Đề tài Giải pháp phát trriển kinh tế thị trường định hướng XHCN

Qua đó cho thấy phát triển KTTT định hướng XHCN là một quá trình tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Và đó cũng là sự tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của văn minh nhân loại. Vì vậy phải có những giải pháp hợp lý, hữu hiệu, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước nhằm phát huy tích cực vai trò của KTTT, đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của nó. Qua thời gian tìm hiểu sưu tầm tài liệu và đựơc sự hướng dẫn nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn đã giúp em có được nhiều kiến thức quan trọng bổ ích về nền KTTT định hướng XHCN và có được sự hiểu biết sâu hơn về nó.

doc24 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1736 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát trriển kinh tế thị trường định hướng XHCN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục .Phần mở đầu .Phần nội dung Chương 1: Phần lí luận 1.1 Khái niệm 1.2 Tính tất yếu phát triển kinh tế thị trường ( KTTT ) định hướng XHCN 1.3 Kinh nghiệm Chương 2 : Phần thực tiễn 2.1 Thành tựu đạt được 2.2 Hạn chế Chương 3 : Giải pháp và kiến nghị 3.1 Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần 3.2 Đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá, ứng dụng nhanh khoa học công nghệ 3.3 Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường và nâng cao hiệu lực quản lí kinh tế của Nhà nước 3.4 Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 3.5 Giải quyết tốt các vấn đề xã hội 3.6 Giữ vững sự ổn định chính trị, tăng cương sự lãnh đạo của Đảng cộng sản .Phần kết luận Lời Mở đầu Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hoá,cơ chế thị trường, chúng ta xem kế hoạch la đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế XHCN, coi thị trường chỉ là công cụ thứ yêu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ. Đến nay, chúng ta đã khẳng định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và coi đây là nền kinh tế tổng quát của thời kì quá độ nên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bên cạnh những thành tưu mà nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đạt được, vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, khó khăn và thách thức: - Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai bởi lẽ cơ sở vật chất - kĩ thuật còn ở trình độ thấp: máy móc kũ kĩ, công nghệ lạc hậu. Năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất ở nước ta còn rất thấp co với khu vực và thế giới ( năng cuất lao động ở cước chỉ bằng 30% so với thế giới) Kết cấu hạ tầng kém phát triển, chưa phát huy được lợi thế tiềm năng của từng vùng từng địa phương. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong nước cung như ngoài nước còn rất yếu. - Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ cụ thể : thị trường hàng hoá- dịch vụ đã hình thành hàng giả, nhập lậu làm rối loạn thị trường. Thị trường tiền tệ vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều chắc trở. Thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha. - Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mowr rộng kinh tế đối ngoại hoà nhập vào thị trường khu vực và thế giới trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế - kĩ thuật ủa nước ta thấp xa so với hầu hết các nước khác do đó dã đặt ra những thách thức hết sức gay gắt. Quản lý nhà nước vễ kinh tế xã hội còn yếu." Kinh tế vĩ mô còn những yếu tố thiếu vững chắc" Trước thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam chúng ta cần phải có những giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhẵm tháo gỡ sửa đổi những thiếu sót, khác phục hạn chế những khó khăn, thách thưs mà nền kinh tế nước ta mắc phải_ Nhẵm xây dựng thành công nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng lạc hậu yếu kém so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Phát triển kinh tế tực hiện thành công mục tiêu dân giàu - nước mạnh - xã hội công bằng văn minh. Đây cũng là lí do em chọn đề tài này để nghiên cứu, tim hiểu. Nội dung Chương I : Phần lý luận Khái nệm Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó toàn bộ các yếu tố " đầu vào" và " đầu ra" của sản phẩm đều thông qua thị trường. - Như vậy KTTT kiểu tổ chức kinh tế xã hội, trong đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thông qua thị