Đề tài Giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam đến năm 2020

Trên cơ sở phân tích đánh giá tình hình phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam hiện nay, có thể thấy một số vấn đề sau. Ngành công nghiệp hỗ trợ hiện còn nhiều yếu kém, chưa phát triển tương xứng với ngành công nghiệp dệt may trong nước, không cung cấp đủ nhu cầu nguyên nhiên liệu cho ngành dệt may trong nước. dẫn đến tỷ lệ nội địa hóa của ngành dệt may Việt Nam còn rất thấp, phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu của nước ngoài, làm chi phí giá thành sản xuất tăng cao, khả năng cạnh tranh kém. Gây hạn chế cho sự phát triển của ngành dệt may trong nước. Hiện nay nhà nước đang chú trọng đẩy mạnh đầu tư phát triển cho ngành công nghiệp hỗ trợ. Là nước đi sau, nhà nước cần linh hoạt áp dụng các cơ chế chính sách hợp lý, học hỏi kinh nghiệm từ các nước phát triển, tận dụng tối đa lợi thế so sánh, đống thơi chú trọng đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao. Đặc biệt trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu của nền kinh tế, các doanh nghiệp dệt may việt nam cũng phải chủ động tận dụng cơ hội hội nhập, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh giúp dệt may Việt Nam nói chung và ngành công nghiệp boortrowj dệt may nói riêng phát triển bền vững, tiến tới nâng cao kim ngạnh xuất khẩu của ngành, thúc đẩy nên kinh tế phát triển mạnh.

doc82 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2371 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhanh, Việt Nam có thể đẩy mạnh hoạt động của ngành dệt may để vừa thu về giá trị xuất khẩu lớn, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước, vừa giải quyết được việc làm cho phần lớn người lao động. Lợi thế của ngành CNHT ngành DMVN được xây dựng trên cơ sở 3 yếu tố chính là chất lượng, quan hệ lao động hài hòa và bảo vệ môi trường. Đây chính là 3 trụ cột chính giúp DMVN tiếp cận được với những thị trường ở đẳng cấp cao như thị trường Mỹ. 3.1.1.1. Lợi thế về lao động. Ngành may Việt Nam khá phát triển, trang thiết bị được đổi mới và hiện đại hoá tới 90%. Lực lượng lao động của Việt Nam dồi dào, có kỹ năng và tay nghề may tốt, có kỷ luật, chi phí lao động còn thấp so với nhiều nước. Có khả năng sản xuất được các loại sản phẩm phức tạp, chất lượng cao, được phần lớn khách hàng khó tính chấp nhận. Nguồn lao động dồi dào với số lượng tham gia ngày càng tăng, dễ đào tạo, giá công nhân thuộc loại rẻ nhất trên thế giới: VN, Trung Quốc, Inđônêsia , Bangladesh và Campuchia: 0,3-0,6 USD/giờ. Với đặc điểm của ngành dệt may là cần nhiều lao động, đây sẽ là yếu tố giúp chúng ta giảm giá thành sản phẩm tăng  sức cạnh tranh, đẩy mạnh sản xuất, nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã. Tiết kiệm được chi phí từ nhân công sẽ có cơ hội để đầu tư vào công đoạn sản xuất khác góp phần hoàn thiện sản phẩm cũng như đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh khác để thu lợi nhuận cao. Bảng 3.1: Mức lương trung bình của ngành dệt may ở một số nước Đơn vị: USD/h Đài Loan Hàn Quốc Hồng Kông Singapore Malaysia Thái Lan Philippin Ấn Độ Trung Quốc Indonesia Việt Nam 5 3,6 3,39 3,16 0,95 0,87 0,67 0,54 0,34 0,23 0,18 (Nguồn: Vinatex) 3.1.1.2. Lợi thế về thị trường tiêu thụ. Cuộc sống càng phát triển, thu nhập càng tăng thì yêu cầu làm đẹp của con người càng cao, do đó khả năng phát triển của ngành may mặc thế giới nói chung và ngành may của Việt Nam nói riêng là rất lớn. Dân số Việt Nam đông sẽ cung cấp một nhu cầu lớn cho ngành may mặc Việt Nam. Thị trường nội địa với 84 triệu dân, mức sống ngày càng được nâng cao. Mức sống và thu nhập của người dân ngày càng tăng lên sẽ khiến cho nhu cầu đối với các sản phẩm may mặc ngày càng tăng, đặc biệt là các sản phẩm trung và cao cấp. Xu hướng thời trang cũng như thị hiếu của người tiêu dùng ngày một tăng cao và không ngừng thay đổi sẽ tạo cơ hội cho ngành dệt may không ngừng nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, tăng sức sáng tạo, tạo trào lưu và mốt mới cho thời trang trong nước và có cơ hội cạnh tranh với nước ngoài. Bên cạnh đó DMVN ngày càng được mở rộng thị trường ra thế giới do hàng may mặc của Việt Nam ngày càng nhận được sự tín nhiệm của các nước nhập khẩu (Mỹ, EU, Nhật Bản…) do chất lượng sản phẩm cao nên sẽ có thể mở rộng hơn thị phần xuất khẩu cũng như tăng giá trị xuất khẩu. Nhiều nhà nhập khẩu trên thế giới nhận định rằng sản phẩm của VN sẽ có khả năng cạnh tranh không thua kém bất cứ nước nào, về mặt chất lượng cũng đã nổi trội chẳng hạn như mặt hàng sơ mi dệt kim (cat 338, 339) Việt Nam hiện là nước xuất khẩu mạnh nhất vào thị trường Mỹ. Đặc biệt là năng lực cạnh tranh mặt hàng sơ mi của Việt Nam hiện nay đang đứng số 1 thế giới, còn xuất lớn hơn cả Trung Quốc. Với thị trường EU, triển vọng tăng giá trị xuất khẩu của các DN Việt Nam cũng rất lớn khi các DN Việt Nam thoả mãn được những yêu cầu về môi trường của thị trường này. Đây là những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành DMVN trong thời gian tới. 3.1.1.3. Lợi thế về môi trường chính sách và vốn đầu tư. Việt Nam được đánh giá là điểm đến ổn định về chính trị, an toàn về xã hội, đang hấp dẫn các thương nhân và nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư và làm ăn. Ngành may mặc trong thời gian tới được coi là ngành ưu tiên và khuyến khích phát triển nên sẽ nhận được những nguồn vốn đầu tư lớn cả trong và ngoài nước Các DN may Việt Nam ngày càng chú trọng đến việc đầu tư cho năng lực sản xuất và thiết kế, hứa hẹn sự gia tăng về giá trị của các sản phẩm may mặc Việt Nam trong thời gian tới. Các DN may đang thực hiện liên kết với các trường và viện nhằm đào tạo nguồn nhân lực phù hợp có chất lượng cao, qua đó giúp các DN may chuẩn bị những điều kiện sẵn sàng để thực hiện xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng thiết kế cao hoặc thực hiện những đơn hàng giá cao nhằm thu giá trị xuất khẩu lớn, nhắm vào phân khúc thị trường hàng may mặc trung và cao cấp cả ở trong nước và nước ngoài. Nâng cao năng lực thiết kế sẽ giúp các DN may từng bước xây dựng thương hiệu riêng của hàng may mặc Việt Nam, qua đó xây dựng thị trường tiêu thụ riêng, đảm bảo sự phát triển bền vững. Khi đã chủ dộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, các DN may Việt Nam sẽ không phải phụ thuộc nhiều vào hoạt động may gia công cho các đối tác nước ngoài. Xu hướng chuyển dịch sản xuất hàng dệt may từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam , mở ra cơ hội thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý cho ngành, giúp khắc phục các điểm yếu của ngành. Bên cạnh đó, trong chiến lược phát triển ngành dệt may của Việt Nam, Chính phủ đã có định hướng phát triển các lĩnh vực hỗ trợ, phát triển các nguồn nguyên liệu phục vụ cho ngành may. Những kế hoạch này nếu thực hiện tốt sẽ giúp cung cấp những nguyên liệu có chất lượng cao, giảm bớt sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu vốn đang là vấn đề lớn của ngành may xuất khẩu hiện nay. Khi đó, các DN may trong nước sẽ có điều kiện mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. 