Hơn nữa , do chi phí thu BHXH ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cao hơn gấp 5 đến 10 lần chi phí thu BHXH ở các khu vực khác . Do vậy , nên chăng cần kết hợp việc giao chỉ tiêu thu BHXH ở khu vực này thành chỉ tiêu pháp lệnh , đồng thời tăng chi phí hợp lý để cán bộ nghành BHXH có đủ điều kiện tạo điều kiện thuận lợi cho họ thu tốt BHXH ở khu vực này ? Kèm theo là công tác thi đua , khen thưởng cho đơn vị nào tổ chức thu tốt , thực hiện việc nhân những điển hình tiên tiến về công tác này trong toàn ngành , để động viên khuyến khích công tác thu trong hệ thống BHXH Việt nam .
Thu BHXH ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh là công việc mới và khó , nhưng vẫn có thể khắc phục và hoàn thành tốt nếu như có sự phối hợp đồng bộ của nhà nuớc và cơ quan hữu quan , cơ quan BHXH các cấp nhằm từng bước khắc phục những khó khăn mang tính khách quan, đồng thời đòi hỏi chính sự nỗ lực, tháo gỡ sớm những vướng mắc chủ quan của ngành BHXH Việt Nam thì chắc chắn hiệu quả thu cũng như quản lý các đối tượng tham gia BHXH thuộc khu vực này sẽ cao hơn.
Cùng với sự nỗ lực trong việc đẩy mạnh hiệu quả quản lý thu BHXH ở khu vực ngoài quốc doanh, quản lý thu BHXH các khu vực còn lại theo quy định cũng phải luôn được quan tâm theo dõi. Để thực hiện công tác này cần phải tổ chức điều tra thống kê, tổng hợp nhằm nắm chắc chắc số liệu cần thiết về các đối tượng tham gia cũng như số tiền BHXH phải nộp của họ. Trên cơ sở đó sẽ kịp thời phát hiện được những vấn đề vướng mắc để đề xuất ngay những giải pháp, hạn chế tối đa vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ghế...
Hàng năm căn cứ vào nhu cầu đầu tư của BHXH các tỉnh và nguồn vốn đầu tư được cân đối, BHXH Việt Nam ra chỉ tiêu kế hoach đầu tư cho từng địa phương về số lượng công trình được đầu tư trong năm, tiến độ đầu tư và nguồn vốn được cân đối. Thực hiện thẩm định phê duyệt các dự án đầu tư, phê duyệt thiết kế kỹ thuật tổng dự toán, hồ sơ mời thầu và kế hoạch đấu thầu, kết quả đấu thầu và quyết toán công trình do các ban quản lý dự án trính phê duyệt; định kỳ BHXH Việt Nam tổ chức kiểm tra chất lượng thi công ở những đơn vị trọng điểm, ngoài ra BHXH Việt Nam còn có nhiệm vụ tổ chức tập huấn về nghiệp vụ quản lý đầu tư xây dựng cho các ban quản lý dự án nhằm nâng cao năng lực quản lý điều hành của các ban quản lý dự án. Dưới đây là những con số phản ánh kết quả thực hiện công tác này.
Bảng 6 : Chi quản lý bộ máy từ năm 1996 đến năm 2002
STT
Năm
Tổng số
1
1996
133 948
2
1997
112 262
3
1998
147 945
4
1999
179 803
5
2000
196 849
6
2001
331 263
7
2002
497 594
Theo quy định số chi định mức của BHXH Việt Nam cho chi hoạt động quản lý bộ máy trong vòng 5 năm đầu tiên (năm 1996-2000) là 6% trên tổng số thu . Trong thời gian qua BHXH Việt Nam thực hiện chi quản lý bộ máy theo đúng định mức, tiêu chuẩn được giao chưa năm nào vượt quá. Chi phí cho hoạt động thường xuyên của hệ thống BHXH Việt Nam có một số điểm đặc thù khác với cơ quan hành chính sự nghiệp khác. Ngoài những nội dung chi như đối với đơn vị hành chính sự nghiệp BHXH Việt Nam còn được phép chi hỗ trợ đời sống cho cán bộ công nhân viên chức, chi hỗ trợ cho công tác thu BHXH , chi thăm hỏi đối tưởng hưởng lương hưu, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp ... chi hỗ trợ công tác kiểm tra, được lập các quỹ phúc lợi khen thưởng. Về chi đầu tư xây dựng trụ sở làm việ BHXH Việt Nam xũng đã thực hiện tốt công việc này. BHXH Việt Nam và các ban quản lý dự án đầu tư ở các tỉnh đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý về lĩnh vực xây dựng cơ bản ( Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ xây dựng, Cục đầu tư phát triển..) để tổ chức triển khai giám sát toàn bộ quá trình đầu tư.
Toàn nghành đã thực hiện đúng mục tiêu đầu tư, tiến độ đầu tư. Các dự án được đầu tư theo đúng quy hõạch, quy mô vừa đáp ứng được nhu cầu sử dụng, đạt hiệu qủa đầu tư. Tính từ năm 1996 đến năm 2000 toàn nghành đã thực hiện đầu tư xây dựng trụ sở của BHXH Việt Nam và 61 trụ sở các tỉnh thành phố, 565 trụ sở BHXH cấp huyện với tổng dự toán là 506,9 tỷ đồng. Trong năm 2001 dự kiến sẽ đầu tư xây dựng trụ sở cấp huyện còn lại.
Trong quá trình thực hiện BHXH Việt Nam và các ban quản lý dự án đã chấp hành đúng mọi quy trình, quy phạm thực hiện đúng mọi thủ tục, đảm bảo quản lý chặt chẽ thực hiện nghiêm túc các khâu lập và thẩm định dự án đầu tư và thiết kế kỹ thuật tổng dự toán; đã đảm bảo thực hiện đúng mọi quy định cần thiết trong quá trình tổ chức đầu thầu, chỉ định thâu, lập và thẩm định phê duyệt quyết toán. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt dược hoạt động quản lý bộ máy còn một số bất hợp lý.
- Trên giấy tờ, văn bản thì kinh phí cho hoạt động này được khoán theo tỷ lệ % trên tổng thu, nhưng thực tế mọi khoản chi vẫn bị khống chế theo định mức chi hành chính của Bộ tài chính. Các định mức này đến nay không còn phù hợp gây gò bó thiếu tính chủ động linh hoạt trong cả điêù hành lẫn thực hiện công việc. Với cơ chế thực thanh thực chi này sự năng động linh hoạt và khả năng của hệ thống BHXH Việt Nam sẽ không phát huy hết hiệu quả có thể đạt được.
- Chứng từ, sổ sách kế toán ở một số đơn vị còn có hiện tượng lập chứng từ giả, quyết toán trùng chứng từ nhằm chiếm đoạt tiền của Nhà nước.
- Trong triển khai thực hiện công tác đầu tư, vẫn còn hiện tượng một số ban quản lý dự án ở địa phương chưa có kinh nghiệm nên trong qua trình thực hiện còn nhiều lúng túng.
- Một số ít ban quản lý dự án còn chưa thực sự quan tâm đến công tác kiểm tra giám sát chất lượng công trình đầu tư, gây ảnh hưởng đến chất lượng công trình.
Những bất cập này đòi hỏi trong thời gian tới phải được khắc phục kịp thời để hệ thống BHXH Việt Nam hoạt động hiệu quả hơn thực hiện tốt hơn vai trò to lớn của nghành.
2.4 Quản lý hoạt động đầu tư Quỹ BHXH ở nước ta có đặc điểm là quỹ tồn tích và chuyển giao sử dụng qua các thế hệ giữa những người tham gia BHXH. Do vậy quỹ sẽ có một số dư tạm thời nhàn rỗi. Số dư này có thể đem đi đầu tư. Trong thời gian qua quỹ BHXH Việt Nam được thực hiện đầu tư như sau:
- Cho NSNN vay để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội
- Cho Quỹ hỗ trợ phát triển , Ngân hàng đầu tư phát triển Việt Nam vay theo chỉ định của chính phủ.
- Cho vay trung hạn, ngắn hạn đối với các Ngân hàng thương mại Nhà nước.
