Hệ thống Ngân hàng và đặc biệt là các Ngân hàng thương mại ở nước ta đang dần dần thể hiện tầm quan trọng của mình đối với nền kinh tế.Trong những năm qua các Ngân hàng thương mại đã góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Dù mới chuyển sang hoạt động trong nền kinh tế thanh toán chưa lâu nhưng hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam đã làm tốt chức năng của mình. Hệ thống Ngân hàng thương mại đã tích cực thúc đẩy công việc lưu chuyển công việcc lưu chuyển vốn trong nền kinh tế. Những chính sự non trẻ trong quá trình hoạt động mà hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại ở nước ta vẫn còn nhiều vướng mắc. những vướng mắc này tồn tại trong cả kinh nghiệm hoạt động của Ngân hàng lẫn hệ thống văn bản hướng dẫn.
Với kiến thức đã học được và khả năng giới hạn của bản thân, trong đề án môn học lý thuyết tài chính tiền tệ em xin đưa ra một số giải pháp sơ lược về vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
Do sự giới hạn của môn học và khả năng hạn hẹp về lý luận cũng như thực tiễn của bản thân, đề án này vẫn còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo và giúp đỡ cảu thầy giáo và các bạn.
31 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1576 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao và mở rộng hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vậy đề tài “Giải pháp nâng cao và mở rộng hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay” được lựa chọn. Mục tiêu của đề tài là làm rõ các khái niệm về Ngân hàng thương mại và tín dụng Ngân hàng. Trên cơ sở đó xem xét thực trạng của hoạt động này và đánh giá những ưu nhược điểm để đưa ra những kiến nghị và giải pháp về tín dụng Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài lời nói đầu và kết luận đề tài gồm 3 chương:
Chương I: các loại tín dụng – Vai trò của tín dụng Ngân hàng.
Chương II: Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại Việt Nam.
Chương III: giải pháp nâng cao và mở rộng hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại Việt Nam.
Chương i: các loại hình tín dụng – vai trò tín dụng Ngân hàng.
i. khái niệm
1. Khái niệm về tín dụng
Tín dụng xuất hiện từ khi xã hội có sự phân công lao động sản xuất và trao đổi hàng hoá. Tín dụng xuất hiện trên cơ sở sự mất cân đối về nguồn nhân lực và nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực vào đời sống và sản xuất. Khu vực cần nguồn lực để sử dụng trong đời sống và sản xuất sẽ thu hút bằng cách vay mượn, thuê quyền sử dụng nguồn lực của khu vực dư thừa.
Như vậy tín dụng là quan hệ vay mượn, là quá trình chuyển nhượng tạm thời về quyền sử dụng vốn giữa người cho vay và người đi vay. Quan hệ này được hình thành và hoạt động hoàn trả cả vốn lẫn lãi sau một thời gian thoả thuận. Lãi vay là chi phí cho việc sử dụng lượng vốn vay.
Đặc điểm của tín dụng là trong quá trình tín dụng không có sự vận động của quyền sở hữu. Người đi vay chỉ được quyền sử dụng lượng vốn vay và cũng chỉ phải trả chi phí cho việc sử dụng lượng vốn này.
Chức năng của tín dụng là cung cấp, điều phối và quản lý vốn trong nền kinh tế. Cụ thể là:
- Huy động và tập trung vốn để cho vay: các bên của quản lý vay và đi vay đều có thể là các doanh nghiệp, dân cư hay Chính phủ (tại từng thời điểm) thiếu hay thừa vốn. Ngoài ra cung hoặc cầu cho vay còn có thể là sự gia tăng hay giảm thấp mức cung tiền tệ.
- Kiểm soát và giám đốc bằng đồng tiền là việc đảm bảo tính hiệu quả và hợp pháp của việc sử dụng vốn. Người đi vay sẽ phải chịu sự kiểm tra, kiểm soát của người cho vay nhằm đảm bảo vốn vay sẽ được sử dụng có hiệu quả và đúng với mục đích ban đầu.
Vai trò của tín dụng rất quan trọng, hoạt động tín dụng tác động tới cả hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội. Đó là:
- Làm quá trình sản xuất diễn ra một cách thường xuyên và ổn định.
- Tích tụ và tập trung vốn tạo ra sự phát triển kinh tế và hình thành nguồn vốn.
- Về mặt xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
- Được sử dụng như một công cụ vĩ mô để điều tiết nền kinh tế, điều chỉnh cơ cấu thông qua điều chỉnh vốn, chống lạm phát ổn định tiền tệ (chính sách lãi suất, cửa sổ chiết khấu).
- Hướng dẫn cho sản xuất và tiêu dùng.
-Kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài.
2. Một số hình thức tín dụng chủ yếu.
Tín dụng thương mại: là sự vay mượn bằng hàng hoá )được quy ra tiền) được bên mua bán thoả thuận kỳ hạn trả nợ cũng như cách thức xử lý phát sinh khi rủi ro có thể xảy ra trước kỳ hạn trả nợ. Nói cách khác tín dụng thương mại là hình thức vận dụng giữa những người mau bán chịu hàng hoá của nhau, hai bên mua bán thoả thuận định kỳ thanh toán cho nhau.
Tín dụng thương mại có ưu điểm là làm cho người sản xuất chú ý đến chất lượng sản phẩm và thị hiếu người tiêu dùng, tìm cách hạ giá thành sản phẩm để tiêu thụ nhanh chóng, khắc phục tình trạng găm hàng chờ giá cao, mua bán lòng vòng, và tạo điều kiện thuận lợi cho cả người mua và người bán.
Tuy nhiên hình thức này cũng có một số nhược điểm như:
Thứ nhất có sự hạn chế về không gian địa lý và nếu đến kỳ thanh toán mà vì một lý do nào đó đối tác không thanh toán hoặc không có đủ tiền thanh toán thì tín dụng sẽ gặp bế tắc.
Thứ hai: tổng số tín dụng thương mại sẽ bị giới hạn bởi quy mô của vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi hiệu có trong tay các đơn vị có quan hệ mua bán chịu hàng hoá của nhau.
Thứ ba, tín dụng thương mại bị giới hạn về mục đích sử dụng, nó chỉ diễn ra với các đơn vị có liên quan trực tiếp với nhau trong mua bán hàng hoá.
- Tín dụng Ngân hàng là quan hệ vay mượn trên cơ sở hoàn trả cả gốc và lãi giữa Ngân hàng và các thành phần kinh tế trong xã hội. Tín dụng Ngân hàng hình thành trên cơ sở các nghiệp vụ Ngân hàng. Hình thức tín dụng này khắc phục được hầu hết các nhu cầu cho sự phát triển kinh tế. Do đó có thể nói đây là hình thức tín dụng chủ yếu và quan trọng nhất ở mỗi quốc gia trong giai đoạn hiện nay.
- Tín dụng Nhà nước: là quan hệ tín dụng mà Nhà nước đóng vai trò là người đi vay, người cho vay là dân chúng, các tổ chức kinh tế và Ngân hàng. Nhà nước ở đây là một chủ thể có ngân sách riêng và kho bạc Nhà nước là người đại diện cho việc thực hiện các khoản thu ngân sách Nhà nước.
- Tín dụng quốc tế: là quan hệ tín dụng giữa hai bên (ở hai hay nhiều quốc gia) có nhu cầu đi vay và cho vay. Mối quan hệ này được thực hiện thông qua Ngân hàng theo thoả thuận. Đây là mối quan hệ quốc tế dựa trên nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi.
