Hoà chung vào công cuộc phát triển của toàn nhân loại, Giáo dục - Đào tạo đã và đang trở thành nền tảng để phát triển kinh tế tri thức của mỗi quốc gia. Nhận thức được tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục đặc biệt là ngành học phổ thông đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng đầu tư cho lĩnh vực này trên toàn quốc nói chung và ở Thủ đô Hà Nội nói riêng. Với sự quan tâm đặc biệt đó, giáo dục phổ thông của Hà Nội không ngừng lớn mạnh và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Để đạt được kết quả đó có sự đóng góp không nhỏ của công tác quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục phổ thông trên địa bàn Hà Nội. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn những tồn tại nhất định. Vì vậy, việc hoàn thiện công tác quản lý chi ngân sách Nhà nước để nâng cao chất lượng quản lý là việc làm hết sức cần thiết đối với Thủ đô trong giai đoạn hiện nay.
68 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 973 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã có nhiều chủ trương, chính sách lớn đầu tư cho giáo dục và đào tạo. Thành phố đã có quyết định phê duyệt 2 bản quy hoạch cho ngành là: Quy hoạch phát triển và Quy hoạch mạng lưới trường lớp đến 2010 và định hướng đến 2020. Thành uỷ có đề án số 22 chỉ đạo thực hiện kết luận của Nghị quyết Trung ương VI. Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà nội có chỉ thị số 26 về chương trình thực hiện kiên cố hoá - hiện đại hoá trường lớp của Thủ đô. Ngành giáo dục đào tạo đã xây dựng 9 chương trình hành động thực hiện, trong đó có một số đề án đã được triển khai thực hiện như: Đề án chiếu sáng học đường, đề án tách cấp về CSVC, đề án di chuyển hộ dân trong khuôn viên trường học, đề án xoá phòng học cấp 4 Song song với việc xoá phòng học cấp 4 là quy hoạch mạng lưới trường lớp , xây dựng, bổ sung phòng học phục vụ việc học 2 buổi/ ngày của THCS và Tiểu học, nhằm nâng cao chất lượng dạy học trong việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông theo Nghị quyết 40 của Quốc Hội.
Với sự quan tâm của Thành phố, đã có sự thay đổi lớn trong tỷ trọng ngân sách thường xuyên và tổng chi ngân sách địa phương trong thời gian qua:
Bảng 3: Tỷ trọng chi sự nghiệp GD - ĐT trong tổng chi thường xuyên và chi ngân sách địa phương trên địa bàn thành phố Hà Nội
giai đoạn 2001- 2005
Đơn vị tính: %
Năm
Chi sự nghiệp GD - ĐT trong tổng chi thường xuyên
Chi sự nghiệp GD - ĐT trong tổng chi ngân sách địa phương
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
2002
605442
24,9
605442
12,1
2003
780627
25,9
780627
13,3
2004
1006712
25,8
1006712
14,5
TH 2005
1998800
23,7
1998800
11,2
Nguồn: Sở Tài Chính Hà Nội
Trong giai đoạn 2002-2005, tỷ trọng chi sự nghiệp giáo dục trong tổng chi ngân sách Thành phố cũng như trong tổng chi thường xuyên của ngân sách Thành phố đã có nhiều biến đổi và tăng lên qua mỗi năm. Nếu như tại năm 2002 mức kinh phí đầu tư cho giáo dục chỉ chiếm 12,1% trong chi NSĐP thì đến năm 2003 đã tăng được 1,2%(đạt 13,3%) và năm 2004 đã tăng so với năm 2002 là 2,4 đạt 14,5%. Tuy có sự thay đổi trong TH ngân sách Nhà nước năm 2005 nhưng vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng chi ngân sách Thủ đô. Cùng với mức tăng tỷ trọng của chi ngân sách cho sự nghiệp giáo dục đào tạo trong tổng mức chi ngân sách địa phương thì tỷ trọng này cũng có nhiều biến đổi trong tổng chi thường xuyên của ngân sách Thành phố. Năm 2003, 2004 tỷ trọng này đã tăng lên khoảng 1%. Điều này cho thấy chủ trương tăng cường đầu tư cho giáo dục của Thành phố, đẩy mạnh công tác giáo dục Thủ đô và thực hiện tốt Chương trình mục tiêu quốc gia Giáo dục và đào tạo đến năm 2005 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 17 tháng 2 năm 2003.
Việc tăng tỷ trọng trong tổng số chi ngân sách địa phương của giáo dục đào tạo thủ đô cho thấy mức đầu tư kinh phí mà Thành phố Hà Nội dành cho sự nghiệp giáo dục đào tạo luôn được tăng lên:
Nguồn: Sở Tài Chính Hà Nội
Trong giai đoạn từ 2002 đến 2005 tổng mức chi ngân sách cho giáo dục tăng lên đáng kể đạt 1138258 triệu đồng, tăng từ 1,5 - 2 lần. Cụ thể là: năm 2002 mức chi NSNN cho giáo dục chỉ đạt 605442 triệu đồng thì năm 2003 đã tăng 175185 triệu đồng, năm 2004 tăng 401270 triệu đồng và đến năm 2005 là 593358 triệu đồng so với năm 2002. Cho thấy sự quan tâm đầu tư cho giáo dục của Thành phố; đồng thời phù hợp với những đề xuất mà Sở Giáo dục đào tạo đã phối hợp với các Sở, ngành đề xuất Thành phố có quyết định phân bổ ngân sách theo định mức mới cho ngành Giáo dục - đào tạo năm sau cao hơn năm trước. Đây là những tiền đề quan trọng để GD&ĐT Hà Nội phát triển nhanh và vững chắc.
Trong tổng mức chi ngân sách của Thành phố cho giáo dục đào tạo có sự chênh lệch rõ rệt trong các cấp học trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Theo số liệu báo cáo tổng quyết toán Ngân sách Hà Nội năm 2004 thì mức chi ngân sách cho các cấp học như sau:
Tổng chi ngân sách cho giáo dục đào tạo là: 1006712 triệu đồng.
Trong đó:
Chi cho cấp học Tiểu học : 464999 triệu đồng chiếm 46,2% tổng chi NSĐP cho giáo dục.
Chi cho cấp học THCS : 358942 triệu đồng chiếm 35,7% tổng chi
NSĐP cho giáo dục.
Chi cho cấp học THPT : 124917triệu đồng chiếm 12,4% tổng chi NSĐP cho giáo dục.
Trong đó thì số lượng ngân sách địa phương chi đầu tư xây dựng cơ bản là 220000triệu đồng chiếm tỷ trọng 8,3% trong tổng chi NSĐP và chi thường xuyên là 786712 triệu đồng chiếm tỷ trọng 25,8%. Điều này cho thấy Thành phố đã chú trọng và dành mức kinh phí đáng kể để đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất và mua sắm thiết bị trường học với mong muốn mang lại cho học sinh môi trường học tập tốt nhất.