- Tham gia vào phiên đấu thầu trái phiếu Kho bạc nhà nước tổ chức tại Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
- Mua kỳ phiếu, trái phiếu do các Ngân hàng nhà nước phát hành.
- Tham gia mua công trái xây dựng tổ quốc.
- Số dư của quỹ BHXH Việt Nam gửi tại 2 tài khoản tiền gửi của Kho bạc nhà nước và Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam để được hưởng lãi suất không thời hạn theo quy định.
Năm 2000 danh mục đầu tư quỹ BHXH Việt Nam như sau : Bảng 7 : Danh mục đầu tư quỹ BHXH Việt Nam năm 2000.
(Tổng vốn đầu tư là 15 662,9 tỷ đồng)
Đơn vị : tỷ đồng
STT
Địa chỉ đầu tư
Số tiền
1
Ngân sách nhà nước
2078,6
2
Quỹ hỗ trợ và phát triển
6200,0
3
HT Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
2800,0
4
HT Ngân hàng Công thương Việt Nam
1280,0
5
HT Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
1500,0
6
HT Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
100,0
7
Công trái xây dựng tổ quốc
700,0
8
Trái phiếu kho bạc Nhà nước
1004,3
Tổng cộng
15 662,9
Hoạt động đầu tư quỹ BHXH trong những năm qua đã bảo đảm thực hiện đầu tư theo đúng danh mục, lĩnh vực được quy định. Quản lý hoạt động đầu tư phải thực hiện các nội dung.:
Quản lý hoạt động đầu tư theo đúng danh mục được quy định.
Quản lý hình thức đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp
Quản lý quy trình xây dựng, thẩm định quyết định phương án (dự án) đầu tư và quản lý hoạt động của các dự án đầu tư.
Theo quy định hiện hành quỹ BHXH nhàn rỗi được đầu tư vào các lĩnh vực sau :
Cho các tổ chức sau đây vay : NSNN, các ngân hàng thương mại của Nhà nước, quỹ hỗ trợ phát triển.
Mua kỳ phiếu, trái phiếu công tráido Bộ Tài chính và các Ngân hàng thương mại nhà nước phát hành.
Đầu tư vào một số dự án và doanh nghiệp lớn của Nhà nước được Chính phủ cho phép và bảo trợ.
Hàng năm, BHXH Việt Nam sẽ căn cứ vào tình hình thu, chi BHXH để dự báo số dư quỹ BHXH, xây dựng kế hoạch đầu tư quỹ BHXH (dài ,trung và ngắn hạn) để huy động hợp lý số dư quỹ này,
Toàn bộ số tiền sinh lợi thu được sử dụng theo quy định : trích 50% để bảo toàn và tăng trưởng quỹ, trích kinh phí chi quản lý bộ máy, trích quỹ khen thưởng phúc lợi, nếu còn thừa bổ sung vào nguồn vốn xây dựng cơ sở vật chất của nghành.
Hiện nay, nhiệm vụ đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH do Ban Kế Hoạch-Tài Chính thuộc BHXH Việt Nam đảm nhiệm. Do chưa thành lập một tổ chức chuyên trách độc lập thực hiện đầu tư tăng trưởng quỹ nên chưa hạch toán riêng chi phí cho hoạt động này mà vẫn được quyết toán vào kinh phí hoạt động chi quản lý hoạt động bộ máy của BHXH Việt Nam.
Bảng 8: Lãi đầu tư thu được qua các năm từ hoạt động đầu tư
quỹ BHXH từ năm 1997 đến 2002
Đơn vị : triệu đồng
STT
Năm
Lãi thu trong năm
1
1997
209 800
2
1998
472 579
3
1999
665 715
4
2000
824 164
5
2001
940 000
6
2002
1300 000
Theo bảng 8 số lãi thu được tăng dần qua các năm,tuy không tăng nhiều song do hoạt động đầu tư còn mới mẻ và nhiều rảng buộc nên đó vẫn có thể coi là những con số khả quan. Như vậy hoạt động này trong những năm qua đã đảm bảo an toàn, không xảy ra rủi ro, thất thoát. Hoạt động đầu tư đã huy động dược 96,1% số dư quỹ BHXH, đây là một nguồn vốn không nhỏ góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Bên cạnh những kết qủa đạt được vẫn còn những tồn tại.
- Các quy định về phạm vi hoạt động đầu tư quỹ BHXH còn hạn hẹp, danh mục đầu tư còn đơn điệu, không tạo điều kiện cho quỹ BHXH được đầu tư vào một số doanh nghiệp lớn vì chưa tìm được đối tác để đầu tư.
- Lãi suất đầu tư chưa hình thành và vận động theo quy luật lãi suất của thị trường.
- Quy chế đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH chưa đề cập một cách cụ thể rõ ràng các nội dung như nguồn vốn đầu tư, danh mục đầu tư, hạn mức đầu tư, các hình thức và công cụ đầu tư, lãi suất đầu tư.... gây nên khó khăn và tạo ra thế bị động cho bộ phận phụ trách đầu tư trong khi thực hiện.
- Cơ chế phân phối tiền lãi đầu tư chưa hợp lý và chưa đúng với mục đích bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH. Chẳng hạn như BHXH Việt Nam được trích 50% tiền sinh lời trong năm để bổ sung cho vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của toàn hệ thống BHXH. Điều này trái với mục đích của đầu tư là nhằm bổ sung và tăng quy mô của quỹ, đảm bảo nhu cầu chi trả cho tương lai.
2.5 Quản lý cân đối thu – chi quỹ BHXH
ở nước ta, kể từ khi có chính sách BHXH đến năm 1993 BHXH ở Việt Nam được thực hiện theo cơ chế tập trung bao cấp nên không hình thành quỹ BHXH độc lập với NSNN. Chính vì vậy, vấn đề cân đối thu – chi quỹ không được đặt ra.Từ năm 1993 thực hiện nghị định 43/CP của Chính phủ về vấn đề đổi mới quỹ BHXH, cùng với việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH, quỹ BHXH đã được hình thành với sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước. Tuy nhiên chỉ từ khi thực hiện nghị định 12/CP của Chính phủ, quỹ BHXH mới chính thức thành lập, được quản lý thống nhất tập trung, hach toán độc lập với NSNN và được Nhà nước bảo hộ, đến lúc này cân đối thu- chi quỹ BHXH mới được đặt ra.
Một trong những nguyên tắc cơ bản trong cơ chế tài chính của quỹ BHXH là các nguồn thu của quỹ BHXH phải đảm bảo khả năng thanh toán cho các khoản trợ cấp BHXH và chi phí quản lý. Vì vậy, các khoản đóng góp BHXH phải xác định sao cho có thể đảm bảo chi trả không chỉ trong hiện thời mà phải ổn định trong suốt một thời gian dài.Từ năm 96 đến nay cân đối thu chi quỹ BHXH Việt Nam như sau:
Bảng 9: Cân đối thu chi quỹ BHXH Việt Nam từ 1996-2002
Đơn vị : triệu đồng
STT
Năm
Số thu BHXH
Số chi BHXH
Chênh lệch thu chi
1
1996
2 569 733
383 150
2 186 583
2
1997
3 154 226
593 525
2 560 701
3
1998
3 875 956
751 630
3 124 326
4
1999
4 186 055
940 351
3 245 704
5
2000
5 928 222
1 335 283
4 592 939
6
2001
6 348 184
1 856 340
4 491 844
7
2002
6 793 700
2 519 519
4 274 181
Tổng
32 856 076
8 379 798
24 476 278
Theo bảng 9 ta thấy rằng sau 8 năm thực hiện hoạt động thu chi quỹ độc lập với NSNN, quỹ BHXH đã có một số dư đáng kể đến ngày 30/12/02 là 26 694 304 triệu đồng. Tuy nhiên trong thời gian tới đây quỹ BHXH sẽ phải chi liên tục với một số chi lớn và sẽ tăng, bởi vì số người lao động tham gia BHXH sẽ nghỉ hưu cũng tăng rất nhanh.
Đối với các chế độ BHXH ngắn hạn, việc cân đối thu chi được thực hiện ngay sau khi kết thúc năm. Còn đối với các chế độ dài hạn thì việc cân đối này thực hiện trong một thời gian dài (Đa số các nước trên thế giới đều cân đối 50 năm trở lên).
