Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo đảm hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được khoản tiền gửi các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh.
-Cho vay:
Cho vay thương mại: ngay ở đầu thời kì ngân hàng đã tiến hành chiết khấu thương phiếu mà thực chất là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó là cho vay trực tiếp đối với khách hàng (là người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
67 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1124 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển tín dụng Ngân hàng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Đông Anh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i với doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tăng 150.754 trđ tức là khoảng gấp 1,5 lần. Chứng tỏ Ngân hàng đang ngày càng mở rộng được thị phần của mình ra khối doanh nghiệp này, các doanh nghiệp đặt quan hệ tín dụng với chi nhánh ngày một đông làm cho doanh số cho vay tăng mạnh.
2.2.2. Cơ cấu dư nợ đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Để nghiên cứu cụ thể hơn dư nợ đối với DNVVN tại chi nhánh NHĐT&PT Đông Anh, ta xét trên 3 mặt sau:
2.2.2.1. Cơ cấu theo thời hạn
Bảng 7 : Cơ cấu dư nợ theo thời hạn đối với DNVVN tại NHĐT&PT
Đông Anh
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số
tương đối
%
Số
tương đối
%
Số
tương đối
%
Tổng dư nợ đối với DNVVN
281.278
100
337.009
100
407.816
100
Dư nợ Cho vay ngắn hạn
236.099
83,94
282.571
83,85
344.698
84,53
Dư nợ cho vay trung, dài hạn
45.179
16,06
54.438
16,15
63.118
15,47
(Nguồn: Báo cáo tín dụng thường niên các năm 2005,2006,2007)
Theo bảng trên, ta thấy, đặc điểm về nguồn vốn của Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã kéo theo dư nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn (khoảng trên dưới 83% đến 84%), đây đa phần là các khoản vay vốn lưu động theo hạn mức mà Ngân hàng và doanh nghiệp đã ký kết vào đầu mỗi kỳ kinh doanh. Các khoản vay theo món, có kỳ hạn dài chiếm tỷ trọng rất thấp chỉ vào khoảng 16% tổng dư nợ đối với DNVVN. Trong những năm gần đây, các khoản tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng đang có xu hướng tăng lên về số tuyệt đối (Năm 2006 tăng 9.259 triệu đồng so với năm 2005, năm 2007 tăng 8.680 triệu đồng so với năm 2006) tuy nhiên tỷ trọng lại không được nâng lên (năm 2006 tăng 0.09%, năm 2007 giảm 0.68%). Nguyên nhân dẫn đến sự tăng chậm này phần lớn nằm từ phía các doanh nghiệp, họ chưa chú trọng nhiều đến việc đầu tư nâng cao năng lực sản xuất, hoặc các dự án lập ra chưa đủ tính khả thi, chưa đủ điều kiện đảm bảo để Ngân hàng tin tưởng.
2.2.2.2. Cơ cấu theo loại tiền
Bảng 8 : Cơ cấu dư nợ theo loại tiền đối với DNVVN tại NHĐT&PT
Đông Anh
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số
tương đối
%
Số
tương đối
%
Số
tương đối
%
Tổng dư nợ đối với DNVVN
281.278
100
337.009
100
407.816
100
Dư nợ cho vay theo nội tệ
245.414
87,25
300.390
89,14
368.666
90.40
Dư nợ cho vay theo ngoại tệ
35.864
12,75
36.619
10,86
39.150
9.60
(Nguồn: Báo cáo tín dụng thường niên các năm 2005,2006,2007)
Nhìn bảng trên ta thấy, dư nợ cho vay bằng nội tệ và ngoại tệ đều tăng qua các năm. Cho vay bằng nội tệ năm 2006 tăng 54.976 triệu đồng so với năm 2005, năm 2007 tăng 68.276 triệu đồng so với năm 2006, mức tăng bình quân qua các năm là 22.5%. Dư nợ cho vay bằng ngoại tệ tăng với mức thấp hơn, bình quân mức tăng là 4,5% (năm 2006 tăng 755 triệu đồng so với năm 2005, năm 2007 tăng 2.531 triệu đồng so với năm 2006). Dư nợ cho vay bằng nội tệ vẫn chiếm tỷ trọng lớn luôn ở mức xấp xỉ 90% là do đặc điểm lĩnh vực kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn có quan hệ với chi nhánh thường tập trung vào cung ứng sản phẩm, dịch vụ nội địa, các doanh nghiệp có quan hệ làm ăn với nước ngoài, cũng như có nhu cầu nhập khẩu thiết bịtuy ít nhưng đang có xu hướng tăng dần.
2.2.2.3. Cơ cấu theo thành phần kinh tế
Bảng 9 : Cơ cấu dư nợ theo thành phần kinh tế đối với DNVVN tại NHĐT&PT Đông Anh
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số
tương đối
%
Số
tương đối
%
Số
tương đối
%
1. Doanh nghiệp Nhà nước
272.006
96,70
311.934
92,56
370.444
90,84
2. Công ty cổ phần
8.060
2,96
20.794
6,17
30.680
7,52
3. Công ty TNHH
1.212
0,34
4.088
1,21
6.341
1,55
4. Công ty tư nhân
0
0
193
0,06
351
0,09
Tổng dư nợ đối với DNVVN
281.278
100
337.009
100
407.816
100
(Nguồn: Báo cáo tín dụng thường niên các năm 2005,2006,2007)
Những số liệu trên cho thấy, các Doanh nghiệp Nhà nước vẫn là khách hàng chủ yếu của chi nhánh (luôn ở mức trên 90%). Các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh như công ty cổ phần, công ty TNHH chưa có quan hệ tín dụng nhiều với Ngân hàng. Tuy nhiên trong thời gian gần đây đã bắt đầu tăng trưởng mạnh mẽ với tỷ trọng cũng tăng nhanh. Đặc biệt là các Công ty cổ phần sau 3 năm đã có bước tăng trưởng dư nợ tín dụng nhảy vọt (từ 8.060 triệu đồng năm 2005 lên tới 30.680 triệu đồng trong năm 2007). Các Công ty TNHH từ chỗ rất ít có quan hệ tín dụng với Ngân hàng nhưng đến năm 2007 đã có mức dư nợ ở mức 6.341 triệu đồng (tăng hơn 6 lần so với năm 2005). Dù mức tăng không nhiều, tuy nhiên đây cũng là nỗ lực đáng kể của chi nhánh trong viêc mở rộng tín dụng ra các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh khác. Nguyên nhân chính là việc cho vay các doanh nghiệp này luôn gặp rất nhiều khó khăn phức tạp, cán bộ tín dụng luôn phải xem xét đánh giá kỹ luỡng với yêu cầu cao để đảm bảo an toàn vốn cho Ngân hàng. Dư nợ vay đối với các công ty tư nhân là nhỏ vì số lượng doanh nghiệp này trên địa bàn không nhiều. Với tốc độ tăng trưởng dư nợ như trên, cùng sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế nói chung, ta có thể hoàn toàn tin tưởng vào tốc độ tăng dư nợ tín dụng của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trong tương lai.
