Ngày nay, nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng không chỉ đối với người tiêu dùng mà còn đối với sự sống còn của các doanh nghiệp nói riêng và một quốc gia nói chung. Vì vậy, việc liên tục cải tiến và đổi mới nhằm nâng cao chất lượng ở các cơ sở sản xuất kinh doanh là điều kiện tiên quyết để một doanh nghiệp tồn tại và cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Tuy nhiên, cùng với mặt tốt của nền kinh tế thị trường thì không thể tránh được mặt trái của nó, đó là các việc gian lận, lừa đảo trong buôn bán sản xuất hàng hoá, tệ hàng giả, hàng kếm chất lượng. ngày càng phát triển chỉ nhằm mục đích kiếm lời bất chấp hiệu quả, gây ô nhiễm môi trường. Điều đó càng khẳng định vai trò hết sức cần thiết của Quản lý nhà nước về chất lượng, phải được tăng cường, hoàn thiện hơn nữa nhằm bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ quyền lợi của các nhà sản xuất, khuyến khích tạo điều kiện cho doanh nghiệp cải tiến, đổi mới nâng cao chất lượng, phát huy tính sáng tạo trong khuôn khổ pháp luật qua các hoạt động ban hành các chính sách, các tiêu chuẩn, tăng cường hoạt động công nhận, chứng nhận thanh tra kiểm tra, đăng kí chất lượng,. nhằm giữ dìn môi trường sống trong sạch, vững mạnh, xã hội công bằng, văn minh, khẳng định vị trí của đất nước ta trên trường quốc tế.
45 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1599 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực của quản lý nhà nước về chất lượng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ôn và các đơn vị chức năng thuộc TCTCĐLCL trong việc thực thi các công việc QLNNVCL. Thanh tra các đối tượng thanh tra thuộc các trung tâm hoặc các cơ sở có hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn và hoạt động của các chi cục TCĐLCL.
Thanh tra trung tâm: Tiến hành thanh tra nhà nước về chất lượng đối với các đối tượng sau:
- Thanh tra các chi cục TCĐLCL thuộc tỉnh, thành phố.
- Thanh tra các cơ sở sản xuất kinh doanh, các loại sản phẩm hàng hoá, kể cả sản phẩm hàng hoá xuất nhập khẩu thuộc trung ương quản lý và tất cả các liên doanh nước ngoài trên địa bàn khu vực.
- Thanh tra các cơ sở sản xuất kinh doanh, các loại sản phẩm hàng hoá đã được tổng cục cấp giấy chất lượng và các cơ sở có hệ thống đảm bảo chất lượng được chứng nhận trên địa bàn khu vực.
- Thanh tra các đối tượng của thanh tra chi cục trên địa bàn khu vực.
Thanh tra chi cục: Tiến hành thanh tra nhà nước về mặt chất lượng đối với các đối tượng sau:
- Các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn do chi cục đảm nhận, trong các trường hợp đặc biệtchi cục có thể thanh tra tất cả các đối tượng của thanh tra trung tâm.
Chế độ thanh tra nhà nước về mặt chất lượng:
Thanh tra có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng bao gồm hai hình thức cơ bản:
+ Thanh tra định kì: Được tiến hành theoquyết định hoặc kế hoạch thanh tra của nhà nước.Thời hạn thanh tra định kì được qui định cụ thể đối với từng nội dung thanh tra, từng đối tượng thanh tra, tuỳ theo yêu cầu cần thiết của cơ quan QLNNVCL và thanh tra định kì được xây dựng kế hoạch từ đầu năm và được thông báo trước cho các doanh nghiệp.
+ Thanh tra bất thường: Khi cơ quan thanh tra nhà nước xét thấy cần thiết và không cần thông báo trước cho doanh nghiệp, việc thanh tra bất thường được dựa vào các căn cứ sau đây: Có xảy ra tranh chấp, khiếu nại về chất lượng hàng hoá do bất kì một tổ chức nào sản xuất, những vụ việc vi phạm pháp luật về chất lượng hàng hoá do tổ chức thanh tra phát hiện hoặc do cơ quan quản lý cấp trên giao.
Các cơ quan có thẩm quyền trong việc quản lý nhà nước có quyền yêu cầu các cá nhân cung cấp đầy đủ tài liệu và trả lời những vấn đề cần thiết cho việc thanh tra. Đề nghị TCTCĐLCL huỷ bỏ giấy chứng nhận chất lượng, giấy chứng nhận hợp chuẩn, nếu trong quá trình thanh tra phát hiện ra các vi phạm pháp luật có quyền tạm đình chỉ hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu xét thấy gây hậu quả nghiêm trọng về vệ sinh môi trường và về kinh tế.
Các cơ quan có chức năng thanh tra nhà nước về chất lương có nhiệm vụ:
Lập biên bản sử phạt theo thẩm quyền cũng như các kiến nghị, sử lí những vi phạm với các cơ quan cấp trên có thẩm quyền cao hơn. Làm hoàn tất các hồ sơ, thủ tục, và chuyển sang cơ quan điều tra hình sự nếu thấy cấu thành tội phạm.Trởng đoàn thanh tra và các thành viên trong đoàn phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trước pháp luật về kết luận của mình trong quản lý, thanh tra.
Chương 6 gồm sáu điều từ điều 26 đến điều 31 của pháp lệnh chất lượng hàng hoá qui định về kiểm tra chất lượng hàng hoá và thanh tra chuyên nghành về chất lượng hàng hoá cụ thể như sau:
- Chính phủ qui định danh mục hàng hoá phải kiểm tra về chất lượng và tổ chức kiểm tra trong từng thời kỳ. Chính phủ ban hành qui chế kiểm tra chất lượng hàng hoá.
Hàng hoá đã được chứng nhận phù hợp với tiêu chuẩn. Hàng hoá của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh đã được chứng nhận có hệ thống quản lý chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn Việt Nam hoặc tiêu chuẩn nước ngoài, tiêu chuẩn quốc tế được miễn kiểm tra về chất lượng, trừ trường hợp có dấu hiệu vi phạm pháp luật về chất lượng hàng hoá.
- Việc thanh tra chất lượng hàng hoá do thanh tra chuyên nghành về chất lượng thực hiện. Tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên gnhành về chất lượng do chính phủ qui định.
- Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của thanh tra chuyên nghành về chất lượng hàng hoá.
Trách nhiệm, quyền hạn của một tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra về chất lượng hàng hoá.
II- Mối quan hệ biện chứng giữa tiêu chuẩn hoá, đo lường với quản lý nhà nước về chất lượng.
Giữa tiêu chuẩn hoá, đo lường và hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng có mối quan hệ khăng khít với nhau, chúng thúc đẩy nhau cùng phát triển và thiếu một trong các yếu tố trên thì không thể thực hiện quản lý nhà nước về chất lượng một cách có hiệu quả được. Vì vậy khi nghiên cứu về quản lý nhà nước về chất lượng thì không thể không đặt nó trong mối quan hệ này. Để hiểu được nó trước hết chúng ta phải đi tìm hiểu bản chất sâu xa của chúng:
Hoạt động đo lường
Đo lường là một tập hợp các thao tác cụ thể nhằm mục đích xác định giá trị của một đại lượng bằng việc so sánh đại lượng đó với một loại đại lượng khác coi là chuẩn và xác định đó là đơn vị đo.
Đo lường là công cụ quan trọng của quản lý nhà nước về chất lượng trong các tổ chức, các hoạt động và qúa trình diễn ra các hoạt động trong tổ chức đó hầu hết đều cần trong các hoạt động đo lường để đánh giá hiệu quả công việc cũng như việc tuân thủ các qui định trong các hợp đồng.
Đo lường giúp cho việc đánh giá được chính xác và thống nhất, mọi hoạt động trong tổ chức thông qua đảm bảo các yêu cầu về phương tiện, phương pháp, đơn vị, và người thực hiện đo.
Điều đó làm kết quả đo có sức thuyết phục cao, thể hiện đầy đủ các yêu cầu và làm cơ sở cho các hoạt động đánh giá sau này.
