Đề tài Giải pháp sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại chi nhánh quỹ hỗ trợ phát triển Hà Nội

Việc chậm trễ trong giao kế hoạch vốn hàng năm của Chính phủ khiến cho Quỹ Hỗ trợ phát triển luôn luôn ở trong tình trạng bị động. Nhiều dự án có hiệu quả cao đã không được chấp thuận cho vay do chưa có kế hoạch vốn. Hơn nữa, việc giao kế hoạch vốn nhỏ giọt, số vốn cân đối quá ít so với nhu cầu cũng làm cho đầu tư dàn trải và manh mún. Vì vậy để tạo điều kiện cho Chi nhánh Quỹ nâng cao hiệu quả hoạt động của mình, đề nghị Bộ kế hoạch đầu tư và Bộ tài chính thực hiện giao kế hoạch hàng năm đúng theo qui định vào khoảng tháng 10 năm trước, cùng với tiến độ giao các kế hoạch kinh tế xã hội khác. Mặt khác, cũng nên thực hiện cân đối vốn luôn một lần, tránh trường hợp đến cuối năm mới thông báo kế hoạch vốn bổ sung gây khó khăn cho hoạt động của Chi nhánh. Đó là cơ sở để cho Chi nhánh xây dựng kế hoạch hoạt động và triển khai thực hiện cho vay phát triển ngay từ đầu năm. Có như vậy mới đảm bảo hoàn thành kế hoạch vốn được giao và có điều kiện tìm kiếm hỗ trợ cho các dự án đầu tư phát triển bằng các nguồn khác. Về phía cơ quan quản lý thành phố, trong thời gian qua việc bố trí vốn cho các dự án nhìn chung còn dàn trải, chưa tập trung dứt điểm gây ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư. Dự án bị chậm trễ do không đủ vốn đầu tư làm phát sinh hàng loạt những chi phí khác khiến cho dự toán thay đổi nhiềulần và kết quả là vốn đầu tư thực tế tăng lên rất nhiều so với dự toán ban đầu. Hậu quả của việc này là vốn kế hoạch được cân đối lại càng không đủ để bố trí cho dự án và dự án càng chậm trễ, vốn đầu tư của Nhà nước càng không có khả năng thu hồi. Để khắc phục tình trạng này, UBND thành phố mà trực tiếp là Sở kế hoạch đầu tư cần bố trí đủ vốn và dứt điểm cho các dự án. Tiêu chí bố trí vốn nên được xét theo thứ tự ưu tiên như sau: - Các dự án chuyển tiếp đang thực hiện có hiệu quả - Các dự án trọng điểm của thành phố thuộc các chương trình kinh tế lớn của Chính phủ - Các dự án nhóm C mới có hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ cao - Các dự án nhóm B cần có thiết kế chi tiết và dự toán cho từng hạng mục để tạo điều kiện cho thành phố bố trí vốn theo đúng tiến độ của dự án - Các dự án dở dang nếu thấy không đạt hiệu quả thì chấm dứt ngay việc bố trí vốn để chuyển sang các dự án có hiệu quả hơn.

doc83 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1375 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại chi nhánh quỹ hỗ trợ phát triển Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội với chức năng đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội của thủ đô cũng đề ra cho mình những mục tiêu hoạt động cụ thể nhằm đảm bảo thực hiện hiệu quả công tác, góp phần hoàn thành thắng lợi các mục tiêu phát triển của thành phố đến năm 2010. Theo dự tính, để duy trì được tốc độ tăng trưởng 8,5-9,5%/năm từ nay đến năm 2010, toàn thành phố cần khoảng 15.000 tỷ vốn đầu tư. Nguồn vốn đầu tư này bao gồm cả vốn tín dụng ngân hàng, vốn ngân sách, vốn huy động từ nước ngoài trong đó, vốn trong nước phải đóng vai trò quyết định. Trên cơ sở đó, dự kiến vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh như sau Bảng 8: Dự kiến vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội giai đoạn 2001-2005 Chỉ tiêu 2001 2003 2005 % 100 100 100 Tổng nguồn vốn tín dụng tỷ đồng 3327 5756 8290 % 10,2 13,4 13,6 Nguồn vốn tín dụng ĐTPT của NN tỷ đồng 339,5 598,6 787,4 Nguồn: Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội Trong thời gian tới, định hướng bố trí vốn tín dụng đầu tư phát triển vẫn tiếp tục tập trung vào các dự án thuộc các lĩnh vực sau: - Khối sản xuất công nghiệp bao gồm các dự án thuộc các ngành: cơ khí (trọng điểm là chương trình xe đạp-quạt điện), điện-điện tử, dệt may-da giầy, sản xuất vật liệu xây dựng và chế biến lương thực thực phẩm. Ngoài ra cũng ưu tiên phát triển những ngành công nghệ cao, tạo ra sản phẩm có hàm lượng chất xám lớn. - Khối xây dựng hạ tầng đô thị: tập trung vào các dự án xây dựng hạ tầng cho các khu công nghiệp, khu đô thị mới, xây dựng nhà ở để giải phóng mặt