ở nước ta vấn đề cân đối thu chi dài hạn của quỹ BHXH có nhiều khả năng bởi vì số người trong độ tuổi lao động chưa tham gia BHXH còn chiếm tỷ lệ cao(trên 80%) và nhiều khoản trợ cấp BHXH làm thay đổi nội dung của các chính sách như giảm tuổi nghỉ hưu để giảm biên chế, giảm tuổi nghỉ hưu cho lao động nặng nhọc, độc hại, trợ cấp cho các biện pháp kế hoạch hoá dân số... Do vậy, trong thời gian tớita mở rộng được đối tượng tham gia BHXH và hạn chế trợ cấp thay của BHXH (tăng thu, giảm chi) thì quỹ BHXH có thể đảm bảo ổn định lâu dài. Tuy nhiên trên thực tế, khả năng mất cân đối quỹ BHXH vẫn có thể xảy ra nếu không có các biện pháp kịp thời điều chỉnh, khắc phục,
Theo xu hướng chung, quỹ BHXH nước ta sẽ ngày càng phải chi nhiều hơn do số người thuộc diện nghỉ hưu hưởng chế độ ngày càng nhiều. Không những thế các chính sách hiện tại không có lợi cho việc chi trả của BHXH Việt Nam ( chẳng hạn như việc tăng thêm chế độ nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khoẻ cho người lao động tham gia BHXH mà người lao động không phải đóng thêm một khoản nào,hay như sự tăng lên của tiền lương gây khó khăn cho quỹ BHXH khi phải chi trả cho đối tượng theo mức lương hiện tại lúc họ nghỉ hưu. Hơn nữa số người đã tham gia BHXH từ trước năm 1995 thuộc diện Nhà nước chi trả BHXH nhưng hiện tại ước tính BHXH đang phải chi trả cho khoảng 1,8 triệu người thuộc diện này. Số tiền chi cho họ rất lớn, trong khi đó NSNN vẫn chưa cấp đủ cho quỹ BHXH. Ngoài ra nếu vẫn giữ nguyên chế độ trợ cấp thai sản như hiện nay( cho phép đối tượng hưởng 4 tháng đồng thời nghỉ 4 tháng không phải đóng BHXH) thì nếu xét trên số đông, đây lại là một yếu tố làm quỹ phải chi nhiều hơn, làm tăng nguy cơ mất cân đối quỹ.
Nếu xét trên khía cạnh đầu tư quỹ nhàn rỗi nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ thì trong thời gian qua, nguồn lãi thu được từ đầu tư quỹ là khá lớn, song nếu so sánh với các nước trên thế giới thì số tiền lãi này còn nhỏ, mặt khác tỷ lệ lạm phát năm 1998, 1999 còn cao và nếu tính bình quân thì cũng chỉ ngang bằng tỷ lệ trượt giá ở Việt Nam hiện nay. Trong thời gian vừa qua quỹ BHXH nước ta đang đi từ đầu tư ít nhằm tích luỹ kinh nghiệm về sau này sẽ tăng dần quy mô đầu tư, lĩnh vực được phép đầu tư cũng mở rộng hơn.
3 Đánh giá về công tác quản lý tài chính trong BHXH Việt Nam
3.1 Những thành tựu
Thứ nhất : Trong quản lý đối tượng tham gia BHXH, ngành BHXH Việt Nam đã thực hiện quản lý trên 4,5 triệu người tham gia BHXH. Trong khi đó nếu xét năm 1995, BHXH Việt Nam đã nhận bàn giao từ ngành Lao động – Thương binh và xã hội và Tổng Công Đoản Việt Nam 3,2 triệu người tham gia BHXH trong đó có 222 triệu người đóng BHXH thuộc 18 656 đơn vị. Như vậy đến nay tổng số người đóng đã tăng lên đáng kể, với việc mở rộng thêm đối tượng tham gia BHXH nhất là đối với người lao động thuộc khu vực quốc doanh đã đảm bảo quyền được trợ cấp, quyền được Nhà nước và xã hội chăm lo khi ốm đau, thai sản, tai nan lao động khiến cho người lao động phấn khởi hơn, hơn nữa còn tạo điều kiện cho họ tự do di chuyển việc làm, khắc phục được sự phân biệt về việc làm trong và ngoài biên chế của Nhà nước, do vậy góp phần làm mạnh hoá thị trường lao động. Vấn đề này còn thực sự phát triển doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai : Trong quản lý tiền thu BHXH nguồn thu hàng năm tăng lên, hình thành được quỹ BHXH độc lập tập trung, đã khắc phục được tình trạng nợ đọng BHXH ở các đơn vị. Tuy rằng mức độ khắc phục chưa cao, đây là điều cơ bản để đảm bảo sự bảo tồn tăng nguồn quỹ để thực hiện chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH.
Thứ ba : Việc BHXH Việt Nam thực hiện cấp sổ BHXH cho phần lớn lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc đã tạo niềm tin cho người lao động, một phần đã có tác dụng khuyến khích mọi người tự giác tham gia đóng BHXH để bảo vệ quyền lợi chính họ. Công tác này đã đồng thời tạo điều kiện cho các tổ chức công đoàn thực hiện bảo vệ quyền lợi cho người lao động ở các đơn vị cơ sở.
Thứ tư : Trong công tác giải quyết chế độ BHXH và chi BHXH, việc cải cách thủ tục hành chính trong công tác này đã đem lại kết qủa đáng mừng; thay đổi phương thức quản lý người sử dụng lao động lập hồ sơ, chứng từ ban đầu đề nghị cho người lao động được hưởng chế độ BHXH, còn cơ quan BHXH sẽ kiểm tra hồ sơ, chứng từ, xác định mức hưởng và tổ chức thẩm định trước khi ra quyết định cho đối tượng được hưởng chế độ BHXH. Vì thế trong những năm qua việc giải quyết các chế độ chính sách BHXH cho người lao động được thực hiện chặt chẽ, đúng đối tượng, đúng chế độ, đặc biệt trong khi trả chế độ trợ cấp hưu trí cho người lao động.
Thứ năm: Trong công tác quản lý chi hoạt động bộ máy trong 4 năm (1997-2000) và năm 2001, 2002, BHXH Việt Nam đã thực hiện chi quản lý bộ máy theo đúng các định mức tiêu chuẩn của Nhà nước giao, chưa năm nào vượt quá chỉ tiêu định mức, nhưng vẫn điều hành tốt hoạt động của bộ máy BHXH từ trung ương đến địa phương, luôn thực hiện tốt các kế hoạch đề ra. Thay vì phải đợi kinh phí hoạt động từ NSNN như những năm trước, ngành BHXH Việt Nam đã có quyền trích 6% (trong các năm 1997-2000) và 4% năm (2000-2002) trên tổng số thu để chi phí cho hoạt động của bộ máy BHXH toàn ngành, do vậy ngành luôn chủ động có nguồn kinh phí để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Thứ sáu : Vấn đề đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH. Trong những năm qua, quỹ BHXH nhàn rỗi đã được đem đầu tư thu về số lãi hơn 4000 tỷ đồng đã cung cấp cho thị trường vốn trong nước một nguồn vốn đáng kể. Số quỹ nhàn rỗi này đã đảm bảo được đầu theo đúng danh mục, lĩnh vực quy định, đảm bảo an toàn không xảy ra thất thoát. Như vậy hoạt động đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH đã được quản lý hết sức chặt chẽ.
Thứ bảy: Trong vấn đề cân đối thu chi quỹ luôn đảm bảo có số dư lớn qua các năm, trong hiện tại quỹ vẫn có số dư và có tích luỹ. Tuy nhiên theo một số phân tích tài chính của các chuyên gia. Trong thời gian tới quỹ BHXH Việt Nam sẽ gặp phải tình trạng mất cân đối thu nếu vãn giữ nguyên mức đóng và mức hưởng như hiện nay.