Đo lường là công cụ giúp cơ quan nhà nước có thể thực hiện tốt những nhiệm vụ chủ yếu của mình trong quản lý đó là:
+ Giúp cho việc triển khai, nghiên cứu áp dụng các tiêu chuẩn. Đặc biệt là các tiêu chuẩn liên quan đến chất lượng.
+ Giúp cho công tác kiểm tra, đăng kí chất lượng, thanh tra chất lượng và sử lý vi phạm về chất lượng cũng như tranh chấp chất lượng.
+ Giúp cho nghiên cứu, thử nghiệm, đánh giá và xác định chất lượng một cách chính xác, nhanh chóng và đầy đủ.
Hoạt động tiêu chuẩn hoá:
Tiêu chuẩn hoá là hoạt động nhằm cung cấp những giải pháp được lặp đi, lặp lại cho những vấn đề trọng yếu của khoa học kỹ thuật và kinh tế để đạt được mức độ nề nếp tối ưu trong hành chính hiện đại
Chính vì vậy, tiêu chuẩn hoá có vai trò to lớn trong việc ổn định duy trì, nâng cao chất lượng, đảm bảo kết quả tốt trong các chu kì sản xuất, kinh doanh tiếp theo. Tạo cơ sở cho các hoạt động đánh giá cải tiến, đổi mới, nâng cao chất lượng của các doanh nghiệp. Tăng hiệu quả sử dụng một cách hợp lí và tiết kiệm tối đa các nguồn lực nhưng không gây ảnh hưởng sấu đến chất lượng và tác động đến môi trường xung quanh. Đảm bảo an toàn về sức khoẻ cũng như các yêu cầu khác của mọi thành viên trong xã hội. Mở rộng hợp tác phát triển trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức, các quốc gia trong khu vực và trên thế giới
Bản chất của tiêu chuẩn hoá qui định chức năng của nó :
+ Chức năng tiết kiệm: Tiêu chuẩn hoá được xây dựng dựa trên những thành tựu khoa học tiên tiến và những kinh nghiệm tốt nhất được rút ra từ các hoạt động thực tiễn. Do đó nó là cơ sở khoa học cho việc xác định một cách hợp lí, tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực trong việc tạo ra và cung cấp các sản phẩm hàng hoá dịch vụ cho xã hội. Bên cạnh đó tiêu chuẩn hoá cũng là cơ sở theo dõi, đánh giá sự lãng phí do sự dao động lệch khỏi tiêu chuẩn gây ra.
+ Chức năng thống nhất và lắp lẫn: Thống nhất hoá là những qui định hợp lí cho các đối tượng có cùng chức năng nhằm làm giảm bớt hay thay đổi đối tượng đã có, làm giảm nhẹ cũng như rút ngắn thời gian công tác, thiết kế, chế tạo, nâng cao trình độ chuyên môn hoá.Tiêu chuẩn hoá được thực hện qua sự thống nhất hoá và ngược lại tiêu chuẩn hoá tạo ra sự thống nhất giữa các bộ phận. Nhờ sản xuất các chi tiết, bộ phận theo đúng tiêu chuẩn mà có thể lắp lẫn được các chi tiết, bộ phận trên các sản phẩm được cung cấp từ những nhà sản xuất khác nhau.
+ Chức năng đào tạo, giáo dục: Nhờ tiêu chuẩn hoá và thông qua các tiêu chuẩn hoá mà người quản lí cũng như người lao động hiểu biết thêm và nhận biết đầy đủ hơn về sản phẩm và chất lượng sản phẩm hàng hoá. Thông qua đó việc tạo ra cách dùng thuật ngữ các dụng cụ đo lường, các đơn vị đo, các nguyên tắc, nguyên lý hoạt động của máy móc thiết bị mới được thống nhất. Người lao động nhận biết được thực chất và tầm quan trọng của tiêu chuẩn hoá thông qua việc tìm hiểu, nắm bắt và thực hiện hệ thống tiêu chuẩn do đó tiêu chuẩn hoá đòi hỏi người lao động phải không ngừng cải tiến học hỏi, nâng cao trình độ tay nghề của mình, đồng thời cũng huấn luyện buộc người lao động hình thành thói quen hoạt động có cơ sở và căn cứ khoa học, thực tiễn.
+ Chức năng hành chính pháp lí: Trong doanh nghiệp hay tổ chức, hệ thống tiêu chuẩn được văn bản hoá, đó chính là cơ sở, thể chế bắt buộc mọi người đều phải tuân theo và thực hiện một cách nghiêm túc. Quản lý và thực hiện theo tiêu chuẩn là một nguyên tắc mang tính qui định hành chính, mọi đánh giá, theo dõi và chế độ thưởng phạt, khuyến khích đều dựa trên việc chấp hành và thực hiện các tiêu chuẩn nguyên tắc đã ban hành.
Những yêu cầu trong tiêu chuẩn hoá:
+ Tiêu chuẩn hoá phải được văn bản hoá, phải được ghi lại một cách rõ ràng, cụ thể. Vì tiêu chuẩn hoá chính là cơ sở để quản lý và theo dõi mức độ nề nếp, đánh giá kết quả, ghi được trongviệc duy trì và cải tiến chất lượng. Tiêu chuẩn khi được ghi vào văn bản hoá, nó chính là cơ sở để đánh giá sự tiến bộ, cho phép kiểm soát bất kì một sự thay đổi nào trong quá ttrình.
+ Tiêu chuẩn hoá phải được đổi mới kịp thời, phải được thiết lập cho tương lai và hiện tại trong một giai đoạn nhất định, trong khi đó môi trường và những điều kiện hoạt động sản xuất luôn biến động và thay đổi. Vì thế mà duy trì hệ thống tiêu chuẩn quá lâu sẽ làm kìm hãm sự phát triển, do sự lạc hậu của tiêu chuẩn so với những đòi hỏi mới. Vì vậy khi phương pháp sản xuất thay đổi hoặc là khi áp dụng các phương pháp tiến bộ hơn thì tiêu chuẩn hoá cần phải được thay đổi.
+ Tiêu chuẩn hoá phải được mọi người hiểu, nắm vững và phải được thực hiện một cách nghiêm túc để đạt được hiệu quả tốt nhất trong quá trình.
+ Tiêu chuẩn hoá phải được thống nhất và được hình thành từ thực tế của tổ chức, phải được cụ thể hoá đối với từng hoạt động tránh được tình trạng các tiêu chuẩn chồng chéo.
Giữa tiêu chuẩn hoá, đo lường và hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chúng thúc đẩy nhau cùng phát triển và thiếu một trong những yếu tố thì không thể thực hiện quản lý nhà nước về chất lượng được.
Đo lường có tác động tích cực đối với tiêu chẩn hoá, nó là công cụ để nghiên cứu, thử nghiệm và chọn lọc các yêu cầu, định mức hợp lý đối với các chỉ tiêu của tiêu chuẩn, là công cụ điều khiển các quá trình sản xuất theo tiêu chuẩn.
Đo lường là công cụ tiến hành kiểm tra các chỉ tiêu sản phẩm xem có đạt các yêu cầu trong tiêu chuẩn hay không.
Tiêu chuẩn thể hiện những điểm trọng yếu của từng hoạt động trong công nghiệp, xác định việc đã quyết trên cơ sở các phương pháp thao tác và kết quả đo Nhờ đó các sản phẩm làm ra đồng đều và ổn định.
Đánh giá chất lượng bao giờ cũng căn cứ vào các tiêu chuẩn. Đo lường tạo điều kiện mô tả chính xác tình trạng sản phẩm. Ngoài ra, gián tiếp cung cấp cơ sở khoa học cho các tiêu chuẩn mới sau này.
Tiêu chuẩn hoá chỉ phát huy được tác dụng của mình khi có một hệ thống đo lường chính xác và ngược lại đo lường sử dụng tiêu chuẩn hoá như một công cụ được thông qua qui định các đơn vị đo và phương tiện đo.
Tiêu chuẩn hoá là biện pháp để đo lường mang lại hiệu quả cao, góp phần làm cho chính xác các phép đo. Hoạt động quản lý nhà nước bởi vậy sẽ không thể thiếu được một trong hoạt động trên đó là hoạt động ban hành, áp dụng tiêu chuẩn và hoạt động đo lường, chỉ cần thiếu một trong hai hoạt động trên thì hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng sẽ bị tê liệt hoàn toàn, không thể hoạt động có hiệu quả được.