3.1.1.4. Cơ hội khi Việt Nam gia nhập WTO. Gia nhập WTO, Việt Nam có điều kiện hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, các rào cản thương mại như hạn ngạch dệt may vào Hoa Kỳ đã được dỡ bỏ. Khi gia nhập tổ chức WTO, Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của DN.Việt Nam được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ, không bị phân biệt đối xử. Đặc biệt là hạn ngạch đối với hàng DMVN xuất khẩu vào Hoa Kỳ đã được bãi bỏ. Bên cạnh đó, sự quan tâm của Chính phủ, chỉ đạo sát sao của các bộ ngành liên quan nhằm tạo môi trường kinh doanh thông thoáng thuận lợi cho các DN nói chung và của ngành dệt may nói riêng. Đặc biệt trong việc xây dựng cơ chế cấp giấy phép xuất khẩu nhằm kiểm soát lượng và đơn giá hàng xuất khẩu (áp dụng từ tháng 3-6/2007), bãi bỏ chuyển tải hàng dệt may sang Hoa Kỳ, hợp tác với Hải quan và VCCI trong việc kiểm soát xuất khẩu, thành lập tổ kiểm tra cơ động giúp các DN và khách hàng yên tâm làm ăn. Bên cạnh đó, Việt Nam có thêm cơ hội thu hút dòng đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài. Đối với ngành CNHT ngành DMVN có cơ hội có được một thị trường tiêu thụ rộng lớn, cơ hội tiếp cận với công nghệ sản xuất, kinh nghiệm quản lý từ các nước phát triển cúng như cơ hội thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài, các nguồn viện trợ và các định chế tài chính quốc tế. Nhờ đó, ngành dệt may có điều kiện phát triển nguồn nguyên liệu bông, xơ sợi tổng hợp, hoá chất thuốc nhuộm,…để nâng cao tỉ lệ nội địa hoá (theo kế hoạch sẽ đạt đến 50% vào 2010). Thuế nhập khẩu hàng DMVN vào các nước WTO cũng được tính lại một cách bình đẳng và tạo điều kiện xuất khẩu tốt hơn. 3.1.2.Thách thức với ngành CNHT ngành DMVN . 3.1.2.1. Thị trường và đối thủ cạnh tranh. Xuất phát điểm thấp, CNHT chưa phát triển, năng lực cạnh tranh còn hạn chế, lại đang cịu sự cạnh tranh gay gắt từ các cường quốc sản xuất dệt may thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh…. Không những trên thị trường xuất khẩu mà còn ngay tại thị trường nội địa khi Việt Nam phải cam kết mở cửa thị trường, giảm thuế nhập khẩu và các hàng rào bảo hộ khác, riêng thuế nhập khẩu do cạnh tranh với hàng ngoại nên đã giảm 2/3 xuống còn 5 - 20%, trong khi chúng ta chưa nhận thức hết được những thách thức, áp lực cạnh tranh khi hội nhập, dẫn đến việc thiếu chuẩn bị, thiếu phương án khi sản xuất kinh doanh khó khăn. Đặc biệt từ 1/1/2009, khi Việt Nam phải mở cửa thị trường bán lẻ cho các DN nước ngoài thì sức ép cạnh tranh sẽ ngày càng lớn. Các thị trường chính của hàng dệt may Việt Nam như Hoa Kỳ và châu Âu hiện đang đều trong tình trạng khủng hoảng tài chính. Theo Tập đoàn Dệt may VN, thị trường Hoa Kỳ đang chiếm tỉ trọng khoảng 55% tổng kim ngạch XK hàng dệt may của VN. Tuy nhiên, thị trường này vẫn đang tiềm ẩn những rủi ro, cụ thể là chương trình giám sát chống bán phá giá của Mỹ vẫn đang áp dụng đối với hàng dệt may VN đã làm cho các khách hàng lớn như Macy, Hagel... rút toàn bộ đơn hàng tại VN để chuyển sang nước khác. Sức ép của vấn đề này đang còn làm cho nhiều Cty của VN và nước ngoài không dám đầu tư vào ngành dệt may vì sợ rủi ro. Bên cạnh đó, vấn đề kinh tế Mỹ đang suy thoái, sức mua của người dân đối với hàng dệt may giảm đáng kể... đang là những trở ngại cho ngành dệt may VN. Sự cạnh tranh mạnh mẽ của hàng may mặc Trung Quốc với giá thành rẻ và kiểu dáng mẫu mã đa dạng, phù hợp với thu nhập của người dân Việt Nam và các nước trên thế giới. Mặt khác Khủng hoảng kinh tế làm cho sức mua giảm, nhiều mặt hàng, sản phẩm tiêu thụ trong nước lẫn XK đang phải giảm giá làm cho ngành dệt may phải đối mặt với nhiều khó khăn hơn. 3.1.2.2. Yêu cầu chất lượng và trình độ công nghệ. Các quốc gia nhập khẩu thường có những yêu cầu nghiêm ngặt đối với chất lượng của hàng may mặc nhập khẩu vào, bao gồm cả hàng hóa của Việt Nam. Hàng hóa Việt Nam cũng như của một số quốc gia khác có nguy cơ bị kiện bán phá giá và áp mức thuế chống bán phá giá nhằm bảo vệ ngành may mặc của nước nhập khẩu. Trong khi đó công nghệ của các DN Việt Nam vẫn còn lạc hâu khó lòng đáp ứng được những yêu cầu kỹ thuật của thế giới. Ngành công nghiệp dệt và hỗ trợ còn yếu, dẫn đến 70% nguyên phụ liệu phải nhập khẩu từ nước ngoài, giá trị gia tăng không cao, thiếu linh hoạt và hạn chế khả năng đáp ứng nhanh. May xuất khẩu phần nhiều vẫn theo phương thức gia công, thiết kế mẫu mốt chưa phát triển, tỷ lệ làm hàng theo phương thức FOB còn thấp, hiệu quả sản xuất thấp. Mặt khác, hầu hết các DN dệt may đều là DN nhỏ và vừa nên khả năng huy động vốn đầu tư thấp, hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, trang thiết bị... năng lực quảng cáo tiếp thị hạn chế nên phần lớn các DN chưa xây dựng được thương hiệu. 3.1.2.3. Trình độ quản lý và nhân công. Các DN DMVN chủ yếu là DN nhỏ nên trình độ tổ chức quản lý, kỹ năng quản lý sản xuất, kỹ thuật còn kém, năng lực quảng cáo tiếp thị hạn chế, phần lớn các DN chưa xây dựng được thương hiệu, các sản phẩm xuất khẩu phải sử dụng nhãn mác nước ngoài, chưa xây dựng được chiến lược phát triển dài hạn cho DN. Cải cách hành chính còn chậm, năng lực cạnh tranh quốc gia về hạ tầng cơ sở còn thấp so với các đối thủ cạnh tranh, 1 số chi phí chung như vận chuyển, cảng khẩu...còn khá cao so với các nước. Thiếu công nhân cục bộ tại các thành phố lớn. Mối quan hệ lao động, tiền lương đang có chiều hướng phức tạp. Nhiều cuộc đình công tự phát đã xảy ra tại các thành phố và khu công nghiệp tập trung đã ảnh hưởng lớn đến việc sản xuất kinh doanh của nhiều DN, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư kinh doanh. Thiếu lao động kỹ năng trung cao cấp về công nghệ, thương mại, quản trị. Lao động có tay nghề cao, giàu kinh nghiệm còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Bên cạnh đó, mức độ ổn định của nguồn lao động trong ngành may mặc không cao khiến cho các DN may thường xuyên phải quan tâm đến việc tuyển dụng lao động mới. 3.1.2.4.Thách thức sau khi gia nhập WTO. Sau khi gia nhập WTO, bên cạnh nhiều