3.2 Những tồn tại.
Tuy số lao động tham gia BHXH trong thời gian qua đã tăng nhanh song đến nay vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu để quản lý toàn bộ số lao động tham gia BHXH bắt buộc theo quy định của pháp luật, đặc biệt là đối với số lao động ngoài quốc doanh. Kết quả thu hàng năm chưa cao, biểu hiện ở số nợ đọng BHXH của các đơn vị sử dụng lao động còn đáng kể, số thất thu cũng lớn. Nếu để tình trạng này kéo dài sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp và khó khăn trước hết là sẽ thiêú nguồn chi trả cho người hưởng BHXH, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao động sau là đến cân đối thu chi cho quỹ BHXH.
Trong 8 năm thực hiện công tác chi trả chế độ BHXH và giải quyết chính sách cho người lao động tham gia và được hưởng BHXH đã có rất nhiều hiện tượng cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm gây thất thoát tiền của quỹ BHXH. Tình trạng này bắt nguồn từ các kẽ hở của các văn bản chính sách về BHXH và cần tự chính ý thức của các cá nhân đơn vị.
Trong quản lý chi hoạt động thường xuyên và chi xây dựng cơ sở vật chất cho hệ thống BHXH còn có một số hiện tượng cần khắc phục như có một số ít ban quản lý chưa có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực dự án còn lơ là trách nhiệm của mình trong quá trình giám sát thi công.
Hoạt động đầu tư quỹ BHXH nhàn rỗi chưa đem lại kết quả cao do lĩnh vực đầu tư còn hạn chế, chưa có riêng một bộ phận trực thực hiện công việc này.
Trên đây là những thành tựu và khó khăn cơ bản trong qáu trình quản lý tài chính BHXH Việt Nam những năm vừa qua. Trên cơ sở đó tôi xin đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại để hoàn thiện công tác quản lý tài chính BHXH Việt Nam trong giai đoạn tới.
Phần III
Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính BHXH ở Việt Nam
I . Mục tiêu chiến lược Phát triển ngành bhxh
đến năm 2010
Trên đà phát triển kinh tế như hiện nay nhu cầu được BHXH đã được mở rộng hơn tới phần lớn nếu không nói toàn xã hội. Do vậy NSNN không thể đảm bảo phần lớn trong nguồn chi cho BHXH. Hơn nữa chủ trương tại Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9 có ghi : “ Từng bước mở rộng vững chắc hệ thống bảo hiểm và an ninh xã hội tiến tới áp dụng chế độ BHXH cho mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân”.
Vì thế ngành BHXH Việt Nam đã hoạch định mục tiêu phát triển ngành BHXH Việt Nam đến năm 2010 như sau.
1. Kiện toàn hệ thống pháp luật về BHXH
- Sắp xếp lại toàn bộ các văn bản quy định về BHXH như loại bỏ những nội dung không phù hợp và có kế hoạch sửa đổi bổ sung những vấn đề đặt ra trong tình hình mới, cụ thể là một số chế độ quy định tại Điều lệ BHXH ban hành kèm theo nghị định 12/CP (ngày 26.01.1995 ) và nghị định 45/CP (ngày 15.07.1995 ) của chính phủ.
- Khẩn trương xây dựng Luật BHXH theo Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc đắt ra và Nghị quyết của quốc hội khoá 9 nhằm tiến tới quản lý Nhà nước này bằng Luật - đỉnh cao của hiệu lực pháp lý.
- Kiện toàn hệ thống pháp luật về tổ chức quản lý và công tác BHXH, xây dựng quy chế vận hành đủ sức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong thời gian tới của ngành BHXH Việt Nam. - Đề ra những chính sách cụ thể cho hoạt động của BHXH Việt Nam về quy chế quản lý tài chính thống nhất đảm bảo đủ nguồn thu, chống bao cấp, bảo toàn và tăng trưởng quỹ.
- Tăng cường công tác thanh tra kiểm tra việc thực hiện chính sách BHXH nhằm đảm bảo các quy định có liên quan được thực hiện đầy đủ đúng đắn kịp thời.
2. Mở rộng đối tượng tham gia
Việt Nam đang đẩy mạnh mọi nổ lực đồng bộ hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 – 2020. Theo đó Việt Nam phấn đấu thực hiện CNH – HĐH đất nước, đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, kỹ thuật đồng bộ, phù hợp với lực lượng sản xuất giữ vững an ninh chính trị, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh... Với bối cảnh trên Việt Nam cũng phấn đầu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân GDP sẽ tăng từ 8 đến 10 lần so với năm 1990. Kinh tế phát triển sẽ thu hút được nhiều lao động, đồng thời thu nhập của người lao động cũng được cải thiện và nâng cao, điều này đặc biệt quan trọng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng đối tượng tham gia.
Ngành BHXH sẽ cố gắng thu hút được tất cả mọi đối tượng lao động thuộc thành phần kinh tế tham gia. Mở rộng đối tượng tham gia là khâu mở đầu rất quan trọng trong chiến lược phát triển của ngành BHXH nước ta, nó vừa là mục tiêu trước mắt vừa là mục tiêu lâu dài của ngành BHXH Việt Nam. Thực hiện mục tiêu này sẽ thu nhiều kết quả rất quan trọng trong đó chủ yếu tăng được nguồn đóng góp vào quỹ BHXH và đảm bảo an toàn xã hội, góp phần thực hiện chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước.
Mở rộng đối tượng tham gia BHXH trước tiên phải nhằm mở rộng các đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, sau đó triển khai mở rộng loại hình BHXH tự nguyện, tiến tới áp dụng BHXH bắt buộc cho tất cả mọi người lao động, coi đó là phương thức đảm bảo công bằng và an toàn xã hội. Trước tiên đối với loại hình BHXH bắt buộc, trong thời gian tới sẽ mở rộng hơn đối với một số đối tượng khác ngoài đối tượng đã tham gia BHXH hiện có như:
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có dưới 10 lao động.
Người lao động làm việc trong hợp tác xã có quan hệ hợp đồng lao động.
Người lao động trong các hộ gia đình ( làng nghề...) có thuê mướn lao động.
Còn đối với loại hình BHXH tự nguyện ( nghĩa là bản thân người lao động có nguyện vọng tự giác tham gia để được hưởng BHXH theo quy định của Nhà nước) trước mắt đề nghị Chính phủ cho thi hành loại hình này với một số đối tượng sau :
- Xã viên các hợp tác xã nông nghiệp, ngư nghiệp.. Theo nghị quyết đại hội Đảng 9 “ Mở rộng chế độ BHXH đối với người lao động ở các thành phần kinh tế” Bộ Lao động – Thương binh và xã hội đang triển khai nghiên cứu xây dưng chế độ BHXH cho nông dân và các xã viên hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp dịch vụ .
- Người lao động làm việc trong các hộ gia đình có đăng ký kinh doanh, người Việt Nam đi lao động có thời hạn ở nước ngoài do Nhà nước quản lý, người nước ngoài làm Việt Nam.
- Người lao động tự do khác.
Thực hiện mở rộng đối tượng tham gia BHXH trong mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế toàn ngành BHXH đến năm 2010, ngành BHXH phấn đấu thu hút được khoảng 8 triệu người tham gia loại hình BHXH tự nguyện và dự kiến từ nay đến thời điểm đó mỗi năm số người tham gia đóng BHXH ở diện bắt buộc sẽ tăng bình quân khoảng 1,2 triệu người, từ năm 2001 là 4,4 triệu người lên 6,5 triệu người vào năm 2005 và sẽ là 9 triệu người vào năm cuối cùng của chiến lược năm 2010.
Hiện nay tỷ lệ người tham gia đóng BHXH trong tổng số lao động còn ở mức khiêm tốn chỉ khoảng 12 %, theo mục tiêu trên năm 2010 con số này sẽ đạt khoảng 30 %.
3. Quản lý quỹ BHXH
Quỹ BHXH phải được quản lý tập trung, thống nhất, hạch toán độc lập với NSNN và được Nhà nước bảo hộ.