III. Thực trạng Tình hình quản lý nhà nước về chất lượng trong những năm qua.
1- Quản lý nhà nước về chất lượng tại Việt nam
1.1. Khái quát tình hình quản lý nhà nước về chất lượng trong giai đoạn trước đổi mới(từ 1986 trở về trước)
Thực hiện cơ chế quản lý nền kinh tế theo mô hình kế hoạch hoá tập trung, cơ chế này được áp dụng một cách nghiêm ngặt trong lĩnh vực chất lượng. Điều đó được thể hiện ở những đặc trưng cơ bản sau:
Nhà nước trực tiếp quản lý ở mọi cấp, mọi khâu, mọi cơ sở trong nền kinh tế quốc dân.
Nhà nước đưa chất lượng thành các chỉ tiêu pháp lệnh, trong kế hoạch sản xuất, lưu thông, phân phối.
Tất cả các đơn vị sản xuất kinh doanh đều hoạt động theo các chỉ tiêu chất lượng được giao.
Quản lý tập trung thống nhất về chất lượng từ trên xuống dưới theo một tuyến ngành dọc nhất định.
Các sản phẩm của mọi đơn vị sản xuất thuộc mọi thành phần kinh tế trước khi sản xuất và đưa ra thị trường đều phải được cơ quan quản lý chất lượng của nhà nước làTCTCĐLCLcấp giấy đăng kí. Trong giai đoạn này nhằm thực hiện được cơ chế quản lý chất lượng trên, nhà nước phải ban hành hàng loạt văn bản pháp lý quan trọng.
Trước năm1973.
Nhà nước chưa theo dõi các hoạt động quản lý chất lượng như một lĩnh vực hoạt động đặc thù. Công tác quản lý chất lượng sản phẩm hàng hoá thường được tiến hành rời rạc trong các xí nghiệp, các ngành theo những hướng dẫn khác nhau của một số bộ và cơ quan.
Ngày 24-8 –1963 đã ban hành nghị định 123 về điều lệ tạm thời nghiên cứu phê duyệt ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật của các sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp. Nghị định này tạo cơ sở pháp lý cho các tiêu chuẩn hoá và từ đó công tác tiêu chuẩn hoá được đẩy mạnh.
Từ năm 1973 đến cuối những năm 80.
Các hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm ở nước ta được tiến hành theo tinh thần của nghị định số 159 TTg về công tác quản lý chất lượng sản phẩm và hàng hoá do thủ tướng chính phủ ban hành ngày 7-7-1973. Quyết định này là văn bản pháp qui đầu tiên ở nước ta đề cập đến vấn đề quản lý chất lượng một cách đồng bộ, có hệ thống, do đó đã tạo điều kiện cho việc chỉ đạo và thực hiện công tác quản lý chất lượng sản phẩm của nước ta phù hợp với cơ chế kế hoạch hoá tập trung.
Sáu biện pháp lớn được nêu ra trong Quyết định 159 TTgđể đảm bảo và nâng cao chất lượng là:
1. Đưa chất lượng sản phẩm, hàng hoá thành một chỉ tiêu pháp lệnh trong kế hoạch sản xuất và lưu thông phân phối cho nhà nước.
2. Sớm bổ sung và ban hành các chế độ, thể lệ làm cơ sở pháp lý cho công tác quản lý chất lượng sản phẩm và hàng hoá.
3. Phấn đấu nhanh chóng ổn định sản xuất, tạo điều kiện cho các cơ sở đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm.
4. Chấn chỉnh và tăng cường công tác quản lý chất lượng sản phẩm và hàng hoá, trước hết là cơ sở sản xuất cônh nghiệp.
5. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, kỹ thuật phục vụ cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm và hàng hoá.
Đẩy mạnh việc tuyên truyền giáo dục về ý nghĩa quan trọng của chất lượng sản phẩm hàng hoá, tạo nên một chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, tư tưởng và hành động của cán bộ công nhân viên.
Tiếp theo đó là hàng loạt các văn bản pháp qui đã được ban hành như:
- Quyết định 26 CP (ngày21-2-1974) và nghị định số 26 CP( ngày 12-4-19760) của hội đồng chính phủ về công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hoá.
- Nghị định 216 CP (ngày 25-9-1974) và nghị định 217 CP của hội đồng chính phủ (ngày 30-12-1974) về công tác tiêu chuẩn hoá ở xí nghiệp công nghiệp.
- Hàng chục quyết định và thông tư liên bộ đã được uỷ ban khoa học và kỹ thuật nhà nước (UBKHTNN) và các bộ ban hành về đăng ký chất lượng, chứng nhận chất lượng, hướng dẫn về quản lý chất lượng cho các ngành, địa phương và cơ sở.
Các văn bản trên có tác động thúc đẩy từng mặt cụ thể của hoạt động quản lý chất lượng như: thanh tra, kiểm tra chất lượng; đăng ký chất lượng; chứng nhận chất lượng; xây dựng và thực hiện các chương trình đảm bảo chất lượng; nghiên cứu áp dụng một số chương trình quản lý chất lượng của nước ngoài vào điều kiện của nước ta, vv...
Những kết quả nổi bật của việc thực hiện Quyết định 159- TTg là:
- Các hoạt động tiêu chuẩn hoá đo lường, kiểm tra chất lượng được tăng cường, gắn bó với nhau tạo nên một mạng lưới từ trung ương ngành địa phương tới cơ sở. Việc sáp nhập Cục Tiêu chuẩn, Cục Đo lường, Cục kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hoá và Viện Định chuẩn thành một cơ quan thống nhất cùng với việc hình thành ba trung tâm khu vực và các chi cục TCĐLCL và tại các tỉnh thành phố đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai đồng bộ các hoạt động tiêu chuẩn, đo lường chất lượng trong cả nước với một tiểm lực ban đầu về cán bộ và phương tiện vật chất kỹ thuật, nhất là hệ thống các phòng đo lường, thử nghiệm làm nòng cốt cho sự chuẩn bị đổi mới quản lý chất lượng trong điều kiện mới sau này.
- Công tác thanh tra nhà nước, công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hoá được hình thành và phát triển từ trung ương đến địa phương và cơ sở. Hầu hết các xí nghiệp quốc doanh đều có tổ chức kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hoá của mình(KCS), Công tác này đã góp phần hạn chế các tiêu cực, các sai sót về tiêu chuẩn đo lường chất lượng, giúp các cơ sở thấy rõ được điểm mạnh, điểm yếu của mình để cải tiến và nâng cao chất lượng.
- Công tác đăng kí chất lượng được hình thành và là một hoạt động đặc thù của ta, đảm bảo tính công khai, tính hợp pháp của kinh doanh, tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của người sản xuất về trình độ chất lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của mình có thể đạt được. Qua công tác đăng kí, người tiêu dùng có thể biết được chất lượng sản phẩm của người sản xuất, các nhà quản lý có thể nắm bắt được trình độ chất lượng của từng loại mặt hàng, đưa ra những biện pháp uốn nắn, điều chỉnh, hướng dẫn nhằm giúp các nhà sản xuất bảo đảm và nâng cao chất lượng, ngăn chặn kịp thời các hiện tượng tiêu cực.
- Công tác đăng kí chất lượng được hình thành và triển khai thực hiện từ năm 1980 đã có một tác động rất tích cực tới việc động viên, khuyến khích các nhà sản xuất các nhà sản xuất nước ta hăng hái đi vào con đường chất lượng, đạt được những thành tích đáng kể. Tính đến giữa năm 1991 đã có tới 810 giấy chứng nhận chất lượng nhà nước cấp cho gần một loạt hàng hoá, sản phẩm cụ thể của gần 300 cơ sở bao gồm các xí nghiệp, nhà máy, liên hiệp xí nghiệp, hợp tác xã, tổ sản xuất, trạm, công ti thuộc 13 bộ, tổng cục và 22 tỉnh, thành phố.
- Công tác nghiên cứu khoa học- nghiệp vụ. Tổng kết kinh nghiệm trong nước, học tập kinh nghiệm nước ngoài và quốc tế, công tác thông tin dữ liệu, đào tạo, xây dựng và thực hiện chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng được trú trọng.