bằng, nhà ở cho người có thu nhập thấp. - Các dự án đầu tư phát triển hạ tầng viễn thông, phát triển công nghệ thông tin và tin học. - Các dự án thuộc ngành nông lâm nghiệp như chế biến, bảo quản thực phẩm, máy móc phục vụ ngông nghiệp, trồng cây ăn quả, trồng rừng nguyên liệu, nuôi trồng thuỷ sản… - Các dự án sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu có giá trị xuất khẩu lớn, tạo ra nhiều công ăn việc làm. - Các dự án thuộc lĩnh vực giáo dục, y tế, giao thông…đặc biệt chú trọng đến những dự án phát triển các trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học, phổ cập và nâng cao chất lượng giáo dục, các dự án nâng cao chất lượng giao thông và y tế phục vụ đời sống dân cư. Trên cơ sở các lĩnh vực ưu tiên như trên, tập trung vốn cho những dự án đang vay dở để hoàn thành dứt điểm công trình, sớm đưa dự án vào hoạt động và khai thác. Nguồn vốn còn lại bố trí cho những dự án có tính khả thi cao, đạt hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội, có khả năng hoàn trả nợ vay. Nghiệp vụ hoạt động chính của Chi nhánh trong giai đoạn tới vẫn là cho vay đầu tư phát triển. Trên cơ sở nguồn vốn do ngân sách cấp chủ động phối hợp với Sở kế hoạch đầu tư thành phố và các chủ đầu tư để hoàn tất thủ tục triển khai ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân vốn vay. Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư là hoạt động cần được đẩy mạnh để huy động tối đa các nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên, cơ chế thực hiện cũng như các qui định về hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cần được nghiên cứu cải tiến cho phù hợp để hấp dẫn chủ dự án, phát huy được vai trò hỗ trợ của Quỹ đối với các dự án được khuyến khích đầu tư. Bảo lãnh tín dụng đầu tư cũng cần được nghiên cứu cải tiến cho phù hợp để đưa vào thực hiện. Trong thời gian tới, Chi nhánh Quỹ cần sử dụng linh hoạt cả 3 hình thức cho vay đầu tư phát triển, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và bảo lãnh tín dụng đầu tư thành công cụ hữu hiệu để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình trong đầu tư phát triển kinh tế xã hội góp phần hoàn thành các chỉ tiêu cơ bản đề ra trong chiến lược phát triển từ nay đến năm 2010 của UBND thành phố Hà Nội. Về hoạt động cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước, trong những năm tiếp theo, Chi nhánh chủ trương đẩy nhanh tiến độ thẩm định dự án, ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân vốn vay, đảm bảo thực hiện 100% vốn kế hoạch. Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay, giảm thiểu nợ quá hạn và lãi treo. Chủ động và kịp thời giải quyết những món nợ “có vấn đề”, tìm hiểu nguyên nhân để đưa ra biện pháp tháo gỡ, trình cấp trên xem xét và quyết định. Trong những năm tới, cho vay đầu tư phát triển của nhà nước phải thực sự trở thành công cụ kích thích đầu tư, đem lại hiệu quả cao cho thành phố. 3.1.3 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội Như đã trình bày ở trên, mặc dù 2 hình thức mới của tín dụng đầu tư phát triển là hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và bảo lãnh tín dụng đầu tư đã được triển khai thực hiện nhưng trong những năm trước mắt và cả về lâu dài, cho vay đầu tư phát triển vẫn là hoạt động nghiệp vụ chính của Quỹ Hỗ trợ phát triển. Nó không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách mà cón là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Chính phủ. Thông qua hoạt động cho vay đầu tư phát triển, Nhà nước có khả năng định hướng nền kinh tế xã hội theo đúng mục tiêu phát triển đặt ra cho từng giai đoạn, từng thời kỳ nhất định. Xét về phía các chủ đầu tư, cho vay đầu tư phát triển một mặt vẫn đảm bảo tính ưu đãi, đem lại những điều kiện thuận lợi cho chủ dự án, một mặt vẫn thúc đẩy tính năng động, sáng tạo, ý thức trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc thực hiện dự án. Đó là cơ sở để nâng cao hiệu quả đầu tư của toàn xã hội nhằm hướng tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững. Căn cứ vào định hướng phát triển của thành phố Hà Nội và Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội trong thời gian tới, hoạt