ã Thấu chi: tức là ngân hàng chấp thuận cho khách hàng được quyền chi vượt số dư trên tài khoản tiền gửi với những điều kiện nhất định. Chi phí cơ bản đối với người vay là lãi suất đánh vào số dư thấu chi ngày. Người vay nói chung chỉ phải trả lãi số tiền đã sử dụng vì không có yêu cầu số dư bồi thường và cho trong giai đoạn số tiền bị lấy đi. Vì lý do đó, chi phí hữu hiệu của một khoản nợ thấu chi là lãi suất được định ra trên số dư thấu chi.
ã Bảo lãnh trung dài hạn mua thiết bị trả chậm: là cam kết của ngân hàng về việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho chủ đầu tư, đứng trả nhập thiết bị máy móc, thiết bị với thời hạn ít nhất là một năm trong trường hợp khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ với nhà xuất khẩu. Hình thức này được áp dụng khi chủ đầu tư không đủ khả năng trả nợ ngay một lần. Họ ký hợp đồng với bên xuất khẩu xin trả nợ dần theo giá trị của thiết bị hàng năm dưới sự bảo lãnh của ngân hàng. Hình thức này rất có lợi cho chủ đầu tư vì họ không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để mua máy móc thiết bị mà khoản tiền nay sẽ được trả dần theo một chuỗi niên kim khi các máy móc này sinh lời. Tuy nhiên, nếu chủ đầu tư không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ cho nhà xuất khẩu thì ngân hàng bảo lãnh phải đứng ra trả nợ thay cho chủ đầu tư, lúc này ngân hàng trở thành chủ nợ chính của nhà đầu tư.
81 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1510 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c NHTM Việt Nam thời gian qua có liên hệ khá chặt chẽ với điều này. Khi Ngân hàng không có khách hàng phù hợp, không có nghĩa là không có thị trường mà có thể hiểu là không khai thác được thị trường. Điều kiện của mỗi khách hàng xin vay vốn rất khác nhau, để thu hút được nhiều khách hàng cần có các hình thức tín dụng đa dạng và phù hợp. Hơn nữa theo các lý thuyết kinh tế, đa dạng hóa là một biện pháp quan trọng để giảm rủi ro. Khi các NHTM Việt Nam không có các hình thức cho vay đa dạng, nghĩa là đã tự loại bỏ cơ hội giảm rủi ro của mình .
Như vậy, có thể nói một nguyên nhân làm tăng những thiệt hại có tính chi phí cơ hội trên các hợp đồng tín dụng của các Ngân hàng Việt Nam là do tính kém phát triển về các lĩnh vực đầu tư. Giải pháp cho điều đó là cần phải tích cực mở rộng các loại hình hoạt động, cung cấp cho khách hàng nhiều tiện ích mới để tận dụng tối đa những cơ hội sinh lời tốt nhất. Thực tế là một khi Ngân hàng có các loại hình đầu tư và lĩnh vực hoạt động đa dạng, nó có thể lựa chọn những cơ hội có khả năng sinh lời tốt nhất. Điều đó đồng nghĩa với việc sẽ giảm được mức thiệt hại có tính chi phí cơ hội trên các dự án. Ngoài ra như đã nói, với các lĩnh vực hoạt động đa dạng, Ngân hàng có thể phân đều rủi ro của mình sang các lĩnh vực khác nhau, trên cơ sở đó có thể tăng được tính ổn định của mình. Em xin được đề cập đến một số hình thức đầu tư tín dụng mới với mục tiêu nghiên cứu để góp phần đa dạng hóa hoạt động của ngành Ngân hàng :
Đồng tài trợ.
Việc đông tài trợ là quá trình cho vay - bảo lãnh của một nhóm các tổ chức tín dụng (LCTD ) cho một dự án, do một TCTD làm đầu mối phối hợp các bên tài trợ để thực hiện, nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các TCTD. Các hình thức đồng tài trợ là cho vay hợp vốn; bảo lãnh, tái bảo lãnh hoặc kết hợp của các hình thức trên .
Nghiệp vụ đồng tài trợ được áp dụng trong các trường hợp sau: nhu cầu vay vốn để thực hiện dự án vượt giới hạn tối đa được cho phép vay hoặc bảo lãnh của một TCTD; do nhu cầu phân tán rủi ro của các TCTD; khả năng nguồn vốn của một TCTD không đáp ứng được nhu cầu vốn của dự án .
Theo cách làm truyền thống từ trước tới nay, các TCTD thường ngồi chờ khách hàng đem dự án tới Ngân hàng để xin vay, mà không chịu tìm kiếm các khách hàng tiềm năng nhất là trong giai đoạn hiện nay, các TCTD Việt Nam hoạt động trong môi trường khó cạnh tranh được với các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài về vốn, công nghệ và cả cách tổ chức quản lý. Do vậy, Ngân hàng ngoại thương nên căn cứ vào chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành kinh tế, của từng địa phương, của toàn nền kinh tế, liên kết với các NHTM khác để xây dựng các phương án đầu tư vốn để chủ động nguồn vốn tín đụng trung dài hạn chủ động trong công tác thẩm định, cho vay đúng mục đích, đồng thời quản lý được rủi ro của mình. Ngân hàng ngoại thương không chỉ cần liên kết với các NHTM quốc doanh mà còn cần phải liên kết với các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh. Các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài có tiềm lực về vốn vô cùng lớn nhưng do quy định của NHNN nên khả năng cho vay bằng VNĐ của các Ngân hàng này bị hạn chế. Do đó, Ngân hàng ngoại thương có thể liên kết với các Ngân hàng này cho vay bằng VNĐ hay làm trung gian cho các Ngân hàng này. Sự liên kết không chỉ giúp Ngân hàng mở rộng hoạt động tín dụng mà còn giúp nâng cao hiệu quả món vay. Bên cạnh đó, trong quá trình liên kết thực hiện dự án, Ngân hàng và đội ngũ cán bộ tín dụng cũng học hỏi được các kinh nghiệm, cách thức thẩm định dự án, phương pháp quản lý món vay, phương pháp quản lý điều hành hoạt động ... Điều này giúp cho Ngân hàng nâng cao năng lực riêng của mình trong hoạt động quản trị nói chung và hiệu quả trong hoạt động tín dụng trung dài hạn nói riêng.
Tín dụng thuê mua tài sản cố định.
Thuê - mua, thuê mua trả góp hay tín dụng thuê mua trả góp đều có chung một nội dung. Nó được coi như một hình thức cho thuê tài chính, chỉ khác ở chỗ Công ty thuê mua trực tiếp mua tài sản hoặc chế tạo tài sản cho thuê. Khi bên thuê thanh toán hết tiền thuê theo thỏa thuận của hợp đồng thuê, quyền sở hữu mặc nhiên chuyển cho bên thuê.
Với loại hình này, các máy móc thiết bị phù hợp theo yêu cầu sử dụng của người thuê, trên các nhà doanh nghiệp nắm được chất lượng của sản phẩm làm ra, khả năng tiêu thụ của chúng, nên sản xuất kinh doanh có hiệu quả, do đó xác suất rủi ro rất nhỏ. Ưu điểm của tín dụng thuê mua là các doanh nghiệp có thể đổi mới trang thiết bị máy móc, quy trình công nghệ hiện đại mà không cần đến tài sản thế chấp và một số lượng lớn vốn tự có như trong cho vay dự án.
Chính ưu điểm lớn này khiến cho tín dụng thuê mua trở thành một giải pháp vô cùng quan trọng cho các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Nhu cầu vốn trung dài hạn để mua sắm máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại của các doanh nghiệp hiện nay là rất lớn, nhưng để có thể được vay vốn của các Ngân hàng, doanh nghiệp ngoài phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả còn phải cần tới 30% vốn tự có và phải có tài sản thế chấp (đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh). Trong khi đó với hình thức này, doanh nghiệp chỉ cần có điều kiện là có phương án sản xuất kinh doanh khả thi, vì bản chất của tín dụng thuê mua đã bao hàm tài sản thế chấp trong hợp đồng thuê mua.
