- Thành viên của Công ty bao gồm: Thành viên góp vốn và thành viên hợp danh. Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của Công ty. Các thành viên góp vốn không tham gia điều hành Công ty, họ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình với những khoản nợ của Công ty.
- Công ty hợp danh thông thường không được phép phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào.
Do các ưu điểm của loại hình CTCP và Công ty TNHH so với Công ty hợp danh, vì vậy hiện nay chủ yếu các CTCK được tổ chức dưới hình thức Công ty TNHH và CTCP.
107 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1345 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển các hoạt động kinh doanh chứng khoán của công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ý doanh nghiệp nhà nước, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng quy định các nguyên tắc cơ bản về việc thành lập, hoạt động, quản lý Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng.
+ Các luật như Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật phá sản, Luật đầu tư nước ngoài, các văn bản pháp quy quy định quyền sở hữa về chứng khoán, phương thức chuyển giao quyền sở hữa này và vấn đề phá sản của CTCK.
Nhìn một cách tổng thể, tuy chưa có một đạo luật chung về phát hành và kinh doanh chứng khoán như ở một số nước trên thế giới, nhưng khung pháp lý về chứng khoán đã có ba bộ phận cấu thành tối thiểu cần có, gồm: Những quy định về tiêu chuẩn hàng hoá và điều kiện phát hành, điều kiện và thể thức kinh doanh, quản lý Nhà nước và giám sát về CK và TTCK đã hình thành.
Tuy nhiên về mặt nội dung, các quy định hiện có còn bộc lộ một số hạn chế nhất định, đó là sự đồng bộ và nhất quán trong việc điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hoạt động chứng khoán nói chung và hoạt động kinh doanh chứng khoán nói riêng.
Hiện nay, văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất để điều chỉnh các hoạt động của thị trường là nghị định 48 về chứng khoán và TTCK, nhưng cũng để điều chỉnh một lĩnh vực trong các hoạt động của thị trường còn hai nghị định nữa song song tồn tại là Nghị định số 17/2000/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của thanh tra chứng khoán, và Nghị định số 22/2000/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán. N hư vậy, xết về góc độ pháp lý, các văn bản này có hiệu lực ngang nhau đòi hỏi phải có được tính thống nhất cao.
Do văn bản có hiệu lực pháp lý cao là Nghị định nêu nên việc ban hành các hướng dẫn thi hành thường bị hạn chế và vướng về thẩm quyền. Cơ quan có thẩm quyền thường chỉ ra được quyết định hoặc thông tư hướng dẫn thi hành. Thực tế nhiều lĩnh vực cần được quyết định chi tiết hơn, nhưng phải ra công văn hướng dẫn, mà công văn hoàn toàn không phải là văn bản phát quy.
Đối với những CTCK, một trong những vấn đề bất cập lớn về pháp lý đối với hoạt động kinh doanh của các CTCK là khung pháp lý điều chỉnh hoạt động kinh doanh, thâu tóm, mua bán Công ty, phá sản, giải thể, thanh toán Công ty như: Luật dân sự không cho phép bản tài sản khi chưa thuộc sở hữa của người bán, như vậy trong tương lai khi có đủ điều kiện chúng ta cũng không thể cho phép CTCK, nhà đầu tư thực hiện việc bán khống; Luật Doanh nghiệp không có quy địng rõ về việc thâu tóm, mua bán Công ty và bảo vệ lợi của cổ đông thiểu số ở các CTCP, trong khi khung pháp lý về chứng khoán hiện đang ở mức nghị định – NĐ 48/CP lại chưa quy định cụ thể và chi tiết vấn đề này; hay như Luật phá sản coi tất cả các chủ nợ như nhau, trong khi Luật này ở các nước phân chủ nợ thành nhiều loại, trong đó các chủ nợ phụ trợ là loại hình rất phổ biến và ảnh hưởng rất lớn đến việc phá sản của các Công ty nói chung và CTCK nói chung và CTCK nói riêng; Bộ Luật hình sự chưa có quy định rõ ràng về các tội danh trong hoạt động của TTCK
Ngoài ra Nghị định 48 còn bộc lộ nhưng hạn chế khác như: Mới chỉ giới hạn hoạt động của các CTCK trên thị trường giao dịch tập trung vì vậy một mảng lớn của TTCK còn chưa được khai thác đó là TTCK chưa niêm yết. Các nghiệp vụ hiện nay các CTCK được phép triển khai hiện nay còn rất hạn chế
Nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là do chúng ta chưa có một bộ luật riêng về chứng khoán và kinh doanh chứng khoán, các hoạt động liên quan đến chứng khoán và kinh doanh chứng khoán do nhiều luật khác nhau cùng điều chỉnh, do đó, những mâu thuẫn, chồng chéo là điều không tránh khỏi.
- TTCK non trẻ, hoạt động còn nhiều hạn chế
TTCK Việt Nam mới thành lập và vào hoạt động được hơn một năm,
một khoảng thời gian còn rất ngắn, do đó, thị trường vẫn còn mang tính sơ khai và những hạn chế, bất cập trong giai đoạn này là điều khó tránh khỏi. Nếu phân tích kỹ ta sẽ thấy TTCK hiện nay còn bộc lộ hạn chế về nhiều mặt, song ở đây sẽ chỉ đề cập đến những hạn chế làm ảnh hưởng đến hoạt động của các CTCK. Có thể nêu thành ba vấn đề chủ yếu là: TTCK Việt Nam không có sự phát triển của thị trường OTC làm tiền đề; hàng hoá trên thị trường hiện nay còn nghèo nàn, ảnh hưởng của các quyết định mang tính chất hành chính của UBCKNN tới hoạt động của thị trường.
Trong lịch sử phát triển TTCK trên thế giới, ngoại trừ Trung Quốc, TTCK tập trung được hình thành sau một thời gian hình thành và phát triển TTCK bán tập trung hay còn gọi là thị trường giao dịch ngoài quầy OTC. Như vậy, cơ sở nền tảng ban đầu cho sự ra đời của thị trường chính thức trên thế giới là những giao dịch ngoài quầy OTC. Đó là nơi trao đổi các chứng khoán của tất cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ. OTC cũng là nơi để các doanh nghiệp thăm dò, tìm hiểu và làm quen dần với hoạt động của TTCK. Đây cũng là nơi để mọi tầng lớp dân cư tiếp cận với các loại chứng khoán, cũng là nơi tạo uy tín, danh tiếng cho các doanh nghiệp thêm vững chắc, tự tin bước vào TTCK tập trung như một sự rèn luyện. Việt Nam ngay từ ban đầu đã thành lập ngay thị trường tập trung nên cả công chúng và các doanh nghiệp còn nhiều bỡ ngỡ, e dè, do đó hạn chế sự tham gia của họ vào thị trường.
Về vấn đề hàng hoá, như chúng ta đều biết, đối với bất kỳ một thị trường nào thì hàng hoá luôn là một yếu tố rất quan trọng, quyết định đến hoạt động và sự tồn tại của thị trưòng. Đối với TTCK cũng vậy. Có thể nói TTCK Việt Nam trong giai đoạn đầu lâm vào tình trạng khan hiếm hàng hoá nghiêm trọng, gây nên sự mất cân đối lớn giữa cung và cầu, làm cho những yếu tố của thị trường trở nên sai lệch.
Cho đến nay, có thể nói, lượng hàng hoá trên thị trường giao dịch tập trung đã được cải thiện phần nào, tuy nhiên, xét một cách toàn diện thì quy mô giao dịch của thị trường vẫn còn quá nhỏ bé, thị trường phát triển chậm, chưa tương xứng với vai trò của một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Số lượng các chứng khoán niêm yết giao dịch quá ít, kể cả loại chứng khoán và giá trị chứng khoán giao dịch. Con số 21 loại cổ phiếu niêm yết so với số CTCP hiện có thì quả là một cón quá nhỏ bé. Về phía các DNNN thực hiện CPH, cho đến nay, trong số 5600 DNNN mới chỉ có 800 doanh nghiệp thực hiện CPH, chiếm 7% - một tỷ lệ không cao. Hơn nữa, trong số này chỉ chưa tới 100 Công ty thoả mãn các điều kiện niêm yết chứng khoán tại TTGDCK.