động cho vay đầu tư phát triển cần được mở rộng và đẩy mạnh hiệu quả hơn nữa để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư của thành phố. Tuy nhiên, quá trình thực hiện hiện nay đã bộc lộ không ít những khó khăn, vướng mắc và bất cập làm giảm hiệu quả hoạt động của Chi nhánh nói riêng và hiệu quả đầu tư của toàn thành phố nói chung. Chính vì vậy, trong thời gian tới cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các chủ thể tham gia vào tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước để tháo gỡ những khó khăn đó, đặc biệt là những khó khăn đối với quá trình thực hiện tại Chi nhánh Quỹ để phát huy vai trò của vốn nhà nước trong phát triển kinh tế thủ đô. Các giải pháp đưa ra nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển của nhà nước tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội trong thời gian tới phải đảm bảo các nguyên tắc của tín dụng đầu tư phát triển là: - Nhà nước thống nhất quản lý các nguồn vốn ưu đãi cho đầu tư phát triển và giao cho Quỹ Hỗ trợ phát triển quản lý các nguồn vốn này. - Đầu tư tiết kiệm, tránh lãng phí, thất thoát vốn. - Đầu tư tập trung dứt điểm, chống phân tán dàn trải, vốn đầu tư phải được bố trí đủ theo tiến độ thi công, đảm bảo đưa nhanh dự án vào sử dụng nhằm tăng nhanh năng lực sản xuất. - Xoá bỏ hoàn toàn cơ chế xin-cho trong tín dụng đầu tư phát triển nhằm nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư, nâng cao hiệu quả đầu tư và hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. - Chỉ cho vay đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp, cần tập trung vốn cho các dự án của một số ngành mũi nhọn, chương trình kinh tế lớn của Chính phủ và những lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư theo qui định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi), tránh bao cấp vốn một cách tràn lan qua tín dụng ưu đãi. - Các điều kiện ưu đãi bao gồm ưu đãi về lãi suất, về thời hạn vay, về thời gian ân hạn, về thế chấp tài sản, về thuế và sử dụng đất…phải đảm bảo tính linh hoạt và tương đối ổn định. - Giảm tối thiểu những khó khăn, rườm rà trong quá trình thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho chủ đầu tư trong việc vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. 3.2 giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội Trên cơ sở phân tích tình hình hoạt động, đánh giá những kết quả đạt được, chỉ ra những hạn chế và các nguyên nhân của nó ở phần trên, chương III xin được đề cập đến những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội. 3.2.1 Giải pháp đối với Chi nhánh Quỹ Để nâng cao hiệu quả tín dụng đầu tư phát triển nói chung và cho vay đầu tư phát triển nói riêng, Chi nhánh cần giữ vị trí trung tâm và đóng vai trò chủ động trong việc tìm ra các giải pháp hữu hiệu khắc phục những khó khăn vướng mắc trước mắt thực hiện tốt định hướng hoạt động trong thời gian tới trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc của tín dụng nhà nước nêu trên. 3.2.1.1 Xác định rõ và thực hiện đúng chức năng của mình Nghị định 50/1999/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển ngày 8/7/1999 qui định rõ chức năng của Quỹ Hỗ trợ là huy động vốn trung và dài hạn, tiếp nhận và quản lý các nguồn vốn của Nhà nước dành cho tín dụng đầu tư phát triển để thực hiện chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với các dơn vị kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế của Chính phủ và các vùng khó khăn cần được khuyến khích đầu tư. Quỹ Hỗ trợ phát triển là một tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợ nhuận, bảo đảm hoàn vốn và bù đắp chi phí. Về mặt nguyên tắc, đây là kim chỉ nan cho hoạt động của Chi nhánh. Tuy nhiên, trên thực tế, do những tác động của nền kinh tế thị trường khi mà lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu, không phải lúc nào nguyên tắc trên cũng được đảm bảo. Do vậy, để nâng cao hiệu quả, Chi nhánh cần xác định rõ mục tiêu hoạt động của mình là hỗ trợ cho các dự án thuộc diện khuyến khích đầu tư, hoàn toàn không có cạnh tranh với các ngân hàng thương mại trong cho vay trung dài hạn. Việc đặt ra các chỉ tiêu, định mức thực hiện là