Tín dụng hối phiếu
Thay vì trực tiếp cho khách hàng vay tiền, Ngân hàng ký phát một giấy nhận nợ hẹn sẽ thanh toán cho người vay một khoản tiền vào một thời gian định trước trong tương lai ( khách hàng cũng đồng thời phải ký phát một giấy nhận nợ tương tự với Ngân hàng với mệnh giá và thời hạn theo thỏa thuận giữa Ngân hàng với khách hàng để bảo đảm Ngân hàng là có lợi nhận ). Sau đó khách hàng có thể dùng giấy nhận nợ đó đem thế chấp lại một Ngân hàng khác để vay vốn. Nếu khắc phục được các rủi ro đi kèm, phương thức này là một hình thức đầu tư hấp dẫn đối với Ngân hàng ( không cần thiết phải xuất tiền cho vay ).
Cho vay xây dưng nhà ở
Cho vay xây dựng nhà ở là hình thức trung dài hạn nhằm mục đích cho vay tiền xây dựng đối với các cá nhân, những cặp vợ chồng trẻ có công ăn việc làm, có thu nhập ổn định, có nhu cầu về nhà ở nhưng chưa có đủ tiền xây nhà hoặc mua nhà. Việt Nam là một quốc gia có dân số trẻ, tỷ lệ số người trong độ tuổi lao động và số cặp vợ chồng trẻ rất cao. Vấn đề nhà ở đang là một trong những ván đề cấp bách đặc biệt là ở các đô thị lớn như Hà Nội, TP HCM ... Để giải quyết nhu cầu nhà ở, ổn định đời sống cho người dân, đồng thời lại giải quyết được tình trạng ứ đọng vốn Ngân hàng thì Ngân hàng ngoại thương nên thực hiện món cho vay xây nhà theo hai cách sau:
+ Thứ nhất Ngân hàng đầu tư bằng cách mua đất, xây nhà rồi bán cho những người có nhu cầu với phương thức trả góp, lượng trả căn cứ vào thu nhập của người mua. Ngân hàng sẽ nắm quyền sở hữu nhà cho đến khi người mua trả hết tiền thì làm thủ tục chuyển giao quyền sở hữu.
+ Thứ hai, Ngân hàng cho những người có nhu cầu vay tiền để họ tự mua nhà hoặc xây nhà. Để giảm rủi ro, Ngân hàng chỉ có thể cho vay đối với những người có sẵn đất và coi quyền sở hữu mảnh đất đó là tài sản thế chấp. Người vay cũng thực hiện trả dần theo phương thức trả góp theo thu nhập.
Thí điểm áp dung loai hình cho vay theo hình thức " Không thời han ".
Theo hình thức này món cho vay sẽ không có thời hạn hoàn trả cụ thể định trước, thay nào đó Ngân hàng sử dụng hình thức có báo trước. Nghĩa là khi muốn thu nợ Ngân hàng có thể báo trước cho khách hàng. Khách hàng sẽ có một thời gian nhất định để chuẩn bị nguồn tiền cần thiết trả cho Ngân hàng. Thực tế đây là một hình thức tín dụng khá linh hoạt cả về thời hạn và lãi suất. Mức lãi suất sẽ được điều chỉnh theo một tiêu thức chung trên thị trường (chẳng hạn theo lãi suất tín phiếu kho bạc ).
1.3. Đẩy mạnh công tác tư vấn đầu tư
Trong thời đại hiện nay, khi nền kinh tế đã phát triển, hệ thống thông tin đã rộng khắp, mạng lưới tin học đã đi sâu vào mọi lĩnh vực ngành nghề thì việc đáp ứng các hiểu biết của con người trở lên cần thiết hơn. Cũng như nhiều trung tâm tư vấn khác, tư vấn của Ngân hàng là một lĩnh vực nhằm đánh giá phân tích, dự báo các thông tin về tình hình kinh tế, xã hội, pháp luật, thị trường, giá cả... Liên quan đến vấn đề đầu tư giúp cho các doanh nghiệp đưa ra quyết định đầu tư một cách đúng đắn nhất, sáng suốt nhất .
Cho đến nay hầu như các doanh nghiệp ở nước ta ít hiểu biết về lĩnh vực đầu tư, chính vì vậy đầu tư vào các công trình chưa thu hút được kết quả như mong muốn, rủi ro đầu tư vẫn còn. Để phổ biện rộng khắp, giải đáp các thắc mắc, Ngân hàng nên có trung tâm dịch vụ tư vấn và đầu tư về các công trình, hướng dẫn cố vấn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triền nhanh hơn, điều đó cũng làm cho chính Ngân hàng phát triển, thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển .
1.4. Tăng cường thực hiện Marketing Ngân hàng
Công bằng mà nói, không chỉ riêng Ngân hàng ngoại thương mà nhìn chung các NHTM nước ta chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của Marketing trong hoạt động Ngân hàng nên chưa dành sự quan tâm hợp lý, thích đáng cho nó. Tư duy kinh doanh theo quan niệm Marketing còn thiếu vắng ở các NHTM Việt Nam, dẫn tới việc Marketing tuy bước đầu đã được ứng dụng trong Ngân hàng nhưng chủ yếu mới tập trung vào các hoạt động bề nổi như quảng cáo, khuếch trương còn các chức năng chủ yếu có ý nghĩa quan trọng quyết định sự thành công trong thực hành Marketing như nghiên cứu khách hàng, xác định thị trường mục tiêu, nâng cao uy tín, chất lượng dịch vụ Ngân hàng... thì hầu như còn rất mờ nhạt, bế tắc. Do vậy, để đưa Marketing thực sự thâm nhập vào Ngân hàng và phát huy tác dụng của nó, Ngân hàng ngoại thương cần thực hiện một số biện pháp sau :
- Các cán bộ quản lý cần phải nhanh chóng chuyển sang tư duy kinh doanh mới, lấy quan điểm Marketing làm chủ đạo vì chỉ có tìm hiểu thị trường một cách kỹ lưỡng nắm bắt được sự thay đổi nhu cầu của khách hàng mới có thể đưa ra những giải pháp, chính sách linh hoạt nhằm hướng hoạt động của Ngân hàng về mục tiêu.
- Triết lý Marketing cần phải được thâm nhập vào tất cả các bộ phận giao dịch, tất cả các cán bộ nhân viên trong Ngân hàng.
- Thành lập phòng chức năng Marketing trong cơ cấu lổ chức quản trị, đề ra và định hướng hoạt động Marketing một cách khoa học, với đội ngũ cán bộ thực sự nhạy bén, am hiểu về Marketing.
- Cán bộ Marketing Ngân hàng cần phải xem xét ba yếu tố có tác động trực tiếp đến hoạt động của Ngân hàng:
+ Nhu cầu của khách hàng trên thị trường đối với sản phẩm của Ngân hàng
+ Khả năng thích ứng cầu của tất cả các Ngân hàng đối thủ trên thị trường.
+ Các sản phẩm, dịch vụ cung ứng của chính bản thân Ngân hàng mình.
Tất nhiên, nói thì bao giờ cũng dễ hơn làm, để đưa được Marketing vào Ngân hàng thực tế cần nhiều thời gian và phải trải qua rất nhiều khó khăn. Nhưng thực sự đây là một điều rất cần thiết đối với tất cả các NHTM Việt Nam, đặc biệt khi sự cạnh tranh trong lĩnh vực Ngân hàng mang tính quốc tế.
1.5. Mở rộng cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
Ngân hàng tiếp tục điều chỉnh cơ cấu cho vay và đầu tư phải phù hợp với cơ cấu thành phần kinh tế quốc dân. Đa dạng hóa các hình thức tín dụng để phân chia rủi ro và điều quan trọng là không phân biệt thành phần kinh tế, thực hiện chính sách khách hàng để cho vay .