Bảng 4: Mức chi Ngân sách cho giáo dục phổ thông phân theo cấp học năm 2004
Đơn vị tính: Triệu đồng
Nội dung chi
Tiểu học
THCS
THPT
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Tổng số chi cho giáo dục
464999
100
358942
100
124917
100
1. Các khoản chi thường xuyên
223517
48.1
220591
61.5
76487
61.1
- Tiền lương, phụ cấp lương, tiền công
156165
33.6
148871
41.5
55305
44.3
- Các khoản đóng góp
16529
3.6
18848
5.3
6466
5.1
- Chi nghiệp vụ chuyên môn
28643
6.2
33754
9.4
13546
10.8
- Chi khác
22180
4.7
19118
5.3
1170
0.9
2. Chi không thường xuyên
112014
24.1
53618
14.9
9252
7.5
- Chi xây lắp
104997
22.6
49716
13.9
8338
6.7
- Chi thiết bị
5247
1.1
2315
0.6
336
0.3
- Chi khác
1770
0.4
1587
0.4
578
0.5
3. Chi khác
129468
27.8
84733
23.6
39178
31.4
Nguồn: Sở Tài chính Hà Nội
Bảng phân tích mức chi NS giáo dục phổ thông trên cho thấy năm 2004 số lượng ngân sách dành cho các khoản chi không thường xuyên, đầu tư vào cơ sở vật chất trong năm đã tăng lên đáng kể tuy nhiên mức ngân sách dành cho tiền lương, tiền công và phụ cấp theo lương vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng mức chi thường xuyên cũng như tổng mức chi ngân sách giáo dục. Tỷ lệ này hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế đó là số lượng giáo viên trong biên chế cũng như hợp đồng đang tăng lên, cho thấy sự quan tâm của Thành phố đến nguồn vật lực mà Thành phố đang tích cực đầu tư. Mặc dù vậy, thì thực tế vẫn đang còn tồn tại là số lượng giáo viên đông nhưng mức lương cơ bản thì vẫn còn thấp, chưa thực sự phù hợp với tình hình thực tế, nhu cầu của đời sống.
Trong thời gian qua, được sự quan tâm của Thành phố mức kinh phí chi ngân sách Nhà nước thực tế tính trên đầu học sinh đã đạt được con số khá cao; phần nào đảm bảo cho học sinh Thủ đô những điều kiện tốt nhất để học tập, phát huy khả năng của mình. Tuy nhiên, xuất phát từ chủ trương của Nhà nước về miễn giảm học phí và mức khung học phí áp dụng trong các trường học nên có sự chênh lệch rất khác biệt giữa khoản đầu tư kinh phí cho một học sinh trong năm với tỷ lệ đóng góp của từng học sinh.
Nguồn: Sở Tài chính Hà Nội
Những năm vừa qua, đặc biệt là năm 2004 NSĐP Thủ đô đã dành cho mỗi học sinh một tỉ lệ đầu tư thực tế rất lớn, trong khi đó mức đóng góp của học sinh ở hai cấp học THCS và THPT là tương đối thấp so với tổng chi phí/ học sinh. Điều này là hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế của giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố, bởi khoản thu nay rất khó huy động đủ theo kế hoạch. Số học phí của học sinh đóng góp chủ yếu nằm ở khu vực nội thành, ở các trường có uy tín và một phần số thu chưa được phản ánh đầy đủ vào ngân sách của Thành phố.
2.3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI:
Quản lý chi NSNN nói chung và quản lý chi NSNN cho giáo dục đào tạo nói riêng đều phải tuân thủ theo một chu trình nhất định. Đối với NSNN khi chi cho giáo dục phổ thông cũng tuân theo ba giai đoạn. Đó là:
- Lập dự toán chi NSNN cho giáo dục phổ thông.
- Chấp hành dự toán chi NSNN cho giáo dục phổ thông.
- Quyết toán chi NSNN cho giáo dục phổ thông.
Trong những năm qua, việc sử dụng kinh phí đầu tư cho giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội đã có những ưu điểm, song bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế nhất định. Điều này được thể hiện trong từng giai đoạn của quá trình quản lý chi NSNN cho giáo dục phổ thông.
2.3.1. Công tác lập, phân bổ dự toán cho giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà nội.
* Công tác lập, phân bổ dự toán:
Lập dự toán là khâu đầu tiên trong chu trình quản lý ngân sách nhà nước. Dự toán cung cấp những thông tin cần thiết cho việc điều hành ngân sách chung Thành phố, giúp các cấp có thẩm quyền hoạch định các chính sách tài chính, ngân sách ngắn và dài hạn, cũng như tạo cơ sở cho việc đề xuất, điều chỉnh các chính sách chế độ tài chính hiện hành.
Hàng năm, căn cứ vào tình hình thực tế của từng trường: tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông; nhu cầu về ngân sách của từng đơn vị này. Căn cứ vào định mức chi trong từng đơn vị, quy chế chi tiêu nội bộ, dự toán thực tế của các năm trước các trường lập dự toán theo mục lục ngân sách gửi các cơ quan tài chính trực tiếp quản lý. Sở Tài chính Hà Nội sẽ tập hợp dự toán của các trường thuộc phạm vi mình quản lý và dự toán của các phòng tài chính các quận, huyện. Sau đó phối hợp với Sở Kế hoạch đầu tư Hà Nội xem xét dự toán của các đơn vị và trình Uỷ ban nhân dân thông qua.
Căn cứ vào dự toán đã được Hội đồng nhân dân Thành phố phê duyệt, Sở Tài chính sẽ tiến hành phân bổ dự toán cho các đơn vị, đồng thời gửi cơ quan Kho bạc Nhà nước để theo dõi làm căn cứ kiểm soát thanh toán vốn.
* Cơ chế phân bổ dự toán:
Cơ chế phân bổ dự toán chi từ NSNN cho giáo dục - đào tạo có vai trò quan trọng then chốt trong việc xác định hiệu lực và hiệu quả của các nguồn vốn ngân sách nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển và thực hiện các mục tiêu, chính sách của giáo dục đào tạo. Việc phân bổ mức dự toán chi từ NSNN cho giáo dục phổ thông chịu ảnh hưởng của rất nhiều các định mức chi khác nhau do các cơ quan trực thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp xem xét và quyết định hàng năm. Cơ chế phân bổ dự toán thường được tính theo: số học sinh và số dân trên địa bàn Thành phố.
Theo Thông tư số 38TC/NSNN ngày 18/7/1996 của Bộ Tài chính có quy định mức chi ngân sách về giáo dục năm 1997 theo khu vực như sau:
Khu vực: - Thành phố: 65000 đồng/1người/năm.
- Đồng bằng: 46000 đồng/1người/năm.
- Trung du: 57000 đồng/1người/năm.
- Vùng sâu, núi thấp: 62000 đồng/1người/năm.
- Núi cao, hải đảo :82000 đồng/1 người/năm.
Riêng Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh được tính thêm 20% so với mức chung của giáo dục.
Như vậy, có sự chênh lệch khá lớn trong mức phân bổ ngân sách của các khu vực trên cả nước.
Theo Quyết định số 139/2003/QĐ-TTg ngày 11/07/2003 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành định mức phân bổ dự toán chi ngân sách Nhà nước năm 2004 và Quyết định số 135/2003/QĐ-UB ngày 24/10/2003 của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội về việc ban hành định mức phân bổ dự toán chi ngân sách Thành phố Hà Nội năm 2004 thì định mức phân bổ được thực hiện như sau:
Bảng 5: Định mức phân bổ ngân sách chi sự nghiệp giáo dục tính theo cấp học trên địa bàn Thành phố Hà Nội năm 2004
Đơn vị tính: đồng/học sinh/năm
Cấp học
Định mức Trung ương
Định mức của Hà Nội
Thực hiện
Tiểu học
220000
780000
2285292
Trung học cơ sở
320000
1060000
1448266
Trung học phổ thông
380000
1150000
3309380
Nguồn: Sở Tài Chính Hà Nội
Thành phố đã thực hiện phân bổ ngân sách trên cơ sở kết hợp giữa số học sinh và số dân trên địa bàn cùng với khả năng thu của địa phương để tăng kinh phí đầu tư cho giáo dục. Do vậy, mức chi thực tế bình quân hàng năm của Thành phố còn chênh lệch khá xa so với định mức phân bổ của cả Trung ương và của Thủ đô Hà Nội vào đầu năm.