điều kiện hội nhập sâu vào trong nền kinh tế thế giới, Việt Nam sẽ phải chịu sự cạnh tranh diễn ra gay gắt hơn, với nhiều "đối thủ" hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn. Đồng thời, Việt Nam phải cam kết mở cửa thị trường, giảm thuế và các hàng rào bảo hộ khác, minh bạch hóa chính sách. Và thực tế đó đã khiến cho các DN dệt may trong nước gặp không ít khó khăn. Trong đó, thách thức rất lớn đối với ngành dệt may là cơ chế giám sát và yêu cầu về chất lượng và mội trường xã hội của các đối tác nước ngoài, đặc biệt là Hoa Kỳ. Hoa Kỳ hiện đang áp dụng rất ngặt nghèo cơ chế giám sát chống bán phá giá đối với các DN Việt Nam. 100% đối tác Hoa Kỳ đều có yêu cầu về nhà xưởng, công nhân… thông qua các tiêu chuẩn như SA8000, ISO 9000,… Việc Hoa Kỳ áp dụng cơ chế kiểm soát hang DMVN nhâp khẩu và Hoa Kỳ Trong 2 năm 2007- 2008 và tự khởi động điều tra chống bán phá giá đối với hàng DMVN đã gây nhiều khó khăn và tác động cho các DN và ngành. Ngoài ra sự phát triển nhanh của nền kinh tế kéo theo đầu tư nhanh dẫn đến thiếu hụt lao động cục bộ, các cuộc đình công tự phát diễn ra cùng với hiện tượng lạm phát tăng cao trong năm 2007(12,2%) và 3 tháng đầu năm 2008( 9.9%) đã gây khó khăn cho các DN và tạo ra một hình ảnh xấu khi mà Việt Nam mới gia nhập WTO. Ngoài ra cơ sở hạ tàng yếu kém, hệ thống giao thông công chính lộn xộn, thiếu đồng bộ, thiếu điện, thiếu các dịch vụ hậu cần, vận tải đã làm giảm năng lực cạnh tranh của các DN Việt Nam nói chung và các DN dệt may nói riêng trên trường quốc tế. Bên cạnh những ưu đãi về thuế quan, thì khi gia nhập WTO Việt Nam cũng phải cắt giảm từng bước cá mức thuế nhập khẩu. Đây là thách thức lớn đối với các DN nội địa. Năm 2007, chính phủ đã điều chỉnh thuế xuất nhập khẩu cho 26 nhóm hàng, 1812 dòng hàng chiếm 17% danh sách thuế đã cam kết. Trong đó thuế hàng dệt may giảm mạnh nhất từ 37.3% xuống 13,7%. Năm 2008, Việt Nam thực hiện cắt giảm tiếp 1700 dòng thuế. VD: Đối với hàng DMVN, theo nguyên tắc ưu đãi MFN, thuế suất đối với nhóm hàng sơ sợi giảm từ 20% xuống 5%, nhóm hàng vải giảm từ 40% xuống 12%, nhóm hàng quần áo, đồ may sẵn giảm từ 50% xuống 20%. Điều này đã tạo ra sức ép đối với các DN DMVN. Buộc các DN phải chủ động vạch ra lộ trình nỗ lực phấn đấu để tăng sức cạnh tranh của DN mình. Bảng 3.2: Năng lực cạnh tranh của CNHT ngành DMVN trong điều kiện hội nhập Tiêu Chí Việt Nam Trung Quốc, Ấn Độ Inđo-nêsia Pakistan Bangla-đet Srilanca,Campu-chia Thái Lan Phili-pin Đông âu Trung Mỹ Nguồn lao động rẻ khéo tay A A A A A B A C C Trình độ công nghệ B A A - B A B A A CNHT B-C A B+ B+ B-C B+ B B B Quan hệ lao động B+ A - - B+ B - A A Quan hệ khách hàng A A A A A A A - - Đ.K thương mại quốc gia B A A A+ A+ A A A A Cơ sở hạ tầng B A A A- - A - A A Quản lý nhà nước B - - - - A - A A Vận chuyển B B B B B B B A A Ổn định/an toàn A A B B B B B A A (Ghi chú: A: mức tốt nhất, B+: Mức tốt, B: Mức trung bình, C: Mức kém, -: Chưa xác định) Nguồn: Viện nghiên cứu chién lược, chính sách công nghiệp. Qua bảng phân tích trên cho thấy, năng lực cạnh tranh hiện tại của DMVN chỉ ở mức trung bình. Lợi thế lớn nhất của ngành DMVN là lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, tuy nhiên đây chỉ là lợi thế nhất thời và không đảm bảo cho sự cạnh tranh lâu dài. è Khi các DN Việt Nam tiến sâu vào hội nhập quốc tế, cùng với tiến trình hội nhập của đất nước thì việc DN xác định họ đang ở bậc thang nào trong chuỗi giá trị toàn cầu mà họ sẽ tham gia. Vì vậy, việc nâng cao vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu trở thành một vấn đề trọng đại đối với các DN Việt Nam, cũng như nền kinh tế Việt Nam khi đã gia nhập thị trường thế giới. Và Việt Nam rất cần vươn lên để phát triển khâu đầu cũng như là khâu cuối trong chuỗi giá trị toàn cầu, nghĩa là tham gia vào lĩnh vực nghiên cứu & phát triển - sở hữu trí tuệ, thương hiệu và thương mại. Đó cũng chính là sự lựa chọn tất yếu để thoát khỏi tụt hậu và lệ thuộc. Tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu không chỉ là “đồ trang sức” hợp thời, mà chính là quy luật tất yếu của thời hội nhập. 3.1.3. Định hướng phát triển DMVN đến năm 2020. 3.1.3.1. Chiến lược phát triển. Phát triển ngành Dệt May trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới. Phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng tạo sự phát triển bền vững của ngành DMVN. Phát triển ngành Dệt may theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa, nhằm tạo ra bước nhảy vọt về chất và lượng của sản phẩm, đảm bảo tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững, hiệu quả. Phát triển tối đa thị trường nội địa đồng thời với việc mở rộng thị trường xuất khẩu; lấy xuất khẩu làm mục tiêu cho phát triển của ngành. Phát triển thị trường thời trang Việt Nam tại các đô thị, thành phố lớn. Chuyển dịch mạnh các cơ sở Dệt may sử dụng nhiều lao động về các vùng nông thôn. Đa dạng hóa sở hữu, đa dạng hóa quy mô và loại hình DN; huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển ngành DMVN. Phát triển mạnh các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, sản xuất nguyên phụ liệu dệt may, giảm nhập siêu, nâng cao giá trị gia tăng của ngành 3.1.3.2. Mục tiêu phát triển DMVN đến năm 2020. Nhằm tạo được bước nhảy vọt về chất và lượng sản phẩm,ngành DMVN đã có chiến lược phát triển đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa. Trong đó, mục tiêu phát triển ngành dệt may thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu ; thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước,tạo nhiều việc làm cho xã hội và nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới. Trong giai đoạn này, các DN dệt may cố gắng phát triển bền vững, đạt hiệu quả cao trên cơ sở công nghệ hiện đại, hệ thống quản lý chất lượng, quản lý lao động, quản lý môi trýờng theo tiêu chuẩn quốc tế. Từ ðó, ngành ðề ra các mục tiêu tãng trýởng sản xuất bình quân :đạt 16% đến 18% (2008 -2010); 12% đến 14% (2011- 2015); 12% đến 14% (2016 - 2020) Bên cạnh việc khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư phát triển cho ngành dệt may, toàn ngành cố gắng mở rộng việc xuất khẩu trong đó phấn đấu : Giai đoạn 2008 – 2010: tăng trưởng xuất khẩu bình quân đạt 20% và kim ngạch xuất khẩu đạt 12,0 tỷ USD vào năm 2010. Giai đoạn 2011 đến 2015: tăng trưởng xuất khẩu bình quân đạt 15% và kim ngạch xuất khẩu đạt 18 tỷ USD vào năm 2015. Giai đoạn 2016 đến 2020: tăng trưởng xuất khẩu bình quân đạt 15% và kim ngạch xuất khẩu đạt 25 tỷ USD vào năm 2020. Ngoài ra ngành dệt may sẽ tập trung phát triển và nâng cao năng lực về nguồn