2.2.3. Vấn đề chất lượng tín dụngNgân hàng đối với DNVVN
Xét về chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, có thể thấy trong các năm qua đã có những chuyển biến rõ rệt, nợ quá hạn giảm cả về số lượng và tỷ lệ, thể hiện trên bảng sau
Bảng 10: Đánh giá về tình hình nợ quá hạn đối với DNVVN tại
NHĐT&PT Đông Anh
Đơn vị : Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
I. D nợ cho vay ngắn hạn
236099
282571
344698
1. Nội tệ
205996
251940
311607
* Trong đó NQH
2472
2016
1620
2. Ngoại tệ
30103
30631
33091
* Trong đó NQH
240
214
165
I. D nợ cho vay trung dài hạn
45179
54438
63118
1. Nội tệ
39418
48450
57059
* Trong đó NQH
355
363
268
2. Ngoại tệ
5761
5988
6059
* Trong đó NQH
32
26
17
Nợ quá hạn
2.120
1.917
1518
Tổng dư nợ đối với DNVVN
281.278
337.009
407.816
Tổng d nợ tín dụng
391355
443787
542109
Tỷ lệ NQH/å dư nợ
0,75%
0,68%
0,37%
(Nguồn: Báo cáo tín dụng thường niên các năm 2005,2006,2007)
Trong năm 2006, tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ doanh nghiệp vừa và nhỏ đã giảm còn 0,37%, bằng một nửa so với trong năm 2005. Đây là tỷ lệ thấp, chấp nhận được, chứng tỏ chất lượng khách hàng của chi nhánh là cao. Nhưng nếu xét chúng trong tỷ lệ chung trên tổng dư nợ của cả chi nhánh (chỉ có 0,28%) thì tỷ lệ này vẫn là cao hơn. Số liệu này một lần nữa giúp chúng ta có thể khẳng định hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn tiềm ẩn rủi ro cao hơn so với các doanh nghiệp lớn.
Những kết quả phân tích trên phần nào đã cho thấy tầm quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong hệ thống khách hàng của chi nhánh. Chính vì vậy, NHĐT&PT Đông Anh cần có sự quan tâm chú trọng hơn đối với việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với loại hình doanh nghiệp này, song song đi cùng trọng tâm vào các doanh nghiệp lớn. Có như vậy mới đảm bảo giữ vững và mở rộng thị phần của mình trong khu vực, tạo điều kiện để Ngân hàng phát triển vững chắc, góp phần thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở địa phương.
Nói chung hoạt động tín dụng của chi nhánh mới chỉ tập trung chủ yếu vào các khách hàng truyền thống là các doanh nghiệp xây lắp thuộc kinh tế Nhà nước. Tuy nhiên trong vài năm trở lại đây, các khách hàng cũng đang được Ngân hàng quan tâm tạo điều kiện về mọi mặt để họ có thể tiếp cận được với đồng vốn tín dụng của Ngân hàng. Như vậy, NHĐT&PT Đông Anh không những đang tìm cách mở rộng thị phần, nâng cao uy tín cho mình mà còn đang trực tiếp hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp, giúp họ phát triển, đúng như phương châm “Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục đích của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam”.
2.3. Đánh giá hoạt động tín dụng Ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư & phát triển Đông Anh
2.3.1. Thành tựu đạt được.
- Quy mô tín dụng tăng đều qua các năm, hoạt động tín dụng ngày càng đa dạng và phong phú với nhiều phương thức cho vay linh hoạt, đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng. Uy tín của Ngân hàng ngày càng được nâng cao, thị phần tín dụng ngày càng được mở rộng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính sách về khách hàng luôn được đặt lên hàng đầu khiến chi nhánh thu hút thêm được nhiều khách hàng mới, nhiều doanh nghiệp chỉ giao dịch khép kín với NHĐT&PT Đông Anh. Vị thế của Ngân hàng trong việc phát triển các làng nghề truyền thống của huyện đã được khẳng định. Tín dụng của Ngân hàng đã giúp cho các doanh nghiệp, hộ sản xuất trong các làng nghề Liên Hà, Đa Hội có điều kiện được vay vốn để mở rộng sản xuất.
- Dư nợ tín dụng đối với DNVVN tại Chi nhánh NHĐT&PT Đông Anh tăng liên tục qua các năm, với tốc độ tăng trưởng ổn định cho ta thấy sự phát triển vững chắc của tín dụng đối với DNVVN.
- Cơ cấu dư nợ theo thời hạn tăng trong ngắn hạn, phù hợp với đặc điểm trong kinh doanh của DNVVN có nguồn vốn ít, vòng quay vốn ngắn, thu hồi vốn nhanh thể hiện hướng đi đúng đắn trong kinh doanh.
- Chất lượng tín dụng đạt ở mức cao, tỷ lệ nợ quá hạn thấp, hoạt động kinh doanh an toàn tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng quy mô tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là trong khu vực ngoài quốc doanh.
2.3.2. Tồn tại và nguyên nhân.
2.3.2.1. Tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đạt được thì do nhiều nguyên nhân khác nhau, hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn những hạn chế, thiếu sót cần được giải quyết như:
- Quy mô tín dụng chưa cao đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn, tiềm năng của các doanh nghiệp này chưa được khai thác hết. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn chưa tiếp cận được với đồng vốn tín dụng ngân hàng, hoặc bị các ngân hàng trên địa bàn thu hút, lôi kéo, một số khách hàng truyền thống cũng đã có quan hệ với tổ chức khác. Tỷ trọng khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa cao bằng ngân hàng khác.
- Tỷ lệ nợ quá hạn vẫn cao hơn gần 2 lần so với cho vay doanh nghiệp lớn. Tỷ lệ nợ quá hạn tuy thấp và có giảm đi nhưng về số tuyệt đối lại không được cải thiện, nhất là trong khối Công ty TNHH và Công ty cổ phần.
- Số lượng khách hàng hoạt động ngoài lĩnh vực xây lắp chưa được mở rộng, Ngân hàng chưa có chính sách thiết thực để lôi kéo thêm nhiều khách hàng mới từ các ngân hàng khác và từ các địa phương khác lân cận.
- Tín dụng trung dài hạn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa được quan tâm nhiều, trong khi nhu cầu vay để đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất của đối tượng này là rất lớn.
Vẫn còn sự phân biệt giữa các loại hình doanh nghiệp trong cấp tín dụng, nhất là đối với DNVVN và thành phần kinh tế tư nhân khác. Các DNNN vẫn được ưu tiên hơn so với các DNVVN vì được sự hỗ trợ và bảo đảm của Nhà nước. Cho vay các DNVVN luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, chính vì vậy việc cấp tín dụng cho đối tượng này luôn phải hết sức chặt chẽ. Đây chính là một hạn chế trong quá trình mở rộng tín dụng
2.3.2.2. Nguyên nhân
Những mặt còn tồn tại ở trên là kết quả tổng hợp của rất nhiều các nguyên nhân gây ra. Ngoài những nguyên nhân mang tính khách quan như: những tác động của cơ chế thị trường, sự biến động của nền kinh tế, môi trường pháp lý chưa đồng bộ và những nguyên nhân xuất phát từ phía chính bản thân doanh nghiệp như: chưa tạo được sự tín nhiệm với ngân hàng, không đáp ứng được yêu cầu về vốn tự có, tài sản đảm bảo thì Ngân hàng cũng phải chịu trách nhiệm về những tồn tại, yếu kém của mình. Được thể hiện qua các mặt:
- Trong công tác huy động vốn của Ngân hàng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vay, có những dự án chi nhánh phải chờ nguồn để quyết định. Nhiều dự án cho vay trung dài hạn không thể đáp ứng do kỳ hạn nguồn không phù hợp. Đây là điều bất cập của đa số các ngân hàng chứ không phải chỉ của riêng Chi nhánh. Hơn nữa, lạm phát tăng cao khiến cho chi phí đầu vào bị đẩy lên dẫn đến lãi suất cho vay cũng tăng lên tương ứng, tín dụng ngân hàng đã trở lên đắt với một số doanh nghiệp vừa và nhỏ, ảnh hưởng đến khả năng mở rộng tín dụng của Ngân hàng.