cần thiết, nó tạo cơ sở định hướng hoạt động cho Chi nhánh. Tuy nhiên không nên quá coi trọng các chỉ tiêu này dẫn đến để hoàn thành kế hoạch mà vi phạm các nguyên tắc hoạt động của mình. Chi nhánh nên tránh việc thẩm định xét duyệt những dự án không đúng đối tượng sau đó đến khi trình Quỹ trung ương lại không được quyết định cho vay gây tốn kém thời gian và công sức. Trong phạm vi được phân cấp của mình, tuyệt đối không cho vay những dự án không đúng đối tượng. Với đặc điểm gần giống như một ngân hàng chính sách, Chi nhánh cần gạt bỏ mục tiêu lợi nhuận đưa hiệu quả đầu tư lên hàng đầu trong phương châm hoạt động của mình. Khi quyết định cho vay, Chi nhánh nên đánh giá hiệu quả trước hết dưới góc độ doanh nghiệp, sao đó đến góc độ nền kinh tế xã hội và cuối cùng mới đến lợi ích của Chi nhánh. Điều này là rất khó khăn, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay khi mà tất cả các đơn vị đều phải tự chủ về tài chính không thể chỉ trông chờ vào ngân sách nhà nước, tuy nhiên nó vô cùng cần thiết và là cơ sở để thực hiện các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Chi nhánh. 3.2.1.2 Chủ động khơi tăng nguồn vốn cho vay đầu tư phát triển Cùng với đà phát triển kinh tế của đất nước, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển ngày càng tăng. Trong khi đó, nguồn vốn tín dụng của nhà nước lại hạn chế. Thực hiện quan điểm bồi dưỡng nguồn thu của Chính phủ, hiện nay chỉ có khoảng 18% GDP được động viên vào ngân sách hàng năm. Mặt khác, nhu cầu chi thường xuyên và tích luỹ trả nợ nước ngoài ngày càng tăng gây sức ép lên ngân sách Nhà nước. Do đó, trong thời gian tới vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước chắc chắn không thể đảm bảo đáp ứng được nhu cầu. Trong tình hình đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động, Chi nhánh không nên thụ động trông chờ vào nguồn vốn kế hoạch được Chính phủ cân đối. Nên chủ động tìm kiếm các nguồn vốn nhàn rỗi như các quỹ tiết kiệm bưu điện, tích luỹ trả nợ nước ngoài, bảo hiểm xã hội…Một nguồn vốn khá lớn còn bỏ ngỏ mà Chi nhánh có thể huy động hiện nay là vốn vay từ các tổ chức phi chính phủ (NGOs), các tổ chức hỗ trợ phát triển nước ngoài như Quỹ hỗ trợ phát triển châu á ADF (Asian Development Fund). Đa số các tổ chức này đều sẵn sàng cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi cho các chương trình phát triển của đất nước. Tuy nhiên, việc huy động từ các nguồn này cần được xem xét cẩn thận để tránh rủi ro và những ràng buộc có thể xảy ra. Mặt khác, Chi nhánh cũng nên phối hợp với các ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố cho vay đồng tài trợ với những dự án chưa được bố trí đủ vốn. Các dự án được đánh giá là khả thi, có hiệu quả cao, có khả năng trả nợ mà gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn vốn đối ứng để ký hợp đồng tín dụng, Chi nhánh nên xem xét để thực hiện bảo lãnh cho chủ đầu tư vay vốn tại các ngân hàng thương mại hoặc trực tiếp cho vay bằng vốn tạm thời nhàn rỗi hoặc các nguồn tự huy động khác để sớm đưa dự án đi vào hoạt động. 3.2.1.3 Cải tiến qui trình thủ tục cho vay và giải ngân theo hướng đơn giản thuận tiện hơn cho doanh nghiệp Như đã trình bày ở phần trên, đối với hình thức cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước, để được vay vốn doanh nghiệp phải thực hiện những thủ tục hành chính hết sức nặng nề. Trong điều kiện hiện nay, chủ trương cải cách hành chính đã và đang được đề ra nhưng để thực hiện được nó thì không phải một sớm một chiều. Do đó, trong phạm vi khả năng của mình, Chi nhánh nên xem xét việc cải tiến qui trình thủ tục cho vay và giải ngân để góp phần giảm bớt những khó khăn cho doanh nghiệp. Đó cũng là cơ sở để nâng cao hiệu quả hoạt động của Chi nhánh. Một số điểm cần lưu ý là: - Xây dựng một cơ cấu tổ chức và qui trình thực hiện hợp lý. Hiện nay tại Chi nhánh, cán bộ tín dụng gần như đảm đương toàn bộ các công việc từ đầu đến cuối để ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân vốn vay cho dự án. Trong khi đó, qui trình thực hiện còn tương đối phức tạp, để ký được hợp đồng tín dụng hay giải ngân được vốn vay, hồ sơ chứng từ của dự án phải qua