Hiện nay, ở ngân hàng ngoại thương tỷ trọng tín dụng trung dài hạn đối với khu vực KTNQD còn quá nhỏ bé và ngày càng giảm sút. Mặc dù quy định về cho vay thành phần kinh tế này đòi hỏi rất cao và chặt chẽ nhưng không vì thế mà Ngân hàng không cho vay ra, thờ ơ với khách hàng, coi những khoản vay này là nhỏ bé... Ngân hàng cần phải làm tốt hơn nữa quan hệ Ngân hàng - khách hàng, lấy khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh, kinh tế tư nhân để hướng tới. Đặc điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh năng động, nhạy bén, thích ứng với cơ chế thị trường, bộ máy kinh doanh gọn nhẹ, hiệu quả kinh tế luôn gắn liền với lợi ích của người sản xuất, tuy vậy sự ra đời cũng như hoạt động của nhiều doanh nghiệp còn rất nhiều điều chưa sáng tỏ, vì vậy Ngân hàng rất dè dặt khi cho vay vì sợ không thu hồi được nợ, khách hàng bỏ trốn mất. Cho nên cho vay khu vực kinh tế này phải vừa biết năng động, nhìn nhận đâu là khách hàng đáng tin cậy, vừa phải phân tích xem khách hàng nào có triển vọng sẽ quịt nợ hay kinh doanh kém mà dẫn tới khả năng không lrả được nợ. Muốn mở rộng ra khu vực này Ngân hàng phải biết chấp nhận kiểu " năng nhặt chặt bị " không chê những vay nhỏ.
1.6. Đơn giản hóa các thủ tục cho vay
Ngân hàng ngoại thương nên đơn giản hóa các thủ tục xin vay vốn, đẩy mạnh quá trình điều tra xét duyệt cho đối với các dự án có hiệu quả. Nhìn chung, khách hàng đi vay vốn bao giờ cũng ngại thủ tục xét duyệt cho vay quá rườm rà. Trong bộ hồ sơ xin vay vốn trung dài hạn có rất nhiều các thủ tục: Đơn xin vay, luận chứng kinh tế, dự toán công trình kinh tế kỹ thuật được cấp có thẩm quyền phê duyệt, bản quyết toán hiệu quả kinh tế của dự án...
Trong các khách hàng vay vốn trung dài hạn của Ngân hàng chủ yếu là khách hàng truyền thống và khách hàng lâu dài từ trước đã tham gia vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng. Vì vậy giữa bộ hồ sơ vay vốn trung dài hạn với bộ hồ sơ vay vốn ngắn hạn có hai điểm trùng nhau đó là: Báo cáo thực trạng tài chính của doanh nghiệp, báo cáo quyết toán của doanh nghiệp kế tiếp hai năm trước Do đó, Ngân hàng có thể đơn giản hai thủ tục này khi mà doanh nghiệp chưa có đủ thì hoàn toàn có thể áp dụng dựa vào bộ hồ sơ vay vốn ngắn hạn: vì trong nghiệp vụ vay vốn ngắn hạn, cán bộ tín dụng vẫn phải thường xuyên kiểm tra tình hình tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên việc dựa vào bộ hồ sơ vay vốn ngắn hạn chỉ thường dùng cho các doanh nghiệp có quan hệ thường xuyên với Ngân hàng, còn đối với đơn vị lần đầu thì phải đảm bảo đầy đủ thủ tục. Việc đơn giản hóa như vậy sẽ làm khách hàng không ngần ngại khi đặt quan hệ vay vốn với Ngân hàng. Việc các thủ tục xét duyệt đơn giản cũng sẽ tại điều kiện cho Ngân hàng điều tra có trọng điểm, không mất thời gian tìm hiểu quá lâu. Đơn giản không có nghĩa là qua loa, hời hợt đó là nguyên tắc của Ngân hàng trước khi điều tra cho vay .
2. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn
Thực hiện song song với việc mở rộng hoạt động tín dụng trung dài hạn là việc nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn. Ngân hàng nên áp dụng những giải pháp sau:
2.1. Đổi mới chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng vừa phải phù hợp với đường lối phát triển của Nhà nước đồng thời đảm đảm bảo kết hợp hài hòa quyền lợi của người gửi, người đi vay và chính bản thân Ngân hàng. Muốn vậy, phải xây dựng chính sách tín dụng trên cơ sở khoa học, phải đảm bảo khả năng sinh lời của các hoạt động tín dụng, trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật và đường lối chính sách của Nhà nước, đồng thời đảm bảo tính công bằng. Chính sách tín dụng cần được tiếp tục hoàn thiện, đảm bảo vừa huy động được tiền gửi vào Ngân hàng (đặc biệt là vốn trung dài hạn) vừa đảm bảo NHTM kinh doanh có lãi, bảo toàn được vốn khuyến khích được các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn của các Ngân hàng, kích thích mở rộng tín dụng trung dài hạn đề đổi mới kỹ thuật, hiện đại hóa công nghệ, tăng cường sức mạnh của sản phẩm nội địa.
2.2. Nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định tài chính là phương diện quan trọng nhất trong công tác thẩm định dự án đầu tư Chất lượng của công tác thẩm định tài chính dự án quyết định chất lượng tín dụng .
Tuy nhiên, công tác này ở các NHTM Việt Nam nói chung và ngân hàng ngoại thương nói riêng còn chưa được thực hiện một cách nghiêm túc, hiệu quả. Bên cạnh các nguyên nhân như trình độ của cán bộ tín dụng còn hạn chế, chưa được đào tạo chuyên sâu, thông tin khách hàng cung cấp bị sai lệch... thì phương pháp thẩm định cũng là một nguyên nhân quan trọng làm cho chất lượng công tác thám định dự án chưa cao.
- Thứ nhất, hiệu quả tài chính cũng như các loại hiệu quả khác, bản chất của nó được thực hiện không đơn thuần chỉ trên một mặt nào đó mà trên nhiều khía cạnh khác nhau.
Do vậy hệ thống chỉ tiêu về thẩm định tài chính dự án đầu tư phải đầy đủ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau để phản ánh về dự án đầu tư một cách hiệu quả nhất, trung thực nhất. Kết quả nghiên cứu ở nhiều nước trên thế giới, cho thấy các chỉ tiêu đó tựu trung chia làm hai nhóm chính: Một là, các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi của dự án đầu tư. Hai là, nhóm phản ánh mức độ rủi ro của dự án. Trong mỗi nhóm chỉ tiêu cần phải lựa chọn, xác định số lượng, loại chỉ tiêu để phản ánh đặc thù của nhóm san cho phù hợp với hoàn cảnh phân tích cụ thể.
- Thứ hai, thực chất của việc xây dựng tính toán những chỉ tiêu thẩm định dự án tài chính đầu tư có cơ sở toán học chặt chẽ, logic, ở đây, nếu quá chú trọng đến cơ sở lý thuyết thì rất khó cho việc áp dụng triển khai trong thực tiễn thẩm định tài chính dự án vì bị giới hạn nhiều điều kiện như thời gian, hoạt động tổ chức ...
- Thứ ba, hệ thống chỉ tiêu là nội dung chính trong thẩm định phương diện tài chính dự án đầu tư nhưng dù sao nó cũng chỉ là phương tiện để phân tích, đánh giá. Điều quan, trọng là phải sử dụng những chỉ tiêu đó để phân tích, đánh giá chất lượng hiệu quả của dự án đầu tư.
2.3. Cho vay kịp thời đầy đủ đối với các dự án có hiệu quả kinh tế
Ngân hàng cần tiến hành đầu tư dứt điểm cho từng dự án, từng công trình tránh tình trạng cho vay thiếu hài hòa, khi thì tràn lan, khi thì thưa thớt. Trong quá trình điều tra xét duyệt cho vay, Ngân hàng cần chú trọng đến những công trình phục vụ xây dựng cơ cấu cả nền kinh tế quốc dân, thực sự có hiệu quả, đảm bảo đầu tư đúng mục đích, đúng kế hoạch có khả năng trả nợ lãi vay Ngân hàng đúng thời hạn, có khả năng thu hổi vốn nhanh, để đó có kế hoạch đầu tư một cách đầy đủ, kịp thời. Công trình sau khi được phê duyệt, Ngân hàng cần phát tiền vay theo đúng kế hoạch để đảm bảo thực hiện đúng tiến độ thi công đã đề ra, sớm đưa dự án vào sử dụng phát huy hiệu quả .