2.3.2. Công tác quản lý cấp phát, thanh toán và kiểm soát các khoản chi NSNN cho GDPT trên địa bàn thành phố Hà Nội:
Công tác quản lý cấp phát, thanh toán và kiểm soát ngân sách cho giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố trong thời gian qua đã được quan tâm và thực hiện chặt chẽ dưới sự kết hợp nhịp nhàng giữa cơ quan tài chính và Kho bạc Nhà nước. Các điều kiện để thực hiện cấp phát, thanh toán và kiểm soát ngân sách đã được quy định cụ thể trong Luật, Nghị định, Thông tư hướng dẫnđiều này đã giúp cho công tác quản lý cấp phát ngân sách Nhà nước được trở nên dễ dàng cũng như rõ ràng hơn cả đối với đơn vị trực tiếp cấp phát, quản lý hay đơn vị được nhận cấp phát ngân sách Nhà nước.
Về cấp phát kinh phí ngân sách Nhà nước cho các cơ sở giáo dục phổ thông:
Trong thời gian vừa qua chúng ta vẫn thực hiện cấp phát “Hạn mức kinh phí” cho từng mục chi theo mục lục NSNN, cuối năm nếu ngân sách không sử dụng hết thì phần hạn mức thừa phải nộp khôi phục hạn mức vào NSNN. Cơ chế này được thực hiện để nhằm mục tiêu khắc phục tình trạng sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước không đúng mục đích và tình trạng tồn đọng ngân sách tại các đơn vị trường học. Tuy nhiên do chất lượng dự toán còn hạn chế hoặc do những biến động trong quý, trong năm thực hiện nên đã dẫn đến tình trạng thường xuyên xảy ra đó là thừa kinh phí ở mục này nhưng lại thiếu kinh phí ở mục khác. Vì vậy, nhiều đơn vị đã phải cố sử dụng kinh phí nằm trong hạn mức được cấp trong năm. Điều này ảnh hưởng lớn tới việc chấp hành ngân sách cũng như gây ra trình trạng lãng phí và làm cho hiệu quả của việc sử dụng kinh phí là rất thấp. Nếu phải điều chỉnh mục chi thì thủ tục giữa cơ quan tài chính, Kho bạc Nhà nước và đơn vị sử dụng cũng rất phiền hà. Đây cũng là một trong những lý do làm nảy sinh tình hình xin cho trong việc cấp phát ngân sách của địa phương.
Cơ chế cấp phát này buộc các trường học phải chấp hành theo dự toán được duyệt, kinh phí cấp cho ở mục nào chỉ được sử dụng ở mục đó. Song trên thực tế có một số khoản chi không dự toán trước được hoặc dự toán nhưng không sát với thực tế. Quá trình thực hiện dự toán kinh phí ngân sách ở các trường thường gặp tình trạng có mục thừa nhưng không được sử dụng vào việc khác, trong khi đó có mục chi ngân sách cần thiết lại thiếu kinh phí dẫn đến tình trạng:
+ Đơn vị sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách theo thực tế phát sinh và tìm mọi cách để có chứng từ hợp lý hoá để có thể thực hiện việc thanh toán.
+ Hoặc đơn vị thực hiện chi ngân sách theo đúng thực tế phát sinh và sau đó xin điều chỉnh trong dự toán cho phù hợp thực tế đã chi để được chấp nhận thanh toán, quyết toán.
Về công tác thanh toán, kiểm soát kinh phí ngân sách Nhà nước cho các cơ sở giáo dục phổ thông:
Như đã được qui định tại Thông tư số 79/2003/TT-BTC ngày 13 tháng 8 năm 2003 của Bộ Tài chính về hướng dẫn việc quản lý, cấp phát, thanh toán các khoản chi ngân sách Nhà nước, thì điều kiện được chi trả, thanh toán là:
+ Đã có dự toán chi ngân sách Nhà nước được giao.
+ Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách do cơ quan nhà nước có thẩm quyền qui định.
+ Đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc cơ quan tài chính hoặc người được uỷ quyền quyết định chi.
+ Có đủ hồ sơ, chứng từ thanh toán.
Trên cơ sở đó cùng với dự toán và các chứng từ liên quan cơ quan tài chính sẽ kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện, chấp hành dự toán của các đơn vị dự toán.
Và cơ quan Kho bạc Nhà nước cũng sẽ phối hợp với cơ quan tài chính thực hiện cấp phát, thanh toán cũng như kiểm soát tình hình thực hiện dự toán của các đơn vị thông qua hai tài khoản tại Kho bạc đó là tài khoản Tiền gửi và tài khoản Dự toán. Với tài khoản dự toán này Kho bạc sẽ kiểm soát được các khoản giao cho các đơn vị dự toán.
Với những qui định chặt chẽ, hợp lý của Nhà nước thì nhìn chung việc thanh toán các khoản chi NSNN đối với các cơ sở giáo dục đáp ứng được yêu cầu kiểm soát trước, trong và sau quá trình cấp phát, thanh toán của Luật Ngân sách Nhà nước. Tuy vậy, các giai đoạn về kiểm soát chi NSNN tại Kho bạc Nhà nước còn nhiều nội dung mang tính hình thức và dù muốn hay không thì các cơ quan quản lý tài chính và Kho bạc Nhà nước cũng phải rất vất vả khi kiểm soát một khối lượng rất lớn các khoản chi NSNN được phân chia thành nhiều mục chi của mục lục NSNN tại các đơn vị dự toán, càng khó khăn hơn nếu thực hiện kiểm soát chi theo nội dung chứng từ chi tại từng đơn vị.
2.3.3. Công tác quyết toán cho giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Đây là khâu cuối cùng của chu trình quản lý ngân sách nhà nước nói chung và chi NSNN nói riêng. Quá trình này, đơn vị dự toán phải thực hiện công việc khoá sổ kế toán, rà soát, đối chiếu với số liệu đã được thực hiện, đã được phản ánh trên hệ thống sổ sách kế toán và các báo cáo kế toán của đơn vị mình. Đồng thời phân tích đánh giá kết quả thực hiện, từ đó rút ra kinh nghiệm cần thiết trong thực hiện chi ngân sách năm sau.
Quá trình thực hiện tổng hợp quyết toán ngân sách giáo dục trên địa bàn Hà Nội cũng được thực hiện theo phân cấp ngân sách giáo dục tức là tổng hợp từ 2 cấp ngân sách là ngân sách Thành phố(đối với các khoản cấp phát thông qua Sở giáo dục - đào tạo Hà Nội) và cấp quận, huyện(đối với các khoản do ngân sách quận, huyện cấp phát bằng nguồn bổ sung có mục tiêu của ngân sách Thành phố). Quá trình này diễn ra cùng với quá trình lập báo cáo tổng quyết toán ngân sách địa phương, thường hoàn thành vào khoảng tháng 5 – 6 năm sau, nên có hạn chế là số liệu báo cáo tổng hợp chung tình hình ngân sách giáo dục của toàn Thành phố thường chậm, không phục vụ kịp thời các yêu cầu quản lý, chỉ đạo của ngành và của Thành phố.