trường. Vì thể KTTT không chỉ là "công nghệ", là phương tiện để phát triển kinh tế xã hội, mà còn la các mối quan hệ xã hội, nó không chỉ bao gồm các yếu tố của lực lượng sản xuất. Như vậy chứng tỏ không có và không thể có một nền kinh tế KTTT chung chung, thuần tuý, trừu tượng tách rời khỏi hình thái kinh tế - xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị - xã hội chủa một nước. - KTTT định hướng XHCN thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế - xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc va quy luật của KTTT vừa dựa ảên những nguyên tắc và bản chất của CNXH. Nó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị rường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Tính tất yếu khách quan phát triển KTTT ở Việt Nam 1.2.1 Sự cần thiết phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam: + Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và cùng bản chất như sản xuất cản phẩm để bán trao đổi, mục đích tối cao là lợi nhuận. Tuy kinh tế hàng hoá và inh tế thị trường không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình độ phát triển: kinh tế thị trường phát triển cao hơn kinh tế hàng hoá> Thể hiện ở chỗ kinh tế thị trường: - Phạm trù hàng hoá được mở rộng, không chỉ những hàng hoá hữu hình mà cả những hàng hoá vô hình và ngày càng chiếm tỉ trọng. - Thị trường ngày càng phát triển mở rộng, hoàn thiện gồm nhiều loại thị trường : thị trường tiêu dùng hàng hoá, thị trường sức lao động, thị trường khoa kọc và công nghệ. - Mọi quan hệ kinh tế dều được tiền tệ hoá. + Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển ở KTTT Việt Nam - Phân công lao động xã hội: không mất đi mà ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Thể hiện ở trình độ chuyên môn hoá ngày càng cao: thực hiện một khâu lắp rắp, phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương càng ngày càng phát triển. - Tính độc lập tương đối của các chủ thể. Trong nền kinh tế nước ta, tồn tại nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, ngay trong một thành phần kinh tế, các doanh nghiệp mang tính độc lập với nhau do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng nên quan hệ giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá - tiền tệ Chính vì vậy KTTT tồn tại ở nước ta là một tồn tại khách quan. 1.2.2 Tác dụng to lớn của sự phát triển kinh tế thị trường KTTT tạo động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội. Do sự cạnh tranh của người sản xuất hàng hoá buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải tiến kĩ thuật, áp dụng công nghệ mới hiện đại để giảm chi phí sản xuất đến mức tối thiểu nhờ đó có thể cạnh tranh về giá cả,chất lượng. Đồng thời kinh tế thị trường kính thích tính sáng tạo của các chủ thể kinh tế, kính thích việc nâng cao chất lượng, cải tạo mẫu mã cũng nhu tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ, bởi vì các chủ thể muốn tồn tại phát trển muốn thu các lợi nhuậm siêu nghạch thì phải cải tiến kĩ thuật phải năng động sáng tạo, người sản xuất phải căn cú vào nhu cầu của người tiêu dùng để biết mình phải sản xuất cái gì, khối lượng bao nhiêu, chất lượng mẫu mã nhu thế nào. Sự phát trển kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất, nhiề nghành nghề mới ngày càng phát triển, phát huy được tiền nang lợi thế của từng vùng của đất nước. Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất được thúc đẩy mạnh, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội hoá cao, chọn lọc những người sản xuất giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lí có trình độ, lao động có tay nghề cao. Như vậy, phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế đối với nước ta, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp công nghệp hoá hiện đại hoá. Nhờ phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, công nghệ, của nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần quyết định vào viêc tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao như thời gian qua. Kinh nghiệm Từ một nền sản xuất nhỏ đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nhất thiết phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất. Đồng thới xây dựng lực lượng sản xuất phù hợp. Như vậy, muốn phát triển thì bên cạnh việc thúc đẩy và tiến hành quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá- thì quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một