2.4. Xử lý linh hoạt các tình huống trong quá trình cho vay
Đây thực chất chỉ là giải pháp mang tính chất "chữa cháy" hơn là tính chất "phòng ngừa". Thực hiện giải pháp này, cán bộ tín dụng thường xuyên phải theo sát tình hình thực tế cơ sở, đốc thúc thu nợ, lãi đúng hạn, tuyệt đối không để khách hàng có cảm giác là Ngân hàng không quan tâm tới mục tiêu thu hồi nợ lãi. Tuy nhiên, trong khi thu nợ sớm hoặc đốc thúc thu nợ lãi, cán bộ tín dụng nên sử dụng các biện pháp nghệ thuật ứng xử, nghiệp vụ phù hợp để vừa thu hồi được vốn vừa không làm mất lòng khách hàng. Trong trường hợp, khách hàng không trả được nợ, nhưng còn khả năng phát triển bởi hiện tại họ đang gặp khó khăn do những nguyên nhân bất khả kháng, thì cán bộ tín dụng có thể lập bảng tường trình và đơn xin gia hạn nợ hoặc cho vay thêm đối với khách hàng đó .
2.5. Tăng cường các biện pháp thu nợ, đảm bảo trả nợ và lãi vay Ngân hàng
Nếu thẩm định dự án là khâu đầu tiên và là khâu quyết định để cho vay đối với dự án thì quá trình đưa vốn ra theo dõi đôn đốc thu nợ cũng là khâu không kém phần quan trọng.
Khi một dự án đầu tư trung và dài hạn được cho vay theo đúng mục đích, đúng lúc, đúng thời điểm, đúng số vốn ghi trong hợp đồng tín dụng thì công việc quản lý vốn vay ở đây là theo dõi kiểm tra số tiền mà doanh nghiệp rút ra lần trước xem có sử dụng đúng mục đích không. Việc kiểm tra này thông qua các chứng từ, hóa đơn, hợp đồng giá cả... Nếu doanh nghiệp sử dụng đúng mục đích như trong hợp đồng tín dụng thì đó là cơ sở cho việc phát vốn lần sau. Những trường hợp nào sử dụng sai mục đích thì phải xử lý ngay theo chế độ tín dụng. Ngoài ra phải theo dõi, bám sát mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để đánh giá chính xác những diễn biến trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng, phát hiện kịp thời khả năng có thể phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi, từ đó có biện pháp xử lý ngay.
Việc đôn đốc thu nợ, thu lãi đúng kỳ hạn và đủ là trách nhiệm, là kỷ luật đối với cán bộ tín dụng. Lịch trả nợ gốc và lãi vay đã cam kết trong hợp đồng tín dụng phải theo dõi hàng ngày. Ngân hàng đồng thời phải gửi báo cáo cho doanh nghiệp có nợ quá hạn chuẩn bị nguồn trả vào trước kỳ hạn trả. Việc thu nợ, lãi đúng kỳ hạn sẽ không có nợ quá hạn thể hiện sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng.
Khi một dự án vay mà đã đến hạn trả nhưng doanh nghiệp chưa có nguồn vốn để trả nợ thì việc xem xél để gia hạn, trả nợ gốc phải đúng thẩm quyền được uỷ nhiệm và các chế độ tín dụng quy định, không tùy tiện gia hạn. Nếu trong các dự án cho vay có nợ quá hạn thì cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi mọi diễn biến để kịp thời thu hồi, tránh để nợ nần dây dưa .
Để xử lý nợ quá hạn thì Ngân hàng có biện pháp thích hợp để giúp đỡ doanh nghiệp tháo gỡ mọi khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Ngân hàng giúp doanh nghiệp việc tư vấn trong sản xuất để giảm nợ quá hạn. Tuyệt đối không cho vay khoản mới khi chưa hết nợ cũ, không lấy nợ nuôi nợ .
2.6. Luôn luôn dự báo các rủi ro tiềm ẩn trong tín dụng trung dài hạn và có biện pháp phòng ngừa hữu hiệu
Rủi ro thanh toán, rủi ro lãi suất luôn đe dọa các Ngân hàng bởi cấp độ của khoản vay trung dài hạn lớn hơn đáng kể so với khoản vay ngắn hạn. Sự quan tâm đến vấn đề phòng ngừa rủi ro đối với khoản tín dụng trung dài hạn không chỉ đòi hỏi đối với Ngân hàng mà còn đặc biệt đối với cơ quan quản lý tiền tệ. Bởi vì mức độ của khoản vay trung dài hạn là rất lớn, gây đột biến và kéo dài cho cả bên vay, Ngân hàng tài trợ và các bên có liên quan. Chính vì vậy, biện pháp xác định dự báo rủi ro tiềm ẩn trong thế chấp và bảo lãnh vay vốn là hết sức cần thiết đối với Ngân hàng. Việc dự báo rủi ro tiềm ẩn càng đầy đủ, các biện pháp phòng ngừa càng cẩn trọng thì hiệu quả tín dụng ngay từ khâu phán quyết càng cao. Đương nhiên việc phát hiện và dự báo các rủi ro tiềm ẩn để đề ra các biện pháp phòng ngừa phải là việc làm liên tục, thường xuyên không chỉ trước khi phán quyết mà cả trong suất trong quá trình đưa vốn vay ra cho đến khi thu hết nợ gốc và lãi vay .
Vì vậy khi tính toán nguồn trả nợ, thời hạn trả nợ, người ta tính toán cả phương án: phương án lạc quan nhất, phương án trung bình nhất. Để an toàn và phòng ngừa các rủi ro tiềm ẩn, có một cách thường dùng là lấy phương án sản xuất xấu nhất đề xem xét. Nếu phương án này vẫn trả được nợ và lãi vay Ngân hàng trong giới hạn cho phép, thì chắc chắn ngay từ khi phán quyết đã có thể yên tâm về khoản vay được duyệt.
Thế chấp và bảo lãnh cho việc vay vốn là chìa khóa an toàn cuối cùng cho việc vay vốn. Trong điều kiện hiện nay, việc sử dụng công cụ này đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Ngân hàng phải biết sự nhạy cảm, đảm bảo nguyên tắc và chấp hành nghiêm chỉnh chính sách của Nhà nước, áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo nhưng không tùy tiện. Tuyệt đối không coi thế chấp, cầm cố, bảo lãnh là "bùa hộ mệnh " trong cho vay, không thể coi là chiếc chìa khóa an toàn đặc biệt mà chỉ coi là chiếc chìa khóa an toàn cuối cùng trong việc đảm bảo an toàn tín dụng. Thực hiện việc thế chấp, bảo lãnh đúng quy định và cho vay lãi phải dựa trên những cơ sở thực sự từ phía doanh nghiệp chứ không phải dựa vào duy nhất tài sản thế chấp .
2.7. Nâng cao công nghệ ngân hàng.
Một công nghệ bao giờ cũng gồm bốn yếu tố: Thiết bị, con người, tổ chức, và thông tin. Vì vậy để nâng cao công nghệ của mình, ngân hàng ngoại thương cần quan tâm phát triển cả bốn yếu tố trên:
2.7.1. Về thiết bị ngân hàng:
Hiện nay các ngân hàng đứng trước nhu cầu đổi mà trước hết là đổi mới thiết bị, ngân hàng ngoại thương cần nâng cấp hệ thống thiết bị của mình mà trước hết là hệ thống mạng máy tính. Đây là một điều kiện để ngân hàng hội nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, đáp ứng nhu cầu quản lý và tăng cường sức cạnh tranh. Ngân hàng ngoại thương đã thực hiện chuyển tiền qua mạng SWiFT. Tuy nhiên để nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ Ngân hàng ngoại thương có thể đặt hàng với các công ty tin học trong hoặc ngoài nước nghiên cứu hoàn thiện phần mềm cũng như hệ thống mạng máy tính.