Theo quyết định tại Thông tư số 21/2000/TT- BTC ngày 16/3/2000 của Bộ Tài Chính thì quyết toán của các đơn vị dự toán phải được cơ quan tài chính cùng cấp thẩm tra quyết toán và thông báo quyết toán cho đơn vị trực thuộc. Kho bạc Nhà nước có trách nhiệm xác nhận toàn bộ số kinh phí của đơn vị đã được kiểm soát chi qua kho bạc Nhà nước. Cơ chế quyết toán và thẩm tra quyết toán nêu trên cũng còn nhiều những điểm bất hợp lý. Chẳng hạn, theo quyết định hiện hành căn cứ để thẩm tra quyết toán là các chứng từ thu, chi của đơn vị phát sinh trong năm. Song trên thực tế các chứng từ này có phản ánh đúng thực tế nội dung chi, có bảo đảm tính hợp pháp, hợp lệ hay không lại phần lớn phụ thuộc vào chất lượng dự toán và phê duyệt nội dung chi của Thủ trưởng đơn vị. Trong khi đó việc kiểm tra, kiểm soát các đơn vị chức năng như đã phân tích ở trên còn bất hợp lý. Vì vậy tình trạng chi sai mục đích, sai chế độ vẫn diễn ra phổ biến hầu hết tại các đơn vị hạch toán cơ sở. Đó cũng còn là một trong các nguyên nhân gây thất thoát NSNN mà không quy rõ trách nhiệm cá nhân của đơn vị và người chủ tài khoản ngân sách được giao phó.
2.4. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI:
2.4.1. Hiệu quả và lợi ích đầu tư cho giáo dục:
Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự nghiệp giáo dục của Thủ đô đã ngày một phát triển. Ngành học phổ thông của Hà Nội đã có những bước phát triển vững chắc, thực hiện tốt nhiệm vụ và không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Quy mô phát triển số lượng học sinh ngày càng tăng. Kết quả phổ cấp giáo dục THCS được giữ vững.
Chất lượng giáo dục toàn diện được nâng cao. Kết quả xếp loại các mặt giáo dục trong những năm gần đây luôn đạt và vượt chỉ tiêu. Các kỳ thi học sinh giỏi các cấp được tổ chức có nề nếp và tham gia kỳ thi học sinh giỏi quốc gia đạt kết quả cao. Các hoạt động giáo dục đạo đức, ngoài giờ thực hiện có hiệu quả, tập trung phục vụ kịp thời các nhiệm vụ chính trị của Thành phố. Ngành giáo dục Thành phố đã tích cực triển khai xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia và dạy học 2 buổi/ngày nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Đến nay Hà Nội có khoảng hơn 30 trường tiểu học và THCS được công nhận chuẩn. Năm học 2005-2006, Ngành giáo dục và đào tạo Hà Nội có 273 trường tiểu học và 5 trường liên cấp với 203475 học sinh, trong đó có 184866 học sinh được học 2 buổi / ngày chiếm 90,85%- tăng 0,59% so với năm học trước. Việc thực hiện nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc Hội về “đổi mới chương trình học phổ thông” được triển khai đầy đủ, có nề nếp.
Để có được kết quả như vậy là do trong thời gian qua, công tác quản lý ngân sách đầu tư cho giáo dục phổ thông của Thành phố Hội đã có những chuyển biến tích cực. Việc quản lý kinh phí đầu tư được quản lý chặt chẽ ngay từ khâu lập dự toán- khâu đầu tiên của chu trình quản lý ngân sách Nhà nước, chất lượng dự toán được nâng cao... Ngoài ra còn có sự phối kết hợp nhịp nhàng giữa cơ quan tài chính, các cơ quan giáo dục như Sở Tài chính Hà Nội, Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, Sở Kế hoạch và Đầu tư, các phòng tài chính của Quận, Huyện, Kho bạc Nhà nước, cùng tất cả các trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông trên địa bàn Thành phố.
2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân:
* Những hạn chế:
Trong thời gian qua, với sự kết hợp chặt chẽ giữa Sở tài chính Hà Nội với các ngành, các cấp trên địa bàn Thành phố nên công tác quản lý ngân sách toàn Thành phố nói chung và công tác quản lý chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục phổ thông nói riêng đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần không nhỏ vào việc phát triển giáo dục Thủ đô. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được thì công tác quản lý này vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định.
Về lập dự toán ngân sách giáo dục:
Lập dự toán đóng vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định đến chất lượng của công tác chấp hành và quyết toán ngân sách trong giai đoạn sau. Việc lập dự toán dù ở mức tổng hợp hay chi tiết cũng đều nhằm tạo ra một khuôn khổ tài chính phục vụ công tác thực hiện. Công tác này những năm vừa qua dù được đổi mới đáng kể song vẫn còn một số tồn tại.
+ Việc lập dự toán ngân sách chưa thực sự xuất phát từ các trường thụ hưởng kinh phí ngân sách mà các cơ quan tài chính thường dựa vào số liệu ước thực hiện của năm báo cáo và những định hướng nhiệm vụ chung của Chính phủ, ngành, Thành phố Hà Nội để xây dựng.
+ Do thời gian bắt đầu năm tài chính và thời gian bắt đầu năm học mới có sự khác nhau nên các dự toán được lập theo định mức được xây dựng từ đầu năm tài chính có nhiều khoản chi chưa sát với tình hình thực sự của các trường trong một năm học như: về số lượng học sinh, số lượng giáo viên
+Các định mức ngân sách phân bổ cho các trường do các cơ quan tài chính tính và giao cho các trường từ đầu năm chưa thật sự hợp lý. Số lượng ngân sách này mặc dù được căn cứ vào các Quyết định về định mức chi, về tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách và các khoản đóng góp, mức chi của năm học trước nhưng còn một số khoản chi lớn như tiền lương, tiền công, phụ cấp, chi thường xuyênthì một phần được tính toán dựa trên số liệu ước tính do vậy dẫn đến sự chênh lệch giữa định mức và tình hình thực chi tại các đơn vị thụ hưởng ngân sách. Hơn nữa, trong một năm với rất nhiều biến động như về giá cả, sự thay đổi các quyết định của nhà nướcnên các định mức phân bổ được tính từ đầu năm gây ra rất nhiều khó khăn cho các đơn vị thực hiện.
+ Các nội dung trong dự toán do các trường tiểu học, THCS trên địa bàn thành phố khi gửi cho phòng tài chính các quận, huyện trực tiếp quản lý cũng như của các trường THPT gửi cho Sở giáo dục đào tạo Hà Nội còn dàn trải, chưa xác định rõ các khoản chi mang tính chất trọng tâm, trọng điểm.
+ Trong công tác lập dự toán các trường chưa chú trọng đến hiệu quả của các khoản chi.
Chính vì vậy mà chất lượng của các dự toán từ Sở Giáo dục - Đào tạo Hà Nội và phòng tài chính các quận, huyện gửi cho Sở Tài chính Hà Nội chưa cao ảnh hưởng tới công tác lập, chấp hành và thực hiện dự toán của Sở.
Về cấp phát, thanh toán và kiểm soát các khoản chi ngân sách cho giáo dục phổ thông:
* Về cấp phát, thanh toán các khoản chi ngân sách:
+ Thủ tục tài chính còn rườm rà, nhiều cấp trung gian. Dẫn đến xuất hiện tình trạng xin – cho gây khó khăn, thiếu khách quan cho các trường trong phạm vi quản lý của Thành phố và có thể gây ra hiện tượng kinh phí chậm đến đơn vị sử dụng.
+ Hạn mức kinh phí cấp theo từng mục chi buộc các trường, các quận huyện thụ hưởng ngân sách gặp nhiều khó khăn khi điều chỉnh theo mục tiêu ưu tiên.
+ Việc chấp hành ngân sách do Sở tài chính, phòng tài chính thực hiện trên cơ sở cấp phát cả năm được phân bổ và khả năng quỹ ngân sách thực tế hàng quý mà không quy định các trường lập dự toán ngân sách hàng quý gắn với nhiệm vụ công tác do đó công tác cấp phát ngân sách cho các đơn vị thụ hưởng còn nhiều bất cập như tình trạng hợp thức hoá các khoản chi tại các đơn vị, chi “chạy” lượng ngân sách còn dư trong năm...