đột phá lý luận rất sáng tạo của đảng ta. Từ đại hội VI, chúng ta đã dứt khoát từ bỏ nền kinh tế phi hàng hoá, phi thị trường, mô hình kinh tế tập trung quan niêu bao cấp, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Cương lĩnh (năm 1991) khẳng định " phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước". Đại hội VIII đưa ra quan niệm mới, rất quan trọng: " sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng"/ Mục đích của kinh tế thỉ trường định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sơ vật chất - kinh tế của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại cùng với quan hệ sản xuất tiên tiến. Kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo thành nền tảng vững chắc. Kinh tế tư nhân , kể cả kinh tế tư bản tư nhân, là một bộ phận quan trọng hợp thành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Vai trò của kinh tế tư nhân đang và sẽ có xu hướng tăng lên vì lợi ích của đất nước và CNXH. Đảng và nhà nước chủ trương khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân trong mọi nghành nghề mà luật phát không cấm kể cả quy mô lớn. Vấn đề đặt ra là: phải có chính sách và giải pháp tạo điều kiện để các thành phần kinh tế cùng phát triển, phát huy mặt tích cực hạn chế mặt tự phát tiêu cực, vừa không làm mất động lực phát triển, vừa chủ động khống chế các phân hoá hai đầu, giữ vững định hướng XHCN.Như vậy, bảo đảm định hướng XHCN phải được thể hiện ngay trong chính sự vận động của mỗi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường nước ta. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự quản lý của nhà nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật, bằng cả sức mạnh kinh tế nhà nước, đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực các khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân. Sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là ở chỗ xác lập chế độ công hữu và thực hiện phân phối theo lao động. Nước ta, lấy phát triển kinh tế thị trường là phương tiện đạt mục tiêu cơ bản xây dựng xã hội chủ nghĩa, thưc hiện dân giàu - nước mạnh - xã hội công bằng - dân chủ - văn minh. Vì vậy, mỗi bước tăng trưởng kinh tế ở nước ta phải gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Việc phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội và tập thể có ý nghĩa quan trọng để thực hiện mục tiêu đó. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng la nền kinh tê mở, hội nhập do đó cần tiếp tục mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động và tích cực thâm nhập thị trường thế giới. Chương 2: Thực tiễn 2.1 Chủ trương phát trriển KTTT định hướng XHCN đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. 2.1.1 Về kinh tế: - Một là: từ một nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển rơi vào tình trạng sản xuất trì trệ; đến nay nền kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất kĩ thuật được tăng cường, nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của 10 năm ( 1990-2000 ) đạt 7.5%, trong 5 năm (2001-2005) của nhiệm kì đại hội IX, GDP tăng gần 7.5%. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đáng kể, nguồn lực phá triển trong các thành phần kinh tế được huy động khá hơn,năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được cải thiện. - Hai là: Thực hiện có hiệu quả chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 khung pháp lí có tác dụng giải phóng lực lượng sản xuất, phục vụ cho việc sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước. Cơ chế quản lí doanh nghiệp Nhà nước đổi mới theo hướng xoá bao cấp, thực hiệ chế độ công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp, giảm thiểu sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Qua sắp xếp, đổi mới và cổ phần hoá, số doanh nghiệp Nhà nước giảm đi: năm 1990 la 12.084 doanh nghiệp, đén tháng 6/2005 còn 2.980 daonh nghiệp 100% vốn Nhà nước. Kinh tế tập thể mà nòng có là hợp tác xã đã được đổi mới từng bước theo luật hợp tác xã và các chính sách của Đảng- Nhà nước. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã tốt hơn, chất lượng và hiệu quả hoạt động khá hơn, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn trước. Năm 2005 kinh tế tập thể đóng góp 8% GDP. Kinh tế tư nhân phat huy ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân nhất là tè sau khi có luật Doanh nghiệp năm 2005. Sau gần 5 năm, cả nước có gần 108.300 doanh nghiệp mới đăng kí, đưa tổng số doanh nghiẹp đăng lên khoảng 150.000, tăng số vốn đăng kí đạt 302 250 tỉ đồng đồng thời tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội: + Năm 2004, số lao động làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp tư nhân đã gần bằng tổng số lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước, giải quyết khoảng 1,6 đến 2 triệu việc làm. + Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 37,74% GDP, trên 7,5% tổng thu ngân sách, trên 17,1% tổng vốn đầu tư xã hội. - Ba là: Thể chế KTTT định hướng XHCN dần được hình thành. Nền kinh tế nhiều thành phần theo chủ trương của Đảng được quy định trong Hiến pháp 1992 đã được cụ thể hoá bằng các luật kinh tế, các pháp lệnh. Với luật doanh nghiệp, quyền tự do kinh doanh được Hiến pháp 1992 quy định đã thực sự đi vào cuộc sống. Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế, bộ luật dân sự, luật thương mại, luật Đầu tư nước ngoài ... đã tạo khung khổ pháp lí ban đầu cho các yếu tố thị trường hình thành và vận hành từng bước. Đồng thời Nhà nước đã thể chế hoá thành cơ chế, chính sách về đất đai, tín dụng, ưu đãi thuế... Nhờ đó, Nhà nước đã góp phần tích cựccho qú trình phát triển kinh tế thị trường trong suốt gần 20 năm qua. Nhà nước đã từng bước tách chức năng quản lí Nhà nước về kinh tếcủa các cơ quan Nhà nước, chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp Nhà nước của Nhà nước, chức năng kinh doanhcủa doanh nghiệp, chuyển từ can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế sang can thiệp gián tiếp thông qua hệ thống pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô khác. - Bốn là: Cơ cấu kinh tế ngành, vùng có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. + Cơ cấu ngành kinh tế: ++) Tỉ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng nhanh và liên tục: 1998 là 21,6% GDP; 2003 là 40% GDP; dự kiến năm 2005 là 41% GDP. ++) Tỉ trọng nông nghiệp trong GDP năm 2003 còn 21,8% , năm 2005 là 20,5%. ++) Tỉ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1998 len 38,2% năm 2003; 38,5% năm 2005. Ngành bưu chính viễn thông và du lịch phát triển nhanh. Các dịch vụ tài chính,ngân hàng, tư vấn, pháp lí .... có nhiều bước phát triển khá. + Cơ cấu vùng kinh tế: Ba vùng kinh tế trọng điểm đã phát triển với tốc độ cao hơn mức bình quân cả nước, hiện chiếm hơ 60% GDp của cả nước với tốc đô thị hoá tương đối nhanh. Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng giảm tỉ lệ lao động trong sản xuất thuần nông, tăng tỉ lệ trong công nghiệp và dịch vụ. ++) Năm 2004: Lao động nông, lâm,ngư nghiệp chiếm chiém 58% tổng lao động. ++) Năm 2005: Lao động trong nông, lâ, ngư nghiệp còn 57%, trong coong nghiệp xây dựng là 18%, dịch vụ 25 %. Việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư có nhiều tiến bộ: nguồn vốn trong nước tích kuỹ chiếm trên 60% tổng vốn đầu tư, huy động nguồn vốn bên ngoài. Năm 2005, Việt Nam đã thu hút khoảng 6 tỉ đola vốn đầu tư mới trong đó Nhật Bản có 97 dự án với số vốn hơn 500 triệu đôla. - Năm là: Đạt được những kết quả tích cực trong hội nhập kinh tế khu vực và trên thế giới: + 28-7-1995, nước ta gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đong Nam á (ASEAN). + Đến năm 2005,nước ta có quan hệ thương mại với 221 nước và vùng lãnh thổ, kí 90 hiệp định thương mại song phương. + Năm 2006: Nước ta hoàn tất các thủ tục gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. 2.1.2 Về văn hoá, xã hôị, con người: + Giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo: ++) Từ 2000 đến 2005: tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động. ++) Tỉ lệ hộ đói nghèo giảm 30% năm 1992 xuống dưới 7% năm 2005 (theo chuẩn quốc gia). Năm 2002, VIệt Nam được Liên hợp quốc đánh giá là " hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu" : giảm một nửa tỉ lệ nghồe năm 2015. + Về giáo dục: Có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hoá vè loại hình trường lớp: mầm non,tiểu học, trung học, đại học, cao học.....Năm 2004 20 tỉnh thành phố đạt phổ cập giấo dục trung học cơ sở. + Về khoa học công nghệ và tiềm lực phát triển khoa học công nghệ: Có những bước tiến đáng kể. Nhiều thành tựu khoa học công nghệ được đưa vào áp dụng trong thực tế. KInh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ đựơc tăng lên. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệđã góp phần cung cấp các luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, xây dựng các trương trình dự án phát triển kinh tế xã hội. + Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có tiến bộ, giảm tỉ lệ tử vong suy dinh dưỡng ở trẻ em, khống chế thành công bệnh viêm đường hô hấp (SARS), tuổi thọ trung bình tăng (năm 2005 là 71,3 tuổi). Chỉ sốphát triển con người (HDI) tăng: năm 2004 với chỉ số 0,691 nước ta xếp thứ 112 trên tổng só 177 nước điều tra; năm 2005 Việt Nam được xếp lên 4 bậc. + Về phát triển nguồn nhân lực: Tinh đến giữa năm 2004, 22,5% số người lao động đã qua đào tạo, trong số đó được đào tạo nghề là 13.3%. 2.1.3 Về hệ thống chính trị: Trong xây dựng Nhà nước,đã quán triệt nguyên tắc quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, phát huy tính sáng tạo của nhân dân, biết tham khoả và chọn lựa có chọn lọc lí luận xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân loại vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Quốc hội làm tốt hơn chức năng lập pháp, công tác giám sát và quyết định các vấn đề trọng đại của quoc gia. Đã có phương hướng chiến lược lập pháp, ban hành Hiến pháp 1992 và chỉ đạo sửa đổi Hiến pháp đó vào năm 2001. Đã sửa đổi và ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến các thành phần kinh tế, loại bỏ hàng trăm quy định lỗi thời.Từ năm 1987 đến tháng 6/2005, Quốc hội đã ban hanh 145 luật, bộ luật. Những văn bản luật đó đã tạo khung khổ pháp lí để Nhà nước quản lí băng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoágiáo dục, đối ngoại... Quyền kinh doanh sản xuất, quyến sở hữu và sử dụng (trực tiếp hay gián tiếp) đối với tư liệu sản xuất, trong quản lí xuất và trao đổi kết quả lao động - cả phạm vi trong và ngoài nước- được khẳng diịnh và bảo đảm bằng văn bản pháp luật. Trình độ và năng lực làm chủ của nhân dân từng bước được nâng lên. 2.1.4 Về đối ngoại: Chúng ta đã giành được những thắng lợi to lớn. + Phá thế bị bao vây, cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, giữ vững độc lập chủ quyền Quốc gia. Đến nay, ta đã có quan hệ ngoại giao với 167 nước trong số hơn 200 nước trên thế giới. Với các nước ASEAN đã bình thường hoá hoàn toàn quan hệ,chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hữu nghị và hợp tác, mở rộng thị trường thu hút đàu tư,nâng cao vị thế của Việt Nam ở khu vực và thúc đẩy các mối quan hệ quốc tế khác. + Xác lập được quan hệ ổn định với các nước lớn: đã kí hiệp định về hợp tác với EU (năm 1995), tuyên bố về quan hệ đối tác chiến lược với Nga (năm 2001), khung khổ quan hệ đối tác tin cậy vầ ổnđịnh lâu dài với Nhật Bản (năm 2002). Đã từng bước bình thừơng hoá hoàn toàn quan hệ với Hoa Kì, mở ra thị trường Hoa Kì. + Tranh thủ ODA, thu hút FDI, mở rộng thị trường ngoài nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, đẫ tranh thủ được nguồn vốn, khoa học công nghệ tiên tiến, kĩ thuật quản lí của nước ngoài để phát triẻn đất nước. Chúng ta đã tiến một bước dài trong hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc gia nhập các tổ chức AFTA, APEC và hiện nay là gia nhâp WTO. Cũng đã thiết lập được quan hệ tín dụng với các tổ chưc tài chính, tiền tệ quốc tế, tranh thủ được số lượng đáng kể vốn vay ưu đãi của ngân hàng thế giới (WB), quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và ngân hàng phát triển châu á (Adb). 2.1.5 Về xây dựng Đảng: Đảng ta thể hiện rõ bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng khoa học, vững vàng kiên định mục tiêu. Công tác tư tưởng chính trị của Đảng có nhiều đổi mới, góp phần vào việc nâng cao nhận thức đổi mới tư duy. Phương thức lãnh đạo của Đảng có tiến bộ. 2.2 Bên cạnh những thành tựu đạt được thì việc phát triển KTTT định hướng XHCN con tồ tại những mặt hạn chế. 2.2.1 Về nhận thức: Chưa hình thành được một khung lí luận vững chắcvề thể chế KTTT định hướng XHCN nên nhiều khi chưa tôn trọng đầy đủ và nhất quán những nguyên tắc của KTTT trong xây dựng, vận hành và xử lí các vấn đề của nền kinh tế. Nên về thực tiễn tốc độ tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng. Sự cân đối vĩ mô của nền kinh tế thiếu vững chắc. Kinh tế Nhà nước chưa làm thật tốt vai trò chủ đạo,chất lượng, hiệu quả sức cạnh tran còn thấp. Kinh tế tập thể phát triển chậm trên mô nhỏ. Kinh tế tư nhân chưa phát triển mạnh đúng với tiềm năng. Kinh tế có vốn dầu tư nước ngoài còn