2.7.2. Về con người
Con người luôn là nhân tố quyết định đến sự thành công của một tổ chức. Để có một khoản tín dụng có chất lượng, yếu tố trước tiên thuộc về người cán bộ tín dụng. Họ phải là người am hiểu khách hàng, hiểu biết sâu sắc thực lực tài chính, khả năng thanh toán của khách hàng kể cả hiện tại cũng như sau này, xác định được tiềm năng phát triển và dự báo được những biến động trong tương lai. Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng cần phải hiểu được tâm lý của khách hàng, xem xét được mức độ trung thực của khách hàng để bảo đảm tính an toàn của khoản tín dụng. Có khả năng giao tiếp ứng xử hợp lý để có thể duy trì được các khách hàng có mối quan hệ từ trước, đồng thời lại thu hút được những khách hàng mới có tiềm năng .
Sự tác động của các chính sách kinh tế của Chính phủ hay ảnh hưởng của các biến động trên thị trường đến kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp là vô cùng phức tạp. Điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng cần có kiến thức hiểu biết nhất định về thị trường và về lĩnh vực chuyên môn mà khách hàng của mình đang tiến hành kinh doanh.
Tất cả các yêu cầu đó đối với một cán bộ tín dụng dường như là quá nhiều, một cán bộ dù tài giỏi đến đâu cũng không thể có đầy đủ những yếu tố đó. Vì vậy Ngân hàng cần phải kế hoạch hóa công tác đào tạo cán bộ, sớm thực hiện tiêu chuẩn hóa cán bộ tín dụng, đưa việc nâng cao trình dộ trở thành mục tiêu phấn đấu và làm việc thường xuyên. Công tác đào tạo cần tập trung theo trọng điểm và đào tạo một cách toàn diện để thực sự có những cán bộ có đủ năng lực và hiểu biết phục vụ yêu cầu công tác kinh doanh, tránh đào tạo tràn lan, lãng phí.
ưu tiên đào tạo cán bộ chủ chốt trước, sau đó đào tạo những cán bộ kế cận, có năng lực và phẩm chất đạo đức.
Hoạt động tín dụng sử dụng phần lớn nguồn vốn của Ngân hàng, giao tiền vào tay người khác, chính vì vậy cán bộ tín dụng phải cớ trình độ chuyên môn cao. Nhất là trong lĩnh vực trung dài hạn, phải thẩm định dự án, dự đoán trước cho một khoảng thời gian dài, vì vậy cán bộ tín dụng phải có cái nhìn tổng quát, có đầu óc phán đoán. Chính vì vậy Ngân hàng nên chọn những cán bộ có đầy đủ năng lực và nhiệt tình công tác vào hoạt động tín dụng trung dài hạn. Để nâng cao trình độ cho các cán bộ tín dụng, Ngân hàng nên tổ chức những lớp tập huấn đào tạo lại hoặc bổ sung kiến thức nghiệp vụ trong cơ chế thị trường cho các cán bộ quá lâu trong thời kỳ bao cấp; cho các cán bộ có năng lực đi học tập ở nước ngoài; tuyển chọn những cán bộ trẻ tuổi có năng lực thực sự am hiểu về kinh tế thị trường chuẩn bị cho đội ngũ kế cận. Ngân hàng có thể tạo điều kiện thuận về giờ giấc, học phí... để giúp cán bộ tham gia các lớp học để nâng cao trình độ. Trong công tác đào tạo này, Ngân hàng nên chú trọng chất lượng hơn là số lượng. Các lớp tập huấn kiến thức chung lại Ngân hàng không nên tổ chức tại hội trường lớn - nơi mà ai cũng có thể làm việc riêng của người ấy mà nên tổ chức thành các lớp nhỏ với số lượng khoảng trên dưới 10 học viên. Cán bộ sau khi được Ngân hàng cử đi học cũng phải chịu trách nhiệm cụ thể tránh căn bệnh hình thức, tránh Ngân hàng bỏ tiền cho cán bộ đi học nhưng sau khi kết thúc khóa học lại không mang lại hiệu quả trong công việc.
2.8.3. Về tổ chức:
Trong những năm qua ngân hàng ngoại thương đã có những bước tiến vững chắc trong việc củng cố bộ máy tổ chức ngân hàng, trong những năm tới kết hợp với đề án tái cơ cấu ngân hàng, ngân hàng tiếp tục sắp xếp lại tổ chức tránh việc chồng chéo trong công việc. Để đơn giản hoá thủ tục và không lãng phí thời gian trong quá trình xin vay cho khách hàng thì đây cũng là một giải pháp tốt.
2.8.4.Về thông tin:
Ngân hàng cần cập nhật những thông tin về sự đổi mới công nghệ ngân hàng trong hệ thống ngân hàng cả trong và ngoài nước để có sự tiếp thu kế thừa, và thích ứng một cách hợp lý và đem lại hiệu quả cao
2.8. Phát triển hình thức bảo hiểm quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Có hai cách thực hiện: một là, các doanh nghiệp trước khi tiến hành sản xuất kinh doanh thì phải mua bảo hiểm ở các công ty bảo hiểm; hai là, Ngân hàng kiêm luôn chức năng này. ở đây em xin đề cập đến cách thứ hai, vì nó phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay hơn .
Để vay vốn Ngân hàng trước tiên doanh nghiệp phải lập một dự án như bình thường. Ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định dự án đó. Nếu Ngân hàng thấy không cho vay được thì thôi, còn nếu cho vay được thì khi giao tiền cho khách hàng, Ngân hàng sẽ giữ lại một tỷ lệ nhất định của khoản vay và cấp cho khách hàng một thẻ bảo hiểm. Các khoản tiền bảo hiểm đó sẽ được sử dụng để bù đắp rủi ro cho Ngân hàng trong trường hợp khách hàng làm ăn thua lỗ, mất khả năng thanh toán. Cách làm này có lợi là Ngân hàng có thể chủ động phòng ngừa từ xa những rủi ro có thể xảy ra khi cho vay những dự án có tính rủi ro cao, đổng thời khách hàng không có lý do gì để trốn tránh trách nhiệm mua bảo hiểm, vì khoản đóng bảo hiểm đã được Ngân hàng giữ lại ngay khi cho vay. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng đây cũng chỉ là một trong những biện pháp nhằm hạn chế bớt tác hại của rủi ro, không thể coi đó là chỗ dựa cho Ngân hàng, mà điều cốt yếu là phải thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa để không cho các rủi ro đó xảy ra. Đó mới là mục tiêu mà ngành Ngân hàng cần hướng tới. Các doanh nghiệp cần phải thấy rõ được điều này không chỉ có lợi cho Ngân hàng mà còn có lợi cho chính doanh nghiệp vì khi mua bảo hiểm nếu gặp rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh thì sẽ có khoản để bù đắp lại một phần hoặc toàn bộ tổn thất tùy thuộc vào mức đóng bảo hiểm .
2.9. Bảo hiểm cho các khoản vay trung dài hạn:
Tham gia bảo hiểm cho các khoản vay trung dài hạn để phòng ngừa các rủi ro. Rủi ro có thể xảy ra là do khách quan xảy ra như thiên tai, hoả hoạn... cũng có thể do chủ quan của ngân hàng dẫn đến việc không thu hồi được vốn vay.
Hiện nay, tại ngân hàng ngoại thương việc tham gia bảo hiểm cho các khoản vay trung dài hạn cho các dự án ở trong nước gần như là không có. Vì vậy, cần tiến hành phân tích, nghiên cứu một số dự án xin vay vốn trung dài hạn có mức độ rủi ro khá cao mà thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ cho vay thì ngân hàng khó có thể cho vay được
Nhưng theo quy luật thì một dự án có rủi ro cao lại đem lại một tỷ lệ sinh lời lớn, vì vậy ngân hàng sẽ tính toán để có thể tham gia bảo hiểm cho các khoản vay này khi nó gặp rủi ro. Nhờ vậy, ngân hàng ngoại thương có thể cho dự án này vay vốn, một mặt để thu được lợi nhuận, một mặt có thể phòng ngừa được rủi ro thông qua hình thức bảo hiểm cho chính khoản vay này.