Qua các hình thức tín dụng ở trên, chúng ta có thể thấy tín dụng Ngân hàng là hình thức tín dụng bao trùm và chủ chốt của mỗi quốc gia trên thế giới. Với chuyên môn và nghiệp vụ tín dụng ngày càng cao, Ngân hàng luôn đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho sự phát triển kinh tế xã hội.
ii. vai trò của tín dụng Ngân hàng
1. Tín dụng Ngân hàng góp phần làm giảm hệ số tiền nhàn rỗi trong lưu thông và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Trong mỗi nền kinh tế thường xuyên có những khu vực kinh tế thừa vốn và thiếu vốn. Vai trò của người dẫn vốn kà huy động để cho vay, do đó tín dụng Ngân hàng được coi như là một công cụ để giải quyết cung cầu vốn tiền tệ thị trường. Trong cơ chế thị trường với mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận, mật độ cạnh tranh rất cao đặc biệt là trong lĩnh vực Ngân hàng, để tồn tại và phát triển các Ngân hàng phải nỗ lực thực hiện thật tốt vai trò trung gian tài chính của mình. Các Ngân hàng phải dùng nhiều phương pháp để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư và các tổ chức kinh tế, đồng thời tập trung cho vay có hiệu quả hệ thì mới thu được lợi nhuận và mới có thể tồn tại được. Vô hình chung tín dụng Ngân hàng đã góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn. Điều này vừa làm tăng khả năng tích luỹ cơ bản của Ngân hàng vừa thúc đẩy quá trình phát triển tăng trưởng kinh tế.
2. Tín dụng Ngân hàng tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển sôi động, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Các nhà doanh nghiệp luôn có khát vọng tối đa hoá lợi nhuận, muốn đạt được điều này các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới, khoa học công nghệ và muốn đổi mới thì phải có vốn. Tín dụng Ngân hàng sẽ tài trợ cho nhu cầu đó Song đổi mới là cả quá trình liên tục, để được Ngân hàng cho vay và được vay vốn nhiều lần, các chủ thể kinh doanh phải tìm biện pháp để kinh doanh có lãi, tăng vòng quay vốn, thu hồi vốn để trả nợ và lãi vay đúng hạn. Trong cuộc chạy đua gay go quyết liệt. Các hoạt động kinh tế xã hội có liên quan tất nhiên sẽ trở lên sôi động hơn.
3. Tín dụng Ngân hàng góp phần tích cực vào sự phát triển công ty cổ phần, một mô hình tổ chức “hữu hiệu” trong nền kinh tế thị trường.
Cổ phần hoá hiện nay đang là xu thế phát triển chung của các công ty trong nền kinh tế thị trường. Các tập đoàn lớn nhất trên thế giới như Deawoo, Toyota… đều là những công ty cổ phần và sự tồn tại và phát triển của công ty cổ phần là không thể tách rời vai trò của tín dụng Ngân hàng do:
Tín dụng Ngân hàng sẽ cung cấp những cổ đông sẵn sàng bỏ vốn mua cổ phiếu của công ty vượt quá khả năng vốn liếng sẵn có của công ty.
Tín dụng Ngân hàng tạo ra môi trường thuận lợi cho các công ty phát hành, chuyển nhượng và mua bán cổ phiếu của các công ty.
Đầu tư vào cổ phiếu của các công ty cũng là một hình thức tín dụng mới của các Ngân hàng thương mại.
4. Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình mở rộng mối giao lưu kinh tế quốc tế .
Xu thế kinh tế thế giới ngày nay là hợp tác bình đẳng đôi bên cùng có lợi, nguồn đầu tư nước ngoài và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là hai lĩnh vực hợp tác quốc tế quan trọng và thông dụng. Vốn là nhân tố đầu tiên quan trọng cho việc thực hiện quá trình này và do đó Ngân hàng sẽ là trợ thủ đắc lực về vốn cho các nhà đầu tư và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá.
5. Tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông, tạo điều kiện cho quản lý lưu thông tiền tệ.
Bằng nghiệp vụ tín dụng của mình, Ngân hàng huy động lượng tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, thực hiện cho vay đối với các đơn vị kinh tế – kinh doanh mà không cần phát hành thêm tiền mặt. Hoạt động tín dụng ngày càng mở rộng thì càng hạn chế được số lượng tiền trong thanh toán do Ngân hàng dùng biện pháp chuyển khoản hay thẻ tín dụng… theo đó, phí cho lưu thông tiền mặt trong nền kinh tế giảm theo. Hơn nữa thông qua hoạt động huy động vốn và cho vay, Ngân hàng đã thực hiện biện pháp nghiệp vụ điều hoà vốn giữa các vùng, ngành, thành phần kinh tế, góp phần quản lý lưu thông tiền tệ.
6. Tín dụng Ngân hàng đóng vai trò kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh doanh sản xuất của các doanh nghiệp.
Qua việc cho vay và thu hồi vốn, Ngân hàng có thể kiểm tra, kiểm soát bằng đồng tiền thông qua trung tâm tín dụng được tiến hành qua các giai đoạn.
Kiểm tra trước khi cho vay.
Kiểm tra việc thực hiện vay vốn trong quá trình sử dụng vốn.
Kiểm tra sau khi vay nhằm mục đích kiểm tra việc sử dụng vốn có đúng với mục đích cho vay vốn.
Chương ii: hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại Việt Nam.
i. Ngân hàng thương mại Việt Nam – những vấn đề cơ bản về hoạt động tín dụng.
1. Khái niệm và chức năng của Ngân hàng thương mại.
a. Khái niệm
Ngân hàng thương mại được quan niệm là một tổ chức kinh doanh tiền têh mà hoạt động chủ yếu của nó là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và phương tiện thanh toán. Ngân hàng thương mại hoạt động đa dạng và phong phú như nhận tiền gửi tiết kiệm cho vay ứng trước, dịch vụ chuyển tiền, các dịch vụ tài chính và tư vấn dịch vụ ngoại hối.
Ngân hàng thương mại có vị trí kinh tế rất quan trọng bởi vì chúng hoạt động như các trung gian tài chính giữa người như các trung gian tài chính giữa người gửi và người vay. Chúng khuyến khích tiết kiện bằng các biện pháp thu hút và huy động vốn thông qua các dạng tài khoản khác nhau trên một mạng lưới rộng khắp, đồng thời đưa vốn vào sử dụng có hiệu quả. Hoạt động của Ngân hàng thương mại ảnh hưởng rất lớn đến các ngành khác, đến hầu hết mọi người trong xã hội; dù cho họ là khách gửi tiền, một người cho vay hay đơn giản là người đang làm việc cho một doanh nghiệp có vay vốn và sử dụng các dịch vụ Ngân hàng.
Do vậy hoạt động của Ngân hàng thương mại luôn phải theo một khuôn khổ chặt chẽ và thường xuyên bị các nhà chức trách kiểm tra, xem xét đảm bảo hiệu quả cho hoạt động Ngân hàng và ổn định cho nền kinh tế.
b. Chức năng của Ngân hàng thương mại.
- Ngân hàng thương mại được coi là tổ chức tài chính trung gian. Nó là “người dẫn vốn” cho nền kinh tế, từ nơi thiếu sang nơi thừa, giúp người có vốn và người cầu vốn gặp nhau, thu được lượng tiền nhàn rỗi cho đầu tư và phát triển, giúp cho việc đầu tư của nhà đầu tư có hiệu quả và giúp cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển được. Đặc biệt là trong tình hình kinh tế nước ta, lượng vốn nhàn rỗi rất lớn không được đưa vào đầu tư xây dựng, phát triển kinh tế thì vai trò của Ngân hàng thương mại lại đặc biệt quan trọng. Hiện nay tỉ trọng kết cấu tài sản nợ của doanh nghiệp thì vốn vay Ngân hàng thường chiếm tỷ trọng rất cao.