gặp khó khăn về môi trường đầu tư và một số vướng mắc liên quan đến chính sách và pháp luật. Thể chế KTTT định hướng XHCN chạm được hình thành đồng bộ. Hệ thống thị trường còn bất cập: thị truờng lao động còn sơ khai, thị trường tài chính mới dag từng bước được xác lập, thị trường khoa học công nghệ chưa thực sự ra đời... Hệ thống pháp luật trên lĩnh vực kinh tế còn thiếu toàn diện, chưa ổn định và thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lí của Nhà nước. Đầu tư còn phân tán thất thoát, lãng phí, nhiều dự án kém hiệu quả. Vai trò quản lí của Nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN chưa thật sự rõ ràng, phương pháp quản lí còn nặng về can thiệp hành chính, thiếu căn cứ thị trường, thiếu những dự đoán tin cậy,thiếu chủ động và chưa có để đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. 2.2.2 Về các vấn đề xã hội: Việc kết hợp phát triển kinh tế với giải quyết các vân đề xã hội còn nhiều hạn chế,nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt: tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại, tình trang tái nghèo ở nông thôncao, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị vẫn còn ở mức khá cao, ở nông thôn việc thiếu việc làm rất nghiêm trọng, chất lượng giáo dục nhìn chugn còn thấp. 2.2.3 Về đối ngoại: Trong các quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn nhièu khi lúng túng, bị động do không nắm bắt kịp thời những chuyển động trong chính sách của những nước lớn, của các quan hệ quốc tế. Công tác thông tin đói ngoại còn bị động, thiếu sắc bén chưa có tính thuyết phục. Chưa tạo dựng được mối quan hệ thật sự ổn định, lâu dài và vững chắc với các cường quốc. Chúng ta cũng chưa có những giải pháp đồng bộ, huy động sức mạnh của toàn xã hội để giải quyết các vấn đề xẫ hội. Một số cán bộ, đảng viên chưa thấy hết âm mưu của các thế lực thù địch,còn mơ hồ chủ quan, mất cảnh giác, chưa thấy hết mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế. 2.2.4 Về công tác Đảng: Không ít vấn đề lí lụân về Đảng cầm quyền trong điều kiện KTTT, dân chủ hoá và mở cửa chưa được làm sáng tỏ. Công tác tư tưởng chưa chuẩn bị đầy đủvà có biện pháp tích cực cho bước chuyển căn bản trên những lĩnh vực phát triển kinh tế và mở đối ngoại. Một bộ phận Đảng viên suy thoái về đạo đức, lối sống, chưa ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, chuyên quyền, độc đoán...Công tác lí luận của Đảng còn chưa đủ sức làm sáng tỏ không ít vấn đề do thực tiễn đặt ra. Thiếu biện pháp chỉ đạo để khắc phục có hiệu quả tình trạng yếu kém của nhiều tổ chức cơ sở Đảng trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Phương thức lãnh đạo Đảng còn lúng túng hạn chế. Việc phối hợp giữa kiểm tra của Đảng và thanh tra của Nhà nước chưa chặt chẽ. Chương 3: Giải pháp và kiến nghị Từ thực tiễn phát triển KTTT định hướng XHCN trong thờigian qua và căn cứ vào yêu cầu phát triển trong thời gian tới có thể xác định những phương hướng nhiệm vụ cơ bản phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam như sau : 3.1 Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần Coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài hợp tác và làm ăn lành mạnh, không nên có thái độ định kiến và kì thị đối với bất kì một thành phần kinh tế nào, tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, đều được khuyến khích phát triển. Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố dò đường cho sự phát triển nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội chấp hành pháp luật. Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước theo hướng xóa bao cấp; doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh nộp đủ thuế có lãi, thực hiện tốt cơ chế dân chủ trong doanh nghiệp, thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá đa dạng hoá sở hữu đối với những doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm 100% vốn. Xây dựng và củng cố một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước. Đẩy mạnh đổi mới kí thuật, công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế tập thể : gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt, các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô địa bàn, liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Nhà nước giúp các hợp tác xẫ đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học và công nghệ, thông tin mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã. Thực hiện tốt việc chuyển đổi hợp tác xã theo luật hợp tác xã. Kinh tế cá thể tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, bao gồm cả các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những nghành nghề sản xuất, kinh doanh mà phát luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài, chuyển thành doanh nghiệp cổ phần bán cổ phần cho người lao động liên doanh liên với nhau, với kinh tế tập tjể và kinh tế nhà nước. Xây dựng mối quan hệ tốt giữa doanh nghiệp và người lao động. Tạo điều kiện để kihn tế có vốn nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào các sản hẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiẹn đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp để thu hút nhiều hơn vốn đầu tư nước ngoài. Phát triển đa dạng kinh tế tư bản Nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh tế. Chú trọng các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kihn tế cổ phần nhằm huy động sử dụng rộn rãi vốn đầu tư xã hội. 3.2 Đẩy mạnh công nghiêp hoá- hiện đại hoá, ứng dụng nhanh các tiến bộ khoa học- công nghệ, trên cơ sở đẩy mạnhphân công lao động xã hội. Con đường công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự vừa có những bước nhảy vọt, vừa phát huy nội sinh vừa tận dụng mọi khả năng bên ngoài. Tiến hành đồng thời hai chiến lược: thay thế nhập khẩu và hướng về xuất khẩu. Như xuất khẩu một số mặt hàng có ưu thế ở Việt Nam: dệt may, giày dép, nông sản....Lợi thế so sánh ở Việt Nam có thể được khai thác ở những ngành có công nghệ cao như: hoá đầu, điện tử, kĩ thuật điện, cong nghệ thông tin và cơ khí. Phải có sự bảo hộ chọn lọc đối với một số ngành công nghiệp nhất định. Phân phối hợp lí theo thời gian các nguồn lực bên ngoài và bên trong, ứng dụgn nhanh các thành tựu khoa học công nghệ hiện đạiva tri thức mới, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phân công lao động xã hội là cơ sở chung của sản xuất và trao đổi hang hoá. Vì vậy, để phát triển kinh tế hàng hoá, phải đẩy mạnh phân công lao động xã hội, và do đó cssnf đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại. 3.3 Hình thành và phát triển có đồng bộ các loại thị trường và nâng cao hiệu lực quản lí kinh tế của Nhà nước. Nhìn chung KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam mới dược bắt đầu, trình độ còn thấp, chất lượng hiệu quả cạnh tranh chưa cao. Nhiều thị trườngcòn sơ khai đồng bộ. Vì vậy, phải đổi mới mạnh mẽ tư duy hơn nữa, đẩy mạnh việc hình thành các laọi thị trường. Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ thông qua việc đẩy mạnh sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển hệ thống giao thông và phương tiện vận tải để mở rộng thị trường. Hình thành thị trường sức lao động có tổ chức để tạo điều kiện cho sự di chuyển sức lao động theo yêu cầu phát triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. Xây dựng thị trường vốn, tèng bước hình thành và phát triển thị trường chứng khoán để huy động các nguồn vốn vào phát triển sản xuất. Quản lí chặt chẽ đất đai và thị trường nhà ở. Xây dựng và phát triển thị trường thông tin, thị trường khoa học công nghệ. Chủ động hội nhập thị trường quốc tế đồng thời xây dựng khuôn khổ pháp lí, tăng cường thanh kiểm tra giám sát của Nhà nước. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kiểm sát kinh doanh, chống gian lận thương mại. Mặt khác phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lí kinh tế, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xoá bỏ bao cấp quan liêu, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước. Trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lí và điều tiết vĩ mô củaNhà nước. Đấu tranh có hiệu quả chống lại các hành vi tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lí thuận lợi bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển, bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp vơísử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế -xã hội, khai thác các nguồn lực của đất nước hợp lí, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập. Tiếp thục đổi mới các công cụ quản lí vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thịến hệ thống các cơ chế chính sách, luật pháp, đổi mới công tác kế hoạch hoá, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, tăng cường công tác thông tin kinh tế xã hội trong nước và quốc tế, kiểm tra tình hình thực hiện ở cấp vĩ mô và doanh nghiệp. 