Những con số trên cho thấy, thứ nhất, tiến trình CPH các DNNN – nguồn cung cấp hàng hoá tiềm năng cho TTCK – diễn ra quá chậm; thứ hai, số các Công ty đáp ứng đủ điều kiện niêm yết trong tổng số các CTCP còn quá ít. Bên cạnh đó, có những Công ty có đầy đủ điều kiện niêm yết trên thị trường nhưng vì một lý do nào đó mà chưa hoặc không muốn tham gia niêm yết. Một loại hàng hoá khác của TTCK là trái phiếu cũng không khả dĩ hơn, hiện tại chủng loại trái phiếu vẫn duy trì ở con số 39 loại TPCP và 2 loại trái phiếu doanh nghiệp. Do vậy, có thể nói, hàng hoá trên TTCK Việt Nam hiện nay còn rất nghèo nàn.
Về vấn đề từ phía các nhà quản lý thị trường, mà ở đây là UBCKNN, cũng còn nhiều hạn chế nhất định trong quá trình quản lý, giám sát hoạt động của thị trường. Cụ thể là việc UBCKNN thực hiện quản lý, điều hành thị trường thông qua các quyết định hành chính của mình. Dĩ nhiên không thể phủ nhận đây là việc làm cần thiết đẻ bảo vệ các nhà đầu tư và hướng thị trương trong giai đoạn đầu đi theo đúng con đường đã định song mặt trái của nó là gây ra những tác động tiêu cực đến thị trường. Sở dĩ như vậy là do các quyết của UBCKNN đưa ra đôi khi mang tính chất tình thế, tạm thời và hơi đột ngột, làm cho các nhà đầu tư “không kịp trở tay” và trở nên lưỡng lự khi tham gia giao dịch do họ cảm thấy quyết định đầu tư của mình bị can thiệp sâu và bất ngờ, làm ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư của họ, gây tâm lý bất ổn, chán nản.
Tóm lại, khi hàng hoá ít thì cũng không thể có nhiều người mua, và khi nhà đầu tư không được chủ động trong các quyết định của mình thì tất yếu họ cũng không mặn mà lắm với việc mua bán giao dịch. Do đó, hai vấn đề nổi cộm nêu trên từ phía TTCK cũng chính là nguyên nhân hạn chế hoạt động của các CTCK.
- Nhận thức của các doanh nghiệp và người đầu tư về dịch vụ của CTCK còn hạn chế
Đây cũng là một nguyên nhân gây khó khăn cho CTCK trong việc
triển khai các nghiệp vụ của mình. Ví dụ như đối với nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành, các doanh nghiệp là chủ thể tạo nên “cầu” về Bảo lãnh phát hành, là đối tượng để các CTCK thực hiện nghiệp vụ này. Song, nhìn chung, hiện nay nhiều doanh nghiệp vẫn chưa nhận thức hết được ý nghĩa cũng như lợi ích của việc để cho các CTCK thực hiện Bảo lãnh phát hành khi họ có ý định huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán ra thị trường. Điều này làm cản trở việc triển khai mở rộng nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành của CTCK.
Tương tự, nghiệp vụ quản lý danh mục quản lý danh mục đầu tư của CTCK cũng gặp khó khăn do người đầu tư không mấy quan tâm đến loại hình dịch vụ mới mẻ này. Danh mục hàng hoá trên thị trường chưa nhiều cộng với thói quen tự mình thực hiện các quyết định đầu tư khiến cho nhiều nhà đầu tư nghĩ rằng việc để người khác quản lý vốn và đầu tư hộ mình là không cần thiết. Người đầu tư chưa thấy được lợi ích khi có một danh mục đầu tư hợp lý là: giảm thiểu được rủi ro, tránh được nguy cơ mất trắng và vốn liếng của họ được các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm quản lý một cách tốt nhất. Do đó họ không mấy mặn mà với dịch vụ quản lý danh mục đầu tư củ các CTCK và do đó, bỏ qua cơ hội được sử dụng một dịch vụ tốt và có hiệu quả trong đầu tư.
Đối với nghiệp vụ môi giới, có những nhà đầu tư vẫn bị ảnh hưởng bởi định kiến xã hội, coi “môi giới” đồng nghĩa với nghề “chỉ trỏ”, là nghề của người làm trung gian mua bán theo kiểu “cò mồi” để kiếm lợi nhuận bất chính. Vì vậy, đôi khi họ thiếu tin tưởng vào những nhân viên môi giới của CTCK. Cho dù vậy không phải là ý kiến của số đông các nhà đầu tư song nó cũng là một mặt tồn tại làm ảnh hưởn phần nào đến quá trình tác nghiệp của CTCK.
Ngoài ra còn một số nguyên nhân khách quan khác nữa cũng khiến cho hoạt động kinh doanh của các CTCK gặp khó khăn. Đó là do người Việt Nam hiện nay vẫn chưa quen trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán chủ yếu thực hiện thông qua việc chuyển khoản trong khi ở Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu sử dụng tiền mặt trong thanh toán. Hơn nữa, các nhà đầu tư ở Việt Nam cũng chưa thực sự tin vào các thông tin vào các thông tin mà các tổ chức phát hành chứng khoán công bố.
Những khó khăn chủ quan
- Nguồn nhân kực của CTCK chưa đáp ứng được yêu cầu
Nhân tố con người là một trong những nhân tố đặc biệt quan trọng
quyết định đến sự thành công hay thất bại của TTCK nói chung và CTCK nói riêng. Nhưng đối với các CTCK hiện nay đây vẫn còn là một vấn đề khá bất cập. Đội ngũ cán bộ nhân viên của các CTCK hiện nay không thể nói là không có trình độ. Đa số đều được đào tạo khá bài bản qua các trường đại học hoặc qua các khoá học của UBCKNN, một số còn được đào tạo tại những nước có TTCK phát triển.
Tuy nhiên, để đáp ứng cho yêu cầu phát triển của thị trường thì lực lượng nhân sự hiện nay nhìn chung chưa đáp ứng được. Chúng ta cần phải có một đội ngũ chuyên gia được đào tạo chuyên nghiệp và đồng đều, vừa có tri thức vừa có kinh nghiệm trong lĩnh vực phân tích thị trường, quản lý rủi ro, tư vấn đầu tư Một đội ngũ như thế phải là sản phẩm của một môi trường tài chính phát triển đến một độ chín muồi nhất định. Trong điều kiện TTCK nước ta mới hình thành, chúng ta cũng chưa thể đòi hỏi phải có ngay một đội ngũ như vậy, việc thiếu kiến thức chuyên sâu về chứng khoán và thiếu kinh nghiệm là điều dễ hiểu. Điều này đòi hỏi các CTCK phải nỗ lực hơn nữa trong việc bồi dưỡng, đào tạo cho đội ngũ cán bộ của mình để từng bước hình thành một lớp các chuyên gia lành nghề.
Nhưng nói như vậy không có nghĩa là các CTCK hiện nay nên giữ thế thủ, không dám có những bước thử nghiệm đối với đội ngũ nhân sự của mình. Vì thực tế cho thấy, có những CTCK hiện nay đôi khi chưa tận dụng hết khả năng về nhân lực của mình. Đơn cử một ví dụ, về nghiệp vụ tư vấn chứng khoán, trong khi nhu cầu này từ phía các khách hàng rất cao nhưng Công ty, vì một lý do nào đó lại chưa mạnh dạn triển khai nghiệp vụ này để thu phí mặc dù điều này hoàn toàn có thể thực hiện được với trình độ nhân viên của Công ty đó.