hàng loạt những bước khác nhau từ phòng tín dụng sang phòng kế hoạch nguồn vốn rồi đến phòng kế toán với chữ ký của Giám đốc Chi nhánh, của các trưởng phòng, các cán bộ. Vì vậy, Chi nhánh nên nghiên cứu xây dựng cơ cấu tổ chức và trình tự thực hiện hợp lý hơn để góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện. - Về việc ký khế ước nhận nợ của doanh nghiệp khi giải ngân vốn vay, để thuận tiện cho cả 2 phía: Chi nhánh Quỹ và doanh nghiệp, Chi nhánh nên lập khế ước thành 2 bản có giá trị như nhau, mỗi phía giữ một bản. Mỗi khi doanh nghiệp yêu cầu giải ngân vốn vay, sau khi Chi nhánh đã thẩm tra và đồng ý giải ngân thì có thể báo cho doanh nghiệp biết để chủ đầu tư ký vào bản khế ước nhận nợ đang giữ sau đó nộp cho Chi nhánh và nhận bản tại Chi nhánh về doanh nghiệp và cứ như vậy cho các lần tiếp theo. Mỗi bên sẽ tự chịu trách nhiệm về nội dung khế ước mà mình giữ trong từng thời kỳ. - Chi nhánh nên linh hoạt hơn trong công tác thẩm định và giải ngân vốn vay. Các qui định trong qui trình cho vay và giải ngân là cần thiết tuy nhiên đôi khi lại tỏ ra quá cứng nhắc gây khó khăn cho khách hàng. Một vấn đề nữa là đối với những dự án có vốn đầu tư lớn được bố trí kế hoạch trong nhiều năm thì việc thẩm định hiệu quả tài chính của từng khoản vốn được bố trí cho dự án là không chính xác bởi vì hiệu quả của dự án là hiệu quả tổng thể sau khi đã đầu tư. Do đó, Chi nhánh nên linh động hơn trong việc này, nghĩa là nếu tổng thể dự án đã được thẩm định và chứng minh hiệu quả tài chính thì không nhất thiết phải chứng minh hiệu quả của từng món vay. 3.2.1.4 ứng dụng Mareting ngân hàng có điều chỉnh cho phù hợp với đặc trưng của Chi nhánh để nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về hoạt động của Chi nhánh cũng như hình thức cho vay đầu tư phát triển của nhà nước Cho vay đầu tư phát triển của nhà nước về mặt nội dung và phương pháp thực hiện cũng gần giống như các hình thức cho vay trung dài hạn của các ngân hàng thương mại. Vì vậy, Chi nhánh hoàn toàn có căn cứ để nghiên cứu ứng dụng marketing ngân hàng để khắc phục thực trạng hiện nay tạo điều kiện để mở rộng hoạt động cho vay. Marketing ngân hàng, tại các ngân hàng thương mại là một hình thức tư duy hướng tới lợi nhuận. Đó là một quá trình xuyên suốt từ trước, trong và sau khi cho vay nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu của nhóm khách hàng mục tiêu và hướng tới mục tiêu sinh lợi cao nhất đó là lợi nhuận của ngân hàng và sự tăng trưởng phát triển kinh tế xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường, các ngân hàng tiến hành xây dựng chiến lược marketing và vận dụng linh hoạt 4 công cụ của Marketing mix tuỳ thuộc vào mục tiêu và các điều kiện của ngân hàng mình. Xét trên góc độ của Quỹ Hỗ trợ phát triển, tuy lợi nhuận không phải là mục tiêu hàng đầu song việc mở rộng cho vay trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả hoạt động hoạt động của mình là cần thiết. Để thực hiện được điều này, Chi nhánh nên nghiên cứu sử dụng các biện pháp marketing phù hợp. Với khả năng còn hạn chế của bản thân, xin đưa ra một số biện pháp: - Chấn chỉnh lề lối làm việc và thái độ giao dịch của cán bộ đối với khách hàng. Chi nhánh cần xoá bỏ hoàn toàn tác phong làm việc kiểu quan liêu bao cấp đồng thời nâng cao trình độ nghiệp vụ cũng như thái độ phục vụ của đội ngũ cán bộ nhằm tạo nên hình ảnh của Chi nhánh đối với khách hàng. - Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng bằng cách thực hiện tư vấn cho doanh nghiệp trong việc lựa chọn dự án, hoàn thiện hồ sơ, thực hiện các qui định về đấu thầu, giải phóng mặt bằng…Điều này hoàn toàn có cơ sở để thực hiện vì hầu hết cán bộ của Chi nhánh đều am hiểu các qui định, chính sách có liên quan của Nhà nước. Trong khi đó, thực hiện công tác này sẽ giúp doanh nghiệp đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án kéo theo đó là tiến độ kí kết hợp đồng tín dụng và giải ngân vốn vay. Mặt khác, cũng giúp chủ đầu tư xoá bỏ tâm lý e ngại khi tiếp cận vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước do thủ tục quá phức tạp. Đó là cơ sở để Chi nhánh mở rộng cho vay và nâng cao hiệu quả hoạt