ổn định và phát triển đồng đều”. Hôi nghị sẽ thông qua một số văn kiện quan trọng, trong đó có chương trình hành động Hà Nội thực hiện tầm nhìn ASEAN 2020 và Tuyên bố Hà Nội nêu bật nguyện vọng và quyết tâm của các nước ASEAN, củng cố đoàn kết và đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương đưa ASEAN vững bước vào thế kỷ 21.
Nguồn : Tài liệu tham khảo của Thông tấn xã VN “ASEAN một tổ chức hợp tác nhiều mặt”,số 12-1998,p.31-32.
59 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1794 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nhằm giải quyết những thách thức và thúc đẩy các quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àng tiêu dùng khác sẽ phải thử thách và cạnh tranh đáng kể, áp lực với các nhà sản xuất trong nước sẽ liên tục và gia tăng như đối với ngành xi măng, sắt thép, phân hóa học, đường ... thì mức cạnh tranh sẽ là rất lớn. Vị thế nguy hiểm nhất chắc chắn sẽ thuộc về các ngành chế tạo sử dụng nhiều vốn như ngành điện tử, ô tô, ...
Thách thức đối với các nhà doanh nghiệp Việt Nam là hoặc là phải đuổi kịp và vượt các nước ASEAN về chất lượng, mẫu mã, giá cả hàng hóa trong vòng 6 năm tới (đến năm 2006) hoặc là phá sản và trao thị trường Việt Nam cho các đối thủ láng giềng. Thách thức này quả thật là rất lớn, nếu được lượng hóa sẽ bằng một lượng vốn đầu tư khổng lồ để đổi mới công nghệ ít nhất cho các ngành sản xuất ra khoảng 20% tổng số mặt hàng nói trên.
III.3.Thách thức về nhân tố con người:
Con người luôn giữ vị trí trung tâm trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ...Trong quá trình tham gia AFTA, một thách thức lớn mà Việt Nam gặp phải là nhân tố về con người do trình độ, kể cả cán bộ quản lý kinh tế và của các doanh nhân chưa đáp ứng được những nhu cầu đặt ra của tình hình mới. Nếu chỉ xét riêng về thực trạng của các doanh nghiệp Việt Nam trong môi trường cạnh tranh thì phần lớn các doanh nghiệp còn rất non trẻ, thiếu vốn kinh doanh cũng như trình độ quản lý, sự tín nhiệm và bề dày kinh nghiệm. Phần lớn các doanh nghiệp đều mới bước vào thương trường nên có nhiều hạn chế, thể hiện ở các mặt như: kinh doanh trên diện mặt hàng rộng nhưng thiếu chuyên ngành; mạng lưới tiêu thụ còn mong manh; các doanh nghiệp còn chưa quan tâm và ít thành công trong việc xây dựng khối các khách hàng tin cậy và lâu bền; thiếu thông tin và thiếu hiểu biết về thị trương và khách hàng; thiếu các hoạt động xúc tiến thương mại dưới nhiều hình thức như thông tin thương mại, hỗ trợ triển lãm quảng cáo, tư vấn về thị trường, môi trường đầu tư, tìm đối tác kinh doanh ... Trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt của AFTA, sự kém hiểu biết của những người tham gia trực tiếp vào “cuộc chơi” sẽ làm phương hại đến không những lợi ích của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng lớn đến lợi ích quốc gia.
Một khía cạnh khác cần được quan tâm trong nhân tố con người đó là trình độ của lực lượng lao động tham gia sản xuất trực tiếp. Để nâng cao chất lượng của hàng hóa, tăng sức cạnh tranh trong môi trường AFTA thì người lao động phải có tay nghề cao, ý thức chấp hành kỷ luật lao động tốt. Tuy nhiên hiện nay, phần lớn lao động Việt Nam được đào tạo từ thời bao cấp nên khả năng thích ứng với cơ chế thị trường còn kém, tay nghề thấp, chưa rèn luyện được tác phong lao động công nghiệp nên chất lượng sản phẩm làm ra chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn Việt Nam và Quốc Tế, sản phẩm khó có thể thâm nhập vào những thị trường “khó tính” của các nước ASEAN khác. Chính vì vậy, nhân tố con người là một nhân tố cần được đặt lên hàng đầu để chuẩn bị đối phó với những vấn đề nảy sinh trong quá trình Việt Nam tham gia vào AFTA.
III.4.Thách thức đối với Việt Nam khi vừa phải chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam á vừa phải giữ vững tiến trình AFTA.
Trong khi các quan hệ hợp tác kinh tế giữa nước ta và các nước thành viên trong nhóm ASEAN-6 đang phát triển thuận lợi thì xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam á . Những nước phải chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của khủng hoảng tài chính tiền tệ là Thailand, Indonesia, và Malaysia-những nước buôn bán và đầu tư nhiều với nước ta (chỉ sau Singapore).
Trên bề mặt xã hội, diễn biến tình hình kinh tế và tài chính Việt Nam trong mấy năm qua dường như vô can trước sóng gió của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực. Sự bình lặng đó có nguồn gốc sâu xa từ sự kém phát triển của nền kinh tế nói chung và thị trường tài chính nói riêng. Đồng tiền Việt Nam chưa phải là đồng tiền chuyển đổi trong khu vực. Việt Nam lại chưa có thị trường chứng khoán, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nền kinh tế ASEAN bị khủng hoảng nặng nề nhất còn rất nhỏ ..., nên đã không thể gây ra phản ứng dây chuyền trong cuộc khủng hoảng tài chính ở khu vực. Vì thế, có thể xem sự bình thường của kinh tế Việt Nam trước sóng lớn của khủng hoảng tài chính trong vùng chứng tỏ mức độ hội nhập của ta vào nền kinh tế khu vực còn chưa bén rễ vào các tế bào kinh tế của nó. Nói cách khác, cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông Nam á hiện nay là loại khủng hoảng của các loại nền kinh tế thị trường đã phát triển đến trình độ mà ở đó, thị trường chứng khoán hoạt động mạnh, có mối liên hệ quốc tế cao và nhạy cảm.
Tuy vậy do kinh ASEAN bị suy thoái, nhu cầu hàng nhập khẩu từ Việt Nam ở các nước thành viên ASEAN khác cũng đã bị bị giảm xuống. Theo đánh giá của Bộ Thương Mại, khủng hoảng tài chính làm nước ta thiệt hại khoảng 350 triệu đô la do giảm buôn bán với các nước ASEAN-6. Đầu tư trực tiếp của ASEAN-6 vào Việt Nam cũng giảm sút đáng kể. Theo Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, trong 9 tháng đâu năm 1998, các nước ASEAN-6 chỉ có 15 dự án đầu tư mới được cấp giấy phép với số vốn khoảng 803 triệu đô la Mỹ, trong đó 700 triệu vốn của các nhà đầu tư Singapore đã được cấp giấy phép nhưng chưa muốn nhận.1 Trích bài viết của Phùng Xuân Nhạ “Đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt Nam: Thực trạng và những khuyến nghị”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á số 4 năm 1998, trang 44.
ảnh hưởng khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam á đặt ra cho Việt Nam một số thách thức mới: Ngày nay, khi đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN và tham gia vào tiến trình AFTA, kinh tế Việt Nam đã chịu tác động của các nền kinh tế khu vực, cả tích cực lẫn tiêu cực, bất kể là chúng ta có muốn điều đó hay không. Đây là thách thức hoàn toàn mới trong quan hệ giữa nền kinh tế nước ta hiện nay với các nền kinh tế khu vực so với thời kỳ chiến tranh lạnh.
Vấn đề cơ bản nhất của tương quan giữa kinh tế Việt Nam và các nước ASEAN khác trong khuôn khổ AFTA chính là thời điểm sau khi AFTA có hiệu lực chung (năm 2003) và Việt Nam (năm 2006) mà cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay có thể có ý nghĩa rất không nhỏ đối với cục diện của tình hình. Theo nghĩa này, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và những tác động của nó sẽ tạo ra những thách thức đối với mong muốn của Việt Nam nhằm duy trì tiến trình tham gia AFTA.