- Do trình độ của một số cán bộ còn hạn chế, cán bộ mới nhiều, ít kinh nghiệm, mỗi cán bộ phải trực tiếp quản lý nhiều dự nên trong công tác còn nhiều sơ hở, không xem xét thẩm định kỹ các khoản vay có giá trị nhỏ, các dự án chưa được nghiêm cứu kỹ khiến cho nợ quá hạn tăng cao. Một phần nguyên nhân của việc này cũng xuất phát từ sự cố gắng thu hút thêm càng nhiều khách hàng càng tốt để cạnh tranh, vì vậy dẫn đến việc làm tắt, bỏ qua các bước, công đoạn gây ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
- Thủ tục cho vay còn rườm rà, trong việc xem xét bảo đảm tín dụng, nhiều khi cán bộ tín dụng còn quá nặng nề về thủ tục thế chấp tài sản mà ít xét đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thực ra, tài sản thế chấp chỉ là nguồn thu nợ thứ hai, nguồn thu nợ thứ nhất chính là kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy nếu ngân hàng chỉ nhìn vào tài sản thế chấp mà không nhìn vào khả năng thực trạng hoạt động của doanh nghiệp thì không những không mở rộng được tín dụng mà rủi ro lại tăng cao. Hơn nữa, khi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ vay là để tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, duy trì mối quan hệ tốt đẹp lâu dài với ngân hàng chứ không phải là bắt nợ. Mặt khác, việc định giá tài sản thế chấp còn dựa quá nhiều vào khung giá Nhà nước quy định, dẫn đến tài sản đem cầm cố, thế chấp nhất là với bất động sản, đất đai bị định giá thấp hơn giá trị thực, gây trở ngại lớn đối với việc mở rộng tín dụng.
- Chưa xây dựng được một hệ thống thông tin cần thiết về các doanh nghiệp vừa và nhỏ cho Ngân hàng cũng như thiết lập quan hệ trao đổi thông tin với các ngân hàng khác. Những thông tin mang tính đặc thù về ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh, dự án sản xuất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thiếu, gây khó khăn trong thẩm định, giám sát sử dụng vốn vay.
- Nguyên nhân làm cho số lượng khách hàng ngoài các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp không nhiều là do cán bộ tín dụng còn thiếu kinh nghiệm trong công tác thẩm định trong các lĩnh vực khác.
- Công tác tuyên truyền quảng cáo, khuyếch trương hoạt động của Chi nhánh chưa tốt. Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ bắt đầu quan hệ tín dụng với ngân hàng bằng cách đến ngân hàng xin tư vấn về các thủ tục cần thiết để vay vốn, chứ không phải là do Chi nhánh chủ động tiếp xúc, đặt vấn đề với khách hàng. Cán bộ tín dụng chưa năng động, còn mang nặng tính viên chức Nhà nước, chưa hoàn thành tốt vai trò là người tư vấn cho khách hàng, làm cho việc hoàn thiện hồ sơ, thủ tục, cũng như xây dựng dự án của doanh nghiệp mất nhiều thời gian, bất lợi cho cả hai bên.
- Ngoài ra còn phải kể đến sự bất cập về công tác tổ chức cán bộ tại Chi nhánh. Hiện nay Chi nhánh có tổng số là 16 cán bộ tín dụng, quản lý 105 khách hàng là doanh nghiệp trong đó có rất nhiều doanh nghiệp lớn ngoài ra còn một số lượng lớn khách hàng là cá nhân, với tổng dư nợ trên 500 tỷ đồng. Mặt khác số cán bộ tín dụng này cũng phải kiêm nhiệm một số công việc khác như thanh toán quốc tế, lập các báo cáo Như vậy có thể thấy khối lượng công việc dồn cho một cán bộ tín dụng là quá lớn. Điều này ảnh hưởng rõ rệt đến chất lượng công việc: thời gian giải quyết cho một khoản vay lâu hơn, công việc kiểm tra giám sát vốn vay không được thường xuyên, việc tiếp thị các doanh nghiệp mới, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như việc đi sâu đi sát tìm hiểu, nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp, tính khả thi của các dự án còn nhiều hạn chế.
Tóm lại, từ phía Ngân hàng ta có thể tìm được càng nhiều nguyên nhân, yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ thì càng tốt. Nó sẽ giúp Ngân hàng có thể phân loại mức độ quan trọng, cấp bách của từng nhân tố để từ đó đưa ra được những giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm giải quyết các tồn tại, đưa hoạt động tín dụng của ngân hàng thực sự có ích cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Với những điều kiện có sẵn về địa lý, tài nguyên, con người các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Đông Anh hoàn toàn có khả năng phát triển hơn so với quy mô hiện tại, đóng góp được nhiều hơn cho kinh tế toàn huyện. Muốn vậy, họ cần phải có vốn để hoạt động và mở rộng sản xuất. Thế nhưng, trong nhiều năm qua, dù đã có rất nhiều cố gắng nhưng đồng vốn tín dụng của ngân hàng vẫn chưa đáp ứng được hết nhu cầu của doanh nghiệp cần vay vốn, chưa đến được tận tay nhiều khách hàng, nhất là với đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh. Các ngân hàng thương mại trên địa bàn tập đang dần tập trung vào cạnh tranh khách hàng là Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn chưa phát huy hết tối đa tác dụng của nó, bên cạnh những thành công nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau vẫn còn những mặt tồn tại cần được khắc phục và giải quyết. Với thực trạng như vậy, qua thời gian tiếp xúc thực tập ở đây, em xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp để tín dụng ngân hàng thực sự giúp ích cho sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chương 3: Giải pháp phát triển tín dụng Ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư & phát triển Đông Anh
3.1. Chủ trương phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhà nước
Theo nghị định số 90/2001/NĐ - CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ có xác định mục tiêu như sau: Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhà nước khuyến khích và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ phát huy tính chủ động sáng tạo, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học công nghệ và nguồn lực, mở rộng các mối liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường, phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động.
Nghị định này áp dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ bao gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước.
- Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo luật Hợp tác xã.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký kinh doanh theo nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh.
Chương trình trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhà nước là chương trình mục tiêu cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, căn cứ vào định hướng ưu tiên phát triển kinh tế xã hội, phát triển các ngành và các địa bàn cần khuyến khích. Chương trình trợ giúp này được bố trí trong kế hoạch hàng năm và kế hoạch 5 năm do Thủ tướng Chính phủ hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định. Chương trình trợ giúp bao gồm: mục tiêu, đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ cụ thể theo ngành nghề, lĩnh vực và địa bàn hoạt động, nội dung trợ giúp, nguồn lực, kế hoạch và biện pháp về cơ chế chính sách, tổ chức thực hiện.