động. - Thực hiện các biện pháp quảng cáo khuếch trương. Do đặc trưng và lĩnh vực hoạt động, các hình thức khuyếch trương của Chi nhánh nên được thực hiện dưới dạng các nghiên cứu chuyên đề trên báo chí, đài phát thanh và truyền hình. Chi nhánh cũng có thể gửi công văn giới thiệu về hoạt động của mình, về các điều kiện ưu đãi của hình thức cho vay đầu tư phát triển tại Chi nhánh đến các đơn vị trên địa bàn thành phố. 3.2.1.5 Nâng cao năng lực thẩm định Công tác thẩm định đóng vai trò then chốt trong hiệu quả hoạt động của Chi nhánh. Thẩm định là bước đầu tiên dẫn đến việc Chi nhánh có cho vay đúng đối tượng và có khả năng thu hồi nợ vay hay không. Vạn sự khởi đầu nan, nếu trong quá trình thẩm định mà mắc phải sai lầm thì hậu quả rất khó lường. Đối với riêng Chi nhánh, những sai sót trong công tác thẩm định không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Chi nhánh, đến hiệu quả đầu tư của toàn thành phố mà xa hơn nữa là đến ngân sách nhà nước, đến sự phát triển của toàn xã hội. Với tư cách là người đi vay, các chủ đầu tư thường tìm mọi cách để “làm đẹp” hồ sơ xin vay của mình. Trách nhiệm của thẩm định là phải đánh giá đúng năng lực của chủ đầu tư và hiệu quả của dự án, phát hiện ra những rủi ro tiềm ẩn làm cơ sở cho quyết định cho vay hay không của Quỹ Hỗ trợ phát triển. Một số việc cần thực hiện để nâng cao năng lực thẩm định hiện nay tại Chi nhánh: - Về thu thập thông tin khách hàng: Để đánh giá được năng lực của chủ đầu tư, Chi nhánh cần thu thập những thông tin về ngành nghề hoạt động, tình hình hoạt động kinh doanh, trình độ quản lý của đội ngũ lãnh đạo và lịch sử quan hệ tín dụng của doanh nghiệp. Những thông tin này góp phần đánh giá được mức độ an toàn của Chi nhánh khi giao vốn cho doanh nghiệp. Các thông tin này có thể có được từ các nguồn sau + Kiểm tra tại doanh nghiệp: cán bộ tín dụng trực tiếp xuống tận cơ sở sản xuất kinh doanh để kiểm tra thực trạng của doanh nghiệp, trong đó cần đặc biệt chú ý đến máy móc thiết bị của doanh nghiệp lạc hậu hay hiện đại, được bảo quản tốt hay không, số lượng hàng tồn kho. + Xem xét các báo cáo tài chính của doanh nghiệp: Trong hồ sơ xin vay, Chi nhánh yêu cầu doanh nghiệp nộp báo cáo tài chính 2 năm gần nhất. Thông qua phân tích các báo cáo này, Chi nhánh có thể đánh giá được năng lực hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên để việc phân tích đưa lại kết quả chính xác cần chú ý bồi dưỡng kiến thức về phân tích báo cáo tài chính cho cán bộ thẩm định đồng thời với việc kiểm tra mức độ chính xác của các báo cáo tài chính trên cơ sở điều tra tại doanh nghiệp, thu thập thông tin từ cơ quan quản lý cấp trên của doanh nghiệp và từ các cơ quan thuế. + Thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (CIC): Trong trường hợp cần thiết, đặc biệt là đối với dự án vay của các chủ đầu tư thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, Chi nhánh nên tham khảo thông tin về khách hàng từ CIC. Trung tâm này cung cấp những thông tin về lịch sử quan hệ tín dụng của khách hàng, các khoản vay, tình hình thực hiện nghĩa vụ trả lãi và trả nợ, các khoản nợ quá hạn trước đây của đơn vị. Qua đó giúp Chi nhánh đánh giá được ý thức và khả năng trả nợ của khách hàng. Mặt khác, CIC còn cung cấp thông tin về tài sản thế chấp giúp Chi nhánh ngăn ngừa được tình trạng đơn vị đem tài sản thế chấp đi thế chấp tại ngân hàng khác hoặc dùng tài sản đã thế chấp để bảo đảm nợ vay. - Về thẩm định dự án: Yếu tố trực tiếp quyết định đến quyết định cho vay là hiệu quả tài chính của dự án. Hiện nay, Chi nhánh thường sử dụng 4 phương pháp để đánh giá hiệu quả tài chính của dự án đó là phương pháp tính giá trị hiện tại ròng (NPV), phương pháp tính tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR), phương pháp tính thời gian hoàn vốn đầu tư (PP) và phương pháp tính hệ số sinh lời của dự án (BCR). Ngoài ra cũng xem xét đánh giá kế hoạch thị trường của dự án. Tuy nhiên, để đánh giá chính xác hơn hiệu quả của dự án trong điều kiện những biến động của môi trường, Chi nhánh nên kết hợp sử dụng phương pháp phân tích tình huống trong thẩm định dự án. Phân tích tình huống là một kỹ thuật phân tích rủi