Trước hết, dòng vốn đầu tư từ ASEAN chảy vào Việt Nam sẽ ngày càng yếu đi do khả năng tài chính của các nhà đầu tư bị suy giảm. Sự mất cân đối giữa cung và cầu FDI trên thế giới nói chung và trong khu vực nói riêng dochiuj ảnh hưởng của khủng hoảng mà sâu sắc thêm. Là nước hầu như chỉ nhận đầu tư một chiều từ bên ngoài, Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong tăng trưởng kinh tế. Sự suy giảm của tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam trong những năm gần đây là minh chứng cho nhận định này. Giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế có nghĩa là sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa ta và ASEAN ngày càng mở rộng, gây rất nhiều bất lợi cho ta khi thực hiện AFTA dẫn đến khả năng Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ hàng hóa có xuất xứ từ các nước ASEAN khác.
Thứ hai là sự phá giá đồng tiền nội địa của những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng đã làm chi phí đầu vào của họ rẻ đi tương ứng. Do đó, sức cạnh tranh trên thị trường khu vực trong đó có thị trường Việt Nam sẽ tăng lên, khiến cho các nhà sản xuất Việt Nam tiếp tục bị thất thủ ngay trên thị trường nội địa trước sức tấn công của hàng ngoại theo nhịp tiến của lịch trình AFTA.
Thứ ba, cuộc khủng hoảng tạo ra áp lực lớn buộc các nước phải thực hiện những cuộc cải cách triệt để, thay đổi cơ cấu kinh tế và thiết chế tài chính nhằm nâng cao hiệu quả và tạo ra xung lực mới mẻ và thực sự cho giai đoạn “tái cất cánh” sau khủng hoảng. Do vậy, cuộc khủng hoảng trong khu vực hóa ra lại gây ra áp lực cạnh tranh còn lớn hơn nữa đối với nền kinh tế còn nhiều yếu kém của Việt Nam. Nhưng ta không thể chối bỏ hợp tác, không thể từ bỏ tiến trình AFTA vì những lợi ích lâu dài mà nó mang lại. Vậy con đường duy nhất là phải tiếp tục cải cách một cách toàn diện hơn, nhanh chóng hơn và triệt để hơn. Về phần mình, người viết muốn nhấn mạnh một điều là, hiện naykhông chỉ có vấn đề cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam mà một thách thức lớn nhất trong quá trình hội nhập vào kinh tế khu vực mà AFTA là cơ chế quan trọng nhất chính là các doanh nghiệp-những chủ thể phải cạnh tranh thực sự trên thương trường. Vậy nên, nếu không cải cách triệt để khu vực này thì trong một khoảng thời gian không xa, cuộc khủng hoảng tài chính gây hậu quả xấu cho các nước sản sinh ra nó có thể không lớn bằng hậu quả mà nó trút lên các nước ASEAN yếu hơn, trong đó có Việt Nam.
Chương III: Những giải pháp nhằm giải quyết những thách thức và thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam vào AFTA.
I.Phát huy nguồn lực con người:
Hội nhập vào nền kinh tế khu vực trong hoàn cảnh không giàu có về tài nguyên thiên nhiên, nguồn tài chính còn hạn hẹp, Đảng ta đã nhận thức một cách sâu sắc rằng con người là nguồn lực quan trọng nhất.
Dân số Việt Nam hiện nay đã lên tới hơn 76 triệu người, đứng thứ 12 trên thế giới, thứ 7 trong số 42 nước Châu á- Thái Bình Dương và thứ hai trong ASEAN. Hàng năm, ở nước ta có khoảng 1 triệu thanh niên tham gia vào lực lượng lao động. Lao động trẻ (từ 16 đến 35 tuổi) chiếm tới 65% nguồn nhân lực. 87% dân số Việt Nam biết đọc biết viết. Trong số 35 triệu lao động có 4,8% đã qua đào tạo (chiếm trên 11% tổng lực lượng lao động). Lao động Việt Nam được đánh giá là có khả năng tiếp thu nhanh, dễ đào tạo và cần cù chịu khó. Tuy nhiên, nguồn nhân lực của nước ta cũng có một số nhược điểm . Đó chính là sự mất cân đối về trình độ cán bộ. Năm 1999 số người có bằng đại học chiếm 1,5% dân số, trong khi đó 5,28% có bằng công nhân kỹ thuật sơ cấp và trung học chuyên nghiệp. Ngoài ra tay nghề của lực lượng lao động Việt Nam còn chưa cao, chưa tiếp cận được với những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới.
Để có thể có một nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của phát triển của đất nước và quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực, Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khóa VIII đã đề ra một số biện pháp nhằm đào tạo đội ngũ lao động phù hợp với trình độ phát triển khoa học công nghệ. Những biện pháp đó là:
*Tạo điều kiện cho hầu hết trẻ em dưới năm tuổi đều được học các chương trình nhà trẻ, mẫu giáo, chuẩn bị đủ sức cần thiết để vào các trường tiểu học.
*Đảm bảo 60% trẻ em ở độ tuổi 11-15 được học hết chương trình các trường phổ thông cơ sở, 40% trong độ tuổi từ 16 đến 18 tuổi học hết phổ thông trụng học. Sau đó, cố gắng phân phối hợp lý số lượng học sinh tốt nghiệp trung học vào đại học và các trường trung cấp, các trường chuyên nghiệp theo tỷ lệ 50/50.
*Phấn đấu đưa tỷ lệ lao động được đào tạo lên 20-25% trong tổng lực lượng lao động (hiện nay tỷ lệ này là 10%).
*Thực hiện phổ cập tiểu học trong cả nước vào năm 2000, phổ cập phổ thông cơ sở vào 2010 và phổ cập trung học vào năm 2020.
*Phấn đấu từ năm 2020 đưa quy mô giáo dục đạt mức tương đương các nước phát triển trong khu vực.
Song song với đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chúng ta cần kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy những cán bộ kém phẩm chất, cán bộ không đủ năng lực thực hiện các nhiệm vụ của hoạt động quản lý kinh tế.
Bên cạnh đó, chúng ta phải tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật của Ban Thư Ký ASEAN, các nước thành viên ASEAN khác trong việc giúp ta đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực để có thể tham gia một cách có hiệu quả nhất vào các hoạt động của tổ chức này. Trong các kỳ họp chuyên môn trong khuôn khổ AFTA, cán bộ của ta cần có khả năng để xử lý vấn đề tại chỗ thay cho việc phải hỏi ý kiến trong nước nhiều khi làm mất sự chủ động, sáng tạo bỏ lỡ cơ hội.
Cán bộ của ta cũng phải được đào tạo để nắm vững những nghiệp vụ về xuất nhập khẩu, về hệ thống pháp luật thương mại quốc tế, về thị trường của từng ngành hàng chủ lực của đất nước, về đặc điểm riêng của thị trường các nước trong khu vực, có sự phối hợp chặt chẽ với thương vụ Việt Nam đặt ở các nước ASEAN để hàng hóa Việt Nam có chỗ đứng trong thị trường này cũ như nâng cao cũng như bảo vệ được các nhà sản xuất trong nước trước những thách thức khi ta hội nhập vào AFTA.
II. Hoàn thiện thể chế điều chỉnh các hoạt động thương mại song song với việc đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Thể chế điều chỉnh hoạt động thương mại gồm có hệ thống luật pháp, chính sách, quy định về quản lý hoạt động thương mại; hiệu lực thực hiện các quy định pháp luật, chính sách và việc tổ chức bộ máy quản lý hoạt đông thương mại cũng như việc xây dựng các khuôn khổ pháp lý quốc tế cho các hoạt động thương mại. Các yếu tố trên có mối quan hệ qua lại lẫn nhau. Chính mối quan hệ giữa các hoạt động này đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp trong điều chỉnh các hoạt động thương mại.