+ Công tác xin cấp bổ sung ngân sách của trường còn nhiều khó khăn trong khâu thực hiện như việc lập báo cáo, thời gian thông qua báo cáo của các cơ quan tài chính quản lý trực tiếp dẫn đến việc cấp phát còn chậm ảnh hưởng tới hoạt động của các đơn vị.
+ Phương thức “ghi thu – ghi chi” mà các phòng tài chính và Sở giáo dục - Đào tạo, Sở tài chính Hà Nội đang thực hiện chỉ có ý nghĩa về mặt kế toán NSNN, nên gây khó khăn cho cơ quan tài chính và Kho Bạc trong công việc thanh toán và kiểm soát các nội dung, mục đích chi và đánh giá hiệu quả sử dụng công quỹ.
* Về kiểm soát các khoản chi ngân sách:
+ Việc thực hiện thanh toán các khoản chi trong năm được thực hiện chủ yếu giữa các trường với Kho Bạc Nhà nước nên các cơ quan tài chính quản lý trực tiếp gặp rất nhiều khó khăn trong việc quản lý các khoản chi.
+ Các cơ quan tài chính thực hiện công tác kiểm soát của mình đối với các khoản chi ngân sách chủ yếu thông qua việc thực hiện thẩm tra dự toán và duyệt quyết toán nên công tác kiểm soát còn nhiều hạn chế. như: nhiều khoản chi không hợp lý nhưng Kho Bạc vẫn đồng ý cho các trường thực hiện rút tiền rất đến công việc kiêm
+ Hệ thống định mức chi NSNN cho giáo dục đã trở nên hạn chế một cách tương đối so với chương trình giáo dục phổ thông(sau khi có thêm các môn như : ngoại ngữ, tin học và học 2 buổi/ngày).
Về quyết toán chi ngân sách nhà nước cho giáo dục phổ thông:
+ Công tác quyết toán ở các trường và các cấp còn chậm và chưa thực hiện đầy đủ nhiệm vụ so với quy định, cũng như đáp ứng được yêu cầu chỉ đạo của ngành và Thành phố. Việc thực hiện quyết toán tại các cơ quan tài chính hiện nay chỉ mới đi sâu kiểm tra về mặt chứng từ chứ chưa thực hiện kiểm soát được các khoản thực chi và chất lượng các khoản chi tại các trường.
+ Chưa đề ra qui trình phối hợp và phân định trách nhiệm quyết toán giữa các đơn vị: cơ quan quản lý giáo dục, cơ quan tài chính và Kho bạc Nhà nước.
+ Trong việc thực hiện quyết toán tại các đơn vị thụ hưởng ngân sách mặc dù đã có sự tham gia của các đơn vị quản lý giáo dục trực tiếp để kiểm tra tính đúng đắn của các khoản chi tuy nhiên việc kiểm tra này cũng chỉ mới dừng lại trên chứng từ do các trường chỉ chuyển báo cáo quyết toán cho cơ quan quản lý tài chính nên khi thực hiện quyết toán các cơ quan quản lý giáo dục trực tiếp gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện kiểm tra.
+ Các khoản chi ngoài ngân sách chưa được thực hiện đầy đủ về chế độ kế toán. Việc phản ánh vào NSNN thông qua công tác ghi thu – ghi chi còn nhiều hạn chế và chưa được các cơ quan chức năng thường xuyên hướng dẫn kiểm tra.
* Nguyên nhân cơ bản:
Do nhu cầu, nhiệm vụ của chi thường xuyên nói chung và chi cho giáo dục phổ thông ở Thủ đô trong thời gian qua tăng nhanh nhưng mức ngân sách dành cho giáo dục còn hạn hẹp. Công tác huy động đầu tư ngoài ngân sách cho ngành còn gặp nhiều khó khăn.
Công tác kế hoạch vốn đầu tư cho giáo dục phổ thông chưa cải tiến phù hợp với yêu cầu phát triển của ngành và của nền kinh tế.
Cơ quan tài chính chưa coi trọng công tác giám sát, kiểm tra việc cấp phát, thanh toán kinh phí đầu tư.
Năng lực trình độ của các cán bộ cấp cơ sở còn nhiều hạn chế.
Các qui định pháp luật đối với công tác quản lý ngân sách nhà nước còn nhiều bất cập gây khó khăn cho các cơ quan tài chính, Kho bạc và các đơn vị thực hiện.
Các chỉ tiêu về học sinh nhập học bình quân hàng năm chưa được theo dõi, thông tin đầy đủ.
Kết quả khả quan về tăng thu ngân sách trong năm.
Tóm lại:
Chương II của chuyên đề đã phản ánh được thực trạng đầu tư và quản lý chi NSNN cho giáo dục phổ thông trên địa bàn thành phố Hà Nội. Giáo dục phổ thông đã được quan tâm đầu tư phát triển để đáp ứng nhu cầu phát triển chung của sự nghiệp giáo dục trong cả nước và sự phát triển của quốc gia. Mặc dù có rất nhiều cố gắng nhưng trong quản lý các khoản chi NSNN cho giáo dục phổ thông vẫn còn tồn tại mà những tồn tại này xuất phát từ rất nhiều lý do đòi hỏi phải có hướng giải quyết và các biện pháp khắc phục đảm bảo cho quá trình phát triển giáo dục phổ thông nói riêng và sự nghiệp giáo dục đào tạo nói chung.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. QUAN ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC:
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định mục tiêu tổng quát phát triển trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010 là đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá”. “Con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt” Để đạt được các mục tiêu nêu trên, giáo dục và khoa học công nghệ có vai trò quyết định, nhu cầu phát triển giáo dục là rất bức thiết.
Trong bối cảnh quốc tế là cuộc cách mạng khoa học công nghệ sẽ tiếp tục phát triển với những bước tiến nhảy vọt trong thế kỷ 21, đưa thế giới chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin và phát triển kinh tế tri thức, đồng thời tác động tới tất cả các lĩnh vực, làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc đời sống vật chất, tinh thần của xã hội. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, sự phát triển năng động của nền kinh tế, quá trình hội nhập và toàn cầu hoá đang làm cho việc rút ngắn khoảng cách về trình độ giữa các nước trở nên hiện thực hơn và nhanh hơn. Khoa học – công nghệ trở thành động lực phát triển kinh tế – xã hội. Giáo dục là nền tảng của sự phát triển khoa học – công nghệ, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại và đóng vai trò chủ yếu trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm và năng lực của các thế hệ hiện nay và mai sau. Đổi mới giáo dục đang diễn ra trên quy mô toàn cầu. Bối cảnh trên đã tạo nên những thay đổi sâu sắc trong giáo dục, từ quan niệm về trách nhiệm giáo dục, xây dựng nhân cách người học đến cách tổ chức quá trình và hệ thống giáo dục. Vì vậy các quốc gia, từ những nước đang phát triển đến những nước phát triển đều nhận thức rõ được vai trò và vị trí hàng đầu của giáo dục, đều phải đổi mới giáo dục để có thể đáp ứng một cách năng động hơn, hiệu quả hơn, trực tiếp hơn những nhu cầu của sự phát triển đất nước.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ngày càng coi trọng vai trò của giáo dục, quan tâm nhiều hơn và đòi hỏi giáo dục phải đổi mới và phát triển đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của mọi tầng lớp nhân dân về học tập và tiếp thu kiến thức, rèn luyện những phẩm chất, năng lực cần thiết trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tiễn chuyển đổi cơ chế và phát triển kinh tế đòi hỏi giáo dục phải tiếp cận và thích nghi với cơ chế mới, phải luôn phát triển và đi trước một bước đón đầu sự phát triển của xã hội.