Nguồn hình thành quỹ chủ yếu từ sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước bảo hộ trong những trường hợp cần thiết và lãi từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ nhàn rỗi. Quỹ BHXH được thiết kế theo mô hình tồn tích và chuyển giao sử dụng giữa những người tham gia BHXH và qua các thế hệ. Còn mức hưởng của các chế độ BHXH được xây dựng theo nguyên tắc điều tiết phân phối lại, có lợi cho những cá nhân có thu nhập thấp khi họ gắp phải những biến cố đã quy định trong Điều lệ BHXH, quỹ phải được tập trung không chia nhỏ thành các quỹ thành phần theo các loại hình chế độ, theo chế độ trợ cấp hoặc theo bất kỳ tiêu chí nào khác. Tuy nhiên quỹ BHXH cũng phải được phân cấp cho đúng với tính chất của nó để thuận tiện cho việc quản lý, kịp thời phát hiện những dấu hiệu bất thường có thể xày ra đối với quỹ để có ngay biện pháp xử lý đối phó kịp thời.
- Mức đóng góp vào quỹ BHXH phải được xác định theo tỷ lệ đóng góp tiền lương thực tế chứ không xác định theo thang bảng lương như hiện nay. Tỷ lệ đóng góp phải được điều chỉnh tăng lên từng bước theo nhịp độ phát triển của nền kinh tế nhưng không nhưng vẫn bảo đảm được cuộc sống hiện tại của người lao động, trong đó nâng dần tỷ lệ đóng góp của người lao động.
- Đối với chế độ BHXH được hưởng, mục tiêu đến năm 2010 sẽ là từng bước giảm dần tỷ lệ hưởng các chế độ BHXH, đặc biệt đối với chế độ hưu trí nhưng vẫn phải đảm bảo cuộc sống cho họ.
- Điều chỉnh độ tuổi nghỉ hưu cho người lao động ( cả nam lẫn nữ) do trong thời gian tới tuổi thọ trung bình sẽ tăng theo dự báo năm 2010 tuổi thọ bình quân đạt 71 tuổi. Do đó việc điều chỉnh độ tuổi nghỉ hưu sẽ giúp cân đối thời gian đóng và thời gian hưởng chế độ hưu trí hợp lý.
- Trong thời gian tới sẽ phấn đấu giảm dần nguồn chi trả từ NSNN tăng nhanh nguồn lực của quỹ để tiến tới quỹ BHXH tự cân đối thu chi.
4. Vấn đề hoạt động đầu tư quỹ
Hoạt động đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ, vì thế đề nghị Chính phủ cho phép BHXH Việt Nam thành lập Công ty đầu tư tài chính ( thuộc hệ thống BHXH Việt Nam) để có thể chuyên trách giúp Tổng giám đốc thực hiện công tác đầu tư. Đối với các lĩnh vực được phép đầu tư BHXH Việt Nam dự kiến trình Chính phủ cho phép mở rộng chức năng ưu tiên cho quỹ được đầu tư vào các dự án lớn có tầm chiến lược quốc gia theo hình thức liên doanh, góp vốn cổ phần và các loại hình đầu tư có lãi và rút vốn khi cần thiết.
Hoạt động này ngày càng phải phát huy vai trò quan trọng của mình trong việc bổ sung vào nguồn hình thành quỹ BHXH và cung cấp vốn đầu tư phát triển xã hội theo định hướng của Đảng và Nhà nước, nhất là những lĩnh vực, những ngành tạo ra nhiều việc làm, đạt hiệu quả cao về mặt xã hội.
II. Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính BHXH ở Việt Nam
Căn cứ vào nội dung của công tác quản lý tài chính BHXH ở Việt Nam cho thấy để hoàn thiện công tác này cần phải hoàn thiện trong từng nội dung cụ thể :
1. Hoàn thiện phương thức quản lý thu
Hạn chế lớn nhất trong công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH là không quản lý được đầy đủ người lao động tham gia BHXH thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Do đó để nâng cao được hiệu quả công tác quản lý thu , ta phải tiến hành nâng cao hiệu quả công tác quản lý đối tượng tham gia thuộc khu vực này. Muốn xây dựng được giải pháp cụ thể, có chiều sâu, trước mắt cần giải quyết một số vấn đề cụ thể, đó là cần phải xác định rõ đối tượng tham gia BHXH trong khu vực ngoài quốc doanh là đối tượng bắt buộc(hay không bắt buộc ) được quy định trong bộ Luật lao động, Luật doanh nghiệp, điều lệ BHXH và các văn bản pháp luật khác. Tiếp đó phối hợp với các cơ quan quản lý liên quan ở trung ương và địa phương thực hiện thống kê đầy đủ số đơn vị sử dụng lao động và số lượng người lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Nếu thời gian tới triển khai loại hình BHXH tự nguyện, các yêu cầu trên đòi hỏi phải được thực hiện tương tự như đối với loại hình BHXH bắt buộc.
Bên cạnh đó công tác thu BHXH đối với các đơn vị sử dụng lao động cũng gặp rất nhiều khó khăn, và đặc biệt là đối với các đơn vị ngoài quốc doanh. Đối với các đơn vị ngoài quốc doanh việc thu BHXH của ngành BHXH thực hiện rất vất vả, hiệu quả không cao. ở một chừng mực nào đó kết quả thu BHXH ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh phản ánh khá rõ ràng năng lực tổ chức thực hiện, ý thức trách nhiệm của cán bộ quản lý cũng như cán bộ chuyên quản lý thu BHXH, bởi vì thu BHXH đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh là vấn đề rất hóc búa, hoàn toàn không đơn giản. Hiện nay chưa có các quy định giao chỉ tiêu thu BHXH khu vực ngoài quốc doanh thành chỉ tiêu pháp lệnh, bắt buộc phải hoàn thành. Vì thế để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ này các cán bộ thu BHXH cần phải tranh thủ tích cực tối đa sự ủng hộ của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương và các ngành có liên quan, đồng thời tăng cường giám sát các đơn vị sử dụng lao động và để phổ biến tuyên truyền chính sách BHXH cũng như trách nhiệm và quyền lợi. Từ đó khéo léo động viên các đối tượng này tham gia BHXH và tích cực đóng BHXH đầy đủ để hoàn thành trách nhiệm của họ.
Hơn nữa , do chi phí thu BHXH ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cao hơn gấp 5 đến 10 lần chi phí thu BHXH ở các khu vực khác . Do vậy , nên chăng cần kết hợp việc giao chỉ tiêu thu BHXH ở khu vực này thành chỉ tiêu pháp lệnh , đồng thời tăng chi phí hợp lý để cán bộ nghành BHXH có đủ điều kiện tạo điều kiện thuận lợi cho họ thu tốt BHXH ở khu vực này ? Kèm theo là công tác thi đua , khen thưởng cho đơn vị nào tổ chức thu tốt , thực hiện việc nhân những điển hình tiên tiến về công tác này trong toàn ngành , để động viên khuyến khích công tác thu trong hệ thống BHXH Việt nam .
Thu BHXH ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh là công việc mới và khó , nhưng vẫn có thể khắc phục và hoàn thành tốt nếu như có sự phối hợp đồng bộ của nhà nuớc và cơ quan hữu quan , cơ quan BHXH các cấp nhằm từng bước khắc phục những khó khăn mang tính khách quan, đồng thời đòi hỏi chính sự nỗ lực, tháo gỡ sớm những vướng mắc chủ quan của ngành BHXH Việt Nam thì chắc chắn hiệu quả thu cũng như quản lý các đối tượng tham gia BHXH thuộc khu vực này sẽ cao hơn.
Cùng với sự nỗ lực trong việc đẩy mạnh hiệu quả quản lý thu BHXH ở khu vực ngoài quốc doanh, quản lý thu BHXH các khu vực còn lại theo quy định cũng phải luôn được quan tâm theo dõi. Để thực hiện công tác này cần phải tổ chức điều tra thống kê, tổng hợp nhằm nắm chắc chắc số liệu cần thiết về các đối tượng tham gia cũng như số tiền BHXH phải nộp của họ. Trên cơ sở đó sẽ kịp thời phát hiện được những vấn đề vướng mắc để đề xuất ngay những giải pháp, hạn chế tối đa vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Một hạn chế nữa trong quản lý thu BHXH là vấn đề nợ đọng tiền BHXH của các đơn vị sử dụng lao động. Các hành vi vi phạm nghĩa vụ nộp BHXH cần phải được xử lý nghiêm minh kiên quyết. Có thể giao thêm quyền xử lý cho BHXH Việt Nam để tăng thêm tính cưỡng chế trong việc cấp hành nghĩa vụ nộp BHXH, hoặc cần phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm nộp BHXH như Thanh tra lao động, Thanh tra nhà nước, các tổ chức công quyền... để tăng cường kiểm tra giám sát đôn đốc việc kê khai lao động, quỹ tiền lương thực tế và đóng nộp BHXH. BHXHViệt Nam có thể phối hợp với các Bộ ngành có liên quan với Tổng Liên Đoàn Lao Đông Việt Nam nghiên cứu trình Chính phủ về việc giải quyết tình trạng nợ đọng BHXH kéo dài để chính sách BHXH ngày càng ưu việt hơn.