Bên cạnh đó, vấn đề kiêm nhiệm của đội ngũ lãnh đạo của các CTCK cũng là một hạn chế trong hoạt động của các Công ty này. Lãnh đạo của nhiều Công ty còn kiêm nhiệm nhiều công tác ở tổ chức sáng lập hoặc tổ chức chủ sở hữu, nhiều người còn hoạt động chủ yếu tại các tổ chức trên. Về lâu dài, vấn đề này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới việc phát triển của các CTCK nói riêng và của ngành nói chung. Vì khi giám đốc của của CTCK kiêm nhiệm quá nhiều việc dẫn đến thiếu chuyên sâu, thiếu kinh nghiệm, đặc biệt là thiếu thông tin về chính sách, chế độ trong hoạt động chứng khoán.
- Hoạt động của các CTCK còn hạn chế
Có thể nói, đây là một thực tế khá bức xúc tại hầu hết các CTCK. Trừ
CTCK Bảo Việt, còn hầu hết các CTCK còn lại trong số các Công ty mới chủ yếu thực hiện hai nghiệt vụ là môi giới và tự doanh, các nghiệp vụ khác được thực hiện rất ít hoặc bị bỏ ngỏ. Điển hình là hai nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành và quản lý danh mục đầu tư. Các dịch vụ phụ trợ mà các CTCK đưa ra vẫn còn quá ít ỏi, chưa thực sự hiệu quả và phát huy tác dụng hỗ trợ các nghiệp vụ chính và thu hút khách hàng. Có thể nói, khách hàng chưa thoả mãn với những dịch vụ mà CTCK đang triển khai. Ngay như nghiệp vụ môi giới được đánh giá là được các CTCK thực hiện tốt nhất nhưng cũng chưa làm khách hàng hài lòng vì theo họ, phí môi giới mà các CTCK đặt ra vẫn còn quá cao. Bên cạnh đó, còn rất nhiều những nhu cầu khác của khách hàng chưa được CTCK tìm hiểu để từ đó đưa ra những dịch vụ, tiện ích mới phục vụ khách hàng.
Tóm lại, sự phát triển không đồng đều các nghiệp vụ của CTCK là một nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế trong quá trình hoạt động của CTCK thời gian qua.
- CTCK chưa chủ động đến với khách hàng
Thực tế cho thấy, hiện tại chủ yếu vẫn là các khách hàng tìm đến với các CTCK vì họ cần các dịch vụ ở đây chứ các CTCK chưa chủ động tìm đến với khách hàng nhằm mở rộng thị trường hoạt động trong khi khách hàng chính là nguồn sống của họ. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay thì đây quả là một điều khó chấp nhận. Điều này có thể được giải thích do số lượng nhà đầu ngày một đông và giữa các CTCK chưa có sự cạnh tranh lớn lắm. Do vậy, CTCK còn có vẻ thụ động trong việc tìm đến khách hàng để tạo các hợp đồng dịch vụ cho họ. Các CTCK cũng chưa xây dựng được chiến lược marketing hiệu quả cho các hoạt động dịch vụ của mình. Ngoài ra, các biện pháp nhằm thu hút, hấp dẫn khách hàng cũng chưa được các CTCK chú trọng, mới chỉ là những hình thức hết sức đơn giản như gửi thiệp chúc mừng tới khách hàng vào dịp lễ, tết hay sinh nhật. Trong khi đó, ở các nước phát triển những việc như thế này lại rất được coi trọng và họ thường bỏ ra một khoảng kinh phí khá lớn để thực hiện.
Hiện tại, những điều trên cũng chưa có ảnh hưởng gì lớn lắm đến hoạt động của các CTCK nhưng chắc chắn rằng, trong tương lai không xa khi thị trường phát triển và sự cạnh tranh giữa các CTCK trở nên gay gắt hơn thì đây có thể sẽ trở thành nguyên nhân gây hạn chế không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của các Công ty.
- Hệ thống mạng lưới của các CTCK chưa rộng rãi
Nói đến hệ thống mạng lưới là nói đến địa bàn hoạt động. Hiện nay,
phạm vi hoạt động của các CTCK mới chỉ tập trung chủ yếu ở hai trung tâm kinh tế lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Các CTCK đều có ý tưởng trở thành những Công ty lớn, có chi nhánh ở nhiều tỉnh, thành phố, tuy nhiên, việc mở rộng địa bàn đồng nghĩa với sự tăng lên nhiều loại chi phí như chi phí thuê nhà, thuê nhân viên, chi phí lắp đặt hệ thống truyền lệnh, máy móc thiết bị v.v.. nên các CTCK còn dè dặt trong việc này. Việc các CTCK chưa mở rộng được hệ thống mạng lưới của mình, mà theo quy chế về tổ chức và hoạt động của CTCK, CTCK chỉ được phép nhận lệnh tại trụ sở chính hay chi nhánh làm mất đi lượng khách hàng tiềm năng của Công ty ở những tỉnh, thành phố khác như Hải Phòng, Đồng Nai, Đà Nẵng
Hơn nữa, các hình thức đặt lệnh hoặc yêu cầu thông qua các phương tiện phổ thông như điện thoại, fax, mạng internet v.v.. chưa được áp dụng (do chưa có được một hệ thống công nghệ đủ hiện đại để kiểm soát và thực hiện lệnh) cũng là các nguyên nhân khiến các nhà đầu tư cảm thấy yêu cầu của họ chưa được CTCK thoả mãn một cách tốt nhất và đôi lúc làm mất đi cơ hội đầu tư của họ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân hạn chế hoạt động của các CTCK.
chương III
Những giải pháp nhằm phát triển các hoạt động của CTCP chứng khoán Bảo Việt
3.1. Định hướng hoạt động của UBCKNN và của bvsc trong thời gian tới
3.1.1. Định hướng của UBCKNN
Xuất phát từ vai trò và ý nghĩa của TTCK đối với nền kinh tế, UBCKNN đã đề ra chiến lược phát triển TTCK Việt Nam cho giai đoạn 2003-2010, với quan điểm chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đi từ qui mô nhỏ đến lớn, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế; xây dựng thị trường hoạt động ổn định, an toàn, hiệu quả, bảo vệ người đầu tư, và có thể linh hoạt thích ứng thực tế; đồng thời tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với thị trường. Mục tiêu tổng quát của chiến lược là: “Củng cố, ổn định và nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường, từng bước mở rộng phạm vi, quy mô thị trường; tăng cường hiệu quả quản lý giám sát thị trường, bảo vệ người đầu tư. Góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam, đảm bảo ổn định và an ninh tài chính, tiền tệ quốc gia; nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế. Tạo ra môi trường nhằm thúc đẩy tiến trình CPH và huy động nguồn vốn cho đầu tư phát triển”.
Mục tiêu giai đoạn 2003-2005 là củng cố TTCK và hoàn thiện xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản cho thị trường, từng bước phát triển quy mô, phạm vi hoạt động TTCK.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là hoàn thiện khung pháp luật cho hoạt động TTCK, tăng cung hàng hóa, hoàn thiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, xây dựng và phát triển các định chế hoạt động trên thị trường.
Một số chỉ tiêu cụ thể của giai đoạn này là: Phấn đấu đưa tổng giá trị thị trường đạt mức 2-3% GDP. Xây dựng TTGDCK ban đầu cho cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội. Hoàn thiện, nâng cấp hệ thống giao dịch tự động tại TTGDCK TP.HCM để thay thế hệ thống giao dịch ban đầu. Phát triển các Công ty niêm yết, CTCK, thành lập một số Công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán.
Mục tiêu giai đoạn 2006-2010 là tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ của TTCK.