- Ngân hàng thương mại là thủ quỹ của các doanh nghiệp . Ngân hàng thực hiện chức năng này thông qua nghiệp vụ thanh toán như thu hộ, chi hội cho doanh nghiệp chuyển khoản giữa các doanh nghiệp … giúp các doanh nghiệp nâng cao được vòng quay vốn, tiết kiệm được chi phí trong lưu thông. Ngày nay ở các nước đang phát triển, các khoản thu chi của cá nhân cũng được thực hiện thông qua hệ thống Ngân hàng thương mại giúp giảm được chi phí vận chuyển, mẫu bảo quản tiền mặt.. và cũng giúp Nhà nước quản lý tốt hơn dòng lưu thông, ổn định tình hình tài chính tiền tệ của đất nước.
- Ngân hàng thương mại có chức năng tạo tiền, chức năng này được thực hiện thông qua nghiệp vụ tín dụng của hệ thống Ngân hàng thương mại trong mối quan hệ với hệ thống dự trữ quốc gia. Hệ thống tín dụng năng động là điều kiện cần thiết cho phát triển kinh tế theo hệ số tăng trưởng vững chắc. Mục đích của chính sách dự trữ quốc gia là đưa một khối lượng tiền cung ứng phù hợp với chính sách ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế ổn định và tạo được việc làm. Các Ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách này.
2. Các nguyên tắc của tín dụng Ngân hàng.
Thứ nhất, cho vay có kế hoạch có mục đích và hiệu quả kinh tế.
Đơn vị xin vay phải có kế hoạch và đơn xin vay gửi đến Ngân hàng, trong đó phải nói rõ số lượng vốn cần vay, thời hạn vay vốn và mục đích sử dụng vốn vay. Kế hoạch và đơn xin vay của các đơn vị phải xuất phát từ nhiệm vụ sản xuất kinh doanh tiêu thụ sản phẩm dựa trên các định mức kinh tế, kỹ thuật lao động tiền lương… Trên cơ sở kế hoạch xin vay của các đơn vị, Ngân hàng phải có kế hoạch cho vốn của mình.
Thứ hai, cho vay phải hoàn trả đúng kỳ hạn cả vốn lẫn lãi. Đơn vị vay vốn phải trả lại vốn vay cho Ngân hàng bởi vì nguồn vốn đó Ngân hàng cũng phải đi vay. Đơn vị vay cũng phải trả lợi tức cho Ngân hàng vì đó là một trong những khoản thu nhập của Ngân hàng, tạo điều kiện cho Ngân hàng tổ chức hạch toán ks và thực hiện nghĩa vụ của mình với ngân sách Nhà nước.
Thứ ba: cho vay có giá trị hàng hoá tương đương bảo đảm.
Để vay vốn ở Ngân hàng đơn vị vay vốn phải xuất trình các chứng từ hoá đơn về mua, bán vật tư hàng hoá các hợp đồng kinh tế mua, bán vật tư hàng hoá các hợp đồng kinh tế về mua, bán vật tư hàng hoá và công tác phục vụ. Trên cơ sở đó các Ngân hàng sẽ tiến hành xét duyệt cho vay một lượng tiền tương đương với giá trị vật tư hàng hoá. Với một số đơn vị Ngân hàng yêu cầu phải có thế chấp bằng tài sản hoặc bằng các chứng từ có giá trị.
Trong quá trình sử dụng vốn vay, các đơn vị vay vốn cũng luôn luôn phải có đủ giá trị vật tư hàng hoá bảo đảmvà nếu như cac bộ tín dụng kiểm tra thấy giá trị vật tư hàng hoá nhỏ hơn vốn vay Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ thu hồi vốn trước hạn đối với phần vốn không có giá trị vật tư hàng hoá bảo đảm. Trường hợp ngược lại nếu giá trị vật tư hàng hoá lớn hơn vốn vay thì Ngân hàng có thể cho vay thêm nếu đơn vị yêu cầu.
Nguyên tắc này được áp dụng tốt cả các tổ chức cá nhân, đơn vị kinh doanh ngoài quốc doanh, còn đối với tổ chức kinh tế quốc doanh khi vay vốn Ngân hàng không yêu cầu phải có tài sản thế chấp.
3. Tín dụng trung và dài hạn ở các Ngân hàng thương mại và các hính thức của nó.
Tín dụng trung và dài hạn là một hình thức tín dụng Ngân hàng nhưng chúng có thời kỳ đáo hạn thanh toán của khoản vay. Nhìn chung các khoản vay trung và dài hạn có ha đặc trưng cơ bản sau đây.
- Chúng có thời gian đáo hạn trên một năm.
- Chúng được trả dần bằng những khoản trả vay theo thời gian (có thể theo quý, tháng, năm…) trong kỳ hạn của khoản vay.
- Chúng thường được bảo đảm bằng tài sản lưu động đem ra thế chấp hoặc vật tư cầm cố tài sản cố định.
Có nhiều mớ hồ sơ xung quanh định nghĩa về khoản vay trung và dài hạn. Không phải chuyện bất thường khi thấy một khoản cho vay có kỳ hạn 10 năm lại được xem là khoản vay trung hạn, nhiều khoản vay cho tiêu dùng cũng có thể coi là chi vay trung hạn. Thông thường các khoản cho vay cho đầu tư tài trợ các cơ sở thương mại, công nghiệp, các khoản vay để mua bất động sản, nhà ở thường là những khoản cho vay trung hạn và dài hạn.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường các hình thức cho vay trung và dài hạn ngày càng phong phú và hấp dẫn. Có thể kể ra một số hình thức cho vay trung và dài hạn sau đây:
- Cho vay theo dự án: đây là hình thức cho vay chủ yếu của các Ngân hàng thương mại quốc doanh nước ta hiện nay. Dự án do doanh nghiệp đưa ra sau khi đã được các cấp , Bộ chủ quản xét duyệt các tiêu chí về kinh tế, kỹ thuật, xã hội sẽ được đưa tới Ngân hàng nếu doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn tài trợ cho dự án. Cán bộ tín dụng của Ngân hàng sau khi tiến hành thẩm định tình hình tài chính, cũng như tính chất hợp lý của dự ná về khía cạnh tài chính sẽ quyết định cho vay hay không cho vay.
- Tín dụng thuê mua: doanh nghiệp được đáp ứng một phần hoặc tất cả nhu cầu tín dụng trung hạn của họ bằng thuê mua các tài sản cố định. Họ “vay tài sản” hơn là vay tiền để mua tài sản. Ngân hàng sẽ là người góp phần trực tiếp cho việc tài trợ vào hoạt động thuê mua, thực hiện dịch vụ thuê mua đối với doanh nghiệp. Vì vậy có thể xem dịch vụ thuê mua tài sản được Ngân hàng thực hiện như một hình thức tín dụng trung và dài hạn.
- Cho vay tài trợ và uỷ thác: Ngân hàng nhận được những nguồn tài trợ và uỷ thác của các tổ chức trong và ngoài nước để tiến hành cho vay tài trợ và uỷ thác của các dự án phát triển theo mục đích của tổ chức tài trợ theo chương trình tín dụng bằng nguồn vốn nước ngoài.
iii. thực trạng hoạt động tín dụng ở sở giáo dịch Ngân hàng công thương Việt Nam.
Sở giao dịch Ngân hàng công thương Việt Nam được thành năm 1988, có trụ sở tại số 10 Lê Lai trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam. Sở có chức năng chỉ đạo điều hành tổ chức và hoạt động kinh doanh cảu toàn hệ thống Ngân hàng Công thương. Ngoài ra Sở còn trực tiếp tham gia kinh doanh, làm đầu mối thanh toán trong nước và quốc tế. Quan trọng hơn Sở còn là nơi thử nghiệm các cơ chế chính sách mới để rút ra kinh nghiệm chỉ đạo triển khai ra toàn hệ thống.