Chính sách trợ giúp đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Chính phủ được cụ thể hoá như sau:
Thứ nhất là chính sách khuyến khích đầu tư: Chính phủ trợ giúp đầu tư thông qua các biện pháp tài chính, tín dụng và khuyến khích góp vốn đầu tư vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ hai là thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thành lập quỹ này để bảo lãnh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi không đủ tài sản thế chấp, cầm cố, vay vốn của các tổ chức tín dụng. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp các cơ quan liên quan xây dựng đề án tổ chức và quy chế hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Thứ ba là về mặt bằng sản xuất. Trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế xã hội và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên địa bàn tỉnh thành phố đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mặt bằng sản xuất phù hợp, chỉ đạo dành quỹ đất và thực hiện các chính sách khuyến khích để xây dựng các khu công nghiệp do các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mặt bằng xây dựng tập trung cơ sở sản xuất. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ được hưởng các chính sách ưu đãi trong việc thuê đất, chuyển nhượng, thế chấp
Thứ tư là chính sách về thị trường và cạnh tranh: các doanh nghiệp vừa và nhỏ được tạo điều kiện để tiếp cận các thông tin về thị trường, giá cả, được trợ giúp về giới thiệu, quảng cáo, tiếp thị, ưu tiên đặt hàng và các đơn hàng theo hạn ngạch phân bổ
Thứ năm là chính sách về xúc tiến xuất khẩu: các doanh nghiệp vừa và nhỏ được trợ giúp một phần chi phí kiểm soát, học tập, trao đổi hợp tác và tham dự hội chợ triển lãm, tìm hiểu thị trường ở nước ngoài thông qua quỹ hỗ trợ xuất khẩu.
Thứ sáu là về thông tin, tư vấn và đào tạo nguồn nhân lực: Chính phủ, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân địa phương cung cấp các thông tin cần thiết qua các ấn phẩm và qua mạng Internet cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính phủ trợ giúp kinh phí để tư vấn, đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp này thông qua chương trình trợ giúp đào tạo. Ngoài ra Chính phủ còn khuyến khích các tổ chức trong và ngoài nước trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc cung cấp thông tin, tư vấn và đào tạo nguồn nhân lực.
3.2. Định hướng kinh doanh của Ngân hàng và nhu cầu cho vay đối với các doanh nghiệp vừa vừ nhỏ trong thời gian tới
Bám sát định hướng phát triển kinh tế xã hội của huyện, và các chỉ tiêu kế hoạch được giao, NHĐT&PT Đông Anh đã đề ra những định hướng hoạt động kinh doanh cho riêng mình trong vài năm tới. Với nguyên tắc vì khách hàng, lấy “ sự thành đạt của khách hàng là điều kiện tồn tại và phát triển của ngân hàng”, NHĐT&PT Đông Anh sẽ tài trợ tín dụng cho mọi khách hàng nếu đáp ứng đầy đủ điều kiện Ngân hàng đưa ra. Quan điểm mở rộng tín dụng của Chi nhánh là:
- Mở rộng tín dụng phải đi đôi với việc đảm bảo chất lượng tín dụng. Bên cạnh đó Chi nhánh cũng chủ trương là mở rộng nhưng phải nằm trong khả năng quản lý và kiểm soát của mình.
- Mở rộng tín dụng phải đảm bảo nhu cầu và lợi ích của khách hàng, lợi nhuận và an toàn cho ngân hàng và phải đúng pháp luật.
- Mở rộng tín dụng phải phù hợp với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và định hướng của Ngân hàng Nhà nước.
Trên địa bàn huyện Đông Anh gần như hoàn toàn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đây là thị trường rộng lớn đầy tiềm năng nên Ngân hàng rất quan tâm đến những đối tượng này. Trong khi các Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã có nhiều quan hệ tín dụng với Ngân hàng thì những Doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh gần như rất ít nhận được tài trợ của Ngân hàng, dù nhu cầu vay của họ là rất lớn. Nhận biết được điều này, NHĐT&PT Đông Anh đã xác định phải tiếp cận và mở rộng hoạt động đến các doanh nghiệp này: Ngân hàng sẽ chủ động hỗ trợ để họ có thể xây dựng một dự án kinh doanh khả thi; tư vấn cho họ về lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh (vì Ngân hàng có nhiều kinh nghiệm đánh giá những ngành nghề có khả năng phát triển); sẽ có những giải pháp linh hoạt hơn trong tài sản thế chấp những vấn đề mà Doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp khó khăn; chú trọng hơn đến công tác thu thập thông tin; công tác khách hàng (marketing khách hàng, tìm hiểu phân tích thị trường, lựa chọn khách hàng tiềm năng ); đa dạng hoá các hình thức huy động vốn để có đủ nguồn phục vụ khách hàng, tích cực tìm nguồn trung và dài hạn bằng một cơ chế lãi suất linh hoạt, khuyến khích khách hàng gửi tiền
3.3. Một số giải pháp phát triển tín dụng Ngân hàng nhằm góp phần phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng đầu tư & phát triển Đông Anh
3.3.1. Mở rộng các hình thức tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Ngoài các hình thức cấp tín dụng truyền thống mà ngân hàng vẫn thực hiện đối với các khách hàng của mình như: chiết khấu, cầm cố giấy tờ có giá; cho vay theo dự án; cấp hạn mức tín dụng Ngân hàng cần phải phát triển các nghiệp vụ mới như: bảo hiểm, bảo lãnh, cho thuê tài chính để có thể đáp ứng được nhu cầu vay vốn ngày càng phong phú của các đối tượng khách hàng là DNVVN.
Do hoạt động trong điều kiện nguồn vốn bị hạn chế, thiếu tiền để đặt cọc, ký quỹ nên trong những năm gần đây nhu cầu được bảo lãnh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn. Do vậy ngân hàng cần quan tâm phát triển nghiệp vụ bảo lãnh, để vừa có thể thu được lợi nhuận từ các khoản phí vừa tạo được quan hệ tốt với khách hàng. Tuy đây chỉ là một nghiệp vụ ngoại bảng, nhưng khi có rủi ro xảy ra, ngân hàng phải trả thay doanh nghiệp thì sẽ chuyển thành một khoản tổn thất nội bảng. Do đó việc thẩm định khách hàng cũng cần được lưu ý như khi cho vay bằng tiền.
Hoạt động tín dụng thuê mua tài chính là một hình thức mới xuất hiện nhưng nó đã nhanh chóng chứng minh được tác dụng bằng các ưu điểm vượt trội, nó tỏ ra cực kỳ hiệu quả đối với hoạt động cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chủ doanh nghiệp sẽ không cần bỏ một món tiền lớn để đầu tư mua tài sản mà chỉ cần đi thuê, và trả tiền thuê theo định kỳ. Họ không cần phải có tài sản bảo đảm, mà đứng về phía ngân hàng đây lại là hình thức đảm bảo chắc chắn nhất (vì trong quá trình thuê tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng, và ngân hàng có toàn quyền quyết định về tài sản). Cho thuê tài chính còn được sử dụng linh hoạt như là một hình thức chuyển kỳ hạn vay và cơ cấu lại nợ thông qua phương thức tái cho thuê. Đây là một loại cho thuê tài chính đặc biệt, áp dụng khi doanh nghiệp thiếu vốn lưu động nhưng lại không đủ uy tín để vay ngân hàng, trong trường hợp đó họ có thể bán lại một phần tài sản cố định cho ngân hàng và thực hiện thuê lại và dùng nguồn tài chính đó để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động. Trong một số trường hợp nó có thể được coi như một biện pháp giải quyết nợ quá hạn mà không cần dùng đến biện pháp thanh lý, ngân hàng sẽ coi như mua lại tài sản thế chấp và cho doanh nghiệp thuê lại, giúp doanh nghiệp tiếp tục hoạt động để có nguồn trả nợ, bởi trong trường hợp này nếu doanh nghiệp bị phá sản ngân hàng có thể bị thiệt hại lớn hơn. Trong điều kiện chưa cho phép thực hiện cho thuê tài chính bằng cách đặt mua tài sản về để cho thuê như hiện nay, NHĐT&PT Đông Anh hoàn toàn có thể áp dụng phương thức tái cho thuê như là cách làm phong phú thêm loại hình tín dụng của mình. Khi mà các ngân hàng khác vẫn còn chưa triển khai, thì hoạt động này sẽ mang lại lợi thế không nhỏ trong cạnh tranh cho Ngân hàng, nó sẽ giúp chi nhánh có sự vượt trội hơn hẳn, uy tín nhờ thế cũng được nâng cao.
