rõ chủ trương không vì lợi nhuận hay tính thời vụ mà quên đi chất lượng hàng hóa. 3.2.3.4 Giải pháp về thương hiệu Trong số các doanh nghiệp sản xuất chè hiện nay, chỉ có một bộ phận nhỏ các doanh nghiệp có thương hiệu được gắn biểu tượng chè Viêt Nam chất lượng cao và được người tiêu dùng đánh giá cao như: Rồng phương đông, chè Shan tuyết Mộc Châu, Tùng Hạc, Long Vân.... Tuy nhiên những sản phẩm này chỉ có tiếng tăm trong nước hoặc một số nước lân cận chứ chưa có danh tiếng trên thị trường Mỹ. Như vậy, muốn sản phẩm có một chỗ đứng trên thị trường nhập khẩu, đặc biệt trên thị trường đầy cạnh tranh như Mỹ, công tác xây dựng thương hiệu của các doanh nghiệp xuất khẩu chè là vô cùng quan trọng. Các giải pháp mà doanh nghiệp có thể tiến hành là: - Cần phải xúc tiến nhanh các hoạt động xây dựng và quảng bá thương hiệu sản phẩm chè hướng ra thị trường thế giới. Việc xây dựng thương hiệu cần một chiến lược đồng bộ của tất cả các khâu từ việc chọn lựa giống cây, trồng trọt và chăm sóc, thu hoạch, bảo quản và chế biến. Cần có chiến lược xây dựng thương hiệu trong chiến lược Marketing tổng thể của doanh nghiệp, để từ đó nỗ lực xây dựng và phát triển thương hiệu trở thành nỗ lực chung và đi vào mọi chương trình khinh doanh cụ thể. - Xây dựng bộ phận chuyên trách về thương hiệu trong doanh nghiệp để việc nhận thức và tư duy về thương hiệu mang tính chuyên môn và chuyên nghiệp hơn. Nguồn nhân lực trong lĩnh vực thương hiệu đó cần được đầu tư theo các chương trình đào tạo và tuyển dụng lâu dài mang tính khoa học, tránh sử dụng đào tạo như một phương thức giải quyết những vướng mắc tạm thời của doanh nghiệp, thiếu tầm nhìn dài hạn mang tính chiến lược. - Khi đã có thương hiệu, cần coi trọng việc bảo vệ, gìn giữ, quảng cáo và phát triển thương hiệu một cách bền vững. Cần đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, mác sản phẩm, thương hiệu ở trong nước và cũng như trên thị trường Mỹ để người tiêu dùng Mỹ từng bước làm quen với nhãn mác, thương hiệu và chất lượng mặt hàng chè của từng doanh nghiệp. Cần phải có những phương thức quảng cáo, khuyến mãi, xúc tiến thương mại đặc trưng riêng để tạo ấn tượng tốt đẹp trong lòng người tiêu dùng Mỹ đối với sản phẩm chè của các doanh nghiệp Việt Nam. - Vấn đề mấu chốt để đảm bảo giữ gìn và phát triển thương hiệu một cách bền vững, chính là không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và phát triển mạng lưới bán hàng, đưa thương hiệu của doanh nghiệp và sản phẩm đến quảng đại người tiêu dùng. Đồng thời, không ngừng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, tạo sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Tóm lại, từ nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản , từ thực tiễn nước ta và kinh nghiệm một số nước trên thế giới, Chương 3 đã phân tích triển vọng và mục tiêu phát triển xuất khẩu chè Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn dài hạn. Đồng thời chương 3 đã đưa ra hệ thống các giải pháp mang tính quyết định đến thành công trong việc nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu. Đó là các giải pháp từ phía Nhà nước trong việc quy hoạch và phát triển vùng chè, cải thiện công tác xúc tiến thương mại, hỗ trợ nâng cao chất lượng chè xuất khẩu. Đó là sự nâng cao hơn nữa vai trò của Hiệp hội Chè trong việc phối hợp các doanh nghiệp sản xuất chè và thúc đẩy xuất khẩu. Cuối cùng là các giải pháp xuất phát từ chính những doanh nghiệp xuất khẩu chè trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao thị phần, uy tín và thương hiệu trên thị trường thế giới. Thực hiện được những giải pháp này sẽ giúp cho sức cạnh tranh của chè Việt Nam ngày càng nâng cao trên thị trường thế giới nói chung và thị trường Mỹ nói riêng, từ đó đưa xuất khẩu chè trở thành một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam. KẾT LUẬN Việc phân tích đánh giá đúng thực trạng, tìm ra nguyên nhân để từ đó đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao sức cạnh tranh mặt hàng chè xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Mỹ là vấn đề rất quan trọng không những chỉ về mặt nhận thức, lý luận mà còn ý nghĩa về mặt thực tiễn trong điều kiện hội nhập KTQT, đặc biệt khi Việt Nam là thành viên chính