Sự hội nhập của nước ta vào AFTA tạo điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu rộng vào thương trường khu vực và thế giới trên cơ sở các quy định của luật lệ kinh doanh quốc tế. Khó khăn của Việt Nam trong quá trình hội nhập là về mặt luật pháp giữa ta và các nước ASEAN có một khoảng cách khá xa. Sự khác nhau này được lý giải bởi luận cứ: mỗi quốc gia có một truyền thống lịch sử, phong tục tập quán và điều kiện phát triển riêng, có chế độ chính trị và thể chế Nhà nước riêng, nên hệ thống pháp luật của quốc gia cũng phản ánh tính riêng biệt đó. Nhưng dù có sự khác nhau như vậy, việc đẩy mạnh giao lưu kinh tế, thương mại với các doanh nghiệp nước ngoài của các thương nhân Việt Nam vẫn được khuyến khích trong quá trình hội nhập. Để đảm bảo quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực, Việt Nam cần xúc tiến đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện một khuôn khổ luật pháp đồng bộ, thống nhất và có tính thực thi cao, đặc biệt là hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động kinh doanh thương mại:
*Trước hết, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách, quy định về quản lý thương mại. Các đạo luật và quy định đã được ban hành bao gồm luật thương mại, luật thuế xuất-nhập khẩu, quy chế phân bổ hạn ngạch, quy định của hệ thống ngân hàng về sử dụng ngoại tệ trong hoạt động xuất nhập khẩu, quy định về các loại máy móc, thiết bị nhập khẩu đối với các doanh nghiệp. Rà soát lại danh mục các mặt hàng khuyến khích xuất nhập khẩu, các mặt hàng hạn chế xuất nhập khẩu và các mặt hàng cấm xuất nhập khẩu để có thể điều chỉnh lại trong từng thời kỳ. Coi trọng việc đẩy nhanh quá trình thể chế hóa, cụ thể hóa các quy định pháp luật thành các quy định của các ngành, các lĩnh vực và các quy định có tính chất liên ngành. Tiếp tục ban hành các văn bản pháp luật còn thiếu như luật chống bán phá giá, luật mở rộng xuất khẩu và luật kiểm soát nhập khẩu.Tích cực phê chuẩn các Công ước quốc tế về thương mại quốc tế và ký kết các Hiệp định thương mại với các nước để tạo cơ sở pháp lý rộng hơn cho các hoạt động thương mại của các doanh nghiệp. Yếu tố này đòi hỏi phải tăng cường vai trò của Quốc hội và Chính phủ trong việc ban hành các văn bản pháp luật về thương mại.
*Thứ hai, tăng cường thực hiện các quy định pháp luật về thương mại. Các quy định pháp luật về thương mại cần được thực hiện nghiêm mih, hạn chế đến mức cao nhất những vi phạm pháp luật thương mại. Điều này cần được thực hiện dựa trên cơ sở tăng cường hiệu quả của cơ quan hành pháp trong lĩnh vực thương mại. Hoàn thiện từng bước bộ máy bảo vệ pháp luật thương mại và các cơ quan xử lý các tranh chấp thương mại, đặc biệt là cần cải tiến phương thức hoạt động của cơ quan trọng tài thương mại trong việc bảo vệ các quy định pháp luật về thương mại để bảo đảm kỷ cương, trật tự trong lĩnh vực thương mại.
*Thứ ba, cải tiến bộ máy quản lý hoạt động xuất nhập khẩu theo hướng tinh giản các loại thủ tục hành chính trong thương mại, từ khâu đầu đến khâu cuối cùng kể cả việc quản lý các hoạt động thương mại chính thức và phi chính thức, các hoạt động tạm nhập-tái xuất, chuyển khẩu ... Phân định rõ chức năng, quyền hạn của các bộ phận trong bộ máy quản lý thương mại như Bộ Thương Mại, Cục quản lý thương mại biên giới, Tổng Cục Hải Quan trong việc xét duyệt yêu cầu nhập khẩu, cấp giấy phép xuất nhập khẩu ...
Mặc dù chủ trương của chúng ta là tự do hóa thương mại, nhưng trên thực tiễn vẫn còn nhiều trở lực kìm hãm sự thực thi chủ trương đó. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân vẫn còn gặp phải nhiều ràng buộc, khó khăn bởi cơ chế “cấp”, “phát”, “xin”, “cho”. Do đó có tình trạng cố “xin” để được “cho” được “cấp”, được “phát” các quyền được hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, được ưu tiên bảo hộ sản xuất trong nước trước tình hình hàng ngoại cạnh tranh, được miễn giảm hoặc thoái thuế ... đã trở thành hiện thực phổ biến, từ đó làm nảy sinh nhiều tệ nạn tiêu cực trong các hoạt động thương trường như đã đề cập đến. Thực trạng này nếu tiếp tục kéo dài, rõ ràng sẽ trở thành một bất lợi thế bởi không thể cạnh tranh nổi trong tình trạng chúng ta ngày càng rộng cửa để hàng ngoại nhập vào trước làn sóng tự do hóa thương mại toàn cầu, trong đó có khối lượng ngày càng lớn hơn hàng hóa của ASEAN, khi mà chương trình CEPT trong khuôn khổ của AFTA có hiệu lực thực thi toàn phần với Việt Nam.
III.Hoàn chỉnh hệ thống thuế quan, các biện pháp phi quan thuế và thủ tục hải quan:
Hiện tại, biểu thuế nhập khẩu hiện hành của Việt Nam gồm 97 chương và 3098 nhóm mặt hàng, mức thuế nhập khẩu cao nhất là 60% và mức thấp nhất là 0%.
Mức thuế nhập khẩu trung bình đơn giản tính cho tất cả các mặt hàng là 11,9%; mức thuế trung bình đơn giản tính cho các mặt hàng có thuế là 17,3%, thuế suất trung bình theo kim ngạch nhập khẩu là 13,4%.
Hệ thống thuế cần được hoàn chỉnh theo hướng:
*Thực hiện cải cách hệ thống thuế: thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong đó cần chia thuế suất thuế nhập khẩu thành ba loại: thuế suất thông thường, thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt.
*Hoàn thiện danh mục biểu thuế phù hợp với danh mục HS 6 chữ số.
*Xem xét điều chỉnh giảm dần thuế suất thuế nhập khẩu theo mục tiêu của AFTA.
*Quy định về tiếp tục giảm thuế quan nhằm đạt được mục tiêu của ASEAN về tự do thương mại vào năm 2020.
Về các biện pháp phi quan thuế, Việt Nam đang áp dụng một số loại hình như: cấm nhập khẩu, hạn ngạch, quản lý một số mặt hàng có cân đối với sản xuất và nhu cầu trong nước, quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, quản lý chuyên ngành ... vì lý do đảm bảo an ninh, xã hội, sức khỏe, đời sống động thực vật, môi trường.
Trước mắt cần:
*Chuyển quyền xét cấp quyền kinh doanh xuất nhập khẩu sang chế độ đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu.
*Chuyển các quy định về quản lý chuyên ngành sang quản lý theo tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng.
*Phần lớn trong tổng số các mặt hàng đang chịu sự quản lý bằng giấy phép nhập khẩu hoặc hạn chế định lượng được chuyển sang hình thức giấy phép tự động phục vụ thống kê, giám sát; chỉ giữ lại quản lý theo các hình thức này đối với những mặt hàng liên quan đến sức khỏe con người, động thực vật, an ninh quốc phòng ...
*Giảm bớt đến mức tối đa chế độ nhập khẩu theo đầu mối. Bãi bỏ chế độ nhập khẩu qua đầu mối đối với phân bón, xăng dầu.
Việt Nam đã ban hành biểu thuế nhập khẩu dựa trên nguyên tắc phân loại và mã hàng hóa của tổ chức Hải Quan Thế Giới HS 1992. Hiện nay, Việt Nam đang cùng với các nước ASEAN nghiên cứu xây dựng biểu thuế chung Hải Quan ASEAN dựa trên danh mục HS 96 của Tổ Chức Hải Quan Thế Giới (WCO). Từ 1996 đến nay, Hải Quan Việt Nam đã và đang phối hợp với các nước thành viên khác của ASEAN để giải quyết những vấn đề liên quan đến cải tổ hệ thống Hải Quan. Các biện pháp cụ thể cần được thực hiện là:
*Điều hòa thống nhất danh mục biểu thuế quan của các nước ASEAN.