Nhiệm vụ chủ yếu là mở rộng và tăng cường năng lực của thị trường, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ, khuyến khích tăng cường khả năng cạnh tranh, thúc đẩy hội nhập quốc tế.
Chính vì thế các chỉ tiêu cụ thể của giai đoạn này là: Tổng giá trị thị trường đạt mức 10-15% GDP. Nâng cấp thị trường giao dịch chứng khoán TP.HCM thành Sở giao dịch chứng khoán, hệ thống giám sát thị trường, thông tin thị trường tự động hoá hoàn toàn. Kết nối mạng giao dịch diện rộng giữa Sở giao dịch với các CTCK, đưa giao dịch qua mạng Internet. Cùng với điều đó, sẽ tiến hành nâng cấp thị trường giao dịch chứng khoán Hà Nội trở thành thị trường phi tập trung (OTC). Đồng thời thành lập trung tâm lưu ký độc lập, cung cấp đồng thời các dịch vụ thanh toán, lưu ký, đăng ký chứng khoán tập trung, phục vụ cho hoạt động giao dịch chứng khoán của SGDCK và TTGDCK; lưu ký chứng khoán chưa niêm yết; tiến tới mở tài khoản lưu ký đến từng nhà đầu tư. Tăng cường số lượng và chất lượng các Công ty niêm yết, CTCK, Công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán. Thành lập thí điểm một số Công ty định mức tín nhiệm.
TTCK Việt Nam với những bước đi cụ thể và có sự quản lý sát sao của UBCKNN sẽ từng bước hội nhập thị trường vốn quốc tế. Mở rộng liên kết thị trường vốn với các nước trong khu vực theo tiêu chuẩn chung. Tham gia quy chế niêm yết chéo trên các sở giao dịch của các nước trong khu vực ASEAN, tạo tiền đề cho việc huy động vốn trên thị trường quốc tế.
3.1.2. định hướng và chiến lược của CTCP chứng khoán Bảo Việt
Dự kiến tình hình chung của thị trường sẽ có những tín hiệu lạc quan hơn, nhưng không ngoại trừ khả năng cũng có thể có những biến động khó lường chính vì vậy trong năm 2004 Công ty xác định vẫn tập trung ưu tiên vào mảng nghiệp vụ mang lại thu nhập ổn định và ít chịu ảnh hưởng của nhiều biến động trên thị trường chung như Nghiệp vụ Bảo lãnh và Đại lý phát hành, tăng cường hoạt động đầu tư tài chính và đẩy mạnh triển khai hơn nữa nghiệp vụ tư vấn. Các nghiệp vụ khác như hoạt động môi giới và dịch vụ tiện ích khách hàng vẫn phải được quan tâm duy trì.
3.1.2.1. Về hoạt động môi giới
Tuy doanh thu từ hoạt động môi giới có sụt giảm mạnh do nhiều ảnh hưởng khách quan từ tình hình thị trường chung, nhưng Công ty xác định Môi giới là một nghiệp vụ luôn được quan tâm duy trì, củng cố và nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh thu hút khách hàng bằng các biện pháp :
Hoàn thiện và nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả ứng dụng của trang Web, nâng cao chất lượng cung cấp thông tin qua các kênh như mạng Internet, bản tin tuần, tháng và nỗ lực sớm xây dựng hoàn thiện cơ sở dữ liệu kèm theo phân tích đánh giá về các doanh nghiệp, đặc biệt là các Công ty niêm yết.
Triển khai các hoạt động nhằm tăng cường khai thác doanh thu hoạt động môi giới như tiến hành triển khai CVPT , mở rộng mạng lưới đại lý giao dịch cá nhân dưới hình thức các cộng tác viên để thu hút thêm người đầu tư trong nước và thông qua các tổ chức, cá nhân có mối quan hệ để quảng bá, phát triển đối tượng khách hàng là người đầu tư nước ngoài, sớm nghiên cứu phương án mở đại lý giao dịch tại Móng Cái, Lào Cai để thu đối tượng khách hàng người Trung Quốc.
Phối hợp nghiên cứu xây dựng đề án giao dịch, tăng cường mối quan hệ đối với các tổ chức đầu tư để đẩy mạnh hoạt động giao dịch trái phiếu thứ cấp.
Tiếp tục phối hợp với các hoạt động lưu ký để tăng cường nghiệp vụ quản lý cổ đông và đại lý chuyển nhượng, thực hiện quyền cho các doanh nghiệp cổ phần chưa niêm yết.
Năm 2004, Công ty tiếp tục đặt mục tiêu duy trì thị phần giao dịch cổ phiếu ở mức trên 18%.
3.1.2.2.Về hoạt động tư vấn
Năm 2004, Công ty sẽ tiếp tục triển khai thực hiện các hoạt động đã ký kết từ năm 2003 chuyển sang, đồng thời tiếp tục khai thác và ký kết thêm các hoạt động mới cho thời gian cuối năm. Hoạt động tư vấn trong năm 2004 sẽ tập trung chủ yếu và Tư vấn tài chính, Tư vấn phát hành và Tư vấn CPH doanh nghiệp, ký kết các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Việc triển khai hoạt động Tư vấn sẽ được tăng cường chiều sâu, triển khai tỷ trọng và nâng cao chất lượng Tư vấn để đảm bảo uy tín, việc Tư vấn CPH tiếp tục triển khai theo hướng cung cấp dịch vụ Tư vấn trọn gói tư đầu cho đến khi bàn giao xong doanh nghiệp. Mục tiêu trong năm 2004 sẽ triển khai hoàn tất tối thiểu 10 hợp đồng Tư vấn CPH trọn gói, trong đó có ít nhất 1 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Tiếp tục triển khai đề án Tư vấn phát hành Trái phiếu Công ty cho Bộ Giao thông vận tải và xúc tiến triển khai Tư vấn phát hành Trái phiếu cho ít nhất 1 địa phương.
3.1.2.3. Về hoạt động Bảo lãnh và Đại lý phát hành
Công ty sẽ chủ động nắm bắt kế hoạch phát hành của kho bạc nhà nước, Quỹ hỗ trợ phát triển và các tổ chức phát hành khác tiến hành thăm dò và giúp các tổ chức đầu tư, củng cố và phát triển mạng lưới khách hàng, tổ chức tiến hành thương lượng mức lãi suất phát hành có lợi nhất và chủ động linh hoạt trong việc dàn xếp lãi suất với các tổ chức đầu tư phát hành, chủ động hơn trong việc chào dịch vụ với nhà đầu tư để có thể đẩy mạnh hoạt động Bảo lãnh phát hành.
Công ty tiếp tục tìm kiếm các đợt phát hành có lãi suất hấp dẫn của các Ngân hàng thương mại để triển khai đại lý phát hành. Tiếp tục duy trì mối quan hệ với NHMHB và một số NHTMCP khác để phối hợp trong các đề án phát hành kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu đồng thời triển khai đại lý phát hành.
3.1.2.4. Về hoạt động quản lý danh mục đầu tư
Công ty vẫn sẽ tiếp tục thoả thuận triển khai hoạt động quản lý danh mục đầu tư cho Bảo Việt, nghiên cứu xây dựng và đề xuất triển khai một danh mục mới của Tổng Công ty Bảo hiểm nhân thọ. Công ty dự kiến sẽ thương lượng lại cới các điều kiện của thị trường.
Tiếp tục bám sát diễn biến thị trường để cơ cấu lại danh mục tự doanh, giảm bớt tỷ lệ chứng khoán có độ rủi ro cao, hoán đổi sang các loại chứng khoán có thị giá tương đương nhưng ổn định và chó chiều hướng gia tăng, tiếp tục thực hiện chiến lược quay vòng nhanh các loại chứng khoán niêm yết nếu thị trường cho phép để tìm kiếm lãi vốn hoặc giảm giá vốn bình quân. Xem xét điều chỉnh quy mô tự doanh linh hoạt cho phù hợp với điều kiện thị trường và khả năng tìm kiếm lợi nhuận, lập phương án trình Hội đồng quản trị, dành một phần vốn tự doanh để đầu tư có cân nhắc và một số cổ phiếu chuẩn bị niêm yết hoặc có triển vọng tăng trưởng và có tỷ suất đầu tư đạt trên 12%/năm.