Khắc phục tình trạng tiêu cực trong quản lý tiền thu BHXH cần phải kiên quyết không cho các đơn vị, cá nhân thu BHXH bằng tiền mặt, không được sử dụng tiền thu BHXH vào bất kỳ một công việc gì, định kỳ theo quy định phải chuyển hết số tiền thu được về tài khoả BHXH Việt Nam.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền kết hợp giải thích các chế độ, chính sách, quyền lợi và trách nhiệm của người sử dụng lao động và người lao động khi tham gia BHXH để họ hiểu và tự giác tham gia đóng BHXH đầy đủ, kịp thời.
2. Hoàn thiện phương thức quản lý chi BHXH
Trong quá trình thực hiện chi trả BHXH cho đối tượng thụ hưởng hiện nay công tác quản lý là rất khó bởi vì phần lớn chi trả được thực hiện bởi công cụ quản lý thủ công. Do vậy trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả công tác chi BHXH, BHXH Việt Nam cần phải đào tạo một đội ngũ cán bộ chuyên sâu, có trình độ về tin học để áp dụng công tác quản lý chi trả các chế độ BHXH bằng hệ thống tin học qua đó đảm bảo nhanh chính xác kịp thời trong qua trình thực hiện chi trả.Thực hiện quản lý chi BHXH nhằm giải quyết chế độ BHXH và chi trả kịp thời chính xác, đúng đối tượng, tận tay người hưởng.Đảm bảo an toàn tránh thất thoát quỹ BHXH. Cần thực hiện một số giải pháp sau :
Quản lý chi đối với các chế độ hưu trí, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và tử tuất :
+ Tiến hành kiểm tra, rà soát lại toàn bộ hồ sơ đối với những đối tượng đang hưởng BHXH có đến trước thời điểm 01.01.1995.
+Đối với những đối tượng mới phát sinh, phải thực hiện đúng quy trình lập, kiểm tra và thẩm định hồ sơ theo ba cấp.
+ Cần có sự phối hơp chắt chẽ giữa BHXH các huyện trong tỉnh, giữa BHXH các tỉnh với BHXH Việt Nam trong việc quản lý sự biến động do di chuyển, chết, hết thời gian hưởng của từng đối tượng hưởng BHXH.
+ Tăng cường các biện pháp quản lý tiền mặt trong tất cả các công đoạn : giao nhận ở Kho bạc, Ngân hàng, trên đường vận chuyển đến các xã phường, tổ dân phố, trong quá trính tổ chức chi cho từng người.
+ ở một số địa phương có địa hình phức tạp, đối tượng hưởng BHXH ít, có thể kết hợp với ngành Bưu điện để tổ chức chi trả kịp thời hàng tháng cho đối tượng.
+ Thực hiện thí điểm mô hình chi trả qua tài khoản cá nhân. Cần phối hợp với hệ thống Ngân hàng, Kho bạc và vận động các đối tượng mở tài khoản cá nhân. Tổ chức chu đáo dịch vụ chi theo mô hình này.
Quản lý chi đối với các chế độ ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức :
+ Phối hợp chặt chẽ với tổ chức y tế tổ chức công đoàn ở các đơn vị để kiểm tra giám sát việc cấp giấy chứng nhận nghỉ ốm, nghỉ thực hiện kế hoạch hoá gia đình, thai sản và nghỉ dưỡng sức để khắc phục triệt để tình trạng làm giả hồ sơ, khai khống thời gian nghỉ để rút tiền từ quỹ BHXH không đúng chế độ
+ Phối hợp với các cơ quan thanh tra, kiểm toán, tài chính, kho bạc ... để kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chế độ BHXH và chi BHXH cho người lao động tại đơn vị sử dụng lao động do BHXH tỉnh, BHXH huyện uỷ quyền chi trả hộ.
+ Thực hiện chi trả trực tiếp cho người lao động ở các đơn vị sử dụng lao động qua tài khoản cá nhân.
3. Nâng cao hiệu quả chi hoạt động bộ máy.
Nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý chi hoạt động bộ máy trong thời gian tới em xin có một số kiến nghị sau:
Chi hoạt động đầu tư cơ bản :
+ Tăng cường năng lực quản lý đầu tư xây dựng ở cả BHXH Việt Nam và ở các Ban quản lý dự án các địa phương.
+ Phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các quy định, trình tự về công tác quản lý đầu tư, thực thi công việc đúng thẩm quyền, trách nhiệm theo phân cấp quản lý.
+ Tăng cường công tác kiểm tra giám sát, thẩm định các giai đoạn từ khâu lập dự án đến tổ chức thi công, bàn giao đưa công trình vào sử dụng.
+ Các ban quản lý dự án kịp thời thông tin, báo cáo tiến độ thực hiện của từng dự án, kiến nghị biện pháp xử lý khi có những phát sinh vượt quá thẩm quyền. Không tự tiện điều chỉnh quy mô thiết kế kỹ thuật.
+ Các ban qunả lý dự án phối hợp tốt hơn nữa với các cơ quan quản lý Nhà nước địa phương như Sở Kế Hoạch Đầu Tư, Sở Tài Chính Vật Giá, Sở Xây Dựng, Sở Địa Chính, chi nhánh quỹ hỗ trợ phát triển để tranh thủ được sự giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi trong công tác thực hiện quản lý các dự án đầu tư ở địa phương đảm bảo đúng quy định của Nhà nước.
Chi cho hoạt động thường xuyên của bộ máy quản lý.
Để tổ chức thực hiện tốt chủ trương khoán biên chế và chi cho hoạt động thường xuyên của bộ máy quản lý theo Quyết định số 100/2001/QĐ-TTg ngày 28/6/2001 của Thủ tướng chính phủ trong toàn ngành cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
+ Quán triệt đầy đủ trong các văn bản của Thủ tướng chính phủ, của Bộ Tài chính và của BHXH Việt Nam. Xây dựng và tổ chức thảo luận các phương án khoán chi, kế hoạch triển khai cụ thể của đơn vị với tinh thần dân chủ, công khai để mọi người trong đơn vị thống nhất cùng thực hiện.
+ Rà soát lại chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị, xây dựng lề lối làm việc, phân công trách nhiệm rõ ràng cho từng bộ phận, từng đơn vị. Bố trí, sắp xếp cán bộ công chức, viên chức đúng người, đúng việc. Xây dựng định mức, khối lượng công việc và giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cán bộ, công chức, viên chức theo đúng chức danh của họ. Định kỳ tháng, quý, năm đánh giá kết quả lao động (thời gian làm việc, khối lượng, chất lượng công việc hoàn thành ...) của từng người, từng bộ phận, từng đơn vị để xếp loại làm căn cứ tính tiền lương và tiền công được hưởng.
+ Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện tiết kiệm kinh phí đối với những khoản chi : nước, điện thoại, văn phong phẩm, tiếp khách, hội nghị, công tác phí, xăng xe...