Tuy nhiên những thành tựu đạt được còn hạn chế, chưa tạo được chuyển biến đáng kể về chất lượng, do đó tình hình chất lượng sản phẩm nói chung vẫn còn ở trạng thái yếu kém, bấp bênh không ổn định hàng nhiều năm kéo dài: Không có sự tách biệt giữa quản lý nhà nước về chất lượng với quản lý chất lượng với các doanh nghiệp.
Các chỉ tiêu chất lượng hầu hết đều do các viện nghiên cứu đưa ra và bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện do đó nó tách dời thực tế và rất khó thực hiện.
Có sự tách biệt rõ ràng giữa nghiên cứu và ứng dụng, cho nên tính khả thi của các chỉ tiêu chất lượng là thấp.
Sản phẩm do các đơn vị sản xuất đều không xuất phát từ nghiên cứu thực tế của thị trường mà đều đưa trên kế hoạch. Hiệu quả sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế quốc dân là thấp, sản phẩm sản xuất ra có chất lượng kém và ngày càng có xu hướng sấu đi. Cạnh đó máy móc thiết bị không được đổi mới. Dẫn đến mẫu mã sản phẩm, chủng loại hết sức ngèo nàn, lạc hậu, không đáp ứng hết nhu cầu của người tiêu dùng cả về chất và số lượng.
1.2. Giai đoạn từ năm 1987 đến nay.
Cùng với sự chuyển đổi của cơ chế quản lý chuyển từ cơ chế tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong giai đoạn này quản lý chất lượng nước ở nước ta đã có sự thay đổi đáng kể và đi dần vào quĩ đạo của quản lý chất lượng trên thế giới, được thực hiện:
Dần có sự tách biệt giữa quản lý nhà nước về chất lượng với quản lý chất lượng ở các doanh nghiệp, nhà nước chỉ quản lý vĩ mô, còn doanh nghiệp được hoàn toàn chủ động trong quản lý vi mô. Hoàn thiện, xây dựng, ban hành những văn bản pháp qui mới, theo hướng củng cố, tăng cường, hiệu lực hiệu quả của quản lý chất lượng nhưng vẫn bám sát những đòi hỏi thực tế.
Nghị định 140 Quyết định về sử lý kiểm tra việc sản xuất hàng hoá sản phẩm kém chất lượng.
Trong giai đoạn này tăng cường hợp tác quốc tế học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu các phương pháp, kiến thức quản lý nhà nước về chất lượng hiện đại ở các nước tiên tiến.
Nâng cao vai trò trợ giúp, cung cấp thông tin, hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện các phương pháp quản lý chất lượng kiểu mới.
Việc ban hành hàng loạt các văn bản pháp qui cơ chế quản lý mới, bắt đầu từ nghị quyết số 127CT ngày14-11-1987, là tiền đề quan trọng trong định hướng mới.
Văn bản đầu tiên chuẩn bị cho sự đổi mới các hoạt động quản lý chất lượng ở nước ta thời kỳ mới đó là chỉ thị 222CT ngày 6-8-1988 của chủ tịch hội đồng bộ trưởng về các biện pháp cấp bách nhằm tăng cường, củng cố công tác quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm hàng hoá.
Bốn biện pháp được nêu ra trong chỉ thị 222 CT:
1. Cải tiến và đẩy mạnh hoạt động đăng kí chất lượng trong mọi thành phần kinh tế. Trách nhiệm của thủ trưởng các đơn vị sản xuất kinh doanh và của các cơ quan quản lý TCĐLCL. Cải tiến và đẩy mạnh công tác thanh tra và sử lý các vi phạm về chất lượng và đo lường. Cấp thẻ thanh tra viên về chất lượng cho các thanh tra viên chất lượng củaTCTCĐLCL và các chi cục TCĐLCL.
2. Cải tiến hệ thống tiêu chuẩn các cấp theo yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý hiện nay theo hướng: Đẩy nhanh xây dựng áp dụng tiêu chuẩn cấp cơ sở. Chuyển hướng mạnh việc xây dựng tiêu chuẩn Việt nam (TCVN), tiêu chuẩn ngành cho các vấn đề KHKT chung, an toàn, bảo vệ sức khoẻ môi trường và cho các nhóm sản phẩm.
3. Tiến hành công tác đánh giá và công nhận các phòng kiểm nghiệm, các số liệu tra cứu chuẩn và các mẫu chuẩn để dần dần hình thành các hệ thống các phòng kiểm nghiệm quốc gia phục vụ cho việc quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá trong nước và thực hiện nghĩa vụ của nước ta trong công ước quốc tế có liên quan.
Ngày 29-12-1988 Hội đồng bộ trưởng ra tiếp Quyết định 207 HĐBT về công tác kiểm tra thanh tra chất lượng hàng xuất nhập khẩu trong đó qui định rõ trách nhiệm của các tổ chức cơ sở sản xuất kinh doanh hàng xuất nhập khẩu, các bộ, tổng cục, tỉnh thành phố, đặc khu chỉ định các cơ quan kiểm tra chất lượng hàng hoá, các tổ chức làm nhiệm vụ kiểm tra và cấp giấy chứng nhận chất lượng hàng xuất nhập khẩu, trách nhiệm của tổng cục TCĐLCL trong việc thanh tra và giám sát.
Pháp lệnh đo lường do Hội đồng nhà nước công bố ngày 16-7-1990 và pháp lệnh chất lượng hàng hoá do Hội đồng nhà nước công bố ngày 2-1-1991 là văn bản quan trọng nhất hiện nay, tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới các hoạt động TCĐLCL, trong đó hoạt động quản lý chất lượng ở nước ta cho giai đoạn phát triển mới. Pháp lệnh chất lượng hàng hoá khẳng định rõ trách nhiêm của từng tổ chức cá nhân kinh doanh đối với chất lượng hàng hoá do mình sản xuất hoặc bán ra.
Bên cạnh việc pháp huy quyền chủ động sáng tạo của cơ sở, pháp lệnh cũng qui định rõ những nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước về chất lượng hàng hoá như sau:
1. Lập qui hoạch, kế hoạch và qui định chế độ, thể lệ về quản lý chất lượng hàng hoá.
2. Tổ chức, quản lý hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước về chất lượng hàng hoá.
3. Ban hành tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN), qui địnhviệc áp dụng TCVN, tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến chất lượng hàng hoá.
4. Đăng kí và cấp đăng kí về chất lượng hàng hoá, hệ thống đảm bảo chất lượng phù hợp TCVN và công nhận phòng thử nghiệm chất lượng hàng hoá.
5.Thanh tra nhà nước về chất lượng hàng hoá và sử lý vi phạm pháp luật về chất lượng hàng hoá.
Pháp lệnh cũng xác định rõ cơ quan quản lý chất lượng hàng hoá gồm các cơ quan cấp nhà nước, cấp ngành và cấp cơ sở.
Đây là lần đầu tiên ở nước ta quyền của người tiêu dùng về chất lượng hàng hoá được đề cập đến trong pháp lệnh này. Nhiều nội dung quan trọng cũng được đề cập đến trong pháp lệnh, như các công tác:
- Ban hành và áp dụng tiêu chuẩn.
- Chứng nhận phù hợp TCVN.
- Đăng ký chát lượng.
- Kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu.
- Thanh tra nhà nước về chất lượng hàng hoá...
Hơn 10 năm đổi mới và hội nhập đã mang lai nhiều chuyển biến đáng phấn khởi.Thị trường hàng nội địa ngày càng đa dạng phong phú, kiểu dáng bao bì được cải tiến, chất lượng được nâng cao hơn trước.
Tình hình chất lượng ngày càng ổn định và từng bước được nâng cao trong thập niên 90 chủ yếu là nhờ chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và thời kỳ mở cửa nền kinh tế nước tacùng với sự hăng hái chủ động thực hiện quá trình đổi mới kinh tế –xã hội trong mọi ngành, mọi cấp từ đại hội đảng lần thứ 6 tới nay.Những nhân tố mới, tích cực, đã xuất hiện trong thời kỳ này là:
- Nhân tố tích cực của người lao động được phát huy mạnh mẽ hơn so với thời kỳ thực hiện kế hoạch hoá tập trung.