3.1.2.5. Về hoạt động đầu tư tài chính
Dự kiến trong năm 2004 mức lãi suất huy động có thể vẫn ở mức thấp, điều này có thể ảnh hưởng đến doanh thu hoạt động tài chính của Công ty. Công ty sẽ tiếp tục duy trì và mở rộng quan hệ với các Ngân hàng, Tổ chức tín dụng nhằm đàm phán lãi suất tốt nhất hoặc triển khai tìm kiếm đối tác hợp vốn để đảm bảo hiệu quả đầu tư tài chính nguồn vốn nhàn rỗi. Trong năm 2004, tổng nguồn vốn dự kiến đầu tư tài chính từ 14-15 tỷ đồng, với mục tiêu lãi suất đầu tư tài chính đạt mức 8%/năm. Bên cạnh đó, Công ty sẽ tiếp tục nghiên cứu các cơ hội đầu tư khác như đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ, Trái phiếu công trình hoặc Trái phiếu Doanh nghiệp nếu ty suất đầu tư cao hơn so với Tiền gửi Ngân hàng mà vẫn đảm bảo chủ động nguồn vốn hoạt động của Công ty.
3.1.2.6. Về hoạt động lưu ký và các dịch vụ tiện ích
Công ty xác định đây là hoạt động hỗ trợ cho nghiệp vụ môi giới và tư vấn của Công ty. Năm 2004, Công ty tiếp tục duy trì ổn định các khách hàng đã lưu ký và phát triển thêm từ 3-5 khách hàng mới, tiếp tục duy trì và đẩy mạnh các dịch vụ tiện ích như cho vay cầm cố chứng khoán, ứng trước tiền bán chứng khoán, cho vay hỗ trợ tiền mua chứng khoán khi tình hình thị trường được cải thiện đồng thời xúc tiến mạnh dịch vụ hỗ trợ cho vay cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp CPH mua cổ phần. Bên cạnh đó, Công ty sẽ sớm nghiên cứu và tìm kiếm đối tác để triển khai thêm dịch vụ cho vay cầm cố chứng khoán chưa niêm yết.
3.2. Các giải pháp phát triển các hoạt động tại cTCP chứng khoán Bảo Việt
Sau khi nghiên cứu những điều kiện thuận lợi, những mặt còn hạn chế và nguyên nhân dẫn tới điều đó, chúng ta thấy rằng BVSC cần phải có những biện pháp để khắc phục khó khăn nhằm phát triển hoạt động kinh doanh của Công ty.
3.2.1. Đa dạng và phát triển đồng bộ các hoạt động
Phân tích thị trường là một nhiệm vụ rất quan trọng và là một trong những yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của CTCK. Khả năng mở rộng và phát triển của Công ty phụ thuộc rất nhiều vào uy tín và chất lượng của các dịch vụ cung cấp. Có thể nói, phân tích thị trường là một mũi nhọn cạnh tranh về dịch vụ giữa các CTCK. Trong điều kiện hiện nay, khi các CTCK mới đi vào hoạt động, các lợi thế cạnh tranh chưa có sự phân biệt rõ rệt thì yếu tố chủ yếu để thu hút chính là chất lượng dịch vụ mà Công ty cung cấp, cụ thể hơn, đó là chất lượng của dịch vụ tư vấn của Công ty cho khách hàng trong các quyết định đầu tư. Hơn nữa, đối với bản thân Công ty, các kết quả phân tích trên thị trường cũng là cơ sở để đưa ra quyết định đầu tư nhằm mang lại lợi ích cao nhất. Với những lý do đó, BVSC cần phải hết sức quan tâm đến việc phát triển năng lực phân tích thị trường của mình.
Để có thể tiến hành phân tích thị trường, CTCK phải dựa trên một số yếu tố chuẩn về hệ thống chính sách kinh tế, hệ thống pháp luật, hệ thống thông tin thị trường, sự phát triển của hệ thống tài chính, hệ thống Ngân hàng, hệ thống các thị trường hàng hoá. Đặc biệt, CTCK phải chú ý đến môi trường kinh doanh mà ở đây sẽ bao gồm các yếu tố vĩ mô và vi mô.
Nếu phân tích kinh tế vĩ mô chỉ ra được các ảnh hưởng của nền kinh tế nói chung đến TTCK thì dự đoán diễn biến trên thị trường sẽ chỉ ra cho CTCK thời điểm thích hợp để thực hiện việc mua bán chứng khoán đó. Khả năng dự đoán diễn biến thị trường của CTCK phụ thuộc vào khả năng thu thập thông tin, khả năng đánh giá xu hướng thị trường và khả năng đánh giá động thái tâm lý của nhà đầu tư. Hiện nay, khả năng tiếp cận của BVSC là tương đối tốt. Tuy nhiên, các thông tin này rất đa dạng, BVSC cần phải chú ý tới việc sàng lọc giữa những thông tin thực sự và thông tin giả mạo.
Phân tích thị trường là một việc rất phức tạp,vì thế CTCK phải có hàm lượng chuyên môn cao, kinh nghiệm phong phú và khả năng nhận định sắc bén.
3.2.2. Xây dựng chiến lược về nguồn nhân lực
Phát huy mạnh mẽ năng lực của ban lãnh đạo
Hoạt động kinh doanh chứng khoán là một hoạt động còn nhiều mới mẻ, phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro, TTCK là một trong những thị trường biến động nhiều nhất và chịu sự quản lý chặt chẽ của UBCKNN, TTGDCK. Các văn bản pháp quy trong lĩnh vực này thường xuyên được điều chỉnh, thậm chí có nhiều thay đổi mang tính bước ngoặt. Do đó, ban lãnh đạo Công ty cần thường xuyên theo dõi sát sao các văn bản này cũng như các biến động trên thị trường và những thay đổi của khách hàng. Cán bộ Công ty phải có cái nhìn toàn diện, bao quát, kết hợp với đầu óc phân tích tổng hợp, linh hoạt sáng tạo đưa ra các biện pháp nhanh chóng kịp thời phù hợp với từng thời điểm, từng diễn biến để không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh mà vẫn hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra. Để có được phẩm chất này cán bộ lãnh đạo cần biết tận dụng và tích luỹ những kinh nghiệm quý báu có được trong quá trình làm việc, đồng thời thường xuyên trau dồi kiến thức, tích luỹ chuyên môn nghề nghiệp vững vàng, có khả năng quản lý và có đầu óc phán đoán nhanh nhạy. Trong quá trình làm việc phải kết hợp trao đổi thông tin chặt chẽ với UBCKNN, TTGDCK và các chi nhánh của Công ty. Bên cạnh đó, ban lãnh đạo cũng phải nghiên cứu đưa ra các chính sách khen thưởng và kỷ luật thích hợp cả về vật chất lẫn tinh thần, để khuyến khích động viên kịp thời, tạo động lực phấn đấu lành mạnh cho mọi thành viên trong Công ty.
Thường xuyên đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
Để thực hiện định hướng trở thành CTCK có tầm cỡ, kinh doanh trên tất cả các nghiệp vụ thì một yếu tố quan trọng không thể thiếu được là nhân tố con người trong việc tổ chức, quản lý và vận hành các nghiệp vụ của Công ty.
Một CTCK có thể trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại trong một thời gian ngắn nhưng không thể có ngay được một đội ngũ cán bộ có trình độ tương xứng trong một thời gian ngắn được. Vì vậy, Công ty cần phải có một kế hoạch (cả ngắn hạn và dài hạn) phù hợp trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ cho hiện tại và tương lai.