1. Tình hình huy động vốn của Sở giao dịch Ngân hàng Công thương Việt Nam.
- Với phương châm “coi nguồn vốn trong nước là chủ yếu nguồn vốn nước ngoài là quan trọng” Sở giao dịch đã chủ động đa dạng hoá, thay đổi cơ cấu nguồn vốn huy động cho phù hợp với nền kinh tế. Sở đã dùng nhiều biện pháp để thu hút tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn cả về nội và ngoại tệ từ các thành phần kinh tế cả trong dân cư và các tổ chức kinh tế. Thực hiện nhiều biện pháp để thu hút lượng vốn trôi nổi trong các tầng lớp dân cư, trong các doanh nghiệp, trong các tổ chức kinh tế xã hội bằng nhiều chính sách và biện pháp huy động da dạng và hấp dẫn.
Nhìn chung, trong những năm qua, Ngân hàng đã thực hiện có hiệu quả một số giải pháp nhằm ổn định và tăng trưởng hợp lý nguồn vốn huy động, tăng tối đa hệ số sử dụng vốn, đảm bảo khả năng thanh toán đối với khách hàng. Quan bảng 1 ta thấy, nguồn vốn huy động qua các năm tăng đều, năm 1997 đạt 1064,129 triệu đồng tăng 50,37% so với năm 1996, năm 1998 đạt 4042.187 triệu đồng tăng 27,25% so với năm 1997 và năm 1999 nguồn vốn huy động tiếp tục tăng 4,21% so với năm 1998.
(Xem bảng trang bên)
Để có được kết quả huy động như vậy, Sở giao dịch đã liên tục thực hiện chính sách khách hàng linh hoạt, nâng cao chất lượng thanh toán, mở rộng mạng lưới phục vụ khách hàng. Tuy nguồn vốn huy động qua các năm đều tăng trưởng theo chiều hướng tốt nhưng nguồn vốn trung và dài hjan trong những năm gần đây chưa đạt kết quả cao, vốn huy động chủ yếu là ngắn hạn. Có thể nói đây là bất lợi lớn cho Sở giao dịch Ngân hàng công Việt Nam vì nguồn vốn huy động trung và dài hạn chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với lượng cho vay trung và dài hạn.
2. Tình hình sử dụng vốn của Sở giao dịch Ngân hàng Công thương Việt Nam:
Sở giao dich Ngân hàng Công thương Việt Nam được coi là một chi nhánh thành công trong việc sử dụng vốn, Sở giao dịch đã sử dụng vốn đúng mục đích, cho vay vốn có hiệu quả, luôn đáp ứng được nhu cầu vay vốn của nhiều thành phần kinh tế, thu hồi vốn nhanh, đảm bảo an toàn về vốn, phù hợp với chính sách phát triển kinh tế Đảng và Nhà nước đề ra.
Bằng những biện pháp cho vay khá phong phú và đa dạng như cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn, tín dụng thương mại và liên doanh, cho vay tài trợ uỷ thác… và những hình thức bảo lãnh, tạo điều kiện cho khách hàng vay vốn, mua bất động sản… trong những năm qua, xu thế chung các khoản cho vay và đầu tư ở Sở giao dịch Ngân hàng Công thương Việt Nam đều có chiều hướng tốt. Qua 3 năm 19996, 1997, 1998 tình hình tín dụng nhìn chung đều tăng, sở giao dịch đã nâng cao hệ số sử dụng vốn với mục tiêu đa dạng, an toàn, hiệu quả. Đặc biệt là trong năm 1999 tổng dư nợ tín dụng đạt 906.013 triệu đồng tăng 22,09% so với năm 1998 đáp ứng được nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế, cho vay sản xuất thu mua hàng xuất khẩu, đồng thời tăng cường cho vay trung và dài hạn đáp ứng nhu cầu đổi mới, hiện đại hoá doanh nghiệp.
Qua bảng 2 cho ta thấy, tổng dư nợ tín dụng không ngừnh theo thời gian. Năm 1997 tổng dư nợ tín dụng là 699.476 triệu đồng, năm 1998 đạt 742.113 triệu đồng và trong năm 1999 đạt 906.013 triệu đồng. Cơ cấu tín dụng cũng từng bước chuyển dịch phù hợp với sự phát triển của đất nước. Nhìn chung, dư nợ ngắn hạn năm 1997 là 527.177 triệu đồng đến năm 1999 đạt 618.337 triệu đồng tăng 19,21% so với năm trước. Tín dụng trung và dài hạn cũng đạt kết quả khả quan, năm 1997 đạt 138.293 triệu đồng, năm 1998 đạt 130.318 triệu đồng (giảm so với năm trước 5,77%) nhưng đến năm 1999 đạt mức 244.011 triệu đồng (tăng 87,24% so với năm 1998).
Như vậy cơ cấu tín dụng Sở giao dịch đã từng bước chuyển dịch theo chiến lược phát triển kinh tế thủ đô. Và vì mục tiêu phát triển kinh tế, mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Sở giao dịch đã chủ động và khai thác, bổ sung các nguồn vốn cho nền kinh tế với mục tiêu “đầu tư theo chiều sâu cho doanh nghiệp cũng chính là đầu tư cho tương lai ngành Ngân hàng).
Phân loại tín dụng bằng tiền đồng và bằng ngoại tệ ta thấy, năm 1996, 1997 dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ quy đổi ra VND tăng (đạt 278.972 triệu đồng vào năm 1997) nhưng đến năm 1998 hầu như đã chững lại, giảm xuống còn 278.591 triệu đồng nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở các nước Đông Nam á làm cho giá USD tăng cao so với các đồng tiền tệ khác trong khu vực làm cho các doanh nghiệp lo lắng nếu vay bằng ngoại tệ ở thời điểm này thì trong tương lai họ sẽ phải trả một lượng ngoại tệ lớn. Tuy nhiên, dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ ở Sở giao dịch chỉ bị chững lại chứ không giảm mạnh như các chi nhánh khác của NHCT vì Sở giao dịch có những khách hàng lớn quen thuọoc và hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hoá và Sở giao dịch được coi là một chi nhánh đặc biệt của NHCT nên không chịu mức phán quyết của hội Sở.
Một hiện tượng nữa cần phải được xem xét, đó là, trong những năm qua mặc dù dư nợ tín dụng của Sở giao dịch không ngừng được nâng cao nhưng cơ cấu tín dụng theo thành phần kinh tế lại đáng lo ngại. Qua bảng ta thấy tỷ lệ cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tuy ngày càng được nâng cao nhưng vẫn còn ở trong tình trạng thấp. Năm 1996 là 10,93% tổng dư nợ tín dụng, năm 1997 là 16,13% và đến năm 1999 tỷ lệ này lại giảm xuống còn 11,93% tổng dư nợ tín dụng. Đây có lẽc là xu thế chung của các Ngân hàng Thương mại quốc doanh, bởi vì cho vay khu vực kinh tế này có độ rủi ro khá lớn do các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hầu hết có vốn ít, quy mô nhỏ và không đủ điều kiện để cho vay vốn đặc biệt là vốn trung và dài hạn.
Ngoài ra, Sở giao dịch còn thực hiện nhiều hoạt động đầu tư khác chẳng hạn: cho vay bằng nguồn vốn ngắn hạn đối với các dự án do Chính phủ chỉ định, thực hiện những chương trình tín dụng bằng ngôn ngữ nước ngoài như chương trình tín dụng Đài Loan, cho vay bằng nguồn vốn DTA, KFW…
3. Những vấn đề còn tồn tại:
Một là, vấn đề nan giải đặt ra cho các Ngân hàng thương mại là nguồn vốn huy động để cho vay trung và dài hạn ở đâu? nguồn vốn huy động để cho vay chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn, do đó khi Ngân hàng phải sử dụng cả một phần vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, điều này rất nguy hiểm dễ tạo ra rủi ro cho Ngân hàng. Song thực tế là người dân nước ta rất ngại khi gửi tiền tiết kiệm trung và dài hạn, họ chỉ muốn gửi với kỳ hạn ngắn để dễ rút vốn khi cần thiết, vì vậy thu hút nguồn vốn này là một điều hết sức khó khăn chung ch toàn hệ thống Ngân hàng.