- Người sản xuất, người lưu thông và người dịch vụ được tháo gỡ khỏi những trói buộc của cơ chế hành chính quan liêu bao cấp, phát huy được quyền tự chủ sáng tạo trong các hoạt động kinh doanh của mình.
- Vai trò của người tiêu dùng ngày càng được đề cao trên thị trường và có tiếng nói quyết định trên thị trường.
- Cùng với quá trình cải tổ khu vực kinh tế nhà nước, sự tham gia của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và các hoạt động kinh doanh, đã làm cho thị trường hàng hoá nước ta trở nên sôi động, nhôn nhịp và ngày càng phát triển theo xu thế lành mạnh.
Các nhân tố nêu trên đã tạo nên những tiền đề quan trọng để cải thiện tình hình chất lượng sản phẩm, hàng hoá của nước ta.Tuy nhiên những nhân tố này sẽ không phát triển được tốt nếu thiếu một nhân tố hết sức cơ bản là sự đổi mới chung và sự đổi mới về quản lý chất lượng ở cấp nhà nước cũng như ở cấp doanh nghiệp noí riêng.
Tuy có rất nhiều tiến bộ trong hơn 10 năm qua nhưng nhìn chung tình hình chất lượng của nước ta vẫn còn ở trình độ thấp, sự tiến bộ chưa vững chắc, chưa đồng đều, chưa phổ cập. Trong bối cảnh chung còn nhiều khó khăn đó, chúng ta vẫn có những doanh nghiệp duy trì được ý thức thường xuyên phấn đấu thường xuyên về chất lượng.
Trong pháp lệnh chất lượng hàng hoá ban hành năm 1990 và các nghị định hướng dẫn trước đây còn nặng về mặt kiểm soát bằng các biện pháp hành chính, chưa thể hiện được mặt thứ hai của quản lý nhà nước là tạo môi trường, điều kiện và hướng dẫn để mọi tổ chức cá nhân phát huy tính tự chủ, chủ động và sáng tạo của họ.
PLCLHH-1999 đã khắc phục được những mặt này bằng cách đưa ra các nội dungvề xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách, qui hoạch và kế hoạch chất lượng hàng hoá, phân cấp quản lý nhà nước, tổ chức quản lý đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, thông tin tuyên truyền, phổ biến kiến thức và pháp lệnh về chất lượng hàng hoá, thực hiện hợp tác quốc tế, tăng cường các biện pháp kiểm tra, thanh ra, giải quyết khiếu nại tố cáo và sử lý các vi phạm pháp luật về chất lượng hàng hoá.
Quản lý nhà nước về chất lượng hàng hoá phải thể hiện là sự thống nhất quản lý Nhà Nước trong quản lý. Do đó pháp lệnh đã qui định:
- Chính phủ thống nhất quản lý Nhà Nước về chất lượng hàng hoá trong phạm vi cả nước. Bộ Khoa Học Công nghệ và Môi trường chịu trách nhiệm trước chính phủ về thực hiện việc thống nhất quản lý Nhà nước về chất lượng hàng hoá. Chính phủ qui định trách nhiệm cụ thể của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về chất lượng hàng hoá.
PLCLHH-1999 được ban hành là cơ sở pháp lý đẻ thực hiện quản lý nhà nước về chất lượng hàng hoá trong thời kỳ đẩy mạnh phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá, tăng cường hội nhập với khu vực và quốc tế.Bộ khoa học, Công nghệ và môi trường, với chức năng, nhiệm vụ được Chính phủ giao cho đang khẩn trương triển khai việc xây dựng nghị định và các thông tư hướng dẫn thi hành pháp lệnh này.
Tóm lại, nhờ sự đổi mới căn bản trong nhận thức và trong quản lý chất lượng đặc biệt là cách quản lý nhà nưóc về chất lượng đã tạo ra những sức ép mới, buộc các doanh nghiệp phải chủ động, sáng tạo, nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hoá. Do đó chất lượng sản phẩm được nâng lên một cách rõ rệt, sản phẩm phải đa dạng hơn, tốc độ đổi mới của sản phẩm nhanh hơn và có nhiềunhững sản phẩm có thể cạnh tranh những sản phẩm ỏ nước ngoài.
Cơ cấu của hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về chất lượng ở Việt Nam.
Cùng với việc ban hành cơ chế chính sách quản lý nhà nước về chất lượng, nhà nước cũng thúc đẩy quá trình hình thành và hoàn thiện quản lý này, tạo ra sự thống nhất và môi trường thuận lợi và điều kiện tốt cho các doanh nghiệp phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm, cạnh đó giúp cho doanh nghiệp những nguồn thông tin về thị trường, về công nghệ, giúp cho các doanh nghiệp có khả năng sản xuất sản phẩm có thể cạnh tranh với các sản phẩm của nưóc khác.
Để thực hiện được chủ trương này, nhà nước ban hành những qui định:
Ngày 4-4-1962 Hội đồng chính phủ ban hành nghị định số 43 về thành lập viện Đo lường và tiêu chuẩn sau đó tách thành tổng cục đo lường và tổng cục tiêu chuẩn.
Ngày 13-1-1979 Hội đồng chính phủ ra quyết định 345 Thành lập Cục TCĐLCL Nhà nước sau đổi thành TCTCĐLCL, song song với các cơ quan quản lý ở trung ương, các cơ quan ở địa phương, khu vực tỉnh cũng thành lập để hoàn thiện những chức năng và nhiệm vụ mới. Ta có thể hiểu về cơ cấu tổ chức quản lý qua sơ đồ sau:
Trung tâm 3
TCTCĐLCL
Trung tâm 1
Trung tâm 2
Chi cục 1
Chi cục 2
Chi cục n
Sau một quá trình dài học hỏi và thâm nhập vào thực tế, cho tới nay cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước về chất lượng tại Việt nam tổ chức theo tuyến dọc, ba cấp chủ yếu:
Cấp trung ương: là cơ quan đầu não của mọi hoạt đọng quản lý nhà nước về chất lượng đó là Tổng cục TC-ĐL-CL.
Các vùng lãnh thổ:Tại ba khu vực trong cả nước xây dựng 3 trung tâm TC-ĐL-CL 1, 2, 3 ở 3 miền : bắc, trung, nam.
Cấp tỉnh: Trong mỗi tỉnh, thành phố ta xây dựng một chi cục đo lường chất lượng để quản lý nhà nước về chất lượng tại tỉnh đó. Ngoài ra để hoạt động QLNNVCL có hiệu quả, chúng ta có quản lý chất lượng bằng việc phối hợp với hệ thống tổ chức quản lý theo chuyên ngành, tức có ngành bộ cùng tham gia QLCL theo những nguyên tắc chặt chẽ, thống nhất và không có sự chồng chéo.
Chức năng, nhiệm vụ của tổng cục TC-ĐL-CL và các trung tâm TC-ĐL-CL:
TCTC-ĐL-CL là cơ quan quản lý chất lượng cao nhất tại Việt Nam, là đại diện của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế về các hoạt động tiêu chuẩn, đo lường chất lượng, có nhiệm vụ là đầu mối hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chất lượng.
Xây dựng các kế hoạch về tiêu chuẩn hoá, chất lượng hàng hoá trình các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Xây dựng các dự án nghiên cứu pháp luật về tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, phổ biến tuyên truyền cho mọi đối tượng.
Xây dựng các văn bản pháp qui về tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn kiểm tra, đánh giá chất lượng hàng hoá thuộc thẩm quyền.
Tổ chức thực hiện và kiểm tra đối với mọi đối tượng tham gia sản xuất kinh doanh, tổ chức thực hiện hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam, hệ thống tiêu chuẩn đảm bảo phù hợp Tiêu chuẩn Việt Nam và đánh giá công nhận phòng thử nghiệm chất lượng hàng hoá.
Thực hiện thanh tra nhà nước về chất lượng hoặc sử lý các vi phạm về chất lượngtheo đúng pháp luật.
Hướng dẫn thông tin về tiêu chuẩn hoá hàng hoá, và tổ chức hướng dẫn các nghiệp vụ cho các cơ quan quản lý chất lượng của nghành, của cơ sở.