4. Khẳng định rõ vai trò của hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.
Để hoạt động đầu tư quỹ BHXH đạt hiệu quả cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, xem xét bổ sung, hoàn thiện về cơ chế, chính sách đối với hoạt động đẩu tư quỹ BHXH:
Thứ nhất : Tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư quỹ BHXH:
Đề nghị Thủ tướng chính phủ có quy định cụ thể hơn để phân cấp thẩm quyền quyết định ( của Thủ tướng chính phủ, của Hội đồng quản lý và của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam) dùng quỹ BHXH tạm thời nhàn rỗi để hoạt động đầu tư, gồm nội dung sau :
+ Lĩnh vực đầu tư (trong đó quy định tỷ lệ đầu tư vào từng lĩnh vực)
+ Hình thức đầu tư (thông qua các tổ chức tài chính, tiền tệ của Nhà nước hay đầu tư trực tiếp, tỷ lệ đầu tư theo từng hình thức)
+ Thời hạn đầu tư và lãi suất tối thiểu khi đầu tư vào từng lĩnh vực, từng hình thức và từng dự án.
+ Quy trình xây dựng, thẩm định, quyết định phương án(hoặc dự án) đầu tư và quản lý đầu tư.
Thứ hai : Về tỷ lệ dùng quỹ BHXH nhàn rỗi để đầu tư ;
Đối với nước ta hiện nay và trong thời gian một vài năm tới, không nên dùng quỹ BHXH để đầu tư ra nước ngoài vì thị trường tài chính trong nước đang cần thu hút nhiều vốn đặc biệt là nguồn vốn trong nước. Chỉ nên dùng không quá 10% quỹ BHXH tạm thời nhàn rỗi để đầu tư vào các lĩnh vực có khả năng thu lợi nhuận cao hơn khi đầu tư lợi nhuận thông qua các tổ chức tài chính, tiền tệ của Nhà nước.
Thứ ba : Về phân cấp quyết định đẩu tư :
+ Đối với các hình thức đầu tư : cho NSNN, cho các Ngân hàng thương mại Nhà nước, Quỹ hỗ trợ phát triển, mua kỳ phiếu, công trái do Kho bạc Nhà nước và các Ngân hàng thương mại của Nhà nước phát hành(kể cả phát hành qua thị trương chứng khoán), giao cho Tổng Giám Đốc BHXH Việt Nam quyết định.
+ Đối với hình thức đầu tư vốn vào các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh hoặc liên doanh góp vốn đầu tư cùng các doanh nghiệp của Nhà nước, thẩm quyền quyết định đầu tư được phân cấp như đối với các Tổng công ty 91 quy định tại Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 và Nghị định sô 12/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000 của chính phủ.
+ Đối với hình thức đầu tư qua thị trường chứng khoán để đầu tư mua cổ phiếu của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phát hành do Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam quyết định.
Thứ tư : Đề nghị Nhà nước có chính sách khuyến khích và ưu đãi đối với hoạt động đầu tư quỹ BHXH
Thứ năm : Hình thành tổ chức đầu tư độc lập thuộc BHXH Việt Nam khi thực hiện phương thức dùng quỹ BHXH để đầu tư trực tiếp.
5. Giải pháp nhằm cân đối quỹ BHXH dài hạn.
Nguyên tắc hoạt động cơ bản nhất của quỹ BHXH là cân đối thu chi. Vì vậy, để đảm bảo cân đối quỹ trong ngắn hạn và dài hạn, đòi hỏi quỹ BHXH phải được định kỳ phân tích tài chính (trên cơ sở thu nhập các số liệu về tỷ lệ đóng BHXH.theo nguyên tắc đóng hưởng, tỷ lệ nhân khẩu học, đẩu tư quỹ, số người hưởng BHXH hiện hành, mới hưởng, đã hưởng phân theo các loại trợ cấp theo tuổi, theo giới tính, mức đóng góp, mức trợ cấp ...) để có thể quản lý tài chính (đặc biệt là tài chính dài hạn của các chế độ dài hạn ) quỹ BHXH trong một thời gian dài.
Những giải pháp chủ yếu để cân đối ổn định quỹ BHXH:
- Tăng doanh thu cho quỹ bằng việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH và nâng cao hiệu quả của đầu tư quỹ BHXH nhàn rỗi.
- Để mở rộng đối tượng tham gia BHXH trong chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam đến năm 2010 đã đề cập đến mục tiêu này. Chiến lược phát triển ngành đặc biệt chú trọng tới việc mở rộng đối tượng tham gia với việc mở rộng BHXH bắt buộc cho người lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có dưới 10 lao động, người làm việc trong các hợp tác xã phi nông nghiệp, ngưòi lao động tự do có thể là những người làm việc thuộc các tổ chức bán công, dân lập có thuê mướn lao động, người làm việc thuộc các hộ gia đình có đăng ký kinh doanh, người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài có thời hạn do Nhà nước quản lý và người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Bên cạnh đó, dự kiến phát triển BHXH tự nguyện mà đối tượng tham gia là xã viên hợp tác xã nông, lâm, ngư nghiệp, người lao động tự do và có thể cả những đối tượng đã tham gia BHXH bắt buộc muốn tham gia thêm loại hình này. Vì vậy, hệ thống BHXH cần có những bước đi thích hợp tuỳ vào điều kiện kinh tế xã hội của nước ta cũng như trình độ quản lý của ngành BHXH để thu hút tất cả các đối tượng thuộc lao động thuộc các thành phần đó tham gia BHXH với các hình thức BHXH phù hợp, đa dang, tạo lập môi trường BHXH bình đẳng chống độc quyền đáp ứng nhu cầu của người lao động về chất lượng hoạt động của BHXH ngày càng cao, đảm bảo thực hiện có hiệu quả chính sách BHXH của Nhà nước.
- Mặc dù mở rộng đối tượng tham gia BHXH cũng sẽ đặt ra một vấn đề lớn trong việc mở rộng nguồn thu cho quỹ BHXH cũng sẽ tiềm ẩn sự tăng lên về chi cho quỹ trong việc thực hiện chi trả các chế độ BHXH. Tuy vậy. Mở rộng đối tượng tham gia BHXH sẽ có tác dụng trì hoãn quá trình già hóa trong tương lai của quỹ, giúp quỹ có thể cân bằng thu chi lâu hơn.
Cùng với việc mở rộng đối tượng tham gia quỹ BHXH, quỹ có thể có nguồn thu tăng lên đáng kể từ việc đầu tư từ quỹ BHXH nhàn rỗi nếu như việc đầu tư này có hiệu quả. Nhưng trước hết đứng trước thực trạng đầu tư quỹ BHXH hiện nay ở nước ta mục tiêu trước mắt cần phấn đấu là phải đầu tư quỹ ra sao để lãi suất từ đẩu tư phải bù đắp được sự mất giá của giá trị thực tế của quỹ và đảm bảo đủ tiền để chi cho đẩu tư xây dựng cơ bản(các trụ sở làm việc của hệ thống BHXH Việt Nam chiếm tỷ lệ rất lớn trong nguồn chi xây dựng cơ bản - đựoc lấy từ lãi đầu tư quỹ )..
Bên cạnh việc tăng doanh thu cho quỹ BHXH ta cũng cần phải điều chỉnh các khoản chi quỹ sao cho hợp lý. Theo dự báo tuồi thọ bình quân sẽ tăng dần , do đó tuổi nghỉ hưu cần điều chỉnh để tăng tương ứng. Hiện nay tuổi nghỉ hưu với nữ là 55 tuổi, do đó thời gian tới có thể tăng lên là 60 tuổi nhưng phải thực hiện tăng dần trong một thời gian dài. Mặt khác việc tăng tuổi nghỉ hưu sẽ tạo điều kiện cho các cán bộ khoa học, giáo sư tiến sĩ . . .có thời gian cống hiến lâu dài hơn cho công việc và sự nghiệp.
Song song với việc tăng độ tuổi nghỉ hưu cho người lao động các phương thức nghỉ hưu sớm cũng cần phải được xem xét lại và loại bỏ dần dần trong tương lai. Trước mất việc quy định mỗi năm nghỉ hưu sớm cần phải tăng tỷ lệ khấu trừ lương lên tới 6 % cho lao động nam để không khuyến khích việc nghỉ hưu sớm.
Tỷ lệ hưởng trợ cấp hưu trí ở nước ta hiện nay là quá cao so với các nước khác (45%-60%) Công ước ILO cũng quy định tối thiểu mức hưởng là 45% sau 30 năm đóng BHXH, vì thế tỷ lệ 75% như ở nước ta cần sớm được giảm xuống nhằm tránh việc thâm hụt quỹ BHXH sớm.