Khách hàng chứng khoán là khách hàng có trình độ hiểu biết pháp luật rất cao, buôn bán chứng khoán diễn ra rất nhanh và phức tạp. Vì vậy để cung cấp dịch vụ cho đối tượng này đòi hỏi người làm chứng khoán phải có trình độ cao về pháp luật, tin học và nghiệp vụ. Cán bộ của CTCK phải là những người am hiểu về kỹ thuật, thông tin về nghiệp vụ, kết hợp lý luận và thực tiễn trong mọi tình huống để tạo ra hiệu quả kinh doanh cao. Hiện nay, với xu hướng hội nhập kinh tế, Công ty cần có nhiều chuyên gia giỏi để có đủ năng lực bắt kịp và hoà nhập vào nền kinh tế sôi động đó. Chính vì thế, Công ty cần có chương trình, kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ toàn diện: Yêu cầu cán bộ hoạt động trong lĩnh vực này phải có một trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học nhất định và thường xuyên phải học tập và trau dồi thêm. Định kỳ tổ chức kiểm tra trình độ, có chế độ khen thưởng đối với những người có trình độ vượt mức yêu cầu. Khuyến khích, tạo điều kiện trợ giúp kinh phí cho các cán bộ đi học nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nhất là các cán bộ trẻ. Đặc biệt ưu tiên những cá nhân phấn đấu đạt các học vị như thạc sĩ, tiến sĩ...Đây là lực lượng đưa Công ty tiếp cận, làm chủ các công nghệ hiện đại, bắt kịp với xu hướng phát triển chung. Quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ nguồn cho Công ty. Bên cạnh những yêu cầu về chuyên môn, cán bộ Công ty cũng cần phải có những phẩm chất và tác phong làm việc khoa học. Cụ thể là cán bộ phải có tinh thần trách nhiệm cao, có đạo đức nghề nghiệp, không để xảy ra các vụ việc tiêu cực làm thất thoát tài sản của Công ty, gây thiệt hại cho khách hàng, ảnh hưởng xấu tới uy tín của Công ty.
Con người- nhân tố quyết định tới sự phát triển- là trung tâm của mọi hoạt động. Chuẩn bị tốt nguồn nhân lực sẽ có ý nghĩa nhất định đối với việc thực hiện thành công những nỗ lực phát triển của Công ty.
3.2.3. Xây dựng chiến lược khách hàng toàn diện, hợp lý
Chính sách khách hàng có một vị trí hết sức quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của một CTCK. Với phương châm phục vụ: “Hiệu quả kinh doanh của nhà đầu tư là mục tiêu của BVSC” thì một giải pháp về khách hàng đúng đắn sẽ là một yếu tố quyết định vị trí của BVSC trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt để giành thị phần với CTCK khác.
Chính sách khách hàng có thực hiện được hay không phụ thuộc vào kết quả của việc sử dụng nhiều chính sách cụ thể khác nhau, mỗi chính sách đó sẽ đóng vai trò nhất định nhưng có mối quan hệ với nhau. Một chính sách khách hàng hợp lý bao gồm:
Chính sách giá cả hấp dẫn: Trong môi trường cạnh tranh quyết liệt như hiện nay, các mức phí của Công ty phải được áp dụng một cách linh hoạt, phù hợp trên cơ sở cân đối chi phí, lợi nhuận, thị phần và các mục tiêu khác mà Công ty theo đuổi. Mức phí đưa ra phải phù hợp từng đối tượng khách hàng, từng loại dịch vụ, từng thời điểm cụ thể để vừa duy trì được mối quan hệ lâu dài với khách hàng, vừa thu hút thêm khách hàng mới. Để thực hiện điều này, Công ty có thể tiến hành phân tổ khách hàng theo những tiêu chí nhất định. Ví dụ, đối với khách hàng có uy tín, thường xuyên có những giao dịch với giá trị lớn sẽ được hưởng mức phí ưu đãi.
Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, cải tiến quy trình nghiệp vụ để thoả mãn nhu cầu ngày càng đa dạng và phát triển của khách hàng. Điều này đòi hỏi BVSC cần phải nghiên cứu, học hỏi và đưa ra các dịch vụ mới, cung cấp thông tin cập nhật nhất, nhận lệnh và thông báo kết quả khớp lệnh tận nhà...
Chủ động tìm kiếm khách hàng là một hoạt động không thể thiếu nhằm mở rộng và nâng cao số lượng khách hàng đến với mình. Chính sách này không những nhằm vào các nhà đầu tư trong nước mà còn nhằm vào cả các nhà đầu tư nước ngoài, không những nhằm vào các nhà đầu tư cá nhân mà còn nhằm vào các tổ chức. Thực hiện được chính sách này, tức là tìm được khách hàng mới, Công ty sẽ có nhiều lợi nhuận hơn, có cơ hội tốt trong việc thực hiện nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành cho khách hàng mới, từ đó có cơ sở thực hiện các nghiệp vụ môi giới, quản lý danh mục đầu tư... cho khách hàng để tìm kiếm lợi nhuận và nâng cao uy tín của mình.
Bảo đảm phong cách giao tiếp văn minh, lịch sự, tận tình, chu đáo chính là một nghệ thuật giữ khách hàng hiệu quả nhất. Thái độ của nhân viên có thể tạo nên hình ảnh của Công ty trong khách hàng. Vì vậy, phong cách giao tiếp và tác phong làm việc của cán bộ sẽ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của việc thu hút khách hàng. Ngoài ra, các cán bộ nhân viên còn phải làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, cẩn thận không để mắc sai sót, nhầm lẫn tạo sự an tâm, tin tưởng tuyệt đối từ phía khách hàng.
Tổ chức hội nghị khách hàng: BVSC có thể định kỳ tổ chức hội nghị khách hàng bởi vì đây sẽ là nơi gặp gỡ, trao đổi, học tập kinh nghiệm giữa các nhà đầu tư với nhau, giữa các nhà đầu tư với Công ty. Và hơn thế nữa, hội nghị khách hàng sẽ có lợi cho cả hai bên, khách hàng và Công ty.
Về phía khách hàng, trước hết họ sẽ được cung cấp những văn bản pháp lý mới nhất liên quan đến chứng khoán và TTCK, tránh được những sai phạm không đáng có khi tham gia đầu tư trên TTCK. Tiếp đến, họ có thể tham khảo những bài phân tích, đánh giá của các chuyên gia trong Công ty về tình hình TTCK, tình hình hoạt động kinh doanh của các Công ty niêm yết. Cái lợi mà khách hàng có được chính là ở chổ: dựa trên các thông tin có được, họ tự biết điều gì nên và không nên làm, đầu tư như thế nào trong thời gian tới để có hiệu quả cao nhất.
Về phía Công ty, hội nghị khách hàng là một dịp tốt để tăng cường mối quan hệ với các nhà đầu tư, là một dịp để các nhà đầu tư hiểu kỹ hơn về Công ty ty thông qua các loại hình dịch vụ mà Công ty đang cung cấp cho họ. Hội nghị khách hàng sẽ giúp cho Công ty tiếp cận, tìm hiểu cặn kẽ hơn nhu cầu và thu thập thông tin phản hồi từ phía các nhà đầu tư và công chúng. Hơn nữa, thông qua hội nghị khách hàng, Công ty còn cho thấy khách hàng là tâm điểm của mọi hoạt động kinh doanh của mình, là mối quan tâm hàng đầu của mình để từ đó khách hàng có niềm tin vững chắc vào Công ty.