Nghiên cứu và hợp tác quốc tể trong lĩnh vực khoa học về tiêu chuẩn, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về tiêu chuẩn chất lượng.
- Các trung tâm và chi cục TC-ĐL-CL: thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về chất lượng theo sự phân cấp ở vùng và tỉnh do mình phụ trách trong phạm vi hẹp và cụ thể hơn.
Trách nhiệm của các nghành, cấp đối với vấn đề về chất lượng:
- Các nghành, các cấp: phải phối hợp với các cơ quan chuyên nghành trong quản lý nhà nước về chất lượng để thực hiện tốt các vấn đề được giao, tránh tình trạng chồng chéo, bỏ sót. Có các quyết định sử lý vi phạm một cách thẳng thắn, công bằng và đúng mức không gây trở ngại cho các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực và khu vực mình quản lý.
Trách nhiệm chủ yếu của các cơ quan tham gia hoạt động trong các lĩnh vực quản lý chất lượng phải được phân biệt cụ thể cấp, nghành, bộ, địa phương.
Các bộ, nghành có nhiệm vụ tổ chức quản lý, chỉ đạo hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng trong phạm vi ngành mình.
Lập kế hoạch về tiêu chuẩn hoá và chất lượng hàng hoá, ban hành các văn bản cần thiết. Đồng thời tiến hành thanh tra, kiểm tra hoạt động quản lý chất lượng của các cơ sở trong ngành.
2. Quản lý nhà nước về chất lượng ở một vài nước trên thế giới.
2.1. Đôi nét về hoạt động tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng và thử nghiệm tại Pháp.
Về tiêu chuẩn và chất lượng.
Pháp có quá trình phát triển tiêu chuẩn hoá (TCH) quốc gia đã phát triển trên 70 năm. Hạt nhân trung tâm của hệ thống tiêu chuẩn hoá quốc gia Pháp là Hội tiêu chuẩn hoá Pháp AFNOR. Hội này được thành lập năm 1926, hoạt động dưới sự bảo trợ của Chính Phủ Pháp thông qua bộ Công nghiệp, bưu chính viễn thông và ngoại thương. Trong khuôn khổ của hệ thống TCH pháp, AFNOR có vai trò thúc đẩy, điều phối các hoạt động xây dựng tiêu chuẩn trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế, nhiệm vụ chính của tổ chức này là:
- Điều tra các nhu cầu về TCH.
-Xây dựng các văn bản tầm cỡ chiến lược.
-Tác động đến các nguồn lực.
-Thúc đẩy hệ thống TCH với sự phối hợp chặt chẽ của các phòng ban chuyên ngành.
-Tham gia các hệ thống TCH quốc tế và châu âu.
-Huy động rộng rãi các tổ chức tiêu dùng, sản xuất, thương mại, dịch vụ, tư vấn tham gia vào các hoạt động TCH.
AFNOR đã được chính phủ Pháp công nhận là cơ quan cấp dấu quốc gia, phù hợp với tiêu chuẩn Pháp NF. Mấy năm gần đây tổ chức này đẩy mạnh xây dựng các tiêu chuẩn nhằm cụ thể hoá Bộ tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000 về đảm bảo chất lượng, đồng thời tích cực tham gia vào quá trình hoà hợp TCH trong cộng đồng Châu âu.
Công tác chứng nhận sự phù hợp tiêu chuẩn do AFNOR và một số cơ quan tiến hành đối với sản xuất đã được phát triển. Hội đảm bảo chất lượng Pháp AFAQ thành lập năm 1988, tập hợp đông đảo các thành viên, trong đó có 40 tổ chức nghề nghiệp, 40 tổ chức tiêu thụ và thầu chính (có cả AFNOR,MFQ, LNE, các cơ quan kiểm tra, các hãng lớn tầm cỡ quốc tế như IBM, Neslte, Shell) nó có hai hoạt động chính:
+ Chứng nhận các hãng.
+ Chứng nhận các thẩm định viên.
Tới tháng 2-1994 AFAQ đã cấp 2000 giấy chứng nhận, trong đó có gần 30 giấy chứng nhận cho các công ty nước ngoài.
Về đo lường và thử nghiệm:
Pháp có lịch sử phát triển lâu dài về đo lường, Tổ chức quản lý đo lường pháp được phân theo 3 lĩnh vực: đo lường khoa học, đo lường công nghiệp và đo lường hợp pháp, nghiên cứu thiết lập phát triển và dẫn xuất hệ thống chuẩn quốc gia, sau đó truyền chuẩn tới các phương tiện đo để các doanh nghiệp tự áp dụng cho doanh nghiệp mình. Đáng chú ý là quan điểm về phát triển hệ thống uỷ quyền kiểm định, có 3 hướng sau:
1. Uỷ quyền kiểm định ban đầu: Thực hiện và triển khai hoạt động cho các cơ quan sản xuất dụng cụ đo, dựa vào ISO 9001 và ISO 9002.
2. Uỷ quyền kiểm định định kì: Dựa vào hướng dẫn ISO, nó tương tự như công nhận phòng thử nghiệm, hiệu chuẩn cho phương tiện đo nằm trong danh mục phải qua kiểm định.
3. Uỷ quyền kiểm định cho chủ sở hữu phương tiện đo: Dựa vào ISO 9003 và ISO10012: hướng dẫn mới để rút kinh nghiệm cho công tác quản lý đo lường.
Hoạt động về công nhận phòng thử nghiệm ở Pháp: Được bắt đầu bằng việc thành lập một mạng lưới quốc gia về thử nghiệm RNE vào năm 1979 và đã thu được nhiều thành tựu đáng kể. Chỉ nói riêng Viện thử nghiệm quốc gia Pháp (LNE) sau khi có điều lệ mới ( 1978 ) trong hơn 10 năm qua đã mở rộng diện tích làm việc lên 2 lần, hoạt động theo hướng đa năng: nghiên cứu khoa học, kiểm định đo lường, kiểm nghiệm hàng hoá, xây dựng tiêu chuẩn quốc gia, chứng nhận sản phẩm, hỗ trợ kỹ thuật cho sản xuất...doanh số tăng lên tới 250-300 tiệu Francs hằng năm, đóng góp tích cực vào hoạt động TCĐLCL trong phạm vi quốc gia và quốc tế.
Từ khi Bộ tiêu chuẩn quốc tế và đảm bảo chất lượng ISO 9000 ra đời tới nay, các hoạt động chứng nhận hợp chuẩn cho sản phẩm, công ty và con người được đẩy mạnh, hoạt động công nhận phòng thử nghiệm được mở rộng trong nhiều nước. Các tổ chức tiêu chuẩn, đo lường, thử nghiệm, kiểm tra được tăng cường về cơ sở vật chất kỹ thuật để phục vụ cho quá trình hợp tác kinh tế và thương mại giữa các nước cũng như cho quá trình đổi mới công nghệ trong sản xuất, nâng cao quá trình sản xuất hàng hoá dịch vụ, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của người tiêu dùng.
2.2. Vài nét về Tổng cục nhà nước về chất lượng và giám sát kỹ thuật Trung Quốc.
Tổng cục Nhà nước về chất lượng và giám sát kỹ thuật Trung Quốc (CSBTS) là cơ quan ngang bộ, trực thuộc quốc vụ viện, chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về tiêu chuẩn hoá, quản lý chất lượng và đo lường.Bao gồm khối quản lý nhà nước có 181 cán bộ và được tổ chức thành 11 bộ phận Vụ chức năng, khối hành chính sự nghiệp có 11 viện và trung tâm.
Về tiêu chuẩn hoá:
Trung quốc ban hành 4 cấp tiêu chuẩn: Tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn ngành, tiêu chuẩn địa phương và tiêu chuẩn xí nghiệp. Tiêu chuẩn quốc gia do Tổng cục trưởng CSBTS ký ban hành hoặc uỷ quyền cho vụ trưởng Vụ tiêu chuẩn ký ban hành. Viện nghiên cứu Tiêu chuẩn Trung Quốc đã được thành lập trên cơ sở sát nhập 3 trung tâm: Trung tâm tiêu chuẩn, Trung tâm thông tin, trung tâm quản lý. Viện có chức năng là: Tổ chức xây dựng tiêu chuẩn quốc gia, quản lý việc lưu giữ tiêu chuẩn, thu thập thông tin tiêu chuẩn trong và ngoài nước, thu thập thông tin về quản lý chất lượng, quản lý mã số, mã vạch, cấp giấy phép sản xuất sản phẩm Công nghiệp.