ro hiện đại. Trong phương pháp này đòi hỏi phải xem xét cả tập hợp những hoàn cảnh tài chính tốt và xấu và sắc xuất xảy ra so với trường hợp có sắc xuất xảy ra lớn nhất (trường hợp cơ sở). Tập hợp những hoàn cảnh tài chính xấu là hoàn cảnh trong đó số lượng bán thấp, giá bán thấp, chi phí biến đổi cao…và ngược lại đối với tập hợp những hoàn cảnh tài chính tốt. Trong từng trường hợp ta sẽ tính NPV và so sánh với NPV cơ sở từ đó xác định được NPV mong đợi của dự án 3 NPVmong đợi = ồ Pi x NPVi i =1 Trong đó: Pi là sắc xuất xảy ra tình huống i NPVi là NPV của dự án trong tình huống i NPV mong đợi cho phép đánh giá đúng hơn khả năng sinh lợi của dự án. - Nghiệp vụ thẩm định tại Chi nhánh có thêm một bước nữa là xác định đối tượng áp dụng cho vay đầu tư phát triển của nhà nước của dự án để làm cơ sở cho việc ký kết hợp đồng tín dụng, xác định mức lãi suất cho vay và thời hạn cho vay. Tuy Chính phủ và Quỹ Hỗ trợ phát triển đã ra nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện song trên thực tế, việc xác định đối tượng trong nhiều trường hợp là rất khó khăn, đặc biết là đối với những lĩnh vực chưa có qui hoạch cụ thể như xã hội hoá giáo dục, văn hoá, y tế, thể dục thể thao hoặc những dự án có nhiều hạng mục thuộc các đối tượng khác nhau. Trong trường hợp này, Chi nhánh cần tham khảo qui hoạch phát triển ngành của các Bộ, ngành có liên quan trên cơ sở vận dụng các văn bản pháp luật và kế hoạch vốn do Sở kế hoạch đầu tư bố trí. 3.2.1.6 Tiến hành rà soát, phân loại nợ vay và có những biện pháp xử lý thích hợp Việc theo dõi nợ vay của Chi nhánh hiện nay hoàn toàn do các cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Cán bộ phụ trách cho vay dự án nào sẽ tiến hành theo dõi và phân loại nợ vay đối với dự án đó. Điều này cho phép Chi nhánh nắm được thông tin một cách đầy đủ và toàn diện hơn do cán bộ cho vay quản lý dự án từ đầu đến cuối nên nắm vững tình hình của chủ đầu tư và việc thực hiện dự án. Định kỳ, Chi nhánh sẽ tiến hành rà soát phân loại nợ vay trên cơ sở thu lãi, thu gốc và báo cáo của cán bộ tín dụng phụ trách dự án. Trong thời gian tới, để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động cho vay, đánh giá kịp thời và ngăn chặn những rủi ro có thể xảy ra, Chi nhánh nên có bộ phận chuyên trách về vấn đề này. Bộ phận này sẽ làm nhiệm vụ tập hợp thông tin từ các cán bộ tín dụng trên cơ sở xem xét tình hình thực tế để tiến hành phân loại nợ vay, từ đó có những biện pháp xử lý thích hợp. Trên thực tế, những dấu hiệu cho thấy một khoản dư nợ có thể xảy ra rủi ro là: - Doanh nghiệp chậm trễ trong việc báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của mình với Chi nhánh. - Doanh nghiệp có biểu hiện trốn tránh khi cán bộ tín dụng xuống kiểm tra đơn vị. - Hoàn trả lãi vay và nợ gốc chậm hoặc không đầy đủ theo hợp đồng tín dụng đã ký. Khi phát sinh những biểu hiện trên, cần nhanh chóng tìm hiểu nguyên nhân và tuỳ thuộc vào nguyên nhân mà đề xuất với lãnh đạo Chi nhánh hoặc trình cấp trên phương hướng giải quyết. - Đối với những dự án gặp khó khăn tạm thời do những biến động của tình hình thị trường ngoài khả năng tính toán thì nên xem xét miễn giảm lãi vay đồng thời phối hợp với chủ dự án để nhanh chóng tìm phương hướng khắc phục. Trong một số trường hợp không nên ngừng giải ngân đối với các dự án thuộc diện này mà nên đẩy nhanh giải ngân vì tăng vốn đầu tư trong giai đoạn này có thể giúp doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh. Nếu không có khoản gia tăng đầu tư kịp thời này, doanh nghiệp có thể mất khả năng thanh toán và rủi ro của Chi nhánh càng lớn hơn. - Đối với những khoản nợ quá hạn do nguyên nhân khách quan (được qui định cụ thể trong Qui chế cho vay) thì phối hợp với chủ đầu tư hoàn thiện hồ sơ trình Quỹ trung ương và Chính phủ xem xét khả năng gia hạn nợ hoặc khoanh nợ. Chú ý rằng những khoản nợ này sau khi được gia hạn hoặc khoanh nợ vẫn cần theo dõi thường xuyên để hạn chế các rủi ro tiếp theo và thu hồi vốn kịp thời cho Chi nhánh khi có khả năng. - Đối với những khoản nợ khó đòi mà chủ đầu tư mất khả năng thanh toán do các nguyên nhân khách quan thì phối hợp với chủ đầu tư lập hồ sơ trình Chính phủ xem xét xoá nợ. Trong trường hợp này cũng cần theo sát đơn vị để thu hồi phần nào vốn vay từ tiền bồi thường của cơ quan bảo hiểm. Bên cạnh đó, đồng thời tiến hành các thủ tục bù đắp rủi ro từ Quỹ dự phòng rủi ro của Chi nhánh. - Đối với những khoản nợ khó đòi (sau khi đã thực hiện đầy đủ các biện pháp giãn nợ, khoanh nợ) do nguyên nhân chủ quan của chủ đầu tư trước hết cần báo cáo kịp thời với cơ quan chủ quản và cơ quan ra quyết định đầu tư. Trong thời gian đó chuẩn bị đầy đủ hồ sơ thủ tục cho việc phát mại tài sản hình thành bằng vốn vay hoặc tài sản thế chấp để thu hồi vốn cho Chi nhánh. 