Đa dạng hoá các loại hình cấp tín dụng phải đi cùng với sự linh hoạt trong vận dụng, làm sao cho phù hợp với từng đối tượng khách hàng, trong từng trường hợp vay cụ thể. Có như vậy, hoạt động tín dụng của ngân hàng mới có thể đem lại hiệu quả cao nhất.
3.3.2. Áp dụng linh hoạt cơ chế lãi suất đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giới hạn cho phép
Sự linh hoạt trong chính sách lãi suất ở đây phải được thể hiện có nhiều mức lãi suất khác nhau đối với từng loại doanh nghiệp, và phải chủ động trong việc áp dụng mức lãi suất phù hợp cho từng khách hàng, trong từng thời kỳ. Luôn biết ưu tiên các khách hàng truyền thống, các doanh nghiệp có chất lượng tín dụng tốt, sòng phẳng. Có như vậy mới có thể duy trì mối quan hệ với các doanh nghiệp là khách hàng truyền thống
Không như các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn phải tính toán một cách chi tiết, kĩ càng về các khoản chi phí, trong đó có lãi vay ngân hàng. Do vậy một mức lãi suất mềm hơn sẽ thu hút được sự quan tâm nhiều hơn của các chủ doanh nghiệp. Thực tế là trong quá trình xét duyệt cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cán bộ tín dụng luôn có sự thận trọng trước những rủi ro tiềm ẩn, họ phải mất rất nhiều thời gian chi phí kiểm tra do đó làm cho lãi suất đầu ra có xu hướng cao lên. Cộng với những chi phí đi lại giao dịch, những khoản vay này đôi khi trở nên đắt đối với các doanh nghiệp, khiến họ ngại vay. Vì thế nếu lãi suất cho vay ra được giảm bớt thì sẽ khuyến khích doanh nghiệp mạnh dạn vay vốn đầu tư mở rộng sản xuất.
3.3.3. Cải tiến cơ chế thủ tục cho vay theo hướng đơn giản, gọn nhẹ, tránh trùng lắp mà vẫn đảm bảo nguyên tắc cho vay
Trên thực tế, đã có không ít khách hàng phàn nàn về sự rắc rối nhiêu khê của thủ tục vay vốn, của những thuật ngữ trong thủ tục vay ngân hàng khó hiểu. Trong khi đó, nó không những không làm giảm được đáng kể rủi ro mà thậm chí còn hạn chế việc khách hàng đến vay vốn Ngân hàng. Ví dụ rõ nhất là trong trường hợp Ngân hàng giải ngân theo hạn mức tín dụng đã kí kết, Ngân hàng luôn yêu cầu doanh nghiệp phải có những hợp đồng thương mại để minh chứng cho mục đích sử dụng vốn vay. Nó sẽ gây nên áp lực phiền hà cho cả với những khách hàng truyền thống, nhưng thực tế nếu cần thiết các chủ doanh nghiệp hoàn toàn có thể vẽ ra những hoá đơn khống, hợp đồng ảo để đối phó với Ngân hàng. Vì thế, cần thiết phải đơn giản thủ tục vay vốn nhất là đối với những khách hàng truyền thống của ngân hàng.
3.3.4. Đa dạng thời hạn cho vay, giải quyết nhanh chóng thủ tục cho vay
Cơ chế cho vay cũng cần phải được thay đổi, kỳ hạn vay phải được áp dụng linh hoạt hơn nữa bám sát với chu kỳ sản xuất kinh doanh, và thời điểm có nguồn trả nợ của doanh nghiệp. Không nên áp đặt cứng nhắc các kỳ hạn vay: 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng cho tất cả các doanh nghiệp, mà cần phải linh hoạt hơn cho phù hợp vừa giúp mở rộng quy mô tín dụng cho ngân hàng vừa giúp khách hàng tiết kiệm chi phí.
Ngoài ra, theo quy chế cho vay thì thời gian quyết định tín dụng ngắn hạn là không quá 10 ngày và trung dài hạn không quá 45 ngày kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ vay vốn của khách hàng. Do đó, nếu bộ hồ sơ vay vốn chưa được chuẩn bị kĩ càng, hoàn chỉnh khách hàng còn phải sửa đổi nhiều thì thời gian được vay vốn có thể kéo dài từ 1 đến 2 tháng, làm lỡ mất cơ hội kinh doanh của họ. Vì thế cán bộ tín dụng nên giúp đỡ khách hàng nhiều hơn trong quá trình hoàn thiện hồ sơ, có thể kết hợp với các cơ quan chức năng, phòng công chứng huyện để giảm bớt thời gian đi lại cho khách hàng, lại vừa đạt được rõ ràng chính xác trong thẩm định.
3.3.5. Xây dựng một chiến lược Marketing cụ thể với trọng tâm là chính sách khách hàng, tìm mọi biện pháp kích thích nhu cầu vay vốn của Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Ngân hàng ĐT&PT Đông Anh tuy hoạt động với phương châm vì khách hàng nhưng lại chưa thực sự có được một chiến lược Marketing hoàn chỉnh theo đúng nghĩa. Trong khi đó chính sách khách hàng với đối tượng là Doanh nghiệp vừa và nhỏ nhất là ngoài quốc doanh lại chưa được chú ý nhiều, điều đó làm chi nhánh mất đi nhiều cơ hội để tăng thêm lợi nhuận và thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng. Do vậy, NHĐT&PT Đông Anh nên quan tâm hơn vào vấn đề này như: Có những biện pháp khuyếch trương, quảng cáo về hình ảnh Ngân hàng lên các phương tiện thông tin đại chúng dù chỉ trong địa bàn huyện; tham gia vào các chương trình hoạt động xã hội; chủ động tiếp cận khách hàng, làm tốt nhiệm vụ tư vấn đầu tư, xây dựng phương án, cho họ thấy những tiện ích của những dịch vụ Ngân hàng cung cấp; Tổ chức thường xuyên hơn những cuộc hội thảo, gặp gỡ, trao đổi với doanh nghiệp để hai bên cùng tháo gỡ những vướng mắc và hai bên có thể hiểu nhau hơn, doanh nghiệp vì Ngân hàng và Ngân hàng vì sự thành đạt của doanh nghiệp Có như thế mới giúp các doanh nghiệp biết đến Ngân hàng nhiều hơn, hiểu hơn về thủ tục vay vốn, thấy được lợi ích của vốn tín dụng ngân hàng để từ đó có quyết định xin vay đầu tư, vai trò hỗ trợ doanh nghiệp của tín dụng mới được phát huy.