Về đo lường:
Vụ đo lường của CSBTS chuyên xây dựng chính sách, kế hoạch và chịu trách nhiệm về đo lường hợp pháp, còn Viện đo lường ( NIM ) làm công tác nghiên cứu, chế tạo chuẩn, lưu giữ và chế tạo chuẩn quốc gia. Các hoạt động đo lường hợp pháp do CSBTS chủ trương được tiến hành ở 4 cấp: Quốc gia, tỉnh, thành phố thuộc tỉnh và khu, nó cũng uỷ quyền cho một số cơ quan làm kiểm định.Ngoài ra Trung Quốc còn có các Viện công nghệ thử nghiệm đo lường ở các cấp quốc gia và cấp tỉnh để nghiên cứu lý thuyết và các phương pháp đo cũng như đo lường chính xác. Viện nghiên cứu quốc gia về mẫu chuẩn, 7 trung tâm đo lường khu vực chịu trách nhiệm truyền chuẩn, 18 trung tâm đo lường chuyên ngành chịu trách nhiệm nghiên cứu chế tạo chuẩn trong lĩnh vực đặc biệt, 31 cơ quan kiểm định của các tỉnh.
Về quản lý chất lượng:
CSBTS chịu trách nhiệm đưa ra các chính sách qui định về chất lượng, tổ chức việc kiểm tra chất lượng và ngăn chặn việc sản xuất và lưu thông hàng giả, hàng kếm chất lượng, xây dựng các hệ thống kiểm tra chất lượng các thiết bị quan trọng, cấp giấy phép sản xuất cho sản phẩm công nghiệp.
Hiện nay hoạt động đánh giá sự phù hợp cũng diễn ra hết sức sôi động. Hội công nhận quốc gia trực thộc CSBTS gồm 4 ban : Công nhận cơ quan chứng nhận sản phẩm, Công nhận cơ quan chứng nhận hệ thống, Công nhận phòng thử nghiệm, Đánh giá đăng kí viên và công nhận cơ quan đào tạo.
Hiện nay CSBTS đang là thành viên của 22 tổ chức quốc tế và khu vực. CSBTS duy trì hợp tác song phương với 49 nước và đã kí các thoả thuận, hiệp định thừa nhận lẫn nhau (MRA) với 27 nước.
Phần II: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực của quản lý nhà nước về chất lượng
1. Các giải pháp kiện toàn tổ chức quản lý chất lượng trong cả nước cũng như trong từng donh nghiệp.
Ta bắt đầu đổi mới quản lý chất lượng từ sau năm 1986 các pháp lệnh về đo lường, pháp lệnh chất lượng hàng hoá ra đời, nhiều hoạt động về tiêu chuẩn hoá, đo lường quản lý chất lượng được khẳng định, chuyển hướng, thay thế. Một số nội dung được áp dụng vào trong cuộc sống, kết quả đạt được trong những năm qua rất đáng khích lệ, song chuyển biến còn chậm, còn nhiều ách tắc, bởi Pháp lệnh mới đề ra các việc cần làm, nội dung cần đổi mới, trách nhiệm từng nghành, cấp, cơ sở về chất lượng sản phẩm, nhưng mục tiêu phát triển, nâng cao chất lượng chưa đạt ra rõ,vì vậy cần có chính sách chất lượng quốc gia( CSCLQG ), có nó pháp lệnh sẽ thực hiện có hiệu quả hơn.
CSCLQG phải đề ra được mục tiêu và định hướng cơ bản phát triển sản phẩm, hàng hoá. Đưa ra những giải pháp lớn trong một khoảng thời gian nhất định sao cho khắc phục được những yếu kếm về mặt chất lượng, đổi mới và tăng cường hoạt động Quản Lý Nhà Nước về chất lượng, cũng như quản lý nó trong các cơ sở, tạo lập và đưa vào áp dụng trong các doanh nghiệp hệ chất lượng phù hợp,tạo chuyển biến sâu sắc trong nhận thức trong mọi cấp, mọi ngành, mọi cơ sở về tầm quan trọng của vấn đề chất lượng và trách nhiệm của từng tổ chức đơn vị trong thường xuyên cải tiến đổi mới chất lượng ở nước ta.Trong phạm vi bài viết tôi chỉ xin nêu một số giải pháp trong quản lý nhà nước về chất lượng của nước ta hiện nay :
Cùng với quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cải tiến quản lý sản xuất, lưu thông, cải cách hành chính, cần đặc biệt trú trọng tiến hành các bộ máy kiện toàn bộ máy tổ chức quản lý chất lượng từ cấp nhà nước tới cấp cơ sở.
Trong phạm vi quản lý nhà nước về chất lượng, cần tiếp tục đổi mới theo hướng phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước với chức năng hỗ trợ kỹ thuật, để tránh tình trạng vừa đá bóng, vừa thổi còi. Đồng thời có thể phát huy mạnh hơn nữa cả hai chức năng này trong sự đổi mới về các mối quan hệ. Cơ quan quản lý Nhà nước (Hiện nay là Tổng cục TCĐLCL) cần gọn nhẹ hơn nhưng phải được nâng cấp để có thể có đủ khả năng, trách nhiệm và quyền hạn thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về TCĐLCL mà không bị phân tán vào những hoạt động cụ thể về hỗ trợ và dịch vụ kỹ thuật. Cần tập trung hơn nữa vào việc nghiên cứu và tổ chức xây dựng những chủ trương chính sách, các văn bản pháp luật, các tiêu chuẩn quốc gia, các qui hoạch, các chương trình, kế hoạch phát triển dài hạn và ngắn hạn, vào việc hướng dẫn và điều hoà phối hợp các hoạt động quản lý và TCĐLCL trong cả nước, vào việc thanh tra, công nhận, giám sát, kiểm tra, sử lý các hoạt động TCĐLCL tại các nghành, các địa phương, các cơ sở theo sự phân công, phân cấp thích hợp với các ngành, các địa phương. Do tầm quan trọng của vấn đề này đối với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn tới, cơ quan này nên trực thuộc chính phủ hoặc nếu sau này có Bộ kinh tế hoặc Bộ công thương thì có thể nằm trong các bộ này theo một qui chế đặc biệt. Nếu tạm thời vẫn còn nằm trong bộ khoa học, công nghệ và môi trường thì cũng nên xêm xét lại để bổ xung nghị định 22 HĐBT để tăng cường hơn nữa trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan này. Hệ thống cơ quan quản lý TCĐLCL ở các ngành, các địa phương cũng cần được rà soát lại để sắp xếp các lực lượng sao cho tránh được những trùng chéo, không rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm sao cho có thể phát huy được hiệu quả tối ưu.
Các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật và dịch vụ kỹ thuật cho việc đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng cần đặc biệt đẩy mạnh và mở rộng trong thời gian tới. Cần phát huy vai trò của các hội KHKT, của các cơ quan, của các tổ chức nghiên cứu, thiết kế, công nghệ, các trường đại học, các tổ chức kỹ thuật trong việc tham gia giải quyết những vấn đề đang tồn tại về chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng. Cần kiện toàn các trung tâm tiêu chuẩn chất lượng, trung tâm đo lường, trung tâm kỹ thuật TCĐLCL khu vực... thành các tổ chức đầu não về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng (Viện tiêu chuẩn quốc gia, Viện đo lường quốc gia, Viện thử nghiệm quốc gia...) xây dựng mạng lưới các tổ chức thí nghiệm quốc gia (Được công nhận ) trên cơ sở kiện toàn các viện, các phòng thử nghiệm hiện có tại các nghành, các địa phương. Mở rộng mạng lưới các cơ quan, tổ chức, thông tin, đào tạo, tư vấn, giám định, chứng nhận... về chất lượng để phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về chất lượng, cũng như sự giúp đỡ các nghành, các địa phương, các doanh nghiệp trong các hoạt động có liên quan đến tiêu chuẩn hoá, đo lường, thử nghiệm chất lượng.