*Điều hòa thống nhất các hệ thống xác định trị giá hải quan để tính thuế.
*Điều hòa thống nhất quy trình thủ tục hải quan ASEAN.
*Xuất bản sách hướng dẫn về các quy trình thủ tục hải quan của các nước.
*Triển khai hệ thống luồng xanh để nhanh chóng hoàn thành các hệ thủ tục hải quan cho các sản phẩm của CEPT.
IV. Điều chỉnh cơ cấu xuất nhập khẩu với ASEAN theo hướng ưu tiên xuất khẩu những mặt hàng ta có lợi thế so với các nước trong khu vực đồng thời tăng sức cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước.
Năm 1995 (là năm trước khi VN tham gia AFTA) kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với ASEAN đạt 3,3 tỷ USD ( chiếm 24,3% tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam). Đến năm 1997, tức là hai năm từ khi Việt Nam tham gia AFTA, con số này tăng lên 5 tỷ USD, đạt tỷ lệ tăng trưởng hơn 51%.1 Trích phỏng vấn ông Trương Đình Tuyển, BTBộ TM, Thời báo KTVN số 99 ngày 12/12/1998,trang 3.
Như vậy là thị trường ASEAN ngày càng trở thành một thị trường quan trọng đối với các nhà sản xuất trong nước. Trước mắt chúng ta cần tăng cường tỷ trọng của những nhóm ngành hàng ta có thế mạnh trong xuất khẩu sang ASEAN. Đó là những ngành hàng mà trong thời gian trước mắt những lợi thế so sánh của Việt Nam dựa trên các nguồn tài nguyên, nguồn lao động dồi dào, có thể tiếp thu tay nghề nhanh có thể phát huy tác dụng nhiều nhất.Các ngành cụ thể của nhóm này bao gồm:
*Các mặt hàng nông sản: gạo, cà phê, chè, ...
*Mặt hàng thủy sản: tôm đông lạnh, mực đông lạnh, mực khô, ...
*Ngành hàng dệt may: quần áo, vải sợi, tơ, giầy dép ...
*Ngành hàng cao su.
Đồng thời chúng ta cũng áp dụng những biện pháp bảo hộ phù hợp đối với một số ngành sản xuất còn non trẻ nhưng có tiềm năng ở trong nước như ngành hàng rau quả, ngành hàng thực phẩm chế biến, ngành hàng các sản phẩm sữa, ngành hàng điện-điện tử, ngành hàng các sản phẩm cơ khí, ngành công nghiệp đóng tàu, ngành hàng hóa chất, ngành hàng xi măng, ... Các biện pháp đó là:
*Hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp làm ăn tốt đổi mới công nghệ, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm.
*Thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa một số doanh nghiệp để có thêm vốn đầu tư chiều sâu, phát triển sản xuất;
*Rà soát lại quy hoạch và kế hoạch sản xuất trong nước và nhập khẩu đối với một số sản phẩm có tín hiệu dư thừa trên thị trường để điều hành tốt mối quan hệ cung-cầu, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước phát triển;
*Tập trung hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để các trung tâm công nghiệp ở các thành phố lớn phát triển nhanh, kể cả công nghiệp trung ương trên địa bàn và công nghiệp địa phương.
Yếu tố quyết định để có thể chiếm lĩnh được thị trường, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa là tính chủ động, sáng tạo vươn mạnh ra thị trường ngoài nước của chính các doanh nghiệp. Tự do hóa thương mại trong AFTA đông nghĩa với việc mở cửa thị trường và cạnh tranh không chỉ giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau mà còn giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần xác định lại chiến lược sản xuất kinh doanh. Để làm được điều này, các doanh nghiệp cần phải tiếp cận với những phương pháp quản lý mới, công nghệ mới, đặc biệt tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, coi trọng công tác tiếp thị cả ở thị trường trong nước lẫn thị trường nước ngoài. Điều cần chú ý là khi tham gia AFTA, không phải tất cả các mặt hàng đều cắt giảm thuế và loại bỏ hoàn toàn các hàng rào phi thuế. Trong tiến trình giảm thuế quan và các biện pháp phi thuế quan, Chính phủ cần phải xác định các lộ trình hợp lý để giúp các ngành hàng non yếu có đủ khả năng vươn lên, thích nghi với môi trường cạnh tranh. Mặt khác, Nhà nước cần phải quan tâm đến công tác xúc tiến thương mại nhằm giúp cho doanh nghiệp có cơ hội mở rộng thị trường và tìm kiếm bạn hàng.
Các doanh nghiệp đi sau một bước so với các doanh nghiệp nước ngoài trong việc áp dụng công nghệ và các phương pháp quản lý mới, do đó sẽ gặp phải những khó khăn nhất định khi phải cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu từ các nước ASEAN. Nhưng chúng ta vẫn có những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có tiếng vang ngay cả trên thị trường quốc tế như Hải Hà, Biti’s; các xí nghiệp may mặc xuất khẩu như May 10, Đức Giang, Việt Tiến; một số xisw nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng như Sứ Thiên Thanh, Sứ Thanh Trì ... Chính họ đã trưởng thành lên trong môi trường cạnh tranh. Do đó có thể nói doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có đủ khả năng vươn lên đuổi kịp các doanh nghiệp nước ngoài. Điều quan trọng là phải có sự phối hợp nhất quán và khuyến khích cao độ của các cấp các ngành nhằm khơi dậy tiềm năng của các doanh nghiệp trong nước. Đặc biệt là phải xử lý trong dài hạn mối quan hệ giữa bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước với việc bảo vệ người tiêu dùng, từng bước đưa doanh nghiệp vào môi trường cạnh tranh, hình thành cơ chế để thực hiện phương châm “Bảo hộ có điều kiện, có chọn lọc, có thời gian” như nghị quyết Trung Ương IV khẳng định.
Kết luận
Ngày nay, toàn cầu hóa, khu vực hóa các nền kinh tế trở thành một xu hướng tất yếu và chủ đạo chi phối mọi hoạt động kinh tế của các quốc gia trên thế giới cho dù đó là nước phát triển hay đang phát triển. Toàn cầu hóa, khu vực hóa là quá trình kinh tế phát triển trên quy mô khu vực và toàn cầu, bao gồm trong nó hai quá trình phát triển song song là tự do hóa kinh tế và hội nhập quốc tế.
Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam á là một sự kiện trọng đại, là một bước đi lịch sử của dân tộc Việt Nam và cũng là bước đi tất yếu của chúng ta trên con đường hội nhập vào nền kinh tế khu vực.
Sự kiện đó đã mang lại cho dân tộc ta những triển vọng lớn , nhưng đồng thời cũng đặt Việt Nam trước những thách thức mới cần được giải quyết. Có thể dẫn ra những cơ hội mà chúng ta có thể tận dụng. Đó là: một bối cảnh quốc tế và trong nước thuận lợi khi ta gia nhập AFTA, lợi thế cạnh tranh của Việt Nam so với một số nước trong khu vực, khả năng thu hút vốn đầu tư từ ASEAN cũng như tăng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này của Việt Nam.
Khi tham gia AFTA, dù muốn hay không Việt Nam cũng phải đối phó với các thách thức. Đó là: sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển kinh tế và sự khác biệt về thể chế chính trị giữa Việt Nam và một số nước ASEAN khác, các nhà sản xuất trong nước sẽ phải chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt của hàng hóa nhập khẩu từ các nước ASEAN khác, thách thức đối với Việt Nam khi vừa phải chịu những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực vừa phải giữ vững tiến trình AFTA và những hạn chế của lực lượng lao động trước những đòi hỏi của hội nhập.