nhân lực, nguồn nguyên, phụ liệu để có nguồn nhân lực chuyên môn cao, tạo nên sản phẩm chất lượng cao gắn với thương hiệu uy tín; có thể phát triển được khoa học kĩ thuật đồng thời bảo vệ được môi trường; đầu tư để sản xuất và nguyên phụ liệu gắn liền với hợp tác quốc tế; cung ứng nguyên phụ liệu bằng việc xây các trung tâm cung ứng tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn, thu hút đầu tư nước ngoài và nội địa để đầu tư sản xuất các sản phẩm hoá chất (xơ, sợi, hóa chất…). Bảng 3.3: Dự báo tốc độ tăng trường ngành dệt may đến năm 2020 Tốc độ tăng trưởng Giai đoạn 2008-2010 Giai đoạn 2011-2020 - Tăng trưởng sản xuất hàng năm 16 - 18 % 12 - 14 % - Tăng trưởng xuất khẩu hàng năm 20 % 15 % ( Nguồn : Quy hoạch phát triển ngành DMVN đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020) Bảng 3.4: Các chỉ tiêu chủ yếu trong Chiến lược phát triển ngành DMVN đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 như sau: Chỉ tiêu Đơn vị tính Thực hiện 2006 Mục tiêu toàn ngành đến 2010 2015 2020 1. Doanh thu triệu USD 7.800 14.800 22.500 31.000 2. Xuất khẩu triệu USD 5.834 12.000 18.000 25.000 3. Sử dụng lao động nghìn người 2.150 2.500 2.750 3.000 4. Tỷ lệ nội địa hoá % 32 50 60 70 ( Nguồn : Quy hoạch phát triển ngành DMVN đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020) 3.2. Định hướng và mục tiêu phát triển ngành CNHT dệt may 3.2.1. Định hướng phát triển ngành CNHT dệt may Việt Nam. Đứng trên góc độ kinh tế, mặc dù nếu so sánh về lợi thế tuyệt đối, ngành DMVN còn kém nhiều so với một số nước như Trung Quốc, Ấn Độ. Song, nếu so sánh về lợi thế tương đối thì DMVN có khả năng cạnh tranh với các nước trên thế giới. Biểu đồ 3.1: Lợi thế so sánh ngành DMVN so với các nước Trên cơ sở đánh giá triển vọng phát triển ngành DMVN trong thời gian tới, Nhà nước cần đề ra định hướng phát triển toàn diện ngành may và CNHT cho ngành ngành này (ngành dệt). Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, việc phát triển CNHT không thể thực hiện theo cách dàn trải cho tất cả các ngành, mà cần phải phân chia thành các nhóm ngành để xác định hướng đi thích hợp với những trọng tâm trong từng giai đoạn phát triển. Căn cứ vào trình độ phát triển hiện tại và những điều kiện cần bảo đảm để phát triển CNHT, có thể xác định phương hướng phát triển CNHT cho ngành dệt may của Việt Nam như sau: Thứ nhất, phát triển mạnh các ngành CNHT có nhu cầu lớn, trình độ công nghệ không cao, mức đầu tư thấp và có thể phát triển ở các DN vừa và nhỏ. Đó là các cơ sở sản xuất các loại bao bì, nhãn mác được sử dụng rộng rãi cho ngành công nghiệp hạ nguồn là ngành may mặc. Thứ hai, đầu tư phát triển chiều sâu, đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại hoá, mở rộng qui mô sản xuất cho các cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu có nhu cầu lớn, trình độ công nghệ phức tạp, mà việc đầu tư mới đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời hạn xây dựng dài, đó là các nhà máy hiện có trong công nghiệp sợi dệt, chỉ khâu, khoá kéo,… Thứ ba, chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đầu tư phát triển các ngành CNHT có nhu cầu lớn, trình độ công nghệ phức tạp, mức đầu tư lớn, thời hạn xây dựng dài, đó là các DN vải sợi cao cấp và phụ liệu khác của công nghiệp may mặc. Thứ tư, trong ngắn hạn vẫn tập trung phát triển và nâng cao chất lượng hàng gia công, trong dài hạn phát triển CNHT để chuyển dần từ gia công sang hình thức FOB. Khi nhu cầu trong nước đối với các sản phẩm thượng nguồn tăng trưởng đáng kể thì chắc chắn những hoạt động thượng nguồn sẽ trở thành địa điểm hấp dẫn đầu tư, nhất là đầu tư trực tiếp nước ngoài. 3.2.2. Mục tiêu phát triển. Nâng cao tỷ lệ nội địa hóa để nâng cao hiệu quả trong sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc. Giảm tỷ lệ nhập khẩu nguyên liệu cho ngành dệt may trong nước tiến tới xuất khẩu nguyên liệu. Với các định hướng cụ thể như kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư sản xuất xơ sợi tổng hợp, nguyên phụ liệu, phụ tùng thay thế và các sản phẩm hỗ trợ để cung cấp cho các DN trong ngành. Xây dựng Chương trình sản xuất vải phục vụ xuất khẩu. Tập đoàn DMVN giữ vai trò nòng cốt thực hiện Chương trình này. Xây dựng Chương trình phát triển cây bông, trong đó chú trọng xây dựng các vùng trồng bông có tưới nhằm tăng năng suất và chất lượng bông xơ của Việt Nam để cung cấp cho ngành dệt. Bảng 3.5: Các chỉ tiêu sản phẩm hỗ trợ chủ yếu trong Chiến lược phát triển ngành DMVN đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 như sau: Sản phẩm chính Đơn vị tính Thực hiện 2006 Mục tiêu toàn ngành đến 2010 2015 2020 - Bông xơ 1000 tấn 8 20 40 60 - Xơ, Sợi tổng hợp 1000 tấn - 120 210 300 - Sợi các loại 1000 tấn 265 350 500 650 - Vải triệu m2 575 1.000 1.500 2.000 - Sản phẩm may triệu SP 1.212 1.800 2.850 4.000 ( Nguồn : Quy hoạch phát triển ngành DMVN đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020) 3.3. Giải pháp phát triển ngành CNHT ngành dệt may Viêt Nam. 3.3.1. Giải pháp đối với chính phủ. 3.3.1.1. Có định hướng phát triển hợp lý ngành CNHT. Định hướng này làm cơ sở để đầu tư phát triển ngành và điều chỉnh, bổ sung các chính sách có liên quan, thể hiện qua các quy hoạch tổng thể phát triển từng ngành công nghiệp. Điều quan trọng trong quy hoạch này là phải phân tích toàn diện các quan hệ liên ngành và đưa ra quan điểm hợp lý trong việc xử lý các quan hệ đó. Việc khép kín sản xuất trong nước không thích hợp, song chỉ xử lý bằng việc nhập khẩu nguyên phụ liệu từ bên ngoài cũng không phải là một giải pháp lâu dài. Vấn đề quan trọng là trong dài hạn cần xác định loại nguyên phụ liệu nào có thể nhập khẩu từ các nước có công nghệ tiến tiến hơn, hoặc theo các quan hệ kinh tế ổn định trước đó, còn loại nguyên liệu nào cần và có thể đầu tư trong nước thì nên tập trung vốn và chuyển giao công nghệ để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm khi xuất khẩu ra nước ngoài. 3 3.1.2.Tăng cường liên kết giữa các DN. Liên kết sản xuất kinh doanh diễn ra giữa các DN FDI với DN trong nước, giữa DN lớn với DN nhỏ, giữa nhà cung cấp sản phẩm hỗ trợ với DN sản xuất. Tham gia vào liên kết, các DN có thể chia sẻ nguồn lực phát triển, hỗ trợ sản xuất, và giảm thiểu chi phí so với khi DN sản xuất độc lập … Vì thế, phát triển liên kết DN được coi là một giải pháp quan trọng đã được nhiều nước sử dụng để thúc đẩy CNHT. Ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đã phát triển liên kết giữa các nhà sản xuất nhỏ với các DN lớn, còn ở Thái Lan, Malaysia lại nỗ lực thúc đẩy liên kết giữa nhà cung cấp trong nước với các công ty nước ngoài. Đối với VIệt Nam, cần kết hợp nhiều liên kết để thúc đẩy ngành CNHT dệt may phát triển. Trong liên kết DN, các tổ chức hiệp hội chuyên ngành, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ có ảnh hưởng rất lớn. Do đó, để tổ chức có hiệu quả việc liên kết kinh doanh, trước hết cần củng cố và nâng cao vai trò hoạt động của các hiệp hội và tổ chức này. Chính phủ chỉ nên đóng vai trò là chất xúc tác để tạo điều kiện và thúc đẩy liên kết DN, cụ thể : Chính phủ sẽ thúc đẩy các liên kết thông qua hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn quản lý và hỗ trợ tài chính. Khi đó các DN lớn, DN FDI hoặc các nhà sản xuất đóng vai trò như các hạt nhân của liên kết sẽ tham gia liên kết vì nhận được các ưu tiền, hỗ trợ trên; còn các DN nhỏ, các DN trong nước, các DN hỗ trợ đóng vai trò như các vệ tinh trong hệ thống tham gia liên kết vì muốn nâng cao hiệu quả sản xuất, trình độ quản lý và đảm bảo thị trường tiêu thụ của mình. 3.3.1.3. Hoàn thiện cơ chế chính sách nội địa hóa. Một là, thực hiện hợp lý chính sách “nội địa hoá” với các biện pháp hỗ trợ cần thiết. Chính sách này, một mặt tạo áp lực trực tiếp tới các nhà sản xuất hạ nguồn tìm và trợ giúp các nhà sản xuất trong nước đáp ứng yêu cầu của mình; mặt khác, không đưa các DN hạ nguồn vào thế bế tắc dẫn đến đình đốn sản xuất, mất thị trường của họ. Chính sách “nội địa hoá” phải được đi kèm với chính sách hạn chế nhập khẩu sản phẩm hoàn chỉnh và các nguyên phụ liệu nằm trong danh sách phải được “nội địa hoá”. Hai là, thực hiện chiến lược phát triển thị trường nội địa. Nhà nước phải tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi cho DN trong nước phát triển thị trường nội địa, quan tâm giải quyết các vướng mắc, tăng cường công tác quản lý thương mại biên giới với Trung Quốc, đẩy mạnh công tác phòng chống buôn lậu tại các chợ đầu mối biên giới nhằm làm giảm đến mức thấp nhất có thể hiện tượng buôn lậu trốn thuế. Có chính sách thích hợp để thu hút đầu tư của Trung Quốc trong công nghiệp may mặc cũng như trong phát triển ngành dệt, tạo nguyên liệu cho ngành may phát triển, đồng thời qua đó học tập được kinh nghiệm trong sản xuất và quản lý của họ. Với ngành may, cần xác lập và tổ chức có hiệu quả các quan hệ liên ngành. Trên cơ sở qui hoạch tổng thể của “Chiến lược tăng tốc ngành DMVN đến năm 2010”, cần tiếp tục phát triển vùng nguyên liệu, điều chỉnh cơ cấu sản phẩm phù hợp với nhu cầu trong nước. 3.3.1.4. Hoàn thiện chính sách đầu tư. Các nước ASEAN đi trước đã thực hiện thu hút đầu tư nước ngoài có lựa chọn để hướng FDI vào CNHT. Họ thực hiện nhiều biện pháp khuyến khích về thuế, thiết lập các khu thương mại tự do nhằm thực hiện chiến lược định hướng xuất khẩu. Việc thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển CNHT dệt may có ý nghĩa rất lớn, một mặt nó góp phần mở rộng quy mô của ngành CNHT dệt may, tức là mở rộng khả năng cung cấp sản phẩm hỗ trợ dệt may nội địa, mặt khác quan trọng hơn đó là công nghệ tiên tiến và trình độ quản lý cao sẽ được chuyển giao vào trong nước, đây mới là động lực chính thức đẩy sự phát triển của ngành CNHT dệt may. Chính phủ cần quan tâm hỗ trợ bằng các chính sách hữu hiệu về chuyển giao công nghệ, bảo vệ bản quyền, sở hữu trí tuệ … đồng thời, có nhiều chính sách ưu tiên khác, như : giảm mức đầu tư yêu cầu tối thiểu để thu hút đầu tư từ các DN nhỏ và vừa từ nước ngoài ( kinh nghiệm của Thái Lan); hoặc trợ cấp thuế đầu tư, gồm việc miễn thuế trong 5 năm và thuế DN áp ở mức 15 – 30% doanh thu như kinh nghiệm của Malaysia. Nhà nước cần tạo môi trường hấp dẫn thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thông qua việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, cải cách thủ tục hành chính theo hướng ngày càng tinh giản và gọn nhẹ, duy trì cơ chế “một cửa” nhằm tạo sự công bằng và điều kiện thuận lợi trong việc xin giấy phép đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Sửa đổi Luật đầu tư theo hướng ngày càng thông thoáng hơn để thu hút được nguồn vốn đầu tư không những từ nước ngoài như vốn ODA của Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, nguồn vốn thông qua liên doanh liên kết, mà còn huy động được nguồn vốn từ nhiều nguồn trong nước như: vốn từ ngân sách, vốn từ các địa phương, vốn tự có trong dân, vốn kiều hối từ Việt Kiều cho lĩnh vực này. Ngoài ra, nên bổ sung các chính sách ưu đãi đầu tư vào phát triển CNHT xuất phát từ thực tế là đầu tư vào khu vực CNHT có những khó khăn và phức tạp hơn đầu tư vào khu vực hạ nguồn. Các chính sách ưu đãi đầu tư này bao gồm: ưu đãi tín dụng, ưu đãi nhập khẩu nguyên phụ liệu, về thuế thu nhập DN, VAT…Đa dạng hoá các nguồn đầu tư vào phát triển CNHT, trong đó phải coi đầu tư ngoài Nhà nước và FDI các nguồn đầu tư chủ yếu. 3.3.1.5. Về chính sách khuyến khích xuất khẩu mở rộng thị trường. Thị trường là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển của ngành CNHT dệt may. Vì vậy, cần có những biện pháp phù hợp để phát triển thị trường tiêu thụ của các sản phẩm hỗ trợ dệt may. Trong giai đoạn từ nay đến 2015, CNHT DMVN chưa thể tạo ra được thị trường xuất khẩu, do đó cần tập trung vào khai thác thị trường trong nước, đồng thời chuẩn bị những tiền đề cơ bản cho xuất khẩu ở giai đoạn tiếp theo. Trong thời gian tới, những Luật thuế cần được hoàn thiện theo hướng linh hoạt và có hiệu quả như: miễn giảm thuế thu nhập DN, thuế giá trị gia tăng xuống thấp hơn nữa cho các DN dệt (đặc biệt là DN có vốn đầu tư nước ngoài), hoàn thuế nhập khẩu nguyên phụ liệu…theo hướng giảm bớt mức độ bảo hộ, tăng cường tính sáng tạo, thúc đẩy nâng cao sức cạnh tranh của DN, tận dụng nguyên liệu trong nước để nâng cao tỷ lệ hàng xuất khẩu theo hình thức FOB, xuất khẩu sang thị trường mới, thị trường phi hạn ngạch, khai thác các thị trường còn “bỏ ngỏ”. Để cụ thể hoá giải pháp này, Bộ Thương mại có thể chuyển tất cả tỷ lệ phần trăm của các mặt hàng, những cat. có giá trị tính theo qui đổi đơn giá FOB cao để đạt được hiệu quả tối đa trên từng mét vuông của chủng loại thấp sang nhóm chủng loại hàng tính qui đổi ra mét vuông với đơn giá FOB cao để đạt được hiệu quả tối đa trên một lượng hạn ngạch cố định. Ngoài ra, Nhà nước có thể trợ giúp các DN CNHT nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua các hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, thiết kế mẫu mã thời trang nhằm sản xuất những sản phẩm có thể đáp ứng tốt nhất yêu cầu của ngành may. Nhà nước cần tạo điều kiện, khuyến khích tối đa các DN dệt may trong nước sử dụng các sản phẩm hỗ trợ nội địa, nhưng hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính để điều tiết dung lượng thị trường nội địa. Có thể áp dụng mức thuế ưu đãi với các loại phụ loại sản phẩm hỗ trợ trong nước phục vụ cho các DN may xuất khẩu để thúc đẩy các DN dệt may sử dụng nhiều hơn các sản phẩm có nguồn gốc nội địa. Trợ giúp về ngân sách ban đầu cho việc thành lập và hoạt động một số trang web chuyên ngành CNHT dệt may để hỗ trợ việc xúc tiến đầu tư – phát triển và cung cấp thông tin. Hỗ trợ kết nối giữa các DN thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau, đặc biệt là giữa các DN FDI với các nhà cung cấp nội địa. Bảo vệ thị trường trong nước thông qua các biện pháp chống gian lận thương mại, hàng giả, hàng nhập lậu. 3.3.1.6. Về chính sách đào tạo cán bộ và nhân lực. Các ngành CNHT thường có yêu cầu cao về chất lượng lao động, vì thế các giải pháp về giáo dục đào tạo nghề, trình độ quản lý có ý nghĩa quan trọng và là động lực thúc đẩy phát triển CNHT. Nhà nước cần khắc phục tình trạng thiếu kĩ sư cũng như cán bộ quản trị DN dệt may trầm trọng như hiện nay, mặc dù tình trạng này có thể kéo dài trong nhiều năm tới. Để có nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu cho CNHT Việt Nam cần tập trung giải quyết các vấn đề sau : Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, dạy nghề tối thiểu đạt mặt bằng khu vực. Mở rộng hình thức đào tạo tại chỗ, gắn kết việc đào tạo với việc sử dụng lao động. Khuyến khích các DN lớn, các DN FDI tổ chức đào tạo lực lượng lao động cho mình và các DN khác. Các trung tâm đào tạo cần xây dựng các chương trình hợp tác với nước ngoài để đào tạo kỹ sư, công nhân lành nghề, đặc biệt là các kỹ sư, công nhân của ngành công nghiệp chế biến dầu khi ( công nghiệp hóa dầu ) và cơ khí, hóa chất. Đầu tư xây dựng các trường dạy nghề, đào tạo công nhân kĩ thuật đáp ứng yêu cầu sản xuất theo dây chuyền hiện đại, nhằm tạo được một đội ngũ công nhân có tay nghề cao, thực sự trở thành thế mạnh của DMVN. Một điểm rất yếu của các nhà sản xuất hỗ trợ dệt may là khả năng tiếp cận thị trường và các nhà tiêu thụ, một phần do những hạn chế về marketing và kỹ năng bán hàng, vì thế cần cung cấp các khóa đào tạo về kỹ năng bán hàng, đào tạo các nhà marketing chuyên nghiệp. Đồng thời ưu tiên đào tạo các chuyên gia về thiết kế mẫu thời trang và marketing, khắc phục điểm yếu cơ bản của ngành may xuất khẩu là trong khâu thiết kế mẫu mã và xúc tiến mở rộng thị trường, từng bước tạo lập cơ sở để chuyển hình thức xuất khẩu từ gia công sang FOB, sản xuất các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam. Bên cạnh đó, cần có chính sách cụ thể về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế nhằm đảm bảo công ăn việc làm, tạo thu nhập ổn định cho người lao động trong ngành may, khắc phục tình trạng thiếu kỹ sư, công nhân lành nghề bậc cao do bị thu hút sang các công ty liên doanh, công ty có vốn đầu tư nước ngoài. 3.3.2. Giải pháp đối với các DN trong nước. 3.3.2.1. Xây dựng chiến lược phát triển trong dài hạn cho doanh nghiệp. Đây là một trong những vấn đề quan trọng nhất đối với sự phát triển của DN trong tương lai. Trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động, các DN phải tự thiết lập cho mình những kế hoạch dài hạn, theo đó đưa ra những dự báo về thị trường, về khách hàng, về xu thế thời trang thế giới, vè sự thay đổi của tỷ giá hối đoái...Muốn thực hiện những chiến lược đó một cách có hiệu quả, DN cần tập trung vốn vào đầu tư công nghệ, chuyên môn hoá dây chuyền sản xuất theo mặt hàng tin học hoá phương thức quản lý, kết hợp chặt chẽ với các DN khác trong nội bộ ngành để tăng hiệu suất lao động cũng như chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan… 3.3.2.2. Nâng cao hoạt động tổ chức sản xuất. Đây là một vấn đề rất quan trọng mà theo đó đòi hỏi phải có sự liên kết chặt chẽ giữa ngành dệt và ngành may, tạo thành một khối thống nhất và một dây chuyền sản xuất khép kín, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu. Đối với ngành may, cần đặt trọng tâm vào việc chuyển đổi phương thức xuất khẩu từ gia công sang FOB để sử dụng nhiều hơn nguyên liệu trong nước, thúc đẩy ngành dệt phát triển Muốn vậy, ngành may cần đầu tư vào công tác thiết kế thời trang, xây dựng lực lượng đàm phán và tổ chức sản xuất theo phương thức FOB. Còn ngành dệt cần đặt trọng tâm vào các nhà máy nhuộm và hoàn tất vì các nhà máy này sẽ quyết định việc cung cấp vải cho các nhà máy may. Nếu các nhà máy nhuộm và hoàn tất được quản lý tốt, họ sẽ có một lợi thế rất lớn mà không một công ty nước ngoài nào có thể cạnh tranh được. Vải từ nước ngoài sẽ không được nhập khẩu vào bởi các nhà máy này nằm trong lòng thị trường nội địa, cho dù giá có cao hơn một chút nhưng nếu các nhà máy dệt nhuộm trong nước cung cấp đúng chất lượng, đúng tiến độ thì khách hàng vẫn mua vải trong nước. 3.3.2.3. Nâng cao trình độ công nghệ. Cũng như nhiều ngành công nghiệp khác, trình độ công nghệ có ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, chất lượng và sự phát triển của ngành CNHT dệt may. Thực tế, trình độ công nghệ của ngành CNHT DMVN hiện nay còn ở mức thấp, năng lực quản lý không cao, vì thế chưa có khả năng sản xuất dược những sản phẩm chất lượng cao, như các loại thuốc nhuộm, các loại xơ sợi tổng hợp, các máy móc thiết bị phức tạp … Do đó, muốn đẩy nhanh sự phát triển của ngànhc ông nghiệp hỗ trợ dệt may, phải quan tâm rất lớn đến việc đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực sản xuất, tạo ra những sản phẩm mới chất lượng cao, giá cả cạnh tranh. Trước hết, có thể tiếp tục sử dụng các máy móc thiết bị vẫn còn khả năng sản xuất. Bởi trong những năm tới, chúng ta vẫn chưa có đủ nguồn vốn để có thể đầu tư mới đồng loạt các thiết bị công nghệ tiên tiến. Mặt khác, việc đào tạo cán bộ, công nhân để tiếp thu công nghệ.mới và sử dụng có hiệu quả các thiết bị cũng cần có thời gian. Tất nhiên, việc đầu tư thiết bị công nghệ mới là tất yếu, nhưng nó sẽ được thực hiện từng bước, đồng thời với việc thanh lý các thiết bị công nghệ cũ. Bên cạnh đó, đẩy nhanh đầu tư, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất, nhằm đáp ứng những đòi hỏi của thịt rường. Để làm được điều này, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp: Cần xây dựng cơ chế tài chính hợp lý hơn và đãi ngộ thỏa đáng đối với những người có năng lực công nghệ hoạt động công nghệ thực sự. Có cơ chế xây dựng, xét duyệt và đánh giá khách quan giá trị của các đề tài nghiên cứu khoa học, các 3.3.2.4. Khai thác thị trường trong và ngoài nước. Giải pháp này nếu được thực hiện tốt một mặt