Hai là, một số doanh nghiệp phàn nàn đối với các Ngân hàng thương mại quốc doanh, là thời gian xét duyệt một công trình còn quá kéo dài, thủ tục rườm rà vì có quá nhiều tờ, biểu mẫu, đồng thời có nhiều quy định của các cấp liên quan chưa được đồng bộ. Những quy định do Ngân hàng cấp trên ban hành, Sở và các chi nhánh buộc phải thực hiện và chỉ được giải quyết những vụ việc trong thẩm quyền cho phép do đó làm cán bộ tín dụng mất nhiều thời gian làm cho doanh nghiệp vay vốn chán nản. Vì vấn đề này mà nhiều doanh nghiệp đã bỏ Ngân hàng để đi tìm sự cứu trợ khác kể cả Ngân hàng nước ngoài làm giảm khả năng cạnh tranh của Ngân hàng thương mại quốc doanh.
Ba là, sau khi có Nghị định 49/CP của Chính phủ quy định về việc mà căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh, Ngân hàng lại vấp vào một khó khăn mới - đó là vấn đề an toàn vốn. Nhìn chung đây là một quyết định đúng đắn nhămf loại bỏ những quy định chồng chéo, thủ tục không cần thiết về quy chế thế chấp tài sản. Nhưng thực hiện nghị định này, có nghĩa là Ngân hàng hoàn toàn phải chịu tổn thất nếu như dự án đầu tư không có hiệu quả do nguyên nhân khách quan của nền kinh tế và nguyên nhân chủ quan của doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh tế, không phải mọi dự án đều được thực hiện đúng dự toán, khi dự án thất bại sẽ có nhiều câu hỏi đặt ra cho người vay vốn và người cho vay vốn và người cho vay từ phía pháp luật cũng như công chúng và giả sử không có nghi ngờ về “động cơ mờ ám”; “tư túi” thì cũng dễ dàng bị quy tội “thiếu tinh thần trách nhiệm”. Do đó điều này gây tâm lý sợ sệt cho Ngân hàng khi cho vay vốn.
Bốn là, hầu hết các dự án vay vốn đều bị gò ép thời gian và hiệu quả kinh tế trên giấy tờ để được Ngân hàng cho vay vốn, nhưng trên thực tế thì kết quả sản xuất kinh doanh có thể sẽ không đạt được như ý muốn, làm nảy sinh ra tình trạng nợ quá hạn. Mặt khác, một số khách hàng đã sử dụng vốn vay sai mục đích, chiếm dụng vốn lưu động để xây dựng cơ bản và đầu tư tài sản cố định do đó khi hết thời hạn vốn lưu động, doanh nghiệp không trả được nợ và sau đó Ngân hàng lại phải cho các doanh nghiệp tiếp tục vay vốn trung và dài hạn. Chính vì vậy mà chất lượng tín dụng ngày càng thấp.
Năm là, cơ cấu tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng mất cân đối, dư nợ tín dụng đối v ới thành phần kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng rất lớn (từ 80-90% tổng dư nợ tín dụng) . Thực tế một phần là do các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có qui mô, vốn nhỏ, không có dự án khả thi, quản lý kém, kinh doanh rất dễ thua lỗ; còn doanh nghiệp quốc doanh thì thường là những doanh nghiệp có vốn lớn, vó nhiều dự án khả thi do đó cho khu vực kinh tế vay vốn thì độ an toàn vốn cao. Để Ngân hàng tồn tại và phát triển thì trước hết Ngân hàng đó phải có lợi nhuận để đạt được mục tiêu này, Ngân hàng cần phải đầu tư vào những dự án có hiệu quả, độ an toàn vốn cao và đương nhiên sẽ rút vốn ra khỏi những lĩnh vực có rủi ro cao. Tuy nhiên, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là khu vực kinh tế năng động và có nhiều tiềm năng nhất trong cơ chế thị trường do nó có cơ cấu gọn nhẹ, dễ thích nghi với sự thay đổi của môi trường, nên cần phải được quan tâm và đầu tư thích đáng. Hơn nữa, muốn phát triển kinh tế thì phải phát triển mọi thành phần kinh tế . Vì vậy Ngân hàng thương mại cần phải tìm giải pháp cho vấn đề này.
Chương III: một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng thương mại Việt Nam.
i. về phía các ngân hàng thương mại
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay hầu hết các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, thiếu vốn kinh doanh, thiết bị công nghệ lạc hậu, trang bị chắp vá không đồng bộ. Do đó để tồn tại và phát triển được các doanh nghiệp hiện nay cần đến sự tài trợ của ngân hàng để đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất phát triển kinh doanh, tăng quy mô và năng lực sản xuất.
Trước tình hình như vậy để nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng cần phải có một số giải pháp như:
1. Nâng cao công tác thẩm định
a. Xem xét khả năng tài chính của doanh nghiệp.
Trước khi thiết lập mối quan hệ tín dụng, khâu đầu tiên Ngân hàng phải tìm hiểu bạn hàng của mình, trong đó việc xem xét khả năng tài chính của doanh nghiệp hết sức quan trọng vì đây là nhân tố quan trọng quyết định việc Ngân hàng có thu được nợ hay không. Khả năng tài chính của doanh nghiệp biểu hiện qua vốn cố định, vốn lưu động, mà hơn nữa, Ngân hàng còn phải biết được năng lực sản xuất của doanh nghiệp, sức cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp và triển vọng của doanh nghiệp trong tương lai. Đối với trường hợp doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng để quan hệ bên thư ba thì Ngân hàng phải xem xét mức độ phù hợp, hợp lý cũng như tính đúng đắn của hợp đồng kinh doanh này đề phòng trường hợp bên đi vay bị bên thứ ba lừa và nếu bên đi vay không trả được nợ do bị lừa thì Ngân hàng là người thiệt hại trước tiên. Chính vì vậy đòi hỏi Ngân hàng cần phải phân tích hoạt động của doanh nghiệp qua tài liệu hạch toán, đồng thời cũng qua khảo sát thực tế, qua thăm dò doanh nghiệp qua các tổ chức kinh tế mà doanh nghiệp có quan hệ mua bán, hợp tác.
b. Về vấn đề lưu trữ hồ sơ khách hàng.
Việc lưu trữ hồ sơ khách hàng trong suốt quá trình thực hiện khoản vay là rất cần thiết, điều này sẽ giúp cho cán bộ tín dụng dễ dàng đánh giá một cách chính xác khả năng hoàn trả nợ, lãi Ngân hàng. Song trên thực tế là đa số công việc này đều được giao cho cán bộ tín dụng quản lý và ghi chép bằng tay mặc dù nhiều hoạt động trong các Ngân hàng đã được vi tính hoá do đó nên đưa những hồ sơ lưu trữ vào bộ nhớ máy tính và có chương trình tính toán thích hợp để đánh giá chính xác khả năng hoàn trả nợ, lãi đồng thời thuận lợi cho công việc bảo quản.
c. Về việc nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng
Hoạt động tín dụng là công tác rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, nó quyết định việc Ngân hàng đó hoạt động có hiệu quả hay không? Công tác này lại càng đặc biệt quan trọng đối với nghiệp vụ cho vay trung và dài hạn (nghiệp vụ có tính rủi ro cao) do đó đòi hỏi cán bộ tín dụng phải vận dụng kiến thức tổng hợp về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học Ngân hàng để xem xét chính xác của chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật, định mức kinh tế kỹ thuật, phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh, nguồn cung ứng nguyên liệu, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, phương án đi vay và trả nợ. Do đó việc nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng là việc làm hết sức cần thiết, song không có nghĩa là cán bộ tín dụng chỉ áp dụng một cách cứng nhắc các quy định mà còn phải xem xét đến xí nghiệp khía cạnh vô hình của vấn đề, những khía cạnh không thể nắm được trong báo cáo tài chính và nghiên cứu thị trường.