Người viết cũng đưa ra một số kiến nghị về phát huy nguồn nhân lực; hoàn chỉnh hệ thống pháp luật trong thương mại, hệ thống thuế quan, phi quan thuế; điều chỉnh cơ cấu xuất nhập khẩu ... nhằm khắc phục những thách thức và đẩy nhanh quá trình hội nhập của Việt Nam.
Đổi mới kinh tế cùng với sự hội nhập ngày càng sâu và rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới đã đặt nước ta lên bệ phóng vào thế kỷ 21. Với những thành tựu đã đạt được và nỗ lực của toàn thể dân tộc, chắc chắn trong một tương lai không xa, Việt Nam có thể “sánh vai với các cường quốc năm châu” như Bác Hồ từng mong đợi.
Phụ lục
Tuyên bố Singapore năm 1992 về việc thành lập AFTA (Thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh các nước ASEAN lần thứ tư tại Singapore ngày 27-28/1/1992)
1. Chúng tôi, những người đứng đầu Nhà nước và Chính phủ các Quốc gia ASEAN rất vui mừng trước những thành tựu mà ASEAN đạt được trong 25 năm qua và tin rằng hợp tác ASEAN vẫn có vai trò sống còn đối với thịnh vượng của nhân dân các Quốc gia ASEAN.
2. Sau khi điểm lại những thay đổi sâu sắc về chinh trị và kinh tế quốc tế từ khi chấm dứt chiến tranh lạnh và xem xét các tác động của các thay đổi đó đối với ASEAN, chúng tôi tuyên bố :
ASEAN sẽ nâng cao hơn nữa hợp tác chính trị và kinh tế để đảm bảo hòa bình và phồn vinh ở khu vực;
ASEAN sẽ không ngừng phấn đấu bảo vệ lợi ích tập thể của mình để đối phó với sự hình thành những nhóm kinh tế mạnh mẽ, rộng lớn trong các nước phát triển, thông qua việc thúc đẩy chế độ kinh tế quốc tế mở và khuyến khích hợp tác kinh tế khu vực;
ASEAN sẽ tìm kiếm các lĩnh vực để đưa các Quốc gia thành viên tham gia vào các lĩnh vực hợp tác mới trong các vấn đề an ninh;
ASEAN sẽ xây dựng quan hệ chặt chẽ hơn trên cơ sở hữu nghị và hợp tác với các nước Đông Dương sau khi có giải pháp về Cambodia.
Phương hướng hợp tác kinh tế ASEAN
Trong lĩnh vực hợp tác kinh tế, chúng tôi đã nhất trí;
Để tăng cường hơn nữa cố gắng chung nhằm phát triển hợp tác kinh tế trong ASEAN, ASEAN sẽ thông qua những biện pháp kinh tế mới thích hợp như đã nêu trong Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế của ASEAN nhằm duy trì tăng trưởng và phát triển kinh tế của ASEAN, vấn đề cơ bản đối với ổn định và thinh vượng của khu vực;
ASEAN sẽ thiết lập khu vực mậu dịch tự do trong ASEAN, sử dụng Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung như là cơ chế chính trong vòng 15 năm bắt đầu từ 1-1-1993 với mức thuế ưu đãi cuối cùng có hiệu lực từ 0 đến 5%. Các Quốc gia thành viên đã xác định 15 nhóm sản phẩm sẽ được đưa vào chương trình CEPT về giảm thuế quan nhanh gồm :
. Dầu thực vật; Xi măng; Hóa chất; Dược liệu; Phân bón và chất dẻo; Sản phẩm cao su; Sản phẩm da thuộc; Bột giâý; Hàng dệt; Sản phẩm đồ gốm và kính; Đá qúy và đồ trang sức; Đồng thỏi; Hàng điện tử; Đồ gỗ và song mây.
ASEAN sẽ tăng cường đầu tư, liên kết và bổ sung công nghiệp thông qua áp dụng các biện pháp mới và cải tiến cũng như tăng cường những thỏa thuận đã có trong ASEAN và tạo ra khả năng linh hoạt cho các hình thức về hợp tác công nghiệp mới;
ASEAN sẽ củng cố và phát triển hơn nữa hợp tác trong lĩnh vực thi trường vốn và sẽ khuyến khích và tạo điều kiện dễ dàng cho chu chuyển tự do vốn và các nguồn tài chính khác;
ASEAN sẽ tăng cường hợp tác khu vực để có mạng lưới hạ tầng cơ sở vận tải và thông tin an toàn, có hiệu quả và cải tiến;
ASEAN cũng sẽ tiếp tục cải tiến và phát triển hệ thông viễn thông và bưu chính giữa các nước để đảm bảo có những dịch vụ có chất lượng cao, có hiệu quả và hướng vào khách hàng;
ASEAN sẽ có nỗ lực chung để tăng cường, thúc đẩy thương lượng buôn bán về các sản phẩm nông nghiệp của ASEAN nhằm nâng cao thế cạnh tranh của các Quốc gia ASEAN và để duy trì việc mở rộng xuất khẩu hàng nông nghiệp của ASEAN trên thị trường quốc tế;
ASEAN nhận thức rằng các thỏa thuận tiểu khu vùng với nhau hoặc giữa các Quốc gia thành viên ASEAN và các nền kinh tế không phải ASEAN có thể bổ sung cho hợp tác kinh tế toàn diện của ASEAN;
ASEAN nhận thức được tầm quan trọng của việc tăng cường và thiết lập hợp tác với các nước khác, các tổ chức kinh tế khu vực hoặc đa phương, cũng như Hợp tác kinh tế Châu á -Thái Bình Dương (APEC) và Diễn đàn kinh tế Đông á . Đối với APEC, ASEAN coi trọng mục tiêu cơ bản của APEC là duy trì tăng trưởng và năng động của khu vực Châu á -Thái Bình Dương. Đối với EAEC, ASEAN nhận thấy rằng tham khảo ý kiến về các vấn đề cùng quan tâm giữa các nền kinh tế Đông á, khi có nhu cầu, có thể góp phần mở rộng hợp tác giữa các nền kinh tế khu vực và thúc đẩy một hệ thống buôn bán toàn cầu mở và tự do;
ASEAN cũng nhận thức được rằng các lĩnh vực hợp tác phi thuế quan và vượt ra ngoài biên giới để hỗ trợ cho việc tự do hóa thuế quan có tầm quan trọng đối với việc phát triển mậu dịch và đầu tư khu vực. ASEAN sẽ thăm dò thêm hợp tác trong những lĩnh vực này để đưa ra những khuyến nghị đó cho Hội nghị cấp cao lần thứ 5;
ASEAN sẽ tiếp tục phối hợp cố gắng của mình để thúc đẩy du lịch, đặc biệt làm cho Năm du lịch ASEAN 1992 thành công;
ASEAN sẽ tiếp tục đẩy mạnh hợp tác trong các lĩnh vực khác kiên quan đến kinh tế như chuyển giao khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực;
ASEAN sẽ tăng cường hợp tác và có hành đông tập thể trong các Diễn đàn quốc tế và liên khu vực, cũng như trong các tổ chức quốc tế và các nhóm khu vực. ASEAN cũng sẽ tiếp tục đẩy mạnh quan hệ với các bên đối thoại và các nước sản xuất, tiêu thụ sản phẩm khác nhằm phát triển sản xuất hàng hóa trong khu vực và để giải quyết các vấn đề hàng hóa quốc tế;
ASEAN nhận thức rằng phát triển kinh tế bền vững đòi hỏi phải có đầu tư đáng kể về năng lượng. Do các Quốc gia thành viên đang tiếp tục công nghiệp hóa và tăng cường cơ sở công nghiệp, ASEAN sẽ tập trung và tăng cường hợp tác trong vấn đề an ninh năng lượng , tiết kiệm và tìm kiếm các nguồn nhiên liệu thay thế;
ASEAN nhận thức rõ tính bổ sung cho nhau của các cơ hội thương mại và đầu tư và do đó khuyến khích tăng cường hợp tác và trao đổi giữa các khu vực tư nhân của ASEAN và xem xét các chính sách thích hợp để có đầu tư lớn hơn giữa các Quốc gia ASEAN;
ASEAN sẽ tiếp tục đề cao các nguyên tắc thương mại tự do và mở nêu trong Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT) và phấn đấu duy trì và tăng cường hệ thống thương mại đa phương mở;
ASEAN sẽ cùng nhau làm việc để bảo đảm rằng vòng đàm phán U-ru-goay tập trung giải quyết các lo ngại và lợi ích chủ yếu của các nền kinh tế ASEAN và có một cách đề cập thực tế trong việc sử dụng văn bản. Dự thảo cuối cùng vào ngày 20-12-1991 làm cơ sở hợp lý cho việc hoàn thành thương lượng.