thức của WTO. Xuất phát từ quan điểm này, đề án đã tập trung giải quyết những vấn đề sau: Đề án đã hệ thống hoá và làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh và sức cạnh tranh của hàng hoá. Đề án đã đưa ra những tiêu chí cơ bản để đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá như sản lượng và doanh thu, thị phần, chi phí sản xuất và giá cả, chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, thương hiệu và uy tín sản phẩm. Đề án cũng đã khẳng định sự cần thiết khách quan phải nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Mỹ trong điều kiện hội nhập KTQT do vai trò to lớn của xuất khẩu chè đối với Việt Nam và tiềm năng tiêu thụ của thị trường Mỹ rộng lớn. Thông qua việc nghiên cứu kinh nghiệm sử dụng các giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh chè xuất khẩu của một số nước có nền sản xuất chè phát triển và có điều kiện kinh tế xã hội tương tự ở Việt Nam như Trung Quốc và Ấn Độ, đề án đã rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích cho Việt Nam, như: đầu tư công nghệ chế biến, chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học….. Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, đề án đã sử dụng những cơ sở lý luận để phân tích và đánh giá đúng thực trạng sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu trên thị trường Mỹ. Đề án đã chỉ ra rằng sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu đã được nâng lên một cách rõ rệt trong những năm qua. Tuy nhiên, sức cạnh tranh của mặt hàng này vẫn còn thấp, điểm mạnh của mặt hàng này mới chỉ ở bề rộng chứ chưa thế hiện ở bề sâu như kim ngạch xuất khẩu tăng nhưng chủ yếu ở dạng thô, tỷ lệ sản phẩm qua chế biến để xuất khẩu còn thấp, chủng loại chưa đa dạng, chất lượng còn kém chưa cạnh tranh được với sản phẩm của nước khác, phần lớn xuất khẩu qua trung gian và thương hiệu nước ngoài nên chưa được người tiêu dùng Mỹ biết đến… Dựa trên cơ sở lý luận khoa học, căn cứ vào phương hướng và mục tiều phát triển xuất khẩu chè trong thời gian tới, đề án đã đưa ra hệ thông các giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu bao gồm các giải pháp từ phía Nhà nước, từ phía Hiệp hội Chè Việt Nam và từ phía doanh nghiệp. Các giải pháp này có tính khả thi cao, vì nó được gắn chặt với những điều kiện cần thiết để thực hiện, phù hợp với xu thế sản xuất và xuất khẩu chè của Việt Nam trong điều kiện hội nhập KTQT. Cần thực hiện đồng bộ các giải pháp này, phối hợp cả 3 cấp Nhà nước, Hiệp hội và doanh nghiệp để đạt hiệu quả cao nhất vì chúng có mối liên hệ chặt chẽ và tạo tiền đề cho nhau. TÀI LIỆU THAM KHẢO A.SÁCH, TẠP CHÍ - Đỗ Đức Bình và Nguyễn Thường Lạng (chủ biên) (2008), Giáo trình kinh tế quốc tế, Đại học Kinh tế Quốc dân, Nhà xuất bản Lao động xã hội. - Giáo trình:GS.PTS Tô Xuân Dân Chính sách kinh tế đối ngoại, lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế, Nhà xuất bản thống kê - Chu Văn Cấp (2003) Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Vũ Trọng Lâm (2006) Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Bộ NN&PTNT (2006), Thương hiệu và nhãn hiệu hàng nông sản Việt Nam, tài liệu hội thảo ngày 18/8/2006, Hà Nội. - Bộ NN&PTNT (2002), Triển vọng nông sản thế giới thời kỳ 2003-2010, Hà Nội. - Nguyễn Hữu Khải (2005), Cây chè Việt Nam: Năng lực cạnh tranh xuất khẩu và phát triển, Nhà xuất bản Lao động xã hội. - Nguyễn Đình Long, Nguyễn Tiến Mạnh (1999), Phát huy lợi thế, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam, Nhà xuất bản Nông nghiệp. - Võ Đại Lược (2004), Trung Quốc gia nhập tổ chức Thương mại thế giới: thời cơ và thách thức, Nhà xuất bản Khoa học xã hội. - Đỗ Ngọc Quý, Nguyễn Kim Phong (1997), Cây chè Việt Nam, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. - Tổng công ty chè Việt Nam (2002), Công nghệ chế biến chè: cơ sở lý thuyết và các biện pháp công nghệ chế biến chè cơ bản, Báo cáo tổng hợp. - Tổng công ty chè Việt Nam (2002), Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh chè trên toàn thế giới và viễn cảnh ngành chè trong những năm tới, Báo cáo tổng hợp. B.CÁC TRANG WEB Vietnamnet.vn Vitas.org.vn (Trang web của Hiệp hội chè Việt Nam) Fao.org.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25008.doc