Sau đó kết hợp với nghiên cứu thị trường, phân tích tình hình tài chính và dựa vào những cảm nhận thu được từ sự quan sát tình thế cũng như kinh nghiệm của bản thân để đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và đưa ra quyết định cho vay hay không.
Muốn cán bộ tín dụng có được những nghệ thuật cho vay thì Ngân hàng cần phải tập trung xây dựng, đào tạo một đội ngũ cán bộ vững mạnh về kỹ thuật, nhạy bén về trực giác đồng thời tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng không ngừng nâng cao, trau dồi, học hỏi kinh nghiệm, nghệ thuật cho vay hiện đại trong và ngoài nước.
2. Tăng cường các biện pháp thu nợ cho Ngân hàng.
Trong những năm qua, tỉ lệ cho vay của Sở giao dịch còn thấp là bởi vì công tác thu nợ và lãi của Ngân hàng còn chưa đạt yêu cầu, việc thu nợ còn gặp nhiều khó khăn, số nợ quá hạn còn nhiều. Một trong nguyên nhân của tình trạng này là do các doanh nghiệp vay vốn của Ngân hàng đầu tư không hiệu quả dẫn đến tình trạng doanh nghiệp không có khả năng chi trả nợ và lãi. Nguyên nhân của tình trạng này là do cả hai phía.
- Về phía doanh nghiệp: do không tìm hiểu kỹ thị trường nên sau khi đầu tư song không có thị trường tiêu thụ sản phẩm. Bên cạnh đó, chất lượng sản phẩm làm ra lại không cạnh tranh được với hàng ngoại nhập, hàng hoá ế ẩm, tồn kho nhiều dẫn đến tình trạng không trả được nợ Ngân hàng. Mặt khác do trình độ kỹ thuật của doanh nghiệp thấp kém nên khi giao dịch mua bán với nước ngoài thường bị lừa, mua phải máy móc, thiết bị lạc hậu đến vài thế hệ do đó sản xuất kém hiệu quả.
-Về phía Ngân hàng: Công tác thẩm định chưa tốt, chưa thực hiện được vai trò tư vấn của mình đối với doanh nghiệp dẫn đến công trình, dự án đầu tư không có hiệu quả nên nợ quá hạn tăng.
3. Mở rộng đầu tư với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Trong nền kinh tế nước ta kinh tế quốc doanh vẫn là thành phần kinh tế đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và cần được chú trọng đầu tư thích đáng. Thực tế kinh tế quốc doanh đã được Nhà nước rất ưu ái với hàng loạt những chính sách ưu tiên mà các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nằm mơ cũng không có được. Tuy nhiên trong những năm qua, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mặc dù chưa phát triển nhưng vẫn đóng góp vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Nền kinh tế hàng hoá phát triển, cơ chế thị trường thực sự thúc đẩy các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, ngày nay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có mặt trên nhiều lĩnh vực như: xây dựng lương thực thực phẩm, chế biến máy móc, cơ khí….
Theo thống kê, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh năm 1997 tạo ra 57,9% GDP, riêng lĩnh vực dịch vụ khu vực ngoài quốc doanh chiếm khoảng 75% tổng giá trị dịch vụ. Như vậy tỷ trọng cho vay thành phần kinh tế này của Ngân hàng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế của khu vực này, chính vì vậy, Ngân hàng cần phải tiếp tục mở rộng cho vay trung và dài hạn đối với thành phần kinh tế này vì việc này không những góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế mà còn nâng cao hệ số sử dụng vốn của Ngân hàng.
4. Chuyển dịch cơ cấu đầu tư tín dụng theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế.
Mục tiêu của Sở giao dịch Ngân hàng công thương Việt Nam trong năm tới là tiếp tục nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn bằng cách đa dạng hoá hình thức cho vay trung và dài hạn theo định hướng:
- Cho vay không phân biệt các thành phần kinh tế.
- Mở rộng cho vay đầu tư không chỉ trong phạm vi cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất mà còn cho vay đầu tư thiết bị có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài cho các ngành then chốt như: sản xuất chế biến nông sản xuất khẩu, chế biến khoán sản, nguyên vật liệu thô, công nghiệp hoá dầu, vật liệu xây dựng.
- Tham gia đầu tư mua cổ phần liên doanh trong một số dự án xây dựng và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng như giao thông, bưu điện, viễn thông, điện lực, du lịch và thương mại.
- Thực hiện tín dụng thuê mua về máy móc và kỹ thuật để cho thuê tài sản đối với khách hàng không có tài sản thế chấp và không đủ điều kiện để cho vay.
- Mở rộng nghiệp vụ bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn trong và ngoài nước để trang bị máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại.
Vấn đề cơ bản là Ngân hàng cần thực hiện là tìm kiếm nguồn vốn để cho vay trung và dài hạn chẳng hạn như phát hành trái phiếu Ngân hàng trung và dài hạn với mức lãi suất hợp lý để thu hút được người mua trái phiếu vừa không ảnh hưởng đến lợi ích của Ngân hàng; thực hiện các chương trình tín dụng bằng nguồn vốn nước ngoài như chương trình tín dụng Đài Loan, cho vay bằng nguồn vốn của Ngân hàng cân đối Đức (DTA), Ngân hàng tái thiết Đức (KFW)m nguồn vốn RAP… để tiếp tục nhận nguồn vốn tài trợ trung và dài hạn từ những tổ chức này; đồng thời tiếp tục dự án vay nợ các tổ chức nước ngoài.
5. Thực hiện chiến lược khách hàng.
Để thu hút được một lực lượng khách hàng lớn và có uy tín, Sở giao dịch Ngân hàng công thương Việt Nam nên mở rộng quan hệ, dùng nhiều biện pháp marketing để các doanh nghiệp khác biết về Ngân hàng và chất lượng phục vụ khách hàng. Thực hiện chế độ ưu đãi đối với những khách hàng có quan hệ tín dụng lâu dài với khách hàng, đặc biệt Ngân hàng nên gắn quyền lợi của cán bộ tín dụng Ngân hàng với kết quả cho vay trung và dài hạn. Điều này có nghĩa là Ngân hàng thường xuyên theo dõi, kiểm tra và tổ chức khen thưởng đối với những cán bộ tín dụng làm việc tốt, mở rộng quan hệ với khách hàng, nhiệt tình giúp đỡ khách hàng. Thực hiện tốt công tác này Ngân hàng sẽ biến những cán bộ của mình thành một nhân viên marketing thu hút khách hàng cho Ngân hàng, đây là giải pháp có tầm quan trọng đặc biệt trong xu thế phát triển mới của nền kinh tế đất nước. Do sự cạnh tranh gay gắt của các Ngân hàng thương mại trong nước và đặc biệt là các Ngân hàng thương mại nước ngoàim do đó đòi hỏi Sở giao dịch Ngân hàng Công thương Việt Nam phải chú trọng đến công tác này. Nếu công tác này bị bỏ rơi thì không những Ngân hàng không thu hút được lực lượng khách hàng mà còn khó có thể giữ được những khách hàng cũ.
6. Cho vay đầy đủ kịp thời đối với các dự án có hiệu quả kinh tế.
Ngân hàng cần tiến hành đầu tư dứt điểm cho từng dự án, từng công trình, tránh tình trạng cho vay tràn lan, rải mành mành kéo dài. Công trình sau khi được duyệt vay, Ngân hàng cần phát tiền vay theo đúng kế hoạch, tiến độ thi công đã đề ra. Trong quá trình điều tra xét duyệt cho vay, Ngân hàng chú trọng đến những công trình phục vụ cơ cấu của nền kinh tế quốc dân, thực sự có hiệu quả, đảm bảo đầu tư đúng mục đích, đúng kế hoạch và có khả năng thu hồi vốn nhanh.