Như vậy, vô hình chung ngân hàng có thể mở rộng cho vay trung dài hạn và thông qua tăng doanh số cho vay trung dài hạn vừa hạn chế được rủi ro khi dự án này gặp phải khó khăn trong việc thu hồi nợ.
Nói tóm lại, trên đây chỉ là một số suy nghĩ riêng của cá nhân dựa trên cơ sở lý thuyết, chưa có ý nghĩa thực tế, chính vì vậy chúng chỉ có giá trị tham khảo. Em hy vọng những giải pháp trên đây sẽ ít nhiều có ích trong việc áp dụng vào thực tế tại ngân hàng nhằm giải quyết những vướng mắc mà ngân hàng đang gặp phải.
3 Một số kiến nghị
3.1 Đối với Nhà nước
3.1.1. Nhà nước cần tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho Ngân hàng hoạt động
Do tình hình kinh tế - xã hội phát triển nhanh, nhiều quan hệ xã hội mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường thực sự phải có pháp luật điều chỉnh, tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh trong sự phát triền kinh tế. Chính vì vậy đòi hỏi một hệ thống pháp luật đồng bộ làm chỗ dựa pháp lý cho Ngân hàng, cho doanh nghiệp là rất cần thiết. Hơn nữa, luật lệ của nước ta chưa ổn định, thay đổi luôn luôn không tạo ra cơ sở vững chắc cho Ngân hàng. Việc luôn bị sửa đổi của các Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài, Luật đất đai nhà cửa... khiến cho các giấy tờ liên quan như giấy phép kinh doanh, giấy sở hữu nhà đất không rõ ràng, rất khó khăn cho Ngân hàng xem xét dự án có thể cho vay.
Riêng đối với lĩnh vực Ngân hàng, có hai bộ Luật Ngân hàng (Luật NHNN và Luật các TCTD) là cơ sở pháp lý quan trọng để Ngân hàng cho vay đối với các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Tuy nhiên việc ban hành các quy định ngặt nghèo đối với khu vực KTNQD, khiến cho dư nợ của thành phần kinh tế này ngày càng giảm sút. NHNN cần ban hành quy chế có tính mềm dẻo hơn nhằm kích thích cán bộ tín dụng tìm nhiều khách hàng để cho vay.
Làm rõ nội dung lợi nhuận chịu thuế, chi phí hợp lý vốn chủ sở hữu và cơ sở ấn định mức phải chịu thuế lợi tức bồ sung. Có hai kiến nghị của các TCTD đối với các Luật thuế mới là áp thuế đúng luật định và thuế suất hợp lý .
- Trong Luật các TCTD quy định các hoạt động bảo lãnh mua bán tài sản xiết nợ, chiết khấu thương phiếu, giấy tờ có giá... thì không phải chịu thuế. Thế nhưng trong Thông tư 178/ TT hướng dẫn Thuế GTGT lại xếp các hoạt động trên vào hoạt động chịu thuế.
Chính vì vậy việc hoàn thiện môi trường pháp lý là rất cần thiết. Các Luật không được chồng chéo lên nhau mà phải vừa đảm bảo tính dân chủ vừa phải kích thích cho tất cả các hoạt động đều phát triển và đi vào khuôn phép.
3.1.2 Nhà nước cần có các biện pháp đồng bộ để ổn định tiền tệ.
Trên tổng quan, chính sách tiền tệ giai đoạn 1998 - 2005 vẫn phải hướng vào mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định sức mua đối nội và đối ngoại của đồng tiền, đồng thời góp phần thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển với tốc độ cao và bền vững. Chính sách tiền tệ phải được điều hành bởi các công cụ, chính sách cụ thể về tín dụng đối với nền kinh tế, về quản lý ngoại hối và chính sách đối với Ngân sách thay cho cách điều hành thông qua các chỉ tiêu kế hoạch như trước đây. Quan điểm trong xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ giai đoạn này là phải điều hòa được các quan hệ vốn có mâu thuẫn, đó là:
- Giữa mục tiêu kiềm chế lạm phát và mục tiêu tăng trưởng kinh tế .
- Giữa lợi ích chung kiềm chế lạm phát và lăng trưởng kinh tế với lợi ích của các NHTM và các TCTD .
- Giữa lợi ích người gửi tiền, nhà kinh doanh tiền tệ và người đi vay.
Định hướng trong giai đoạn này là phải chuyển mạnh sang vận dụng các công cụ tiền tệ gián tiếp thay cho việc sử dụng các công cụ tiền tệ trực tiếp vì hiện nay Việt Nam đã bước đầu hình thành các khung định chế và môi trường cho các công cụ gián tiếp được sử dụng.
Bên cạnh đó các công cụ trực tiếp ngày càng bộc lộ những nhược điểm như làm cho việc phân phối vốn không hiệu quả, kiềm chế tài chính cứng nhắc và thiếu linh hoạt trong khi đó các công cụ gián tiếp sẽ giúp cho NHNN điều hành tiền tệ một cách linh hoạt theo thị trường.
Giai đoạn sau năm 2000 về cơ bản hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã được củng cố về nhiều mặt, do đó cần tiến thêm một bước trong cải cách quản lý về tiền tệ để tiến tới một hệ thống tài chính tự do và hòa nhập vào hệ thống tài chính khu vực và quốc tế.
3.1.3. Tăng cường trách nhiệm từ phía Nhà nước - Doanh nghiệp - Ngân hàng
Từ năm 1996 đến nay, việc mở rộng tín dụng Ngân hàng đã gặp không ít khó khăn, thậm chí có lúc tưởng chừng như vốn Ngân hàng đang bị "đóng băng", trong khi đó các doanh nghiệp lại thiếu vốn trầm trọng. Để quan hệ giữa hoạt động của Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng ngày càng phát triển, cần có sự phối hợp đồng bộ của các cấp các ngành, và thực hiện các giải pháp chủ yếu sau đây :
Kiên quyết sắp xếp lại các DNNN, chỉ để tồn tại những doanh nghiệp công ích doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, những doanh nghiệp thực sự cần thiết cho phái triển dân sinh, tạo điều kiện cho đầu tư tín dụng nâng cao được hiệu quả. Trong hội nghị tổng kết đổi mới và phát triển DNNN từ năm 1986 đến nay (3 - 4 /5/2000), đã thống nhất lộ trình đổi mới doanh nghiệp NN giai đoạn 2000 - 2003, số lượng DNNN sẽ chỉ còn lại 3000 doanh nghiệp, giảm đi 2280 doanh nghiệp, bao gồm 1498 doanh nghiệp được tiến hành CPH, hoặc giao bán, khoán, cho thuê (65,3%); 380 doanh nghiệp sáp nhập vào các doanh nghiệp khác (16,7%) và 368 doanh nghiệp phải giải thể, phá sản ( 6%); 43 doanh nghiệp chuyển thành đơn vị sự nghiệp (2%). Đến năm 2003, quy mô DNNN sẽ tăng vốn bình quân từ hơn 18 tỷ đồng /1 doanh nghiệp lên trên 27 tỷ đồng; giảm 18,5% tổng nợ, 15,3% nợ Ngân hàng và quan trọng nhất là hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ được nâng lên. Hiện chỉ có 20% DNNN đạt mức lợi nhuận trước thuế cả năm từ 12% trở lên (tương đương với mức lãi suất Ngân hàng). Theo phương án sắp xếp lại đến năm 2003, số DNNN đạt mức lợi nhuận nêu trên sẽ tăng lên 50%. Đến năm 2005, dự kiến chỉ còn 2000 DNNN, có thể nói, đây chính là sự "giảm lượng tăng chất”. Các DNNN khẳng định được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế, làm ăn có hiệu quả, có định hướng hoạt động chắc chắn, tạo sự tin lượng cho nhà đầu tư và cũng là mảnh đất tốt để phát triển hoại động tín dụng của Ngân hàng. Bên cạnh đó, sau khi sắp xếp sẽ xử lý nợ được 21 .000 tỷ đổng, trong đó có 7.000 tỷ đổng nợ Ngân hàng . Bộ Tài chính cần tiếp tục cấp bổ sung đủ mức vốn điều lệ đã được duyệt cho các doanh nghiệp để đảm bảo số tiền vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN. Đối với các doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh do ảnh hưởng của chu kỳ sản xuất hoặc thực sự cần thiết phải tồn tại thì đề nghị Bộ Tài chính cho phép giãn nợ 3 - 5 năm để doanh nghiệp có thời gian sắp xếp lại sản xuất, tạo nguồn trả nợ cho Ngân hàng.