ASEAN mạnh mẽ đề nghị các nước buôn bán lớn giải quyết các bất đồng về nông nghiệp cũng như việc sử dụng văn bản Dự thảo cuối cùng nhằm kết thúc sớm và thắng lợi vòng đàm phán U-ru-goay.
Nguồn : Hiệp hội các nước Đông Nam á -Bộ ngoại giao-Vụ ASEAN-NXB chính trị quốc gia-Hà nội 1995.
Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) cho khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)
Singapore, ngày 28-1-1992
Điều 1. Các định nghĩa
“CEPT” có nghĩa là ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung và là mức thuế có hiệu lực, được thỏa thuận ưu đãi cho ASSEAN, được áp dụng cho các loại hàng hóa có xuất xứ từ các quốc gia thành viên ASEAN và được xác định để đưa vào chương trình CEPT theo các điều 2(5) và 3;
“Hàng rào phi thuế quan” có nghĩa là các biện pháp không phải thuế quan, trên thực tế ngăn cấm hoặc hạn chế việc nhập khẩu hoặc xuất khẩu các sản phẩm giữa các Quốc gia thành viên;
“Hạn chế số lượng” có nghĩa là các cấm đoán hoặc hạn chế thương mại với các Quốc gia thành viên khác, dù là bằng hạn ngạch, giấy phép hoặc các biện pháp có bản chất tương tự, kể cả các biện pháp và các yêu cầu hành chính hạn chế thương mại;
“Hạn chế ngoại tệ” có nghĩa là các biện pháp được các Quốc gia thành viên sử dụng dưới hình thức hạn chế hoặc các thủ tục hành chính khác về ngoại tệ tạo ra hạn chế cho thương mại.
“PTA” có nghĩa là thỏa thuận về ưu đãi thương mại ASEAN được quy định trong Hiệp định về thỏa thuận ưu đãi thương mại ASEAN, ký tại Manila ngày 24-2-1977 và trong Nghị định thư về tăng cường mở rộng ưu đãi thuế quan theo thỏa thuận về ưu đãi thương mại ASEAN (PTA) ký tại Manila ngày 15-12-1987.
“Danh mục loại trừ’ có nghĩa là danh mục liệt kê các sản phẩm được loại ra khỏi diện áp dụng ưu đãi thuế quan trong chương trình CEPT.
“Sản phẩm nông nghiệp” có nghĩa là:
Nguyên liệu nông nghiệp thô-các sản phẩm chưa chế biến được kê trong các chương 1 đến 24 của hệ thống cân đối (HS) và các nguyên liệu nông nghiệp thô-các sản phẩm chưa chế biến tương tự được nêu trong các đề mục của hệ thống cân đối;
Các sản phẩm đã qua sơ chế nhưng hình thức không thay đổi nhiều so với sản phẩm gốc.
Điều 2. Các điều khoản chung
Tất cả các Quốc gia thành viên sẽ tham gia chương trinh CEPT.
Việc xác định các sản phẩm để đưa vào chương trình CEPT sẽ dựa trên cơ sở các lĩnh vực, tức là theo mã 6 chữ số của HS.
Cho phép loại trừ không đưa vào áp dụng một số sản phẩm cụ thể theo mã 8-9 chữ số của HS đối với những Quốc gia thành viên tạm thời chưa sẵn sàng để đưa các sản phẩm đó vào chương trình CEPT. Căn cứ vào điều 1 (3) của Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế của ASEAN, đối với các sản phẩm cụ thể “nhạy cảm” đối với một Quốc gia thành viên, Quốc gia đó được phép loại trừ sản phẩm này ra khỏi chương trình CEPT, nhưng phải từ bỏ các ưu đãi đối với những sản phẩm đó mà Hiệp định này đã quy định. Hiệp định này sẽ được xem xét lại vào năm thứ 8 sau ki thực hiện quyết định về Danh mục loại trừ cuối cùng hoặc có sửa đổi đối với HIệp định này.
Một sản phẩm được coi là có xuất xứ từ Quốc gia thành viên ASEAN nếu trong nội dung của sản phẩm đó chứa ít nhất 40% hàm lượng có xuất xứ từ một Quốc gia thành viên ASEAN.
Tất cả các sản phẩm chế tạo, kể cả hàng hóa cơ bản, nông sản chế biến và các sản phẩm nằm ngoài định nghĩa theo Hiệp định này thì sẽ nằm trong phạm vi áp dụng của chương trình CEPT.
Những sản phẩm này sẽ nghiễm nhiên được đưa vào Chương trình cắt giảm thuế quan theo quy định tại điều 4 của Hiệp định. Đối với những sản phẩm thuộc diện PTA, sẽ áp dụng Chương trình cắt giảm thuế quan quy định tại điều 4 của Hiệp định này, có xem xét tới thuế quan sau khi đã áp dụng mức ưu đãi thuế quan thấp nhất (MOP: Margin of Preferences) kể từ ngày 31-12-1992.
Các sản phẩm thuộc diện PTA mà không chuyển sang chương trình CEPT sẽ tiếp tục được hưởng MOP từ ngày 31-12-1992.
Các quốc gia thành viên mà mức thuế quan đối với các sản phẩm đã được thỏa thuận giảm từ 20% và thấp hơn từ 0-5%, mặc dù đã được hưởng quy chế tối huệ quốc là 0-5%, sẽ được coi là đã hoàn thành các nghĩa vụ theo Hiệp định này và vẫn sẽ được hưởng các ưu đãi.
Điều 3.Phạm vi các sản phẩm
Hiệp định này được áp dụng đối với mọi sản phẩm chế tạo, kể cả sản phẩm cơ bản, nông sản chế biến và những sản phẩm nằm ngoài định nghĩa “ hàn nông sản” được quy định trong Hiệp định này. Nông sản được lọa trừ khỏi chương trinh CEPT.
Điều 4. Chương trình cắt giảm thuế quan
Các quốc gia thành viên thỏa thuận chương trình cắt giảm thuế quan ưu đãi có hiệu lực như sau:
Giảm thuế quan hiện nay xuống còn 20% trong thời hạn từ 5 năm tới 8 năm, kể từ ngày 1-1-1993 tùy thuộc vào chương trình cắt giảm thuế quan do tưng Quốc gia thành viên quyết định, và sẽ được thông báo khi bắt đầu chương trình. Khuyến khích các Quốc gia thành viên áp dụng mức cắt giảm hàng năm theo công thức (X-20)% hoặc 8, trong đó X là thuế quan hiện hành tại mỗi Quốc gia thành viên.
Sau đó giảm mức thuế 20% hoặc thấp hơn trong thời hạn 7 năm. Mức cắt giảm tối thiểu là 5% lượng được cắt giảm. Chương trình cắt giảm thuế quan sẽ được các Quốc gia thành viên quyết định và tuyên bố khi bắt đầu chương trình.
Đối với các sản phẩm với mức thuế hiện nay là 20% hoặc thấp hơn kể từ ngày 1-1-1993, các Quốc gia thành viên sẽ quyết định chương trình cắt giảm thuế quan, và công bố ngày bắt đầu áp dụng chương trình cắt giảm. Hai hoặc nhiều Quốc gia thành viên có thể thỏa thuận cắt giảm thuế quan xuống còn 0-5% cho các sản phẩm cụ thể với tốc độ nhanh hơn khi bắt đầu chương trình.