Việc đầu tư một cách đầy đủ kịp thời sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đưa dự án của doanh nghiệp vào thực thi đúng tiến độ, sớm đưa dự án vào sử dụng, phát huy hiệu quả, đảm bảo trả đủ nợ và lãi Ngân hàng.
7. Ngân hàng nên thực hiện tốt vai trò tư vấn đầu tư đối với các doanh nghiệp.
Cho đến nay, hầu hết các doanh nghiệp của ta đều ít hiểu biết về lĩnh vực đầu tư, đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chính vì vậy, đầu tư vào công trình chưa thu được hiệu quả như mong muốn, rủi ro trong đầu tư còn nhiều. Để phổ biến rộng khắp, giải đáp các thắc mắc, chi nhánh nên có phòng tư vấn về đầu tư vào công trình, cố vấn hướng dẫn các doanh nghiệp trong đầu tư, tạo điều kiện cho doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của thị trường, đặc biệt là không mắc những lầm lẫn trong quan hệ mua bán với các đối tác khác. Trong thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế đã phát triển hệ thống thông tin rộng khắp, mạng lưới tin học đã đi sâu vào từng lĩnh vực, ngành nghề thì việc đáp ứng các hiểu biết của con người trở nên cân thiết, tư vấn Ngân hàng sẽ là một lĩnh vực đánh giá, phân tích, dự báo các thông tin về tình hình kinh tế xã hội liên quan đến đầu tư một cách đúng đắn nhất, nếu giúp đỡ các doanh nghiệp trong quá trình đầu tư, vô hình chung Ngân hàng đã tăng được tỉ lệ đầu tư tín dụng trung và dài hạn theo đúng mục tiêu đã định.
ii. về phía khách hàng
Để nâng cao hiệu quả vốn vay trung và dài hạn thì những cố gắng của toàn ngành Ngân hàng thôi thì chưa đủ mà cần phải có sự cố gắng và lỗ lực của phía khách hàng của Ngân hàng. Đa số khách hàng đi vay vốn thường than phiând Ngân hàng gây không ít khó khăn cho khách hàng với những thủ tục phiền hà, nhiều khi không đáp ứng được thời gian cho nhu cầu sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp. Song khách hàng cũng phải nhận thức một điều rằng những khó khăn đó một phần cũng do họ tạo nên bởi thực tế họ cũng có một số nhận thức sai lầm.
Khách hàng chỉ muốn cung cấp một số lượng thông tin tối thiểu vì sợ nếu cung cấp nhiều sẽ vô tình phơi bày những điểm yếu của họ. Khách hàng thường cung cấp những thông tin không mấy chính xác vì họ muốn giữ kín những số liệu kinh doanh sợ Ngân hàng tiết lộ ra ngoài. Họ chỉ gò ép những số liệu tình hình tài chính, kết quả sản xuất kinh doanh sao cho phù hợp để Ngân hàng cho vay vốn mà không căn cứ vào tình hình thực tế của mình.
Mục đích xin vay của khách hàng cũng được trình bày chung chung không rõ ràng, ví dụ như: “Cho vay để phát triển kinh doanh”. Và với lý do như vậy, thì việc cán bộ tín dụng yêu cầu làm lại thủ tục là đúng đắn.
Số tiền và thời gian xin vay cũng không đúng với nhu cầu thực tế, vì vay vốn trung và dài hạn nhưng doanh nghiệp đệ đơn ngắn hạn nên mặc dù muốn vay vốn trung và dài hạn nhưng doanh nghiệp đệ đơn xin vay vốn ngắn hạn sau đó, đến thời hạn trả món vay đói doanh nghiệp lại xin gia hạn nợ. Điều này trực tiếp ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của các Ngân hàng.
Đặc biệt là quy định cho vay đối với DNNN hiện nay, thực hiện cho vay không đòi hỏi tài sản thế chấp, chỉ căn cứ vào hiệu quả dự án và ba điều kiện tiên quyết, đó là: kết quả kiểm toán hàng năm khẳng định đơn vị hoạt động có hiệu quả, trả nợ đúng hạn; thực hiện được nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước; và được cấp vốn điều lệ. Nói cách khác đi là doanh nghiệp cần phải có số liệu trung thực và các điều kiện tối thiểu để có thể xây dựng được dự án khả thi vàhiện thực hoá tính khả thi của dự án. Quy định này đề cao trách nhiệm của doanh nghiệp , đòi hỏi các nhà quản lý doanh nghiệp phải lành mạnh hoá tài chính của đơn vị, thực sự chịu trách nhiệm trước các số liệu báo cáo, xây dựng và tính toán hiệu quả của dự án và điều hành thực thi dự án.
iii. Các vấn đề ở tầm vĩ mô về phía Ngân hàng Nhà nước.
Để phát huy, nâng cao hiệu quả của Sở giao dịch Ngân hàng Công thương Việt Nam trong việc cung cấp vốn trung và dài hạn cho sự phát triển nên kinh tế, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân Sở giao dịch Ngân hàng Công thương Việt Nam, của khách hàng, còn có sự giúp đỡ hỗ trợ ở tầm vĩ mô của Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan chức năng. Ngân hàng Nhà nước cần phải đệ trình Chính phủ và nhanh chóng giải quyết những vấn đề ở tầm vĩ mô như:
1. Hoàn thiện hệ thống pháp lý, ổn định tương đối chính sách quản lý kinh tế vĩ mô.
Trong những năm gần đây, công tác xây dựng luật, đặc biệt là Luật kinh tế , Luật công ty, Luật phá sản, Luật thương mại… và gần đây nhất là hai bộ luật về Ngân hàng. Những vấn đề đặt ra là: cần phải nâng cao tính đồng bộ của hệ thống pháp luật; đưa pháp luật vào đời sống của hoạt động kinh tế nâng cao tính đồng bộ và ổn định của các văn bản dưới luật; và nâng cao hiệu lực pháp lý của pháp luật cũng như nâng cao hiệu năng của các cơ quan hành pháp.
Có thể nói môi trường pháp lý ổn định, hệ thống chính sách phù hợp là điều kiện tiên quyết cho hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động Ngân hàng nói riêng. Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay đang từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhiều vấn đề cơ bản của nền kinh tế chưa được nghiên cứu kỹ. Do đó có nhiều tác động khách quan và chủ quan làm cho hệ thống pháo luật nước ta chưa thực sự là cán cân công lý trong kinh doanh. Phương pháp tốt nhất để hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế là vừa phải xây dựng các văn bản pháp quy về kinh tế, vừa nghiên cứu sửa đổi những điều chưa chính xác trong bộ luật cũ. Việc ban hành các bộ luật đồng bộ, đảm bảo cho quan hệ tín dụng dựa trên nền tảng vững chắc, tạo niền tin cho doanh nghiệp khi vay vốn, đồng thời cũng giảm bớt sự rủi ro, nâng cao tinh thần sẵn sàng đầu tư của Ngân hàng, giúp Ngân hàng mạnh dạn mở rộng đầu tư tín dụng trung và dài hạn tới tất cả các thành phần kinh tế.
2. Tạo ra những cơ hội và môi trường đầu tư thuận lợi.
Để tập trung cải tổ các doanh nghiệp Nhà nước, khuyến khích thúc đẩy sự ra đời và hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân, tạo môi trường đầu tư thông thoáng và nâng cao khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, hiện nay, Chính phủ cần thực hiện sắp xếp, phân loại các doanh nghiệp, mạnh dạn giải thể các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, cấp thêm vốn cho doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, đồng thời tiến hành nhanh chóng quá trình cổ phần hoá các DNNN mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn tự có. Đối với các thành phần kinh tế tư nhân, Nhà nước cần phải có những chính sách đầu tư thích đáng, có chính sách thuế phù hợp để tạo điều kiện cho thành phần kinh tế non trẻ này phát triển, đóng góp cho sự phát triển của nền kinh tế.