3.3.6. Tổ chức tốt công tác huy động vốn, đặc biệt là những nguồn vốn có tính chất ổn định đáp ứng tốt nhu cầu cho vay
Ở Đông Anh nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư còn rất nhiều, thể hiện ở trong những đợt huy động chi nhánh luôn hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch và thời gian được giao. Trong khi đó Ngân hàng lại chưa tổ chức khai thác được hết, mới chỉ đáp ứng được gần 70% nhu cầu cho vay. Thực tế hiện nay, huyện Đông Anh đang có xu thế mở rộng cả về quy mô lẫn chiều sâu, nâng cấp cơ sở hạ tầng nên cần một khối lượng lớn vốn trung dài hạn để đáp ứng. Vấn đề là ở chỗ nguồn vốn trung dài hạn lấy từ đâu ra để Ngân hàng có thể đầu tư khi mà nguồn vốn trung dài hạn của chi nhánh chưa thực sự lớn. Do đó công tác huy động vốn phải càng được chú trọng hơn nữa, đặc biệt là những nguồn ổn định lâu dài. Ngoài một số biện pháp Ngân hàng đã làm thì cần phải tiến tới thực hiện các giải pháp sau:
- Đa dạng hoá các loại hình tiền gửi, cải tiến gọn nhẹ thủ tục gửi và rút tiền nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng,
- Mở rộng mạng lưới huy động vốn lên cả địa bàn Sóc Sơn, nơi chưa có trụ sở chi nhánh NHĐT&PT, khu công nghiệp Nội Bài, những vùng dân cư có điều kiện kinh tế phát triển, để tận dụng nguồn vốn còn rất dồi dào trong dân cư khu vực này. Thực hiện chủ trương “đến từng ngõ, gõ cửa từng nhà”, các địa điểm huy động gần với người dân hơn nữa, có trụ sở khang trang, máy móc hiện đại, đội ngũ nhân viên niềm nở nhiệt tình, tạo niềm tin cho khách hàng. Xúc tiến việc thành lập quầy thu đổi ngoại tệ tại nhà ga T1 sân bay quốc tế Nội Bài, cũng như việc lắp đặt máy rút tiền tự động ATM tại sân bay và tại trụ sở của Chi nhánh.
- Triển khai nhiều hình thức huy động vốn trọng tâm là các loại có kỳ hạn ổn định như: tiết kiệm tích luỹ, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu phục vụ đa dạng các phương thức rút tiền như: gửi một nơi lấy ở nhiều nơi, tiền gửi rút thẻ tự động tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng gửi và rút tiền.
- Có chính sách lãi suất linh hoạt, hấp dẫn mang tính cạnh tranh, chủ động nắm diễn biến thay đổi lãi suất trên thị trường, đưa ra những dự báo để tư vấn cho khách hàng gửi nhằm thiết lập mối quan hệ tốt hơn nữa với khách hàng.
- Có chính sách khuyến mãi hợp lý (bằng tiền hoặc bằng hiện vật, áp dụng mức lãi suất bậc thang) cho các khách hàng có số lượng tiền gửi lớn, thời gian gửi lâu, ổn định, khuyến khích khách hàng gửi dài hạn. Tuy nhiên, khi thực hiện trao quà khuyến mãi cần lưu ý: không trao nhiều phần quà cho khách hàng gửi nhiều sổ, tránh việc xé lẻ món tiền làm tăng chi phí sổ sách của ngân hàng mà hiệu quả của hình thức tặng quà khuyến mãi cũng không cao.
- Ngoài các hình thức tuyên truyền quảng cáo sản phẩm mới khi có đợt huy động, vào những tầm cao điểm cần vốn chi nhánh có thể sắp xếp các giao dịch ngoài giờ hành chính, vào các ngày nghỉ hàng tuần để tăng cường thu hút vốn trong dân cư.
- Nâng cao tốc độ và chất lượng của dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt để thu hút tiền gửi thanh toán của các khách hàng là tổ chức và cá nhân. Tính toán biểu phí thanh toán hợp lý, có thể giảm phí hoặc miễn phí thanh toán với các đơn vị có lượng tiền gửi lớn.
3.3.7. Thực hiện tốt bảo đảm tín dụng, áp dụng linh hoạt các hình thức bảo đảm, tăng cường công tác dịnh giá, giám sát tài sản thế chấp.
Bảo đảm tín dụng tuy không phải là điều kiện tiên quyết đối với việc cấp tín dụng nhưng nó cũng không thể bị xem nhẹ. Có tài sản đảm bảo không những giúp Ngân hàng an tâm hơn về khoản vay mà còn thúc đẩy doanh nghiệp sử dụng vốn vay có hiệu quả, giảm bớt được những rủi ro đạo đức. Do vậy, việc thực hiện tốt bảo đảm tín dụng cũng cần được Chi nhánh quan tâm. Quyết định tín dụng phải được dựa trên cả kế hoạch sản xuất và tài sản đảm bảo. Không nên vội vàng quyết định cho vay vì doanh nghiệp đã có tài sản thế chấp, như thế rủi ro sẽ rất cao. Nhưng ngay cả khi doanh nghiệp đã có dự án kinh doanh khả thi thì cũng nên yêu cầu doanh nghiệp có bảo đảm (dù không cần hết 100%) để gắn được trách nhiệm của họ với khoản vay, thúc đẩy hiệu quả sử dụng vốn.
Khi áp dụng bảo đảm tín dụng cũng không nên cứng nhắc, áp đặt mà phải có sự linh hoạt. Với những DNVVN chưa có đủ điều kiện về tài sản để thế chấp, hay đất đai chưa được cấp sổ đỏ có thể tạo điều kiện để họ tín chấp, bảo lãnh hay thực hiện thế chấp, cầm cố bằng chính tài sản, hàng hoá hình thành từ vốn vay. Trong những trường hợp này, Ngân hàng cần phải quan tâm theo dõi thường xuyên tình hình tài sản, hàng hoá xuất nhập vào kho để có thể xử lý kịp thời những sai phạm.
Khi định giá tài sản đảm bảo cũng cần quan tâm tham khảo thêm giá thị trường và dự đoán tình hình biến động của nó ứng với thời hạn của khoản vay để có thể đưa ra giá trị hợp lý nhất cho tài sản, giúp doanh nghiệp vay được số tiền lớn hơn. Định giá tài sản thế chấp là đất đai cũng cần phải xem xét đến quy hoạch của huyện và thành phố, tránh việc khu đất thế chấp nằm trong diện giải toả
Khi tài sản thế chấp là giá trị bất động sản: máy móc, thiết bị được quản lý tại doanh nghiệp thì phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực trạng của tài sản. Định kỳ tổ chức đánh giá lại giá trị của tài sản đảm bảo để bổ sung, điều chỉnh hợp đồng tín dụng cho phù hợp, tránh rủi ro biến động giá của thị trường.
3.3.8. Đẩy mạnh hoạt động kiểm tra kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay, tăng cường công tác đánh giá xếp loại doanh nghiệp.
Cũng bởi nhiều lý do khác nhau mà hoạt động kiểm tra giám sát trước, trong và sau khi cho vay chưa được thực hiện đầy đủ, nhất là trong đối tượng khách hàng ngoài quốc doanh. Do vậy đôi khi đồng vốn tín dụng của Ngân hàng lại bị sử dụng sai mục đích. Cán bộ tín dụng cần phải đến kiểm tra trước khi quyết định cấp tín dụng cũng như trong quá trình cho vay và sau khi giải ngân nhằm đảm bảo cho vay đúng mục đích, dự án khả thi và cho vay đủ nhu cầu, có như vậy mới đảm bảo an toàn tín dụng. Đồng thời cũng kịp thời tư vấn cho khách hàng phương án kinh doanh hiệu quả cao nhất giúp thu hồi vốn nhanh, an toàn và lợi nhuận cho cả khách hàng và ngân hàng. Hơn nữa, khi đến kiểm tra tại doanh nghiệp sẽ thấy được tình hình hoạt động thực tế, đánh giá được những tiêu chí định tính (sự hăng hái, đoàn kết, uy tín phẩm chất người lãnh đạo) và quan trọng là nhắc nhở chủ doanh nghiệp không quên nghĩa vụ trả nợ.
Công tác đánh giá xếp loại khách hàng sau cho vay (sau khi thanh lý hợp đồng tín dụng) cũng cần được quan tâm. Định kỳ, Chi nhánh lên tổ chức đánh giá lại doanh nghiệp khách hàng có thể chia thành 3 nhóm:
Loại A: doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ổn định, thực hiện tốt nghĩa vụ với Nhà nước, không có nợ quá hạn.