3.2.4. Hiện đại hoá cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động kinh doanh
Cùng với sự phát triển và sôi động của TTCK, CTCK BVSC cũng buộc phải có sự phát triển không ngừng và việc hiện đại hoá cơ sở vật chất, phương tiện kinh doanh là một tất yếu đang được quan tâm hiện nay. Với tình hình của Công ty như hiện nay, Công ty nên tập trung các giải pháp về công nghệ thông tin, đó là: Tiêu chuẩn hóa hệ thống thông tin khách hàng, bao gồm nhiều dữ liệu khác nhau, hình thành Ngân hàng dữ liệu phục vụ cho nhiều mục đích sử dụng và khai thác khác nhau. Thiết kế và cài đặt cục bộ cũng như mạng toàn diện để việc trao đổi thông tin được diễn ra nhanh chóng, thuận lợi, an toàn. Có chương trình dự phòng, kế hoạch sẵn sàng ứng phó với tình trạng bị xâm nhập bất hợp pháp, bị mất liên lạc trong khi giao dịch cũng như trong trường hợp khẩn cấp. Trước mắt, BVSC cần hoàn thiện trang Web, đồng thời triển khai xây dựng một hệ thống tin học mạnh, đảm bảo vi tính hoá toàn bộ các nghiệp vụ chứng khoán, xây dựng hệ thống cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư, xây dựng trước một bước cơ sở vật chất để tạo điệu kiện cho khách hàng kinh doanh qua mạng.
3.2.5. Tăng cường xây dựng các mối quan hệ với các CTCK nước ngoài
Để giữ vững và tăng cường uy tín đối ngoại của BVSC, cần đẩy mạnh việc xây dựng các quan hệ đối ngoại, mở rộng quan hệ để tranh thủ kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của các CTCK nước ngoài. BVSC cần củng cố và mở rộng quan hệ đối ngoại vốn có, chọn các CTCK, đối tác nước ngoài phù hợp với từng lĩnh vực đối ngoại của từng khu vực để thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các Công ty có uy tín cao. Tăng cường nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm, nắm bắt nhanh nhạy các xu thế mới của thị trường để thích ứng và có đối sách kịp thời khi có biến động. Đồng thời, BVSC cần mở rộng các quan hệ song phương và đa phương, xây dựng và phát triển mối quan hệ chặt chẽ với CTCK các nước ASEAN, đặc biệt với các CTCK của các nước láng giềng như: Thái Lan, Trung Quốc...
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ
3.3.1.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý.
TTCK là một thể chế đặc biệt bậc cao và là sản phẩm tinh tuý của nền kinh tế thị trường, hoạt động với những thiết chế phức tạp và riêng biệt, với những quy luật chi phối khắc nghiệt, sâu sắc và ảnh hưởng toàn diện đến thực trạng phát triển kinh tế-xã hội của một đất nước khi có những biến động. Với cơ chế vận hành phức tạp, nên các quá trình từ phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp cho đến các giao dịch trên thị trường thứ cấp đòi hỏi phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt của luật pháp về chứng khoán và TTCK. Ngoài các quy định nêu trên, hoạt động của TTCK còn chịu sự chi phối của các văn bản luật khác trong các lĩnh vực thương mại, dân sự, đầu tư nước ngoài, phá sản. Hoạt động của TTCK nói chung, bên cạnh những đặc tính ưu việt, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, còn chứa đựng những hạn chế, khuyết tật có thể dẫn tới những hậu quả khó lường. Vì vậy, sự điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống luật pháp trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK này nhằm tạo ra những đặc tính ưu việt, những thế mạnh của nền kinh tế thị trường và hạn chế tới mức thấp nhất những tác động tiêu cực có thể phát sinh trong quá trình hoạt động thị trường. Giữa các chủ thể của thị trường hình thành những mối quan hệ kinh tế-xã hội đan xen. CTCK là một chủ thể quan trọng của thị trường, hoạt động kinh doanh của Công ty có hiệu quả tốt hay không, một mặt phụ thuộc vào tình hình chung của thị trường.
Nhìn tổng thể, tuy chưa có một đạo luật chung về phát hành và kinh doanh chứng khoán như một số nước trên thế giới, nhưng trên thực tế, khung pháp luật về chứng khoán với ba bộ phận cấu thành tối thiểu của nó đã được hình thành, bao gồm: Những quy định về tiêu chuẩn hàng hoá và điều kiện phát hành, điều kiện và thể thức kinh doanh, quản lý Nhà nước và giám sát về chứng khoán và TTCK. Tuy nhiên, về mặt nội dung, các quy định hiện có còn bộc lộ nhiều hạn chế cần khắc phục: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK hầu hết là các văn bản dưới luật, có giá trị thấp. Các văn bản thiếu tính hệ thống, còn chắp vá, thiếu tính đồng bộ và còn chồng chéo giữa các quy định. Còn bỏ ngỏ nhiều vấn đề thuộc về chứng khoán và nhiều quan hệ trong TTCK chưa được luật pháp quy định, điều chỉnh. Hầu hết các quy định được xây dựng trên cơ sở tham khảo, học tập kinh nghiệm tổ chức TTCK của nước ngoài mà chưa được hay còn ít được kiểm nghiệm qua thực tế tại Việt Nam. Do đó, trong thời gian tới, Chính phủ cần xem xét, sửa đổi, bổ sung các luật, pháp lệnh và các văn bản ở các ngành, lĩnh vực liên quan khác nhằm tạo nên sự thống nhất cao và ổn định trong hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho sự vận hành và phát triển của TTCK Việt Nam.
Chính phủ cần nhanh chóng hoàn thiện những văn bản quy định, hướng dẫn hoạt động của TTCK cũng như các CTCK để phù hợp với tình hình phát triển thực tế của TTCK Việt Nam. Mặt khác, với tình hình và xu hướng của thị trường hiện nay, Chính phủ cũng cần có các quy định cụ thể về giao dịch điện tử trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Điều này rất quan trọng vì đó là cơ sở pháp lý cho các giao dịch sẽ rất phổ biến trong tương lai này.
3.3.1.2. Ưu đãi thuế cho hoạt động chứng khoán
Ưu đãi thuế cho TTCK là chính sách quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến lợi ích của các CTCK. Hiện nay ngoài việc hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp trong hai năm hoạt động, các CTCK còn được giảm 50% số thuế doanh nghiệp trong hai năm tiếp theo. Tuy nhiên, quy định ưu đãi thuế như vậy đối với các CTCK vẫn chưa thoả đáng do các Công ty này mới đi vào hoạt động, doanh số chưa nhiều, TTCK chưa sôi động, chưa phát triển nên hiệu quả hoạt động còn thấp. Chắc chắn các CTCK đều bị lôc trong những năm đầu hoạt động. Do vậy, hết thời hạn được giảm thuế như trên các CTCK sẽ gặp nhiều khó khăn khi tính đến hiệu quả kinh doanh.
Chính vì thế cần phải có chính sách ưu đãi hơn nữa cho các CTCK mới có thể khuyến khích sự tham gia tích cực của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước vào TTCK. Cụ thể, mức ưu đãi trong thời gian tới nên là miễn thuế cho 5 năm đầu hoạt động và giảm thuế còn 50% trong 3 hoặc 5 năm tiếp theo.
Đối với thuế giá trị gia tăng, mặc dù Bộ tài chính đã cam kết sẽ chính thức đưa hoạt động kinh doanh chứng khoán vào diện không chịu thuế VAT được ghi tại điều 4 luật thuế này, nhưng các CTCK đã không mấy hứng khởi vì việc đưa vào diện không chịu thuế VAT đồng nghĩa với việc sẽ không được khấu trừ thuế đầu vào đối với các chi phí bỏ ra trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Cho nên, các CTCK nên được áp dụng thuế suất VAT đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán là 0%. Với thuế suất này, các Công ty sẽ được hoàn thuế đầu vào đối với các chi phí bỏ ra và đây chính là điều mà không chỉ BVSC mà các CTCK khác đều mong đợi.