Tiếp tục hoàn thiện sửa đổi, ban hành các bộ Luật, văn bản dưới Luật liên quan đến hoạt động của nền kinh tế nói chung, đến hoạt động của Ngân hàng nói riêng, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động củadoanh nghiệp và NHTM đi đúng giới hạn cho phép và phân rõ trách nhiệm của người đi vay và người cho vay trong quan hệ tín dụng.
Rà soát lại năng lực trình độ cũng như phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ làm công tác trực tiếp kinh doanh. Tiếp tục nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ Ngân hàng.
Tiếp tục đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ của Ngân hàng, tạo ra nhiều sản phẩm mới ( tư vấn, bảo hiểm, thuê mua ... ) .
3.1.4. Thành lập trung tâm quản lý và bán đấu giá tài sản thế chấp
Hình thức công ty mua bán nợ đã xuất hiện từ rất lâu trên ở nhiều nước trên thế giới như : Nhật Bản, Hàn Quốc ... Các công ty này được hình thành khách quan trong nền kinh tế thị trường khi có nhiều khoản nợ xuất hiện ở các TCTD khác nhau. Bản chất của chúng là các công ty kinh doanh các khoản nợ của các doanh nghiệp vay các TCTD để thu lợi nhuận.
Hiện nay, ở Việt Nam, Chính phủ đang xúc tiến thành lập công ty nợ trực thuộc Chính phủ thực hiện hai mục tiêu là đảm bảo an toàn, lợi ích của các TCTD và thực hiện mục tiện lợi nhuận. Ban lãnh đạo của công ty phải bao gồm các thành viên của NHNN, Bộ Tài chính, Tổng cục địa chính và cán bộ các ngành có liên quan đến việc quản lý và bán đâu giá.
Hoạt động của công ty bao gồm từ khâu định giá; nhận tài sản thế chấp, cầm cố đến việc quản lý các tài sản này và cuối cùng là bán đấu giá để thu hồi khoản vay nếu khách hàng không trả được nợ.
3.1.5. Thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc
Để giúp các Ngân hàng xét duyệt hồ sơ xin vay vốn của các khách hàng được chính xác, báo cáo tài chính của khách hàng phải phản ánh đúng tình hình thực tế đồng thời việc thu thập thông tin của Ngân hàng cũng phải được tiến hành thuận lợi và chính xác. Muốn vậy, Nhà nước cần sớm ban hành quy chế tài chính và hạch toán kinh doanh đối với khu vực KTNQD. Qua đó tăng cường tính hiệu lực pháp lý, đảm bảo tính đồng bộ chuẩn mực của công tác hạch toán kế toán, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ Ngân hàng có những kết luận chính xác về tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Việc chấn chỉnh công tác kiểm toán phải đi đôi với nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm toán. Hiện nay ở nước ta đã có hệ thống kiểm toán Nhà nước, 15 công ty kiểm toán độc lập bao gồm cả công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh, công ly kiểm toán của Nhà nước và trách nhiệm hữu hạn, song hiệu quả hoạt động của các công ty này chưa cao, một phần là do quan niệm của các doanh nghiệp thường rất ngại thực hiện kiểm toán do nhiều lý do khác nhau: có thể sợ kiểm toán phát hiện ra những sai sót về kế toán hay kiểm toán sẽ phát hiện ra những điều mà doanh nghiệp cần giấu kín ... Đề nâng cao hiệu quả của công tác kiểm toán và làm cơ sở cho việc thẩm định tín dụng, trước mắt cần có sự thống nhất giữa các cơ quan kiểm toán Việt Nam, cụ thể hóa chuẩn mực kiểm toán sao cho phù hợp với thông lệ của kiểm toán quốc tế. Ví dụ như: một doanh nghiệp có số vốn điều lệ bao nhiêu thì cần phải tiến hành kiểm toán, trách nhiệm cung cấp và giữ bí mật thông tin của các cơ quan kiểm toán, áp dụng công nghệ kiểm toán gì, giá trị pháp lý của số liệu và chữ ký của cơ quan kiểm toán... Tiến tới, Nhà nước cần quy định chế độ kiểm toán bắt buộc đối với mọi loại hình doanh nghiệp, qua đó để đảm bảo độ tin cậy cho các báo cáo tài chính, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thẩm định các dự án đầu tư .
3.2 Đối với NHNN
Về xử lý tài sản thế chấp: NHNN quy định nếu sau thời hạn trả nợ cuối cùng là 10 ngày, bên vay không trả được nợ thì Ngân hàng làm đơn đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Mặt khác, trong thủ tục cho vay ràng buộc bên vay bằng một hợp đồng thế chấp tài sản có ghi: " nếu không trả nợ gốc và lãi thì Ngân hàng phải phát mai tài sản thế chấp, cầm cố để thu hồi nợ ... ". Như vậy, người vay tự nguyện mang tài sản thế chấp hợp pháp đến vay vốn đã cam kết với Ngân hàng bằng đảm bảo. Ngân hàng làm bản thông báo công khai, trước hết dành quyền ưu tiên cho người có tài sản thế chấp đó được mua lại tài sản đó theo đánh giá của Hội đồng định giá. Sau 10 ngày nhận dược thông báo, nếu chủ tài sản không mua thì Ngân hàng sẽ có quyền bán cho người khác.
Như vậy, Ngân hàng có thể tự phát mại tài sản đó mà không phải xin ý kiến của các cơ quan Nhà nước khác.
Về nâng cao chất lượng thông tin: một trong những nguyên nhân gây nên rủi ro trong hoạt động tín dụng trung dài hạn của các NHTM là sự thiếu thông tin cần thiết, chính xác từ phía khách hàng, từ thị trường và dự án. Vì vậy, muốn hoạt động của các NHTM đạt hiệu quả cao thì NHNN phải thiết lập một trung tâm lưu trữ thông tin có thể cung cấp những thông số chính xác nhất, mới nhất về các doanh nghiệp, các biến động trên thị trường, các thông tin có liên quan đến dự án ...
Về mức lãi suất: NHNN nên áp dụng hai mức lãi suất khác nhau cho nợ quá hạn phân theo nguyên nhân khách hàng và chủ quan. Sẽ là không công bằng nếu doanh nghiệp phải trả mức lãi suất cao gấp 1,5 lần nếu nguyên nhân gây nên nợ quá hạn là sự thay đổi của cơ chế chính sách của Nhà nước, hay do những ảnh hưởng của môi trường tự nhiên.
3.3. Đối với doanh nghiệp
Doanh nghiệp cần cung cấp những thông tin chính xác cho Ngân hàng
Đa số khách hàng đi vay vốn thường than phiền rằng Ngân hàng còn gây nhiều khó khăn cho họ với nhiều thủ tục nhiêu khê, phiền hà, làm mất cơ hội sản xuất kinh doanh của họ. Song họ không ý thức được một điều là họ cũng là một phần trong những khó khăn đó vì :
- Khách hàng không muốn cung cấp đầy đủ thông tin vì họ sợ cung cấp nhiều sẽ vô tình phơi bày ra những yếu điểm của họ.
- Khách hàng thường cung cấp những thông tin không hoàn toàn chính xác vì họ muốn giữ kín những số liệu kinh doanh, sợ Ngân hàng tiết lộ ra ngoài. Chỉ gò ép vào những số liệu tài chính, sản xuất kinh doanh mà không căn cứ vào thực tế thì Ngân hàng khó có thể đưa ra quyết định một cách nhanh chóng và chính xác được.