Loại B: doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bình thường, chưa có uy tín cao
Loại C: doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ dài hạn, không có biện pháp khắc phục.
Việc xác định được rõ doanh nghiệp thuộc đối tượng khách hàng nào sẽ giúp ích rất nhiều cho chi nhánh trong phục vụ khách hàng. Với những doanh nghiệp thuộc đối tượng loại A, Ngân hàng phải chủ động lôi kéo, nắm giữ, phải có cách thức phục vụ, chính sách khuyến khích phù hợp. Kiên quyết không đặt quan hệ tín dụng với khách hàng loại C, phấn đấu giảm bớt tỷ lệ doanh nghiệp này trong cơ cấu khách hàng. Còn với doanh nghiệp loại B thì quyết định tín dụng phải tuỳ thuộc vào năng lực tài chính, phương án sản xuất và bảo đảm tín dụng của khách hàng. Làm được như vậy, không những quy mô tín dụng sẽ được tăng lên mà chất lượng cho vay cũng sẽ được đảm bảo.
3.3.9. Kiện toàn tổ chức cán bộ của chi nhánh, trao nhiều quyền chủ động hơn cho cán bộ tín dụng trong việc quyết định cho vay, quy rõ trách nhiệm trong quan hệ vay.
Như đã phân tích ở trên, Chi nhánh hiện nay có quá ít cán bộ tín dụng mà lại phải quản lý quá nhiều khách hàng cả doanh nghiệp lẫn tư nhân, thậm chí còn phải kiêm nhiệm cả một số những công việc khác. Do đó, cán bộ tín dụng không có nhiều thời gian để có thể xem xét đánh giá kỹ về khách hàng cũng như thanh tra giám sát sử dụng vốn vay của doanh nghiệp. Nợ xấu cũng một phần xuất phát từ nguyên nhân này. Chính vì vậy việc Chi nhánh cần làm ngay là phải kiện toàn lại tổ chức cán bộ, điều thêm cán bộ có chuyên môn được đào tạo về phòng tín dụng. Trong điều kiện chưa thể tuyển thêm nhân viên thì có thể điều chuyển cán bộ từ những phòng, quỹ ít việc nhàn rỗi về. Số khách hàng được phân tán sẽ giúp cán bộ quản lý doanh nghiệp của mình phụ trách tốt hơn.
Hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn mang nhiều rủi ro tổn thất hơn, vì thế Chi nhánh nên phân công cán bộ vào các bộ phận chuyên trách cho vay DNVVN đặc biệt là ngoài quốc doanh. Như vậy sẽ hạn chế được những thiếu sót trong công tác thẩm định, phân tích khách hàng bởi cán bộ đã có nhiều kinh nghiệm và hiểu được rõ về doanh nghiệp.
Ngoài ra để hạn chế tổn thất, chi nhánh cần lập tổ giám sát và đôn đốc thu nợ, có biện pháp khen thưởng thích đáng sau mỗi đợt thu nợ
Chi nhánh cũng nên mở rộng quyền phán quyết tín dụng cho các cán bộ khi xem xét cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời gắn với quyền hạn phải quy rõ trách nhiệm đối với cán bộ trong quan hệ tín dụng, để chất lượng công tác cho vay được bảo đảm hơn.
3.3.10. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin riêng về các doanh nghiệp vừa và nhỏ, kết hợp với chính quyền và các cơ quan chức năng, phối hợp với ngân hàng bạn trao đổi thông tin nhằm đảm bảo an toàn tín dụng
Vai trò quan trọng của thông tin đối với hoạt động tín dụng ngân hàng là không thể phủ nhận. Để giúp ích cho việc nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, Ngân hàng cần xây dựng và hoàn thiện một hệ thống thông tin về các DNVVN riêng, các thông tin này là những thông tin nội bộ chỉ lưu hành trong chi nhánh hoặc có thể trong cả hệ thống NHĐT&PT. Nguồn thông tin có thể được lấy từ rất nhiều nơi, từ trên mạng, từ thị trường, từ mối quan hệ với các cơ quan hữu quan từ đó chọn lọc, phân tích, đánh giá đưa ra những sản phẩm thông tin hoàn chỉnh giúp Ngân hàng có thể chủ động hơn trong kinh doanh, có những chính sách đi trước các ngân hàng khác từ đó nắm bắt được thị phần, mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.
Tuy nhiên các Ngân hàng lại chỉ lo cạnh tranh nhau ở một số ít các khách hàng tốt mà không lo tìm kiếm thêm các doanh nghiệp chất lượng từ thị trường doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh còn bỏ ngỏ do thiếu thông tin và ngại tiếp cận. Chính vì vậy, muốn mở rộng tín dụng ra khu vực còn giàu tiềm năng này, các Ngân hàng thương mại trên địa bàn cần phải liên kết lại hỗ trợ nhau trong công tác trao đổi thông tin tín dụng. Có thể lấy một điển hình cụ thể là việc các ngân hàng cần cho nhau biết dư nợ và hạn mức tín dụng mình đã cấp cho từng đối tượng khách hàng loại này, để các ngân hàng cho vay sau có căn cứ tính hạn mức cho phù hợp, tránh việc ký hợp đồng hạn mức tín dụng quá cao gây lãng phí và sử dụng vốn sai mục đích.
Để đưa được những giải pháp trên đi vào thực tế, để đồng vốn tín dụng ngân hàng thực sự là chỗ dựa cho các DNVVN phát triển, em xin mạnh dạn đề xuất những kiến nghị sau
3.4. Một số kiến nghị
3.4.1. Đối với Nhà nước.
3.4.1.1. Hoàn thiện chính sách pháp luật đối với DNVVN
Có khuôn khổ pháp lý hoàn thiện là điều quan trọng đầu tiên làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách hỗ trợ. Khuôn khổ pháp lý bao gồm những quy định có liên quan đến DNVVN và những quy định riêng cho loại hình doanh nghiệp này, cụ thể cần thực hiện:
Hoàn thiện văn bản pháp lý để thống nhất các khái niệm liên quan đến DNVVN như: doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ giúp phân tách rõ ràng nhằm thuận tiện hơn trong áp dụng, theo dõi và kiểm tra các khoản cấp tín dụng, phù hợp với nhu cầu thực tế.
3.4.1.2. Đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức hỗ trợ DNVVN
Nhà nước không thể một mình tiến hành mọi việc mà cần có sự giúp sức của cả xã hội trong công cuộc hỗ trợ DNVVN. Do đó, Nhà nước cần khuyến khích phát triển các tổ chức hỗ trợ DNVVN về mặt bằng sản xuất, về thị trường và khả năng cạnh tranh, xúc tiến xuất khẩu, hỗ trợ thông tin, tư vấn, đào tạo nguồn nhân lực Tranh thủ sự ủng hộ trong nước và quốc tế đối với các DNVVN thông qua các chương trình, dự án về tài chính, Nhà nước cũng cần xây dựng các dự án để thu hút nguồn tài trợ của nước ngoài. Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp này tham gia vào các tổ chức hiệp hội đại diện cho mình để hỗ trợ lẫn nhau trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất.