Mức đóng BHXH hiện tại của người sử dụng lao động là 15%, người lao động là 5% dự kiến sẽ tăng tương ứng là 16% và 6%. Cùng với tăng số đóng góp này là kèm theo việc mở rộng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Trên thực tế các doanh nghiệp nước ta đã phản ứng lại dự kiến này bơit theo họ, đóng góp cho các chính sách xã hội ( BHXH,công đoàn phí và cả bảo hiểm y tế... ) chiếm tới 27,35 tổng kinh phí đầu vào làm giá thành sản phẩm tăng cao, làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp, hơn nữa khi thực hiện AFTA sức ép cạnh tranh lại càng lớn hơn, Về phía người lao động họ cho rằng thu nhập hiện nay đã thấp lại phải đóng thêm như vậy có hợp lý không ?
Theo ông Nguyễn Xuân Bến – BHXH Việt Nam tại Hội thảo xây dựng Luật BHXH năm 2001 cho rằng nên tăng mức đóng góp như trên (người lao động đóng 6% lương tháng, người sử dụng lao động đóng 16% quỹ lương), trong đó 2% đóng thêm là dành cho quỹ BHXH thất nghiệp, sau năm 2010 mới nên điều chỉnh mức đóng. Theo tính toán của các chuyên gia ILO tỷ lệ đúng phải là30% chứ không phải là 20% như hiện nay nếu mức hưởng giữ nguyên.
Kết luận
B
ảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, triển khai thực hiện chính sách BHXH góp phần quan trọng để ổn định cuộc sống về mặt vất chất và tinh thần cho ngưòi lao động, đồng thời đảm bảo an toàn xã hội, đẩy nhanh sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hoạt động quản lý tài chính BHXH là một trong những hoạt động quan trọng và chủ yếu của toàn bộ hoạt động quản lý sự nghiệp BHXH. Nhà nước thành lập một tổ chức thống nhất theo hệ thống dọc từ Trung ương đến cơ sở để tổ chức thực hiện tất cả các chế độ BHXH đối với mọi người lao động. Quỹ BHXH được quản lý tập trung thống nhất, hạch toán độc lập với Ngân sách Nhà nước theo chế độ tài chính và pháp luật của Nhà nước quy định. Quản lý toàn diện, đồng bộ, chặt chẽ, an toàn, chính xác, kịp thời và hiệu quả quỹ BHXH. Quản lý tập trung, thống nhất, đảm bảo công bằng, công khai, dân chủ. Phân cấp và quy định cụ thể rõ ràng chức năng, nhiệm vụ quyền hạn trách nhiệm của từng cấp, từng đơn vị và từng cá nhân khi thực hiện nhiệm vụ quản lý quỹ BHXH. Hoạt động quản lý quỹ BHXH là một trong những hoạt động quan trọng và chủ yếu của toàn bộ hoạt động quản lý sự nghiệp BHXH nhằm quản lý toàn diện, thống nhất, đồng bộ, tập trung nhưng vẫn đảm bảo công bằng, dân chủ, công khai đối với tất cả các loại vốn và nguồn vốn, tài sản của các đơn vị thuộc hệ thống BHXH Việt Nam. Quản lý quỹ BHXH trong hệ thống BHXH Việt Nam là việc tính toán thẩm định, kiểm tra, kiểm soát, hạch toán, kế toán đầy đủ, kịp thời, chính xác tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh của các quan hệ kinh tế trong quá trình hình thành sử dụng quỹ BHXH. Thực hiện tốt công tác quản lý quỹ BHXH sẽ góp phần thúc đẩy phát triển bền vững và ổn định sự nghiệp BHXH.
Do hạn chế về trình độ cũng như nhận thức của mình, chuyên đề thực tập tốt nghiệp với đề tài “Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính BHXH ở Việt Nam” không tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy em rất mong có sự góp ý của các thầy cô và những ai quan tâm đến chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Đề tài : Hoạt động quản lý tài chính trong BHXH Việt Nam. Thực trạng và giải pháp - Đỗ Văn Sinh – Cơ quan BHXH Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế - 2001
2. Đề tài : Hoạt động quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam – Nguyễn Việt Hà - Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân.
Luận văn tốt nghiệp -2001
3. Giáo trình Kinh tế bảo hiểm - Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân.
Nhà xuất bản Thống Kê - 2000
4. Giáo trình Quản lý tài chính quản lý Nhà nước - Trường Đại Học Tài Chính Kế Toán
Nhà xuất bản Tài Chính – 2000
5. Tạp chí Bảo hiểm xã hội – Tạp chí của BHXH Việt Nam.
6. Tạp chí lao động và xã hội – Cơ quan thông tin lý luận nghiệp vụ của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
Tạp chí nghiên cứu tài chính kế toán .
Tạp chí Tài chính.
Tạp chí thông tin tài chính.
Thời báo kinh tế Việt Nam.
Mục lục
Lời mở đầu …………………………………………………………………….1
Phần I : lý luận cơ bản về tài chính bảo hiểm xã hội………….3
i. một số nội dung chính về bảo hiểm xã hội……………………...3
1. Khái niệm Bảo Hiểm Xã Hội………………………………………………….. 3 2. Những nguyên tắc cơ bản của BHXH…………………………………………..4
3. Các chế độ BHXH………………………………………………………………5
4. Cấp độ thực hiện BHXH………………………………………………………...6
ii. quỹ và quản lý quỹ tài chính bhxh……………………………...7
Khái quát chung về nguồn quỹ BHXH…………………………………………7
Nguồn quỹ BHXH……………………………………………………………..8
Phân loại nguồn quỹ BHXH…………………………………………………..8
Quản lý tài chính BHXH ………………………………………………………9
Quản lý thu BHXH……………………………………………………………9
Quản lý chi trợ cấp các chế độ BHXH………………………………………11
Quản lý chi hoạt động bộ máy BHXH………………………………………12
Quản lý hoạt động đầu tư quỹ BHXH……………………………………….12
Cân đối thu chi quỹ BHXH………………………………………………….13
Phần ii : Thực trạng công tác quản lý tài chính bảo hiểm xã hội ở việt nam
giới thiệu chung về bhxh việt nam...…………………………...15
1. Quá trình hình thành BHXH Việt Nam ……………………………………….15
2. Quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam………………………….18
2.1 Chính sách BHXH áp dụng từ năm 1995…………………………………….18
2.2 Tổ chức bộ máy cơ quan BHXH Việt Nam…………………………………..19
ii. thực trạng quản lý tài chính bhxh ở việt nam ……………22
Giai đoạn trước năm 1995……………………………………………………22
Quản lý tài chính của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội………………22
Quản lý tài chính của Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam……………….24
Giai đoạn sau năm 1995……………………………………………………...25
Quản lý thu BHXH…………………………………………………………..26
Quản lý chi trợ cấp các chế độ BHXH………………………………………35
Quản lý chi hoạt động bộ máy BHXH……………………………………….41
Quản lý hoạt động đầu tư quỹ BHXH………………………………………..44
Quản lý cân đối thu chi quỹ BHXH…………………………………………48
Đánh giá về công tác quản lý tài chính ở Việt Nam………………………….50
Những thành tựu……………………………………………………………..50
Những hạn chế………………………………………………………………52
Phần iii : giảI pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính bảo hiểm xã hội ở việt nam
i. mục tiêu chiến lược phát triển ngành bhxh đến 2010……..53
Kiện toàn hệ thống pháp luật về BHXH……………………………………....53
Mở rộng đối tượng tham gia BHXH………………………………………….54
Quản lý quỹ BHXH…………………………………………………………...55
Vấn đề hoạt động đầu tư quỹ…………………………………………………56
ii. giảI pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính bảo hiểm xã hội ơ việt nam…………………………………………….57
Hoàn thiện phương thức quản lý thu………………………………………….57
Hoàn thiện phương thức quản lý chi………………………………………….59
Nâng cao hiệu quả chi hoạt động bộ máy……………………………………61
Khẳng định rõ vai trò của hoạt động đầu tư………………………………….62
Giải pháp nhằm cân đối quỹ BHXH dài hạn…………………………………63
Kết luận ……………………………………………………………………...66
Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………...67
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0014.doc