Số tiền vay và thời gian xin vay không đúng với nhu cầu thực tế, vì vay vốn trung dài hạn thì phải trả lãi suất cao hơn ngắn hạn nên mặc dù muốn vay trung dài hạn nhưng doanh nghiệp lại vay ngắn hạn, đến thời hạn trả nợ ngắn hạn thì lại đệ đơn xin gia hạn nợ. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng.
Để có thể đáp ứng được nhu cầu vốn tín dụng trung dài hạn của toàn bộ nền kinh tế thì chỉ có sự nỗ lực cố gắng của toàn bộ hệ thống NHTM là chưa đủ, mà phải có sự nỗ lực hợp tác, giúp đỡ từ phía đối tác còn lại đó là các doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải đổi mới tư duy, khắc phục những nhận thức sai lầm trên để có thể tự khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế quốc dân đồng thời giúp đỡ hỗ trợ các Ngân hàng trong việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn.
ã Nâng cao năng lực hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế mà sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp luôn phải chủ động tìm kiếm thị trường và nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng từ đó thực hiện nhiều biện pháp hợp lý như sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, nâng cao khả năng quản lý, có chính sách đào tạo nhân lực, xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh hợp lý, đẩy mạnh hoạt động Marketing, phát huy nội lực và kết hợp với sự hỗ trợ giúp đỡ của hệ thống NHTM để có vốn tiến hành các dự án sản xuất kinh doanh có khả năng sinh lời cao ... để từ đó có khả năng chiếm lĩnh thị trường trong nước sau đó tiến ra thị trường quốc tế .
kết luận
N
hư em đã trình bày ở trên, tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thương mại đóng một vai trò hết sức to lớn đối với nền kinh tế, với ngân hàng và với doanh nghiệp. Vì vậy để hoạt động tín dụng trung dài hạn thật sự phát huy hết vai trò của nó cần có sự phối hợp đồng bộ giữa ngân hàng, khách hàng và nhà nước.
Với vai trò đặc biệt quan trọng đó ngân hàng, nhà nước và các doanh nghiệp nên có các biện pháp khuyến khích, thúc đẩy hoạt động này, làm cho ngân hàng có thể mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn.
Qua nghiên cứu đề tài, do thời gian và trình độ còn hạn chế nên em không tránh khỏi những sai sót trong việc đưa ra và làm rõ các nguyên nhân, tồn tại, khó khăn và tìm ra những giải pháp để khắc phục những tồn tại trên.
Một lần nữa em xin chân thành cám ơn Thầy giáo Lục Diệu Toán cùng toàn thể cán bộ phòng dự án của Ngân hàng Ngoại thương Trung ương đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
Sinh Viên: Lê Trần Tuấn
Danh mục tài liệu tham khảo:
S.Mishkin. Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính. NXB khoa học và kỹ thuật Hà Nội năm 1994
Lê Vinh Danh. Tiền và hoạt động ngân hàng.
Robert raymond. Tiền tệ ngân hàng và tín dụng
Quy đinh về nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng ngoại thương Việt Nam
Quy chế về tín dung trung dài hạn của Thống đốc NHNN Việt Nam.
Các báo cáo thường niên, báo cáo kết quả kinh doanh của ngân hàng ngoại thương Việt Nam năm 1999, 2000, 2001 2002.
Tạp chí ngân hàng
Tạp chí nghiên cứu kinh tế
Thị trường tài chính tiền tệ
Thời báo kinh tế Việt Nam và một số báo khác
Mục lục
Lời mở đầu 1
Chương một. Vai tò của đầu tư tín dụng và vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn trong nền kinh tế thị trường 3
I. Tổng quan về tín dụng trong nền KTTT 3
1. Nhân tố và sự cần thiết của tín dụng trung và dài hạn 3
1.1. Khái niệm và bản chất của tín dụng ngân hàng 3
1.2. Sự phát triển của tín dụng 4
1.3. Phân loại tín dụng 4
2. Vai trò của tín dụng trung dài hạn trong nền kinh tế thị trường 9
2.1. Đối với ngân hàng 9
2.2. Đối với doanh nghiệp 10
2.3. Đối với nền kinh tế 11
II. Chất lượng của tín dụng và mục đích nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn 13
1. CHất lượng tín dụng 13
1.1. Khái niệm chất l ượng tín dụng trung dài hạn 13
1.2. Các chỉ tiêu đánh g ía chất lượng tín dụng trung dài hạn 14
2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung dài hạn 16
2.1. Các nhân tố về phía khách hàng 17
2.2. Các nhân về phía ngân hàng 18
2.3. Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô 20
3. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn 22
3.1. Sự cần thiết phải mở rộng nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn
hiện nay 22
3.2. Một số kinh nghiệm để nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn 24
III. Cơ chế tín dụng trung và dài hạn 27
Chương hai: Thực trạng tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam và những vấn đề đặt ra về chất lượng tín dụng trung và dài hạn 28
I. Tổng quan về ngân hàng ngoại thương Việt Nam 28
1. Lịch sử hình thành và phát triển 28
2. Hệ thống tổ chức của ngân hàng ngoại thương hiện nay 28
3. Các nghiệp vụ của ngân hàng ngoại thương 30
4. Tình hình hoạt động của ngân hàng ngoại thương năm2001 32
4.1. Nguồn vốn 32
4.2. Hoạt động tín dụng 32
4.3. Than toán quốc tế 33
4.4. Thanh toán phi mậu dịch 33
4.5. Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng 34
4.6. Kinh doanh ngoại tệ 34
4.7. Hoạt động ngân quỹ 34
4.8. Một số hoạt động khác 34
II. Thực trạng tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam 35
1. Một số quy định về cho vay trung dài hạn tại ngân hàng ngoại thương
Việt Nam 35
2. Thực trạng tín dụng trung dài hạn ngân hàng ngoại thương Việt Nam 38
2.1. Tình hình huy động vốn trung dài hạn 38
2.2. Tình hình cho vay trung dài hạn 39
2.3. Tình hình nợ quá hạn 45
3. Một số kết quả đạt được và tồn tại trong hoạt động tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng ngoại thương 47
3.1. Những thành tựu đạt được 47
3.2. Những tồn tại 48
Chương ba. Một sóo giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam 50
I. Định hướng hoạt động của ngân hàng ngoại thương Việt Nam trong thời gian (đến năm 2010) 50
II. Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam 52
1. Giải pháp để mở rộng hoạt động tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng ngoại thương 52
1.1. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn trung dài hạn 52
1.2. Đa dạng hoá các hình thức tín dụng trung dài hạn 54
1.3. Đẩy mạnh công tác tư vấn đầu tư 58
1.4. Tăng cường thực hiện marketing Ngân hàng 58
1.5. Mở rộng cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh 59
1.6. Đơn giản hoá các thủ tục cho vay 60
2. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn 61
2.1. Đổi mới chính sách tín dụng 61
2.2. Nang cao hơn nữa chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư 61
2.3. Cho vay kịp thời đầy đủ đối với các dự án có hiệu quả kinh tế 62
2.4. Xử lý linh hoạt các tình huống trong quá trình cho vay 63
2.5. Tăn g cường các biện pháp thu nợ, đảm bảo trả nợ và lãi vay
Ngân hàng 63
2.6. Luôn luôn dự báo các rủi ro tiềm ẩn trong tín dụng trung dài hạn và có biện pháp phòng ngừa hữu hiệu 64
2.7. Nâng cao công ngehẹ ngân hàng 65
2.8. Phát triển hình thức bảo hiểm quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp 68
2.9. Bảo hiểm cho các khoản vay trung dài hạn 69
3. Một số kiến nghị 69
3.1. Đối với Nhà nươcds 69
3.2. Đối với NHNN 74
3.2. Đối với doanh nghiệp 75
Kết luận 77
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3808.doc