Cần thành lập một Hội đồng chất lượng quốc gia do một phó thủ tướng chỉ đạo để giám sát, xây dựng, và thực hiện chính sách quốc gia về chất lượng cũng như để hoạch định chiến lược phát triển chất lượng ở nước ta trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa của đất nước.
- Trong giai đoạn này cần phải tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu phương pháp kiến thức về quản lý chất lượng hiện đại ở các nước tiên tiến.
Nâng cao vai trò trợ giúp, cung cấp thông tin, hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện các phương pháp quản lý chất lượng kiểu mới.
2. Những giải pháp trong hoạt động quản lý nhà nước về TC-ĐL- CL của chi cục tỉnh Sóc trăng.
Tỉnh Sóc trăng là một trong những tỉnh có nền nông nghiệp phát triển toàn diện, do đó lương thực, thực phẩm, thuỷ sản là những sản phẩm chính của tỉnh, các sản phẩm, hàng hoá được nhập vào Sóc trăng cũng rất đa dạng. Để tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng đối với các sản phẩm hàng hoá suất nhập và tiêu thụ trên địa bàn tỉnh, chi cục đã và đang đưa ra các giải pháp sau:
- Không ngừng phát huy sáng kiến cải tiến trong công tác quản lý và thường xuyên coi trọng công tác đào tạo nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ viên chức.
-Nắm bắt kịp thời chính sách chủ trương chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước trong công tác Tiêu chuẩn- Đo lường- Chất lượng cũng như diễn biến của thị trường trên địa bàn được quản lý.
-Làm tốt vai trò tham mưu tư vấn, tiiếp tục thực hiện nghị quyết số 655/CV.HC.98 của uỷ ban nhân dân tỉnh về phân công trách nhiệm của quản lý Nhà nước về chất lượng hàng hoá trên địa bàn tỉnh.
- Tăng cường hơn nữa công tác quản lý chất lượng hàng hoá nông sản thực phẩm, hàng xuất nhập khẩu, các loại phân bón dùng cho nông nghiệp, vật liệu xây dựng, vật liệi điện và các phương tiện đo trong danh mục bắt buộc kiểm định như : phương tiện đồng hồ nước, đồng hồ điện, huyết áp kế...
- Thường xuyên triển khai đăng ký chất lượng, kiểm định dụng cụ đo theo danh mục bắt buộc đăng ký chất lượng và kiểm định Nhà nước, thực hiện đo lường pháp quyền, nhất là khu vực có hoạt động thương mại tập trung.
- Phối hợp tốt công tác thanh tra, kiểm tra, nhất là thanh tra của sở KHCN-T, Chi cục quản lý thị trườngvà các ngành có liên quan theo nghị định 86CP, phát huy vai trò chính quyền của các cấp.
- Bổ sung kịp thời các tiêu chuẩnnhát là các tiêu chuẩn về an toàn, vệ sinh, môi trường và các qui trình kiểm định các thiết bị chuẩn đo lường theo hướng dẫn mới của tổng cục TC-ĐL-CL.
- Tiếp tục thực hiện chương trình nâng cao chất lượng sản phẩm, chọn sản phẩm để có thể hoà nhập với môi trường trong nước, khu vực quốc tế.
- Phổ biến cho các doanh nghiệp các hệ thống đảm bảo chất lượng như ISO 9000, TQM, GMP....
- Đáp ứng kịp thời yêu cầu kiểm định, kiểm nghiệm trên địa bàn được quản lý với những biện pháp cụ thể là: Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, tăng cường chuẩn thiết bị đo kiểm để đáp ứng yêu cầu theo hướng hiện đại hoá. Cải tiến tổ chức kiểm định, kiểm nghiệm theo hướng đơn giản, hiệu quả cho dễ trong việc kiểm soát, công khai đúng pháp luật.
- Đẩy mạnh thông tin- tuyên truyền, phổ biến các tiêu chuẩn : TCVN, TCN...
- Tổ chức phát hành tập san đăng bạ, đăng ký chất lượng hàng hoá.
- Xuất bản các tờ in nóng, từng chuyên mục về đo lường, chất lượng hàng hoá.
- Coi trọng việc tổ chức các cuộc hội nghị, hội thảo, chuyên đề và đào tạo đội ngũ cán bộ kiểm định viên, kiểm nghiệm viên, huấn luyện cho các cán bộ huyện xã về Pháp lệnh đo lường, pháp lệnh chất lượng hàng hoá.
- Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, sáng kiến, sáng tạo trong công tác quản lý về hoạt động TCĐLCL.
- Phối hợp với chính quyền các cấp nhằm làm cho công tác quản lý chất lượng trở thành phong trào toàn dân.
Bổ sung tài liệu nghiệp vụ kịp thờiđầu tư trang thiết bị phù hợp và tiên tiến để đáp ứng với sự phát triển của thị trường.
- Thực hiện tốt công tác quản lý chất lượnghàng hoá xuất nhập khẩu nhất là hải sản, lương thực...
- Giải quyết tốt công tác tổ chức quản lý, bố trí sử dụng nhân sự phù hợp khả năng trình độ, tăng cường công tác kiểm tra, lãnh đạo và nêu cao ý thức làm chủ tập thể của từng cá nhân trong mọi lĩnh vực.
Để thực hiện các giải pháp đó chi cục tỉnh Sóc trăng sẽ phải tranh thủ sự quan tâm giúp đỡ của sỏ KHCN & MT, Tổng cục TC-ĐL-CL... các nghành chức năng có liên quan cũng như tạo ra sự đoàn kết nỗ lực, quyết tâm cao của mỗi cán bộ, công nhân viên trong các cơ quan.
kết luận
Ngày nay, nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng không chỉ đối với người tiêu dùng mà còn đối với sự sống còn của các doanh nghiệp nói riêng và một quốc gia nói chung. Vì vậy, việc liên tục cải tiến và đổi mới nhằm nâng cao chất lượng ở các cơ sở sản xuất kinh doanh là điều kiện tiên quyết để một doanh nghiệp tồn tại và cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Tuy nhiên, cùng với mặt tốt của nền kinh tế thị trường thì không thể tránh được mặt trái của nó, đó là các việc gian lận, lừa đảo trong buôn bán sản xuất hàng hoá, tệ hàng giả, hàng kếm chất lượng... ngày càng phát triển chỉ nhằm mục đích kiếm lời bất chấp hiệu quả, gây ô nhiễm môi trường. Điều đó càng khẳng định vai trò hết sức cần thiết của Quản lý nhà nước về chất lượng, phải được tăng cường, hoàn thiện hơn nữa nhằm bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ quyền lợi của các nhà sản xuất, khuyến khích tạo điều kiện cho doanh nghiệp cải tiến, đổi mới nâng cao chất lượng, phát huy tính sáng tạo trong khuôn khổ pháp luật qua các hoạt động ban hành các chính sách, các tiêu chuẩn, tăng cường hoạt động công nhận, chứng nhận thanh tra kiểm tra, đăng kí chất lượng,... nhằm giữ dìn môi trường sống trong sạch, vững mạnh, xã hội công bằng, văn minh, khẳng định vị trí của đất nước ta trên trường quốc tế.
Hà Nội, ngày 3/12/2001
Tài liệu tham khảo
1.Hoàng Mạnh Tuấn. Đổi mới quản lý chất lượng sản phẩm trong thời kỳ mới. Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật, năm 1997.
2.Vũ anh Trọng.Bài giảng môn quản trị chất lượng. Năm 2000.
3.Tạp trí tiêu chuẩn đo lường chất lượng số 2 năm 2001.
4. Tạp trí tiêu chuẩn đo lường chất lượng số 3 năm 2001.
5. Tạp trí tiêu chuẩn đo lường chất lượng số 4 năm 2001.
6. Tạp trí tiêu chuẩn đo lường chất lượng số 6 năm 2001.
7. Tạp trí tiêu chuẩn đo lường chất lượng số 8 năm 2001.
8. Tạp trí câu lạc bộ chất lượng.
9. Pháp lệnh chất lượng hàng hoá -1999.
10.Pháp lệnh đo lường năm 1990.
11. Pháp lệnh chất lượng hàng hoá năm 1991.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35199.doc