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam(1992), Luật giáo dục(1998), Báo cáo chính trị tại đại hội IX của Đảng(2001) và chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010 đã chỉ rõ những quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục của nước ta đó là: Giáo dục là quốc sách hàng đầu; xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, tiến bộ khoa học – công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh; giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân.
Trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục thì mục tiêu phát triển giáo dục phổ thông của Đảng và Nhà nước là thực hiện giáo dục toàn diện về đức, trí, thể, mỹ. Cung cấp học vấn phổ thông cơ bản, hệ thống và có tính hướng nghiệp; tiếp cận trình độ phát triển trong khu vực. Xây dựng thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo; lòng ham học, ham hiểu biết, năng lực tự học, năng lực vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
Tiểu học: Phát triển những đặc tính tốt đẹp tự nhiên của trẻ em, hình thành ở học sinh lòng ham hiểu biết và những đức tính, kỹ năng cơ bản đầu tiên để tạo hứng thú học tập và học tập tốt. Củng cố và nâng cao thành quả phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước.
Tăng tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường từ 95% năm 2000 nên 97% năm 2005 và 99% năm 2010.
Trung học cơ sở: cung cấp cho học sinh học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để thực hiện phân luồng sau trung học cơ sở, tạo điều kiện để học sinh tiếp tục học tập hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở ở các Thành phố, đô thị, vùng kinh tế phát triển vào năm 2005, trong cả nước vào năm 2010. Tăng tỷ lệ học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi từ 74% năm 2000 lên 80% vào năm 2005 và 90% vào năm 2010.
Trung học phổ thông: Thực hiện chương trình phân ban hợp lý nhằm đảm bảo cho học sinh có học vấn phổ thông, cơ bản theo một chuẩn thống nhất, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát huy năng lực của mỗi học sinh, giúp học sinh hiểu biết về kỹ thuật, chú trọng hướng nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân luồng sau trung học phổ thông, để học sinh vào đời hoặc chọn ngành nghề học tiếp sau khi tốt nghiệp.
Tăng tỷ lệ học sinh trong độ tuổi vào trung học phổ thông từ 38% năm 2000 lên 45% vào năm 2005 và 50% vào năm 2010.
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI:
3.2.1. Hoàn thiện công tác lập dự toán chi ngân sách nhà nước cho giáo dục:
Lập dự toán có tính chất quyết định đối với chu trình quản lý ngân sách nhà nước. Công tác lập dự toán sẽ cung cấp thông tin cần thiết cho việc thiết kế và điều hành công tác tài chính cho giáo dục đồng thời công tác này có mối liên hệ cơ bản trong việc lựa chọn và cân đối các nguồn lực tài chính, huy động và phân bổ các nguồn. Trong thời gian qua, công tác lập dự toán ngân sách tại các trường và các quận, huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội đã có rất nhiều biện pháp để nâng cao hiệu quả cho công tác này. Tuy nhiên, trong việc lập dự toán chi ngân sách cho giáo dục còn một số những hạn chế. Do vậy:
Việc lập dự toán cần chú trọng hơn nữa tới chất lượng, cần phải bám sát thực tế hoạt động chi của các đơn vị hoạt động. Dự toán ngân sách cần thực hiện chi tiết, cụ thể theo từng quý, phải xem xét đến tính hiệu quả của toàn bộ số chi ngân sách đối với công tác giáo dục.
Điều này sẽ khắc phục tình trạng dự toán chỉ tập trung đến sự cần thiết phải cân đối ngân sách. Và giúp cho công tác quản lý một mặt đảm bảo các nguồn vốn được sử dụng có hiệu quả, mặt khác quản lý các hoạt động giúp thực hiện các nhiệm vụ chi cụ thể đúng thời gian, đúng thiết kế để đảm bảo việc thực hiện kiểm soát các hoạt động thông qua cấp phát.
Ngoài ra, thì các dự toán nên được lập chi tiết đến từng mục chi và nên có những giải trình cần thiết về một số căn cứ lập dự toán như tình hình biến động giá cả, tình hình thiên tai nhằm tăng tính khoa học cho dự toán ngân sách hàng năm về dự toán của đơn vị.
3.2.2. Đổi mới công tác phân bổ dự toán chi ngân sách nhà nước cho giáo dục:
Sự nghiệp giáo dục trên thực tế phát triển không đồng đều ngay tại Hà Nội, giữa giáo dục ở các khu vực nội thành và ngoại thành về: chất lượng giáo dục, cơ sở vật chất, điều kiện về hạ tầng. Vì vậy, để tạo tạo điều kiện cho các vùng đều có cơ hội phát triển giáo dục phù hợp với đặc điểm của riêng mình, Thành phố cần phải có một cơ chế phân bổ ngân sách hợp lý và công bằng. Việc phân bổ phải đảm bảo tính đồng bộ và sử dụng, điều hành và thanh toán ngân sách hàng năm.
Mức phân bổ cần tính đến tình hình thực tế của mỗi đơn vị như:
+ Số biên chế, hợp đồng để tính các khoản tiền lương, tiền công và các khoản trích theo lương.
+ Chi phí dự kiến thực tế sẽ chi và khả năng cân đối của ngân sách địa phương.
Cần đưa ra giới hạn ngân sách hàng năm cho các đơn vị sử dụng ngân sách tương ứng với nhiệm vụ được giao. Việc này sẽ đòi hỏi các đơn vị trường học phải tự xem xét, quyết định chi tiêu của đơn vị mình đồng thời các đơn vị phải tự tổ chức phân công lại các vị trí để đảm bảo sử dụng tiết kiệm, hiệu quả lượng kinh phí được cấp.
Đối với các khoản chi thường xuyên ít biến động, ổn định như tiền lương, phụ cấp theo lương có thể căn cứ vào đề nghị, chuẩn chi của thủ trưởng đơn vị thụ hưởng ngân sách, các đơn vị này có thể đăng ký trực tiếp với Kho Bạc và Kho Bạc sẽ cấp phát trực tiếp xét theo dự toán được duyệt không cần thông qua hạn mức kinh phí. Công việc này sẽ giúp giảm bớt các thủ tục, tạo điều kiện cho các trường khi thực hiện ngân sách.
Khắc phục tình trạng tách rời phân bổ tổng mức chi với dự toán để phục vụ công tác kiểm tra, kiểm soát về biên chế tiền lương của các cơ quan, đảm bảo tinh thần chủ động trong việc sử dụng ngân sách.
3.2.3. Hoàn thiện công tác cấp phát, thanh toán và kiểm soát chi ngân sách nhà nước cho giáo dục phổ thông:
Việc cấp phát phải đảm bảo yêu cầu đúng đối tượng, đúng định mức, đúng mục đích, kịp thời. Trên cơ sở dự toán quý, năm của các đã được phê duyệt thì công tác cấp phát phải được thực hiện một cách nhanh chóng, đầy đủ theo đúng các quy định của Luật NSNN và các quy định của Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục - Đào tạo, của Thành phố... ban hành đáp ứng nhu cầu công tác của các đơn vị thụ hưởng ngân sách.