sẽ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may, mặt khác góp phần mở rộng qui mô thị trường khu vực hạ nguồn cho CNHT. Điều quan trọng là DN cần tìm hiểu kĩ thông tin về thị trường mà DN định hướng tới, những rào cản thương mại mới, nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, các qui định của Chính phủ, nhất là các thị trường có kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản… Trong điều kiện Việt Nam hầu hết là các DN nhỏ và vừa thì làm thế nào để chủ động liên hệ với khách hàng mà không mất nhiều chi phí cho việc tìm kiếm đối tác. Lúc này, việc tăng cường sử dụng thương mại điện tử là rất cần thiết. Hoạt động này nhằm quảng bá, giới thiệu sản phẩm của mình không chỉ đối với một nhóm khách hàng, một nhóm thị trường định hướng tới, mà thông qua đó, những khách hàng có nhu cầu có thể tự liên hệ, tìm đến mua sản phẩm dệt may của DN Việt Nam. Điều này sẽ mang lại hiệu quả cao và có tính chất lâu dài đối với chiến lược phát triển của từng DN. Thêm vào đó, các DN nên tìm cách tận dụng tối đa lực lượng Việt Kiều để họ làm đầu mối giao dịch cho mình. Để mở rộng được thị trường DN phải năm vững và xử lý tốt những yêu cầu của thị trường. Một đặc điểm là các DN CNHT nói chung, CNHT dệt may của Việt Nam nói riêng ít được các nhà sản xuất, lắp ráp ( đặc biệt là các nhà sản xuất nước ngoài) biết đến, mối liên hệ giữa các nhà cung cấp sản phẩm hỗ trợ dệt may với các DN dệt may trong nước còn rất yếu. Vì thế, để đẩy mạnh tiêu thụ trong nước, các DN hỗ trợ Dệt may cần bắt đầu từ những yếu tố liên quan đến xúc tiến thương mại, cụ thế: Thành lập các trung tâm tiếp thị nhằm quảng bá hình ảnh DN, tạo điều kiện thuận lợi cho tìm kiếm thị trường và giao dịch với khách hàng, đồng thời làm cầu nối giữa các DN thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về DN để làm cơ sở cho việc giới thiệu, tìm kiếm khách hàng và các mối liên kết ngang. Tăng cường quan hệ để mở rộng bạn hàng, nắm lấy một số nhà tiêu thụ lớn, thông qua việc tăng cường thiết lập các mối quan hệ tại các buổi triển lãm hàng hỗ trợ dệt may hoặc tại các trung tâm tiếp thị, đồng thời với việc tận dụng các mối quan hệ cá nhân. Một yêu cầu rất quan trọng nữa đối với các DN cung cấp sản phẩm hỗ trợ dệt may là cần đảm bảo đúng tiến độ giao hàng và thời gian giao hàng cho các DN dệt may. Tránh tình trạng chậm trễ và sai thời hạn giao hàng gây ảnh hưởng đến khả năng sản xuất và thực hiện hợp đồng từ các đơn hàng lớn của các DN dệt may. Để thâm nhập thành công và chiếm lĩnh thị phần cao hơn trên thị trường, trước hết các DN cần phải chú ý một số điểm: Thứ nhất, các sản phẩm cần phải thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm: đa dạng về kiểu dáng, màu sắc, sản phẩm sao cho đáp ứng được nhiều loại sở thích, thói quen tiêu dùng khác nhau. Điều này đòi hỏi các DN phải luôn cập nhật thông tin và xu thế thời trang của thế giới, rồi từ đó mới đi vào sản xuất. Thứ hai, cần có sự khác biệt hoá giữa các sản phẩm may của Việt Nam với các sản phẩm may của các đối thủ cạnh tranh. Đây là yếu tố rất quan trọng trong cạnh tranh giữa các DN trên thị trường quốc tế, vì sản phẩm may của Việt Nam mặc dù có tốt về chất lượng nhưng về thiết kế phải thể hiện được những nét truyền thống, đặc trưng của Việt Nam như kiểu dáng, màu sắc, chất liệu vải, khuy, khoá kéo, bao gói…mới thoả mãn được mức độ tiêu dùng của khách hàng, từ đó mới đi đến quyết định lựa chọn sản phẩm này hay sản phẩm kia. 3.3.2.5. Đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành CNHT. Các DN cần chú ý công tác đào tạo tay nghề cho đội ngũ lao động và bồi dưỡng trình độ chuyên môn cho cán bộ, chuyên viên kĩ thuật nhằm nâng cao hàm lượng chất xám trong sản phẩm, đào tạo và sử dụng chuyên viên bán hàng có trình độ, nắm vững luật lệ về xuất nhập khẩu. Trong điều kiện hạn chế của đào tạo trong nước, các DN cần có chính sách đào tạo cán bộ ở nước ngoài kết hợp với hoạt động khảo sát thị trường về lâu dài. Các DN cũng cần liên kết với các đơn vị , các trường đại học, cao đẳng trong và ngoài nước tổ chức các khóa đào tạo các kỹ sư chuyên ngành, công nhân kỹ thuật bổ sung cho nguồn nhân lực hiện tại. Các DN và nhà trường cùng có các chính sách khuyến khích sinh viên theo học các ngành thuộc lĩnh vực hỗ trợ dệt may. Từng DN Dệt may chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo theo các bước: (1) Dự báo nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực của DN; (2) Xác định kế hoạch đào tạo; (3) Tổ chức thực hiện; (4) Xác định nguồn kinh phí cho đào tạo; (5) Đánh giá hiệu quả hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Đặc biệt việc đánh giá hiệu quả hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của DN dệt may  cần xem xét như đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư, để giúp DN có thể mạnh dạn bỏ những khoản tiền lớn cho hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Ngoài ra DN cũng xây dựng các chính sách hỗ trợ để kích thích công nhân tự nâng cao tay nghề như chế độ tiền lương, tiền thưởng vượt định mức, chính sách thưởng, phạt trong DN, nâng cao chất lượng đối với khâu tuyển dụng đầu vào:  Các chương trình đào tạo xây dựng phải phù hợp với nguồn nhân lực của ngành Dệt May:  Đào tạo cán bộ quản lý sẽ kết hợp ngắn hạn với dài hạn, kết hợp đào tạo trong nước với đào tạo ở nước ngoài, kết hợp đào tạo chính qui, tại chức, bằng 2...với các lớp không chính qui như các lớp cập nhật lại, đào tạo lại, chuyên đề. Liên tục mở các lớp đào tạo cán bộ công nghệ trình độ Đại học và cao đẳng. Thường xuyên mở các lớp cập nhật kiến thức. Đối với công nhân trong DN ưu tiên cho phương pháp đào tạo tại nơi làm việc, kết hợp với các phương tiện hỗ trợ để đào tạo trong thời gian nghỉ của công nhân và thời gian rỗi việc.  