3.3.2. Kiến nghị với UBCKNN và TTGDCK
Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh chứng khoán được thực hiện một cách công bằng, trung thực, công khai, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và công chúng tham gia đầu tư, các chủ thể kinh doanh chứng khoán còn phải chấp hành về đạo đức kinh doanh, quy định về hạn mức áp dụng đối với kinh doanh... do UBCKNN và TTGDCK quy định.
3.3.2.1. Giám sát và quản lý vốn khả dụng đối với CTCK
NORC =
NOC
´ 100 ³ 100%
ồ rủi ro
Trong đó:
NOC: chỉ tiêu vốn hoạt động ròng
NOC = Tài sản ròng (Tổng tài sản - Tổng nợ) -Tổng các khoản gia tăng
+ Tổng các khoản giảm trừ.
ồ rủi ro = Rủi ro thị trường + Rủi ro đối tác + Rủi ro cơ bản
+ Rủi ro tập trung tín dụng - Phần bù rủi ro
Quy định về việc trích lập dự phòng vốn điều lệ: Quy định này yêu cầu CTCK trong quá trình hoạt động phải trích 5% lãi ròng hàng năm để lập quỹ dự phòng, bổ sung vốn điều lệ cho đến mức bằng 10% vốn điều lệ của Công ty. Việc thực hiện quỹ này được thực hiện theo những quy định hiện hành đối với các loại hình CTCP và TNHH.
3.3.2.2. Quy định về chế độ báo cáo và công khai hoá thông tin
Quy định này được áp dụng ở các TTCK trên thế giới, theo đó các CTCK phải công khai hoá các thông tin về hoạt động kinh doanh chứng khoán cho công chúng, phải tuân thủ chế độ báo cáo định kỳ cho các cơ quan quản lý ngành và SGDCK nếu Công ty là thành viên. Ngoài báo cáo định kỳ, CTCK phải có trách nhiệm báo cáo đột xuất khi có sự kiện bất thường ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh xảy ra. Đặc biệt là các báo cáo hàng quý của CTCK phải được Công ty kiểm toán đã được cơ quan quản lý Nhà nước ngành chứng khoán chấp nhận xác nhận.
Mặt khác, thông tin về TTCK là cơ sở hoạt động của TTCK, là yếu tố để các nhà đầu tư định giá mua bán chứng khoán. ở nhiều nước trên thế giới việc công bố thông tin đã trở thành một thứ văn hoá kinh doanh, bởi vì cổ đông và những người có quyền lợi liên quan đến Công ty cần được thông tin kịp thời và chính xác về tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình quản lý, điều hành Công ty. Các thông tin sai lệch trên TTCK có thể gây nên những biến động lớn trong hoạt động của thị trường cũng như sự hoảng loạn trong tâm lý của các nhà đầu tư, đẩy thị trường đến những đột biến giá, tạo nên các cơn sốc đối với hệ thống tài chính quốc gia, và do vậy ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Trong giai đoạn toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, thông tin không minh bạch có thể gây nên sự xáo trộn thị trường, dẫn đến phản ứng xấu của TTCK và nền kinh tế quốc gia. Chính vì vậy, công khai hoá thông tin được coi là nguyên tắc quan trọng nhất của TTCK. Ngay từ đầu xây dựng TTCK tại Việt Nam, UBCKNN đã luôn coi trọng nguyên tắc này, và có những quy định cụ thể về việc bắt buộc công khai thông tin trên TTCK. Các quy định của UBCKNN đối với việc công bố thông tin của các tổ chức niêm yết, Công ty quản lý quỹ, các tổ chức hoạt động kinh doanh chứng khoán là tương đối chặt chẽ, phù hợp với thông lệ quốc tế về thông tin trên thị trường. Vấn đề còn lại chính là tính tự giác của các tổ chức có trách nhiệm phải công bố thông tin. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, các doanh nghiệp Việt Nam chưa có thói quen và chưa sẵn sàng công bố công khai thông tin về tình hình hoạt động của mình. Để giải quyết tốt vấn đề này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước đối với UBCKNN. UBCKNN và TTGDCK cần nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi, cụ thể hoá các quy định về thông tin như thời điểm, cách thức và nội dung công bố thông tin, đặc biệt liên quan tới những vấn đề như phát hành cổ phiếu mới, thay đổi chế độ kế toán, hợp nhất báo cáo tài chính, công bố ấn phẩm thường niên, công bố trên báo... Những quy định này cần cụ thể và phù hợp với thực tế để tạo điều kiện cho các Công ty niêm yết thực hiện được tốt. Đồng thời UBCKNN và TTGDCK cần tăng cường thông tin về thị trường để định hướng người đầu tư, bác bỏ những thông tin sai lệch, gây hoang mang hoặc gây nhiễu. Cần sớm xây dựng một tờ thông tin chính thức của UBCKNN, bên cạnh tờ tin của TTGDCK cùng với việc cập nhật trang Web thông tin để đưa ra những quan điểm chính thức của UBCKNN về những vấn đề chứng khoán và TTCK, tạo điều kiện cho công chúng đầu tư và những người muốn tìm hiểu lĩnh vực này có được những thông tin đáng tin cậy.
3.3.2.3. Tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK
Việc tuyên truyền và quảng bá rộng rãi kiến thức về chứng khoán và TTCK cho công chúng là điều hết sức quan trọng và không nên xem nhẹ vì người ta chỉ có thể tham gia “cuộc chơi” khi mà họ tin rằng đã hiểu “luật chơi” và biết cách tự mình giành chiến thắng trong cuộc chơi đó.
Theo số liệu điều tra của UBCKNN, công chúng cho rằng tuy TTCK còn là lĩnh vực mới mẻ, chứa đựng nhiều rủi ro nhưng cũng không phải là ít tiềm năng đáng trông đợi. Đa số các nhà đầu tư là tổ chức, cho dù có hay không ý định huy động vốn thông qua TTCK đều mong muốn có được hiểu biết về chứng khoán và TTCK. Đối với nhà đầu tư cá nhân, phần lớn đều chưa qua đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK mà chủ yếu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các buổi nói chuyện đề nên hiểu biết của họ còn hạn chế. Điều này phản ánh thực tế là công tác thông tin tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK chưa được triển khai mạnh mẽ và hiệu quả. UBCKNN cần phối hợp với Bộ giáo dục và đào tạo và các cơ quan chức năng trong chương trình đào tạo về chứng khoán và TTCK theo một chuẩn nhất định để tranh thủ sự liên kết giữa ngành chứng khoán với các trường đại học hoặc các trung tâm đào tạo khác góp phần tuyên truyền và đào tạo một cách có hiệu quả nhất.
3.3.3. Kiến nghị với bộ tài chính
3.3.4. kiến nghị với BVSC
Kết luận
ở Việt Nam hiện tại các CTCK đang còn trong giai đoạn đầu và còn nhiều bỡ ngỡ khi tham gia vào TTCK cho dù gặp không ít khó khăn trong hoạt động của mình nhưng các Công ty cũng đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm để có thể phát triển tốt trong tương lai không xa.
Từ những buổi đầu thành lập BVSC đã từng bước kinh doanh có hiệu quả và tạo được lòng tin nơi khách hàng như lòng tin ở công chúng đầu tư. Tuy nhiên, chặng đường trước mắt đối với Công ty là rất khó khăn và đầy thử thách. Do đó, Công ty cần phải có những bước đi cụ thể để tự mình vượt qua nhứng khó khăn thử thách hướng tới sự phát triển bền vững.
Qua thời gian nghiên cứu và thực tập tại CTCP chứng khoán Bảo Việt, em đã hiểu phần nào các hoạt động kinh doanh và mạnh dạn đề ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển các hoạt động kinh doanh của Công ty. Em mong rằng sẽ nhận được nhiều ý kiến của thầy cô và cán bộ Công ty để em có thể hoàn thiện chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3745.doc