Căn cứ theo điều 4(1)(b) và 4(1)(c) của Hiệp định này, các sản phẩm đã đạt tới hoặc đang có mức thuế suất là 20% hoặc thấp hơn, sẽ nghiẫm nhiên được hưởng ưu đãi.
Các chương trình cắt giảm thuế quan trên đây không ngăn cản các Quốc gia thành viên cắt giảm ngay lập tức mức thuế quan của mình xuống còn 0-5% hoặc áp dụng một chương trình rút ngắn việc cắt giảm thuế quan.
Điều 5. Các điều khoản khác
A.Các hạn chế về số lượng và các hàng rào phi thuế quan
Các Quốc gia thành viên sẽ xóa bỏ các hạn chế về số lượng đối với những sản phẩm trong Chương trình CEPT sau khi được hưởng những ưu đãi áp dụng cho những sản phẩm đó.
Các Quốc gia thành viên sẽ dần dần xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan trong thời hạn 5 năm sau khi được hưởng các chế độ ưu đãi.
B. Các hạn chế về ngoại tệ
Các Quốc gia thành viên sẽ coi là ngoại lệ đối với các hạn chế ngoại tệ liên quan tới thanh toán cho các sản phẩm trong chương trình CEPT cũng như đối với việc chuyển các khoản thanh toán đó về nước mà không gây phương hại tới các quyền của mình theo quy định tại điều XVIII của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) và các điều khoản có liên quan trong Hiệp định về Qũy tiền tệ quốc tế (IMF)
C. Các lĩnh vực hợp tác khác
Các Quốc gia thành viên sẽ xem xét các biện pháp khác liên quan đến các lĩnh vực hợp tác trong phạm vi biên giới nhằm bổ sung và hỗ trợ cho tự do hóa thương mại. Những biện pháp này bao gồm cả việc thông nhất các tiêu chuẩn chung, công nhận kết quả kiểm chứng hàng hóa, xóa bỏ các hàng rào đối với đầu tư nước ngoài, tham khảo ý kiến trong kinh tế vĩ mô, áp dụng nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, khuyến khích phát triển thị trường vốn.
D. Duy trì các chế độ ưu đãi
Các Quốc gia thành viên sẽ không xóa bỏ hoặc gây tổn hại tới bất cứ ưu đãi nào đã được thỏa thuận thông qua việc áp dụng các biện pháp như xác định giá trị theo hải quan, hoặc các biện pháp hạn chế thương mại khác, trừ trường hợp được quy định trong Hiệp định này.
Điều 6. Các biện pháp khẩn cấp
Nếu do việc nhập khẩu một sản phẩm cụ thể được áp dụng theo chương trình CEPT tăng lên mà gây ảnh hưởng nghiêm trọng hoặc đe dọa gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới các lĩnh vực sản xuất hoặc sản phẩm cạnh tranh tương tự ở quốc gia thành viên nhập khẩu đó thì Quốc gia thành viên này có thể, trong phạm vi và trong một thời gian cần thiết, nhằm ngăn chặn hoặc để giải quyết ảnh hưởng đó, có thể tạm thời đình chỉ áp dụng các ưu đãi mà không có sự phân biệt đối xử, theo điều 6(3) của Hiệp định này. Việc tạm đình chỉ áp dụng ưu đãi đó phải phù hợp với quy định của GATT.
Một Quốc gia thành viên nếu thấy cần thiết phải áp dụng hoặc tăng cường các biện pháp hạn chế về số lượng hay bất kỳ biện pháp nào khác để hạn chế nhập khẩu nhằm mục đích ngăn chặn nguy cơ hoặc chấm dứt sự giảm sút nghiêm trọng dự trữ tiền tệ của mình, có thể làm việc đó theo phương cách bảo đảm các giá trị của các ưu đãi đã được thỏa thuận, không làm phương hại đến các nghĩa vụ quốc tế hiện có.
Trong trường hợp áp dụng các biện pháp khẩn cấp theo tinh thần cuả điều này, cần thông báo ngay các biện pháp đó cho Hội đồng được đề cập tới tại điều 7 của Hiệp định này và có thể sẽ có tham khảo ý kiến đối với các biện pháp đó như quy định trong điều 8 của Hiệp định này.
Điều 7. Các thỏa thuận về thể chế
Nhằm các mục tiêu của Hiệp định này, các Bộ trưởng kinh tế ASEAN (AEM) sẽ thành lập một Hội đồng cấp Bộ trưởng bao gồm mỗi Quốc gia thành viên một người được chỉ định và Tổng thư ký ASEAN. Ban thư ký ASEAN sẽ hỗ trợ cho AEM. Trong khi thực hiện các chức năng của mình, Hội đồng cấp Bộ trưởng này cũng sẽ được sự hỗ trợ của Hội nghị các quan chức cao cấp kinh tế (SEOM)
Các quốc gia thành viên có các thỏa thuận song phương về cắt giảm thuế quan theo điều 4 của Hiệp định này sẽ phải thông báo cho các Quốc gia thành viên khác và cho Ban Thư ký ASEAN về các thỏa thuận đó.
Ban Thư ký ASEAN sẽ theo dõi và báo cáo cho SEOM về viẹc thực hiện Hiệp định này theo điều 3(2)(8) của Hiệp định thành lập Ban Thư ký ASEAN.
Các Quốc gia thành viên sẽ hợp tác với Ban Thư ký ASEAN trong việc thực thi các chức năng của mình.
Điều 8. Tham khảo ý kiến
Các Quốc gia thành viên sẽ dành mọi cơ hội cho việc tham khảo ý kiến về bất cứ khiếu nại nào của một Quốc gia thành viên liên quan đến vấn đề thực hiện Hiệp định này. Hội đồng được đề cập tới tại điều 7 của Hiệp định này có thể xin ý kiến chỉ đạo của AEM trong trường hợp không thể tìm ra một giải pháp thỏa đáng trong các cuộc tham khảo ý kiến trước đó.
Các Quốc gia thành viên, nếu cho rằng một Quốc gia thành viên khác không thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình, dẫn tới viẹc xóa bỏ hoặc làm suy giảm các lợi ích mà họ được hưởng, nhằm đạt được sự điều chỉnh thỏa đáng vấn đề, có thể khiếu nại hoặc đề nghị với Quốc gia thành viên đó và Quốc gia thành viên này cần xem xét thỏa đáng khiếu nại hoặc đề nghị nói trên.
Mọi bất đồng giữa các Quốc gia thành viên trong việc giải thích hoặc áp dụng Hiệp định này sẽ được giải quyết trên tinh thần hòa giải hữu nghị đến mức cao nhất giữa các bến có liên quan. Trong trường hợp không giải quyết được một cách hữu nghị , vấn đề đó sẽ được trình lên Hội đồng đã được đề cập tại điều 7 của Hiệp định và nếu cần thiết, lên AEM.
Điều 9. Các ngoại lệ chung
Trong Hiệp định này không có điều khoản nào ngăn cản bất kỳ Quốc gia thành viên nào có hành động và áp dụng các biện pháp mà Quốc gia đó thấy cần thiết nhằm bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ đạo đức xã hội, cuộc sống của con người, động vật và cây trồng, sức khỏe cũng như các giá trị lịch sử và khảo cổ của mình.
Nguồn:ủy ban kế hoạch Nhà nước-Trung tâm thông tin-“Hòa nhập vào thị trường ASEAN”-1995, trang 101 đến trang 109.
Việt Nam-ASEAN Những mốc quan trọng
-Ngày 22-7-1992, tại Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN lần thứ 25 tại Manila (Philipines), Việt Nam chính thức ký Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam á (Hiệp ước Bali), trở thành quan sát viên của ASEAN.