3.4.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước nên có cơ chế cho vay riêng đối với các DNVVN để phù hợp với sự vận động, phát triển và vai trò quan trọng của loại hình doanh nghiệp này trong nền kinh tế. Nên ban hành các thông tư hướng dẫn các ngân hàng thương mại để có được sự đồng bộ về các chính sách ưu tiên đối với DNVVN như: Hỗ trợ phát triển ban đầu với lãi suất thấp, sau khi hoạt động ổn định thì áp dụng mức lãi suất bình thường; Giúp doanh nghiệp xây dựng dự án kinh doanh khả thi Có như vậy thì vai trò quản lý, định hướng của Ngân hàng Nhà nước mới thực sự phát huy hết.
3.4.3. Đối với NHĐT&PT Việt Nam.
NHĐT&PT Đông Anh là một chi nhánh cấp 1 chịu sự quản lý trực tiếp của NHĐT&PT Việt Nam nên để tạo điều kiện cho Chi nhánh Đông Anh hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình thì cũng xin có một số kiến nghị sau:
- Cần đầu tư thêm cơ sở vật chất cho NHĐT&PT Đông Anh để Ngân hàng có thể nâng cao vị thế của mình trên thương trường và uy tín của mình đối với khách hàng. Trang thiết bị hiện nay của Ngân hàng là khá tốt nhưng vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu giao dịch với khách hàng.
- Chi nhánh Đông Anh cần được trao thêm quyền tự chủ trong công tác huy động và sử dụng vốn nhiều hơn nữa, nhất là đối với vốn trung dài hạn và ngoại tệ. Được như vậy sẽ giúp Ngân hàng rất nhiều trong các quyết định cấp tín dụng, không còn cần phải chờ nguồn trung dài hạn và ngoại tệ từ Ngân hàng cấp trên chuyển về.
- Gấp rút xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng nội bộ về các DNVVN trong các lĩnh vực, ngành nghề, dự án đầu tư tạo điều kiện thuận lợi cho các chi nhánh thực hiện tốt công tác thẩm định khách hàng và dự án của họ.
- Ban hành đồng bộ hoá các văn bản về hoạt động kinh doanh tín dụng của các chi nhánh, đặc biệt là trong nghiệp vụ cho vay DNVVN. Có các công văn hướng dẫn cụ thể các quy chế, định hướng cho vay đối với DNVVN của Nhà nước. Tạo ra sự thống nhất trong toàn hệ thống.
- Tích cực thu hút các dự án, chương trình của quốc tế trong việc đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ thẩm định cử cán bộ đi học, tham quan nước bạn, học hỏi kinh nghiệm để về áp dụng cho Ngân hàng. Đồng thời, quan tâm chỉ đạo công tác đào tạo, nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ: Tổ chức những khoá đào tạo, tập huấn nghiệp vụ để thường xuyên bổ sung kiến thức, cập nhật phương pháp làm việc mới cho cán bộ; tổ chức các buổi thảo luận chuyên ngành ngân hàng để cho các cán bộ tín dụng có cơ hội, điều kiện học hỏi kinh nghiệm của nhau, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho vay, công tác thẩm định dự án
- NHĐT&PT Việt Nam cần phải biết tận dụng, khai thác tối đa các nguồn tín dụng ưu đãi, uỷ thác đầu tư: RAP, WB, EU từ Chính phủ hoặc trực tiếp từ các Tổ chức quốc tế để phân về cho các chi nhánh. Đây là những nguồn vốn rẻ, an toàn tạo thuận lợi cho hoạt động cấp tín dụng trong toàn hệ thống.
3.4.4. Đối với các DNVVN.
Trong các nguyên nhân dẫn tới việc đồng vốn tín dụng của Ngân hàng chưa tới được tay nhiều DNVVN thì có không ít xuất phát từ chính bản thân doanh nghiệp. Do vậy, để các DNVVN có được cơ hội phát triển thì chủ doanh nghiệp cũng cần thực hiện một số việc:
- Tìm mọi cách chủ động nâng cao quy mô vốn tự có của doanh nghiệp để đáp ứng yêu cầu về vốn chủ sở hữu, về tài sản đảm bảo khi đến vay tại Ngân hàng. Doanh nghiệp có thể huy động vốn từ nhiều nguồn: Thực hiện cổ phần hoá, kêo gọi các nhà đầu tư, thực hiện tăng vốn từ chính trong cán bộ công nhân viên doanh nghiệp Tăng vốn tự có không những giúp doanh nghiệp hoạt động ổn định hơn mà còn tạo điều kiện để doanh nghiệp có thể tiếp cận những khoản tín dụng lớn hơn từ phía Ngân hàng.
- Doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ các chế độ báo cáo, kế toán, thống kê tài chính tạo thông tin chính xác cho cán bộ ngân hàng trong công tác thẩm định khách hàng và theo dõi vốn vay.
- Khi đã có những ý tưởng, phương hướng kinh doanh đúng đắn thì doanh nghiệp phải biết biến nó thành những dự án, kế hoạch kinh doanh có hiệu quả, khả thi để thuyết phục được Ngân hàng cho vay vốn.
- Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp phải luôn biết thích ứng, đổi mới công nghệ khi cần thiết để tăng tính cạnh tranh, tạo niềm tin cho Ngân hàng.
- Khi đã vay được vốn từ Ngân hàng cần phải sử dụng vốn vay đúng mục đích, kinh doanh trung thực, đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn để có khả năng trả nợ cho Ngân hàng đầy đủ, đúng thời hạn. Có như vậy thì uy tín của doanh nghiệp với ngân hàng sẽ ngày càng được tăng lên, mối quan hệ với Ngân hàng sẽ ngày càng chặt chẽ.
KẾT LUẬN
Qua những nghiên cứu, phân tích lý luận cũng như thực tiễn về tình hình tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHĐT&PT Đông Anh cho ta thấy: Rất cần thiết phải có những chính sách, chương trình hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Trong nền kinh tế nước ta, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò như tế bào tạo nên tổng thể các bộ phận của nền kinh tế. Sự xuất hiện của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong cơ chế thị trường là một tất yếu khách quan không thể thiếu được, nó sẽ giúp nền kinh tế vận hành một cách trơn chu và năng động. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ xứng đáng được nhận nhiều sự quan tâm hơn từ phía xã hội.
Trong hệ thống chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển thì chính sách phát triển về vốn giữ vai trò quan trọng nhất, và trong lĩnh vực này các Ngân hàng thương mại mang tính chủ đạo cao. Không chỉ thực hiện việc cấp tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu vốn hoạt động mà còn đóng vai trò là người định hướng, người tư vấn và là người bạn đồng hành với doanh nghiệp.
Để thực hiện tốt những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, các Ngân hàng thương mại phải mở rộng tín dụng đối loại hình doanh nghiệp này hơn nữa, phải linh hoạt hơn nữa trong các quyết định cũng như phải chú ý đến những rủi ro tiềm ẩn. Làm được việc này không những Ngân hàng góp phần thực hiện đường lối của Đảng trong công cuộc công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước, mà còn giúp Ngân hàng mở rộng hoạt động của mình ra một thị trường đầy tiềm năng rộng lớn, tạo điều kiện phát triển ổn định, lâu dài.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh các năm 2005, 2006, 2007
2. Ngân hàng thương mại – PGS.TS. Phan Thị Thu Hà - Nhà xuất bản Đại học KTQD, 2007.
3. Nghị định, quyết định, thông tư hướng dẫn có liên quan đến hoạt động ngân hàng tài chính
4. Quản trị ngân hàng thương mại – Peter S.Rose – Nhà xuất bản tài chính, 2001
5. Tạp chí ngân hàng, thị trường tài chính tiền tệ, tài chính,... và một số tạp chí khác
6. Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính – Fredrics Mishkin – Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, 1999
7. Và một số tài liệu khác có liên quan
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7898.doc