3.4 Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh té đối ngoại Tiến hành mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới để thu hút vốn , kĩ thuật và công nghệ hiện đại để khai thác tiềm năng và thế mạnh của đất nước nhằm phát triển kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá các hình thức kinh tế, quán triệt nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, không can thiệp vào nội bộ của nhau. Cần đẩy mạnh xuất khẩu, giảm dần nhập siêu, thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Sử dụng vốn vay phải có hiệu quả để có khả năng trả nợ, cải thiện được cán cân thanh toán. chủ động tham gia tổ chức thương mại quốc tế. 3.5 Giữ vững an ninh xã hội: Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thục thiện công bằng xã hội tạo động lực mạnh mẽ nhằm phát triển sản xuất, tăng năng xuất lao động thực bình đẳng trong quan hệ sản xuất, khuyết khích nhân dân làm giàu hợp pháp và chính đáng. Phải có những giải pháp tốt tạo ra nhiều việc làm, chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương đối với cán bộ công chức, khuyến khích người có tài. Từng bước mở rộng hệ thống bảo hiểm và an ninh xă hội. Tiếp tục thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, chăm sóc những người có công với cách mạng. Đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự và kỉ cương xã hội, ngăn chặn và bài trừ các tệ nạn xã hộ, đấu tranh chống tham nhũng, gian lận thương mại. 3.6 Giữ vững sự ổn định chính trị, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng đầu tiên để phát triển, tạo cho các nhà doanh nghiệp trong và ngoài nước yên tâm đàu tư. Như vây, cần phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Thực tế ở một số nước cho thấy sự lãnh đạo của đảng bị buông lỏng tạo điều kiện cho các thế lực thù địch cướp chính quyền đưa đất nước đi theo đường khác. Việt Nam chủ trương phát triển KTTT nhưng không phải để cho nó vận động một cách tự phát, mù quáng mà phải có sự lãnh đạo, điều tiết, hướng dẫn để phát huy những mặ tích cực, hạn chế tiêu cực, vì lợi ích của đa số nhân dân. Người có khả năng và vai trò điều kiện để làm việc đó không ai khác là Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chiến lược phát triển của đất nước nói chung, kinh tế nói riêng. Trên cơ sở đường lối chiến lược đó Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị và guồng máy cã hội, trước hết là Nhà nước, tổ chức và thực hiện bằng được nhiệm vụ đã đề ra. Để có đủ trình độ, năng lực lãnh đạo, Đảng phải thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị tư tưởng và tổ chức, gắn bó chặt chẽ với nhân dân. Độ ngũ cán bộ ,đảng viên của Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ, có kiến thức, giữ gìn đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh, đấu tranh khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng và các hiện tượnh thoái hoá hư hỏng trong Đảng và trong bộ máy Nhà nước. Kết luận Trên đây, em đã trình bày về đề tài nghiên cứu của mình đó là những giải pháp để phát triển KTTT theo định hướng XHCN. Qua đó cho thấy phát triển KTTT định hướng XHCN là một quá trình tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Và đó cũng là sự tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của văn minh nhân loại. Vì vậy phải có những giải pháp hợp lý, hữu hiệu, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước nhằm phát huy tích cực vai trò của KTTT, đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của nó. Qua thời gian tìm hiểu sưu tầm tài liệu và đựơc sự hướng dẫn nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn đã giúp em có được nhiều kiến thức quan trọng bổ ích về nền KTTT định hướng XHCN và có được sự hiểu biết sâu hơn về nó. Tài kiệu tham khảo Giáo trình kinh tế chính trị Tạp chí Cộng sản (số 22 tháng 11 năm 2004) Thời báo kinh tế Việt Nam (số 36 - Thứ 2 ngày 22/2/2006) Kinh tế Châu á Thái Bình Dương Một số vấn đề lí luận - thực tiễn qua hai mươi năm dổi mới (1986-2006) NXB chính trị Quốc gia PGS.TS Hoàng Văn Hoa, " Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thị trường trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam " Nghiên cứu kinh tế, số 334- tháng 3/2006 Quan hệ kinh tế thương mại - TS Nguyễn Hữu Khôi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35823.doc
Tài liệu liên quan