-Năm 1993, ASEAN đưa ra sáng kiến thành lập Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) để bàn các vấn đề chính trị và an ninh khu vực. Tháng 7 năm 1994, ARF 1 họp tại Bangkok (Thailand) với sự tham gia của 18 thành viên gồm 6 nước ASEAN và 12 nước khác là Mỹ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Canada, Australia, New Zealand, Hàn Quốc, Lào, Papua New Guinea và EU. Việt Nam đã tham dự Hội nghị này.
-Năm 1994, Việt Nam tham gia vào 5 lĩnh vực của ủy ban hợp tác chuyên ngành ASEAN bao gồm khoa học-công nghệ, văn hóa thông tin, phát triển xã hội, chống ma túy và bảo vệ môi trường, công chức hành chính. Việt Nam cũng tham gia 5 dự án hợp tác cụ thể chuyên ngành về thủ công, du lịch, phòng ngừa ma túy, đào tạo nhân viên du lịch.
-Ngày 17-10-1994, Việt Nam chính thức gửi đơn xin gia nhập ASEAN.
-Ngày 28-7-1995, tại Bandar Seri Begawan, thủ đô Brunei Darussalam, Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN chính thức kết nạp Việt Nam làm thành viên thứ 7 của ASEAN.
-Từ ngày 15-12-1995, Việt Nam tham gia Hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)
-Ngày 25-12-1995, Việt Nam dự Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 5 với tư cách thành viên chính thức.
-Ngày 01-01-1996, Việt Nam chính thức tham gia Hiệp định Ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) để phát triển AFTA với lộ trình 1996-2006.
-Tháng 3-1996, Việt Nam dự cuộc gặp á-Âu (ASEM) lần thứ nhất diễn ra tại Bangkok (Thailand) và trở thành một trong những nước sáng lập cơ chế hợp tác liên lục địa này.
-Tháng 4-1996, Việt Nam ký Hiệp định hợp tác trong công nghiệp (AICO) với nội dung chủ yếu là dành ưu đãi thuế quan và các ưu đãi khác cho các sản phẩm công nghiệp liên doanh giữa các nước ASEAN với nhau hoặc với nước ngoài nhằm khuyến khích đầu tư vào ASEAN.
-Tháng 7-1997, tại Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN lần thứ 29 tại Kuala Lumpur (Malaysia), Việt Nam được phân công làm điều phối viên phụ trách quan hệ ASEAN-Nga và ASEAN-New Zealand. Qua một năm thực hiện, Việt Nam được ASEAN và các bên đối thoại đánh giá tốt về cương vị điều phối viên này.
-Ngày 18-10-1998, tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 30 tại Manila (Philipines), Việt Nam tham gia ký Hiệp định về Khu vực đầu tư ASEAN (AIA). Mục đích của Hiệp định là nhằm thúc đẩy đầu tư trong nội bộ ASEAN và thu hút vốn từ bên ngoài vào ASEAN.
-Ngày 15 và 16-12-1998, Việt Nam đăng cai Hội Nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 6 với sự tham gia của 9 nước thành viên của ASEAN, một số nước quan sát viên bên đối thoại. Hội nghị Cấp cao Hà Nội diễn ra dưới chủ đề “Đoàn kết, hợp tác vì một ASEAN hòa bình, ổn định và phát triển đồng đều”. Hôi nghị sẽ thông qua một số văn kiện quan trọng, trong đó có chương trình hành động Hà Nội thực hiện tầm nhìn ASEAN 2020 và Tuyên bố Hà Nội nêu bật nguyện vọng và quyết tâm của các nước ASEAN, củng cố đoàn kết và đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương đưa ASEAN vững bước vào thế kỷ 21.
Nguồn : Tài liệu tham khảo của Thông tấn xã VN “ASEAN một tổ chức hợp tác nhiều mặt”,số 12-1998,p.31-32.
Danh mục tài liệu tham khảo
I.Sách:
1.Đảng Cộng Sản Việt Nam, “Văn Kiện Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc Lần Thứ VIII”, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội 1996.
2.Chủ biên Phạm Nguyên Long, “ASEAN-Những vấn đề và xu hướng”, Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia-Viện Nghiên Cứu Đông Nam á, Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1997.
3.Chủ nhiệm Viện sỹ Võ Đại Lược, PTS Lê Bộ Lĩnh và PTS Tô Thanh Toàn, “Cơ cấu tổ chức và thủ tục của Việt Nam trong quan hệ với ASEAN”, Viện Kinh Tế Thế Giới , Hà Nội 1996.
4.ủy Ban Kế Hoạch Nhà Nước-Trung Tâm Thông Tin, “Hòa nhập vào thị trường ASEAN”, Hà Nội 1995.
5.Nguyễn Xuân Thắng, “Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và tiến trình hội nhập của Việt Nam”, Nhà Xuất Bản Thống Kê, Hà Nội 1999.
6.Bộ Tài Chính, “Lịch trình giảm thuế của Việt Nam để thực hiện khu vwc mậu dịch tự do ASEAN-AFTA”, Hà Nội 1998.
7.Viện Kinh Tế Thế Giới, “Tự do hóa thương mại và hợp tác kinh tế ở ASEAN”, NXB Khoa Học Xã Hội, 1995.
8.PTS Nguyễn Đình Hương và GS.PTS Vũ Đình Bách đồng chủ biên, “Quan hệ thương mại Việt Nam-ASEAN và chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam”, NXB Chính Trị Quốc Gia, 1999.
9.Đề tài nghiên cứu Output 3.1 thuộc VIE 95/015-Hỗ trợ Việt Nam gia nhập ASEAN, Chủ nhiệm Viện sỹ Võ Đại Lược, “Chính sách hợp tác ASEAN và những ưu tiên, Viện Kinh Tế Thế Giới, Hà Nội 1996.
10.Thông Tấn Xã Việt Nam, “ASEAN-Một tổ chức hợp tác nhiều mặt”,Tài liệu tham khảo số 12 năm 1998.
11.Bộ Ngoại Giao, “Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc”, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội 1995.
II.Tài Liệu:
1.PTS Nguyễn Hồng Sơn, “Lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới”, Những vấn đề kinh tế thế giới số 1/1997, trang 26.
2.Nguyễn Trọng Xuân, “Chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN và đổi mới chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam”, Những vấn đề kinh tế thế giới số 5/1997, trang 46.
3.Bài phỏng vấn Thứ trưởng Bộ NN và PTNT Nguyễn Quang Hà, “Tích cực, chủ động tham gia AFTA”, Việt Nam và Đông Nam á ngày nay số Xuân Mậu Dần tháng 1/1998, trang 6.
4.Đỗ Thị Liên Vân, “Nhìn lại ASEAN sau hai năm khủng hoảng”, Nghieen cứu Đông Nam á số tháng 4/1999, trang 28.
5.GS.TS Nguyễn Duy Qúy Giám Đốc Trung Tâm KHXH & NVQG, “Việt Nam và cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam á ”, Nghiên cứu Đông Nam á số tháng 5/1999, trang 3.
6.Bài phỏng vấn ông Vũ Khoan, Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại Giao, ủy viên ủy ban quốc gia tổ chức Hội nghị ASEAN VI, “Vì một ASEAN hòa bình, ổn định phát triển bền vững và đồng đều”, Thời Báo Kinh Tế Việt Nam số 100 ngày 16/12/1998, trang 3.
7.Bài phỏng vấn ông Trương Đình Tuyển, Bộ trưởng Bộ Thương Mại, “Hội nhập ASEAN, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa”, Thời Báo Kinh Tế Việt Nam số 99 ngày 12/12/1998, trang 3.
8.V.Trân, “Toàn cầu hóa kinh tế thế giới và chủ nghĩa khu vực Châu á-Tiến trình và những thách thức”, Ngoại Thương ngày 8-14/10/1999, trang 22.
9.Vũ Ngọc Uyên, “Quan hệ kinh tế Việt Nam-ASEAN:Triển vọng sau tháng 7”, Nghiên Cứu Kinh Tế số 206, trang 35.
10.PTS Lê Bộ Lĩnh, “ASean trong nền kinh tế thế giới”, Những Vấn Đề Kinh Tế Thế Giới số 5 năm 1997, trang 10.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0129.doc