Đối với nguồn công nhân đào tạo mới để cung cấp cho DN cần xây dựng hệ thống đào tạo nghề có sự liên kết bền vững với DN. 3.3.2.6. Chú trọng đầu tư công tác quảng bá thương hiệu Bên cạnh việc đảm bảo giá cả phù hợp, chất lượng sản phẩm tốt, kiểu dáng hợp thời trang th́ thương hiệu càng nổi tiếng, được nhiều người biết đến thì sự thành công của sản phẩm càng lớn. Tuy nhiên, quảng bá thương hiệu phải được xem xét ở 2 góc độ: Đối với thị trường nội địa: do dân số đông, gần 80 triệu người, tuy vẫn còn tâm lý chuộng hàng ngoại nhập, nhưng thời gian gần đây đã bắt đầu chấp nhận và cổ vũ cho hàng Việt Nam và thương hiệu Việt Nam, vì vậy, chiến lược của các DN đối với thị trường này là đầu tư ưu tiên cho xây dựng “thương hiệu sản phẩm”, điều này đồng nghĩa với việc phải sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng trong nước. Đối với thị trường nước ngoài: do người tiêu dùng tại các thị trường này chỉ quen với các nhãn hiệu đã nổi tiếng của các nhà thiết kế và sản xuất thời trang nước ngoài nên các thương hiệu thời trang Việt Nam rất khó thâm nhập. Hiện tại, các DN chưa nên đầu tư xây dựng thương hiệu sản phẩm tại thị trường nước ngoài mà nên tiếp tục tập trung đầu tư và phát triển hơn nữa “thương hiệu DN” sản xuất và xuất khẩu có uy tín về quản lý chất lượng sản phẩm, giao hàng đúng hạn, có khả năng giao hàng nhanh và có trách nhiệm cao đối với cộng đồng xã hội…nhằm mục tiêu thu hút đơn đặt hàng của các nhà nhập khẩu nước ngoài có nhãn hiệu và đẳng cấp cao hơn với đơn đặt hàng lớn, ổn định và giá cả phù hợp. Đó cũng là còn đường mà rất nhiều nhà sản xuất hàng dệt may Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan,…đã và đang làm rất thành công. công nghệ được chuyển giao. Hỗ trợ chi phí mua bản quyền cho các DN vừa và nhỏ phát triển. Có những ưu đãi đặc biệt đối với các DN FDI có các dự án chuyển giao công nghệ và có cam kết phát triển một số DN nội địa phát triển CNHT. Khuyến khích chuyển giao công nghệ tiên tiến vào sản xuất tại Việt Nam. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế làm căn cứ cho việc định hướng phát triển và đổi mới công nghệ… Khuyến khích các tổ chức cung cấp và thông tin công nghệ để giúp các DN có cơ hội cập nhật thông tin công nghệ, lựa chọn và xác lập phương án đổi mới công nghệ phù hợp với điều kiện của DN và yêu cầu của thị trường. 3.3.3. Các giải pháp khác. Tăng cường chuyển giao công nghệ với các nước có trình độ công nghệ cao, có ngành CNHT phát triển mạnh. Tăng cường sự liên minh, liên kết giữa các DN trong nước, để tăng khả năng cạnh tranh với các DN nước ngoài. Tăng cường đầu tư xây dựng hệ thống thông tin chiến lược toàn ngành dự báo nhu cầu nguyên liệu, phụ liệu để cung cấp kịp thời cho các DN và cơ quan quản lý nhà nước. Cải cách và phát triển hệ hệ thống giáo dục đào tạo, từ đại học đến đào tạo nghề, tăng cường hợp tác chặt chẽ với cộng đồng DN nhằm cải thiện nguồn cung lực lượng lao động cả về số lượng và chất lượng. KÊT LUẬN Trên cơ sở phân tích đánh giá tình hình phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam hiện nay, có thể thấy một số vấn đề sau. Ngành công nghiệp hỗ trợ hiện còn nhiều yếu kém, chưa phát triển tương xứng với ngành công nghiệp dệt may trong nước, không cung cấp đủ nhu cầu nguyên nhiên liệu cho ngành dệt may trong nước. dẫn đến tỷ lệ nội địa hóa của ngành dệt may Việt Nam còn rất thấp, phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu của nước ngoài, làm chi phí giá thành sản xuất tăng cao, khả năng cạnh tranh kém. Gây hạn chế cho sự phát triển của ngành dệt may trong nước. Hiện nay nhà nước đang chú trọng đẩy mạnh đầu tư phát triển cho ngành công nghiệp hỗ trợ. Là nước đi sau, nhà nước cần linh hoạt áp dụng các cơ chế chính sách hợp lý, học hỏi kinh nghiệm từ các nước phát triển, tận dụng tối đa lợi thế so sánh, đống thơi chú trọng đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao. Đặc biệt trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu của nền kinh tế, các doanh nghiệp dệt may việt nam cũng phải chủ động tận dụng cơ hội hội nhập, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh giúp dệt may Việt Nam nói chung và ngành công nghiệp boortrowj dệt may nói riêng phát triển bền vững, tiến tới nâng cao kim ngạnh xuất khẩu của ngành, thúc đẩy nên kinh tế phát triển mạnh. DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT CNHT Công nghiệp hỗ trợ DMVN Dệt may Việt Nam DN Doanh nghiệp DNDMVN Doanh nghiệp Dệt May Việt Nam XK Xuất khẩu NK Nhập khẩu XHCN Xã hội chủ nghĩa FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài ODA Hỗ trợ phát triẻn chính thức NSNN Ngân sách nhà nước VN Việt Nam DNNN Doanh nghiệp nhà nước. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách xây dựng công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam – Diễn đàn phát triển Việt Nam, chủ biên Kenichi Ohno. 2. Dự thảo quy hoạch phát triển CNPT đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020- Bộ Công nghiệp. 3. Quy hoạch phát triển ngành DMVN đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020) 4. Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm 2008 và triển khai kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2009, Bộ Kế hoạch và đầu tư. Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm 2007 và triển khai kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2008, Bộ Kế hoạch và đầu tư. Các trang Web của Bộ Kế Hoạch và Đầu tư, Bộ Công Thương, Tổng cục thống kê, Viện nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp, Vinatex và các trang khác có liên quan. LỜI CẢM ƠN Trong thời gian thực tập ở Vụ Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đẩu Tư, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của vụ trưởng và toàn thể đội ngũ CBCC tại Bộ cùng với sự hướng dẫn tận tâm của giáo viên hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Ngọc Sơn. Tuy nhiên, do hạn chế về mặt thời gian và kiến thức nên khóa luận này của tôi không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp bổ sung để bài chuyên đề thực tập được hoàn thiện. Tôi xin chân thành cảm ơn Hà Nội, ngày 09 tháng 05 năm 2010 Sinh viên thực hiện Đoàn Thị Hoài Thương. LỜI CAM ĐOAN Họ và tên : Đoàn Thị Hoài Thương MSV : CQ483860 Lớp : Kế hoạch 48A Khoa : Kế hoạch và phát triển Chuyên đề thực tập của em là: “Giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam đến năm 2020” Tôi xin cam đoan những gì tôi viết trong chuyên đề không sao chép từ bất kỳ một tài liệu nào. Những phần trích dẫn và tham khảo đều đúng theo quy định của Nhà trường. Nếu sai tôi xin chịu trách nhiệm. Sinh viên Đoàn Thị Hoài Thương. MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ BIỂU ĐỒ Bảng 2.1: Tình hình sản xuất xơ- sợi tổng hợp của Việt Nam 2002- 2008 31 Bảng 2.2: Nhu cầu tiêu thụ của cả nước giai đoạn 2001- 2008 32 Bảng 2.3: Nhu cầu xơ- sợi Polyeste giai đoạn 2001- 2008 34 B ảng 2.4: Số liệu tình hình sản xuất và XNK ngành dệt Việt Nam giai đoạn 2006-2009 Bảng 2.5: Nhu cầu hoá chất, thuốc nhuộm của DMVN năm 2001- 2006 36 Bảng 2.7: Tình hình sản xuất chất trợ của Việt Nam năm 2008 37 Bảng 2.8: Nhu cầu của ngành DMVN đối với các sản phẩm cơ khí năm 2008. 39 Bảng 2.9: Tình hình cung cấp các loại phụ liệu may trong nước 40 Bảng 3.2: Năng lực cạnh tranh của CNHT ngành DMVN trong điều kiện hội nhập 56

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25662.doc
Tài liệu liên quan