Trên cơ sở dự toán ngân sách nhà nước giao cho các đơn vị trường học, các đơn vị này lập dự toán chi tiết theo mục lục ngân sách nhà nước đăng ký với cơ quan Kho bạc nhà nước. Để Kho bạc nhà nước có căn cứ, kế hoạch cấp phát theo yêu cầu của đơn vị. Kho Bạc và các cơ quan tài chính cần thống nhất với nhau về qui định sử dụng các tài khoản hạch toán để tạo điều kiện thuận lợi cho các trường, các đơn vị thụ hưởng ngân sách trong việc chấp hành ngân sách. Đồng thời cũng đảm bảo cho công tác kiểm tra, kiểm soát được thực hiện một cách đơn giản, hiệu quả hơn.
Sở Tài chính, các cơ quan tài chính cần có kế hoạch phối hợp chặt chẽ hơn nữa đối với cơ quan Kho bạc trong việc kiểm tra, kiểm soát chi theo đúng qui định về quản lý NSNN hiện hành, đảm bảo cho các trường sử dụng kinh phí từ NSĐP một cách hợp lý, hiệu quả và triệt để thực hiện thực hành tiết kiệm chống lãng phí của Đảng và Nhà nước đã đề ra:
- Kiểm tra, giám sát chặt chẽ tính chất đúng đắn, hợp lý đối với các khoản chi thường xuyên. Đảm bảo các khoản chi đó được thực hiện đúng các định mức, qui định đã được ban hành.
- Đối với khoản chi đầu tư xây dựng cơ bản, việc cấp phát ngân sách phải được cấp phát theo đúng khối lượng công việc thực tế hoàn thành trong điều kiện đã quy định từ trước như: phạm vi về giá, số lượng thiết bị ...
Nên hạn chế cấp phát bằng hạn mức, vì nếu công tác này được thực hiện sẽ giảm bớt công việc sự vụ là cấp phát hạn mức kinh phí hàng tháng cho đơn vị trực thuộc để tập trung vào quá trình giám sát kinh phí, tổng hợp dự toán và điều hành ngân sách theo dự toán đã được quyết định và phân bổ. Điều này cũng đòi hỏi các đơn vị phải nâng cao chất lượng lập dự toán.
3.2.4. Đổi mới công tác quyết toán chi ngân sách nhà nước cho giáo dục phổ thông:
Công tác quyết toán đóng vị trí then chốt trong việc quản lý chi ngân sách nhà nước, đảm bảo cho qui trình quản lý ngân sách hoàn thiện. Trong thời gian qua, nhờ có các qui đinh khá chặt chẽ của Luật NSNN và các văn bản pháp qui có liên quan nên đã có nhiều biến đổi tích cực trong công tác này giúp cho việc quản lý chi ngân sách nhà nước nói chung và chi ngân sách cho giáo dục phổ thông nói riêng trở nên hiệu quả hơn. Mặc dù vậy thì công tác quản lý chi ngân sách cho giáo dục vẫn còn tồn tại một số hạn chế như đã được nêu trong chương 2. Do đó, để công tác quyết toán trở nên thực sự có hiệu quả cần có sự cải tiến trong công tác này:
Trong quá trình thực hiện quyết toán các trường cần quyết toán theo số thực chi chứ không quyết toán theo số cấp phát. Việc quyết toán phải dựa vào dự toán và phải thật sự rõ ràng, cụ thể tới từng tiểu mục.
Hàng năm tất cả các trường được thụ hưởng ngân sách đều phải thực hiện quyết toán cả phần trong và ngoài ngân sách(nếu có) theo đúng các qui định của pháp luật.
Công tác lập báo cáo quyết toán phải đảm bảo thống nhất từ đơn vị thụ hưởng đến cơ quan tài chính cấp trên, tránh tình trạng sai lệch giữa cơ quan tài chính với các đơn vị lập quyết toán.
Các trường học cần gửi báo cáo quyết toán của trường mình cho cả cơ quan quản lý giáo dục và cơ quan quản lý tài chính trực tiếp. Để công tác kiểm tra các khoản chi được thực hiện hiệu quả hơn nhất là các khoản chi thuộc về chuyên môn. Đồng thời đảm bảo cho việc xuất toán các khoản chi không hợp lý chưa có trong dự toán khi thực hiện công tác quyết toán.
Kết quả thẩm định quyết toán phải được thông báo công khai cho các cơ sở đảm bảo tính minh bạch trong việc thực hiện quản lý ngân sách.
Việc thực hiện quyết toán cần được thực hiện tại các đơn vị thụ hưởng ngân sách để ngoài việc kiểm tra việc đúng đắn của các chứng từ thì còn kiểm tra tính hợp lý, đúng đắn, hiệu quả của các khoản chi.
3.2.5. Tăng cường huy động vốn ngoài ngân sách để phát triển giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội:
Những năm vừa qua, Thành phố Hà Nội đã không ngừng tăng mức đầu tư cho sự nghiệp giáo dục đào tạo nói chung. Bên cạnh nguồn NSNN đóng vai trò chủ đạo trong tổng chi ngân sách cho giáo dục đào tạo trên địa bàn Thành phố thì các nguồn vốn ngoài ngân sách được sử dụng để đầu tư cho giáo dục đã tăng đáng kể. Thủ đô Hà Nội đã và đang phấn đấu để nâng tỷ trọng mức đầu tư ngân sách cho giáo dục đạt 25%/ tổng chi ngân sách, ngang bằng với một số nước trong khu vực. Để đạt được mục tiêu này thì giải pháp để huy động vốn ngoài ngân sách đầu tư cho giáo dục luôn được coi trọng.
Thứ nhất, là huy động từ nguồn học phí:
Trên cơ sở chế độ thu và sử dụng học phí theo quyết định số 70/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thu và sử dụng học phí ở các cơ sở giáo dục
thì trong tương lai khi xác định được chi phí đơn vị dự tính cho từng cấp bậc giáo dục phổ thông, Thành phố Hà Nội cần điều chỉnh mức học phí theo từng khu vực, bậc học và có thể tính theo từng trường để tăng cường khả năng thu học phí cho mỗi cấp học để đảm bảo công bằng trong hưởng thụ, tạo cơ hội lựa chọn các hình thức học thích hợp cho các đối tượng.
Thứ hai, là tăng cường quản lý và huy động đầy đủ các khoản thu từ hoạt động dịch vụ của cơ sở giáo dục:
Đối với các trường học sử dụng cơ sở vật chất của mình để cho các đơn vị mở lớp học thì tổng số thu sau khi trừ đi các chi phí trực tiếp cho người quản lý, những chi phí khác như điện, nước phải được tính đầy đủ vào nguồn thu của trường và phản ánh đầy đủ vào ngân sách nhà nước. Công việc này giúp bổ sung cho quỹ của nhà trường và giúp cho công tác kiểm soát của cơ quan tài chính được dễ dàng hơn.
Thứ ba, là phát triển loại hình nhà trường ngoài công lập:
Đa dạng hoá các loại hình nhà trường sẽ thực hiện tốt được nhiệm vụ thu hút vốn ngoài ngân sách. Thành phố cần phát triển loại hình trường bán công và dân lập để thu hút thêm học sinh.
Ngoài ra, thì Thành phố cũng cần tiếp tục chuyển đổi mô hình một số trường từ công lập sang mô hình trường bán công đặc biệt là các trường có uy tín và có điều kiện cơ sở vật chất hiện đại vì với chủ trương này sẽ giảm bớt được lượng kinh phí cấp cho sự nghiệp giáo dục hàng năm của Thành phố.