Mặt khác Nhà nước phải có các chính sách lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp như các chính sách về thanh lý tài sản cố định, sử dụng và quản lý các quỹ dự phòng. Nhà nước cũng nên có những chính sách quy định trách nhiệm bình đẳng vật chất các doanh nghiệp. Tổ chức, thành lập cơ quan kiểm tra, quản lý tài sản và tình hình tài chính của các doanh nghiệp khi vay và sử dụng vốn. Tiếp tục giảm lãi suất Ngân hàng phù hợp với điều kiện hoạt động của doanh nghiệp nước ta.
Nhà nước cần tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, hấp dẫn, thực hiện các chính sách khuyến khích toàn diện, trợ giúp và ưu đãi hơn nữa các nhà đầu tư thực hiện các dự án khả thi; thực hiện một sân chơi bình đẳng giữa các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế trong nước và giữa các nhà đầu tư trong nước với nước ngoài. Thực tế, khi một dự án doanh nghiệp định vay vốn Ngân hàng thì chỉ trong khoảng thời gian 3 ngày, Ngân hàng có thể đưa ra quyết định cho vay hay không nhưng thời gian giành cho thủ tục xét duyệt tại các Bộ, các cấp, ngành chủ quản có thể kéo dài hàng tháng làm mất cơ hội đầu tư của doanh nghiệp. Nhà nước còn nên khuyến khích các thành phần kinh tế thành lập nhiều quỹ đầu tư để trợ giúp vốn cho các dự án đầu tư, mở rộng diện tích cho vay vốn tại quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, bổ sung thêm cho quỹ này chức năng bảo lãnh tín dụng và trợ cấp một phần chênh lệch lãi suất các khoản cho các NHTM để khuyến khích cac NHTM cho vay trung và dài hạn.
3. Tiếp tục chấn chỉnh các hoạt động của hệ thống Ngân hàng – nhiệm vụ trọng tâm để vươn lên tới đủ lực cung cấp trung và dài hạn phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế.
Đối với bất kỳ nền kinh tế nào, hệ thống Ngân hàng lành mạnh thì nền kinh tế sẽ phát triển, hệ thống Ngân hàng ốm yếu thì nền kinh tế sẽ rơi vào tình trạngsuy thoái. Hiện tại, thực lực khả năng vốn của chính các NHTM còn quá nhỏ bé, vốn Nhà nước cấp ban đầu thấp nên tỷ lệ huy động vốn, đầu tư cho doanh nghiệp bị khống chế ở mức thấp. Các Ngân hàng chỉ đáp ứng được một phần vốn của doanh nghiệp bị khống chế ở mức thấp. Các Ngân hàng chỉ đáp ứng được một phần vốn của doanh nghiệp nên chỉ lựa chọn cho vay ngắn hạn để đảm bảo an toàn vốn, hạn chế cho vay trung và dài hạn trong khi nhu cầu của nền kinh tế nước này là vốn trung và dài hạn. Chính vì vậy, Chính phủ phải có giải pháp nâng cao vốn tự có cho những Ngân hàng thương mại quốc doanh.
Bên cạnh việc tăng vốn, Chính phủ cần có những hỗ trợ trong việc giải quyết những khoản nợ cũ còn tồn đọng, các khoản nợ đang còn bị đóng băng nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính hệ thống Ngân hàng, góp phần giải phóng vốn để đầu tư cho nên kinh tế. Đồng thời, xây dựng một cơ chế tài chính phù hợp với tính chất hoạt động của Ngân hàng, đảm bảo cho Ngân hàng có thể bù đắp được rủi ro trong kinh doanh, đồng thời có điều kiện tự đổi mới, vươn lên đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế.
Kết luận
Hệ thống Ngân hàng và đặc biệt là các Ngân hàng thương mại ở nước ta đang dần dần thể hiện tầm quan trọng của mình đối với nền kinh tế.Trong những năm qua các Ngân hàng thương mại đã góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Dù mới chuyển sang hoạt động trong nền kinh tế thanh toán chưa lâu nhưng hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam đã làm tốt chức năng của mình. Hệ thống Ngân hàng thương mại đã tích cực thúc đẩy công việc lưu chuyển công việcc lưu chuyển vốn trong nền kinh tế. Những chính sự non trẻ trong quá trình hoạt động mà hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại ở nước ta vẫn còn nhiều vướng mắc. những vướng mắc này tồn tại trong cả kinh nghiệm hoạt động của Ngân hàng lẫn hệ thống văn bản hướng dẫn.
Với kiến thức đã học được và khả năng giới hạn của bản thân, trong đề án môn học lý thuyết tài chính tiền tệ em xin đưa ra một số giải pháp sơ lược về vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
Do sự giới hạn của môn học và khả năng hạn hẹp về lý luận cũng như thực tiễn của bản thân, đề án này vẫn còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo và giúp đỡ cảu thầy giáo và các bạn.
Mục lục
Trang
Lời nói đầu
1
Chương I: Các loại hình tín dụng – Vai trò của tín dụng ngân hàng
2
I. Các loại hình tín dụng
2
1. Khái niệm về tín dụng
2
2. Một số hình thức tín dụng chủ yếu
3
II. Vai trò của tín dụng ngân hàng
4
1. Tín dụng ngân hàng góp phần làm giảm hệ số tiền nhàn rỗi trong lưu thông và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
4
2. Tín dụng ngân hàng tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển sôi động, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
5
3. Tín dụng ngân hàng góp phần tích cực vào sự phát triển công ty cổ phần, một mô hình tổ chức “hữu hiệu” trong nền kinh tế thị trường.
5
4. Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình mở rộng mối giao lưu kinh tế quốc tế
6
5. Tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông, tạo điều kiện cho quản lý lưu thông tiền tệ
6
6. Tín dụng ngân hàng đóng vai trò kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh doanh sản xuất của các doanh nghiệp.
6
Chương II: Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam
7
I. Ngân hàng thương mại Việt Nam – những vấn đề cơ bản vể hoạt động tín dụng
7
1. Khái niệm về chức năng của ngân hàng thương mại
7
2. Các nguyên tắc của tín dụng ngân hàng
8
3. Tín dụng trung và dài hạn ở các ngân hàng thương mại và các hình thức của nó
9
III. Thực trạng hoạt động tín dụng ở sở giao dịch ngân hàng công thương Việt Nam
11
1. Tình hình huy động vốn của Sở giao dịch ngân hàng công thương Việt Nam
11
2. Tình hình sử dụng vốn của Sở giao dịch ngân hàng công thương Việt Nam
13
3. Những vấn đề còn tồn tại
16
Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng thương mại Việt Nam
18
I. Về phía các ngân hàng thương mại
18
1. Nâng cao công tác thẩm định
18
2. Tăng cường các biện pháp thu nợ cho ngân hàng
20
3. Mở rộng đầu tư với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
20
4. Chuyển dịch cơ cấu đầu tư tín dụng theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế.
21
5. Thực hiện chiến lược khách hàng
22
6. Cho vay đầy đủ kịp thời đối với các dự án có hiệu quả kinh tế
23
7. Ngân hàng nên thực hiện tốt vai trò tư vấn đầu tư đối với các doanh nghiệp
23
II. Về phía khách hàng
24
III. Các vấn đề ở tầm vĩ mô về phía ngân hàng nhà nước
25
1. Hoàn thgiện hệ thống pháp lý, ổn định tương đối chính sách quản lý kinh tế vĩ mô
25
2. Tạo ra những cơ hội và môi trường đầu tư thuận lợi
26
3. Tiếp tục chấn chỉnh các hoạt động của hệ thống ngân hàng – nhiệm vụ trọng tâm để vươn lên tới đủ lực cung cấp trung và dài hạn phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế
27
Kết luận
28
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29567.doc