Thứ tư, tăng cường huy động nguồn vốn từ phía nhân dân:
Trong thời gian vừa qua thì tỷ trọng các nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước dành cho giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng luôn được tăng cao phần nào cho thấy sự quan tâm của các tầng lớp dân cư đối với giáo dục. Nâng cao nguồn vốn từ nhân dân cho giáo dục sẽ góp phần hỗ trợ để công tác đầu tư cho giáo dục ở Thủ đô được thực hiện tốt hơn, góp phần đảm bảo lượng kinh phí cần thiết trong quá trình phát triển giáo dục của Thành phố. Hà Nội có thể huy động nguồn vốn này bằng cách tăng cường, mở rộng hình thức phát hành trái phiếu Giáo dục, các chương trình ủng hộ học sinh nghèo vượt khó...
3.2.6. Các giải pháp khác:
Nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của các cán bộ tại các đơn vị các cấp.
Yếu tố con người là một trong các yếu tố quyết định tới chất lượng công tác quản lý chi ngân sách nhà nước. Với vai trò quan trọng như vậy nên trong thời gian qua, tại các đơn vị cơ sở đã có rất nhiều các chủ trương tích cực để giúp nâng cao trình độ cho các cán bộ của đơn vị mình như tạo điều kiện cho những cán bộ này có cơ hội tiếp tục học tập, nghiên cứu nâng cao kiến thức. Đây là chủ trương rất đúng đắn cần phải được phát huy và mở rộng.
Ngoài ra, các đơn vị cần thực hiện tốt công tác tuyển dụng thu hút nhân tài. Công tác tuyển dụng phải được thực hiện công khai, chặt chẽ, hợp lý.
Các cơ quan đơn vị cần có chế độ ưu đãi, thực hiện nhiều biện pháp để khuyến khích tinh thần làm việc của các nhân viên. Tạo điều kiện để các cán bộ tại các đơn vị phát huy khả năng của mình và thực hiện đề bạt cán bộ theo đúng năng lực, trình độ phù hợp với tiêu chuẩn quy định của Nhà nước.
Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý:
Môi trường pháp lý đã trở thành điều kiện tiên quyết giúp cho công tác quản lý ngân sách nhà nước nói chung và công tác chi ngân sách nhà nước nói riêng cho giáo dục được thực hiện một cách có hệ thống và hiệu quả. Nước ta còn thiếu kinh nghiệm, các điều kiện để xây dựng cơ chế tài chính mới phù hợp với tình hình biến đổi của nền kinh tế. Việc hoàn thiện môi trường pháp lý ở nước ta hiện nay là quá trình vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, vừa xây dựng mới, vừa hoàn thiện, bổ sung, vừa chú ý đến tổng kết kinh nghiệm cũng như tham khảo kinh nghiệm. Do vậy, trong thời gian tới Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thành phố Hà Nội, Sở Tài chính cần tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, đổi mới hệ thống pháp luật liên quan tới công tác quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục. Đảm bảo cho công tác quản lý này được thực hiện một cách thuận tiện, hợp lý và chất lượng nhất.
Tăng cường công tác đầu tư về công nghệ thông tin cho các đơn vị trong công tác quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục phổ thông.
Công nghệ thông tin đã và đang trở nên phổ biến và hết sức cần thiết trong mọi lĩnh vực, ngành nghề của đời sống xã hội. Nó cũng giúp cho quá trình thực thiện công tác quản lý ngân sách được trở nên khoa học, thuận tiện hơn rất nhiều so với phương pháp thủ công trước kia. Thời gian qua cùng với sự phát triển của tin học, việc áp dụng lĩnh vực này vào công tác quản lý đã trở nên rộng rãi với chất lượng cao. Các đơn vị đã sử dụng thống nhất, hợp lý các phần mềm tin học phục vụ công tác lập dự toán, thực hiện cũng như kiểm tra, kiểm soát công tác quản lý chi ngân sách. Nhờ sự quan tâm của Thành phố nên số lượng máy tính tại các cơ sở đơn vị cũng tăng lên rõ rệt phục vụ cho công tác ở các đơn vị trở nên thuận lợi hơn. Tuy nhiên, thì cần phải chú trọng hơn nữa đến chất lượng của các phần mềm sử dụng, trang bị thêm số lượng máy vi tính, thực hiện nối mạng nội bộ cũng như mạng LAN đảm bảo cho công tác quản lý chi ngân sách nhà nước được diễn ra thông suốt và hiệu quả.
3.3. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN GIẢI PHÁP:
Để thực hiện có hiệu quả các giải pháp nói trên nhằm tăng cường quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục phổ thông trên địa bàn thành phố Hà Nội cần hội tụ đầy đủ các điều kiện nhất định. Các điều kiện ấy có thể nói tới như sau:
Kinh tế của Thủ đô phải phát triển một cách bền vững, ổn định, cân đối ngân sách được đảm bảo để tăng chi ngân sách cho ngành học phổ thông của Thủ đô.
Đổi mới nhận thức trong các ngành, các cấp trong quá trình thực hiện phân bổ, cấp phát, quản lý, điều hành ngân sách nhà nước.
Phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan tài chính và cơ quan quản lý giáo dục của Thành phố, giữa cấp Thành phố với các cấp Quận, Huyện trong phương thức hoạt động.
Tóm lại:
Trong chương III, trước những định hướng và mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo của Đảng và Nhà nước chuyên đề đã nêu ra một số giải pháp cũng như các điều kiện để thực hiện giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
KẾT LUẬN
Hoà chung vào công cuộc phát triển của toàn nhân loại, Giáo dục - Đào tạo đã và đang trở thành nền tảng để phát triển kinh tế tri thức của mỗi quốc gia. Nhận thức được tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục đặc biệt là ngành học phổ thông đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng đầu tư cho lĩnh vực này trên toàn quốc nói chung và ở Thủ đô Hà Nội nói riêng. Với sự quan tâm đặc biệt đó, giáo dục phổ thông của Hà Nội không ngừng lớn mạnh và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Để đạt được kết quả đó có sự đóng góp không nhỏ của công tác quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục phổ thông trên địa bàn Hà Nội. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn những tồn tại nhất định. Vì vậy, việc hoàn thiện công tác quản lý chi ngân sách Nhà nước để nâng cao chất lượng quản lý là việc làm hết sức cần thiết đối với Thủ đô trong giai đoạn hiện nay.
Trong chuyên đề em đã nêu lên những khái niệm chung nhất về giáo dục phổ thông, chi và quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục phổ thông, những thực trạng đối với công tác quản lý ngân sách đầu tư cho giáo dục phổ thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội cũng như mạnh dạn đưa ra một số giải pháp với hy vọng góp phần hoàn thiện công tác quản lý chi ngân sách Nhà nước cho ngành học phổ thông trên địa bàn Thành phố.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo Quyết toán ngân sách Nhà nước Thành phố Hà Nội – Sở Tài chính Hà Nội.
Báo cáo Tổng kết của ngành giáo dục và đào tạo Hà Nội – Sở giáo dục đào tạo Hà Nội.
Chương trình hành động thực hiện kết luận hội nghị lần thứ 6 BCH Trung ương Đảng Khoá IX – Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội.
Các văn bản, thông tư hướng dẫn, chính sách chế độ hiện hành, tạp chí và các tài liệu liên quan đến giáo dục và tài chính.
Văn kiện Đại hội Đảng khoá IX và Dự thảo văn kiện Đại Hội Đảng khóaX.
Đánh giá chi tiêu công 2000.
Giáo trình Quản lý Tài chính công. Nhà xuất bản lao động năm 2003.
Giáo trình Quản lý Tài chính Nhà nước. Nhà xuất bản Tài chính Hà Nội.
Giáo trình Kinh tế và Tài chính công. Nhà xuất bản Thống kê năm 2002.
Giáo trình Quản lý khu vực công. Nhà xuất bản Khoa học – công nghệ.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9714.doc