3.2.1.7 Phát huy nhân tố con người trong hoạt động của Chi nhánh Con người luôn luôn đóng vai trung tâm trong mọi hoạt động xã hội và là nhân tố quyết định hiệu quả của hoạt động đó. Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội cũng không nằm ngoài thông lệ đó. Trong thời gian qua, phát huy nhân tố con người luôn là mục tiêu hàng đầu của Chi nhánh. Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ, phổ biến các qui định của Chính phủ và Hội đồng quản lý Quĩ được thực hiện thường xuyên. Bên cạnh đó, Chi nhánh còn chú trọng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ nhân viện tạo điều kiện nâng cao hiệu suất lao động. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa nhân tố con nguời đem lại hiệu quả hoạt động cao hơn và tương xứng với tiềm năng của Chi nhánh, trong thời gian tới Chi nhánh nên chú ý một số vấn đề sau: - Bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng. Chi nhánh nên thường xuyên tổ chức tập huấn cho cán bộ về các nghiệp vụ có liên quan như thẩm định dự án, qui trình cho vay. Để các bài giảng này phát huy hiệu quả hơn nữa có thể mời các chuyên gia hoặc cán bộ của Quỹ Hỗ trợ phát triển về trực tiếp thực hiện. Sau đó, đề nghị cán bộ tham gia tập huấn viết báo cáo thu hoạch để xem kiến thức được tiếp thu đến đâu. Qua những đợt học nghiệp vụ như vậy, cán bộ tín dụng có khả năng kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và thực tế, giữa kinh nghiệm và kiến thức để nâng cao chất lượng công việc. Mặt khác, nghiệp vụ cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước chịu điều tiết của rất nhiều những văn bản pháp luật khác nhau. Trong khi đó, với điều kiện Việt Nam hệ thống những văn bản này thường xuyên thay đổi. Vì vậy, mỗi khi có những qui định và hướng dẫn thực hiện mới Chi nhánh nên tổ chức một buổi tập huấn cho cán bộ. Qua đó cũng thu thập các ý kiến đóng góp của cán bộ về vấn đề trong thực tế để trình Quỹ Hỗ trợ và Chính phủ xem xét sửa đổi cho phù hợp - Nâng cao đạo đức nghề nghiệp và thái độ giao dịch với khách hàng của cán bộ nhận viên, đặc biệt là cán bộ tín dụng là những người tiếp xúc trực tiếp và thường xuyên với khách hàng. - Phát huy vai trò chủ động của cán bộ tín dụng trong việc tìm kiếm dự án đầu tư, đóng góp ý kiến để hoàn thiện dự án và chủ động phối hợp với chủ đầu tư trong việc hoàn tất hồ sơ thủ tục. Với chức năng của mình cán bộ tín dụng nên chủ động tìm kiếm các dự án đúng đối tượng và hướng dẫn chủ đầu tư hoàn tất thủ tục vay vốn. Mặt khác, trong quá trình thẩm định cũng nên cùng với chủ đầu tư xây dựng dự án, đóng góp ý kiến để hoàn thiện dự án. Tuy nhiên, trên góc độ của mình, cán bộ tín dụng chỉ nên đề xuất các định hướng chứ không nên đưa ra các con số cụ thể để tránh việc vừa lập vừa thẩm định dự án. - Qui định rõ trách nhiệm và quyền lợi của cán bộ. Đối với nghiệp vụ cho vay, công việc qui định càng cụ thể bao nhiêu thì hiệu quả đạt được càng cao bấy nhiêu. Vì vậy, Chi nhánh nên qui định rõ trách nhiệm của từng bộ phận và phân định quyền hạn và chức năng cụ thể của từng bộ phận giữa thẩm định và tín dụng để trong trường hợp có rủi ro xảy ra thì xác định được trách nhiệm thuộc về ai, có sai phạm trong quá trình thực hiện hay không và sai phạm đến đâu. Bên cạnh đó, Chi nhánh cũng nên xây dựng một qui chế khen thưởng kịp thời và phù hợp đối với những cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Có thể gắn quyền lợị vật chất của cán bộ với chất lượng công việc được đánh giá tổng hợp qua những chỉ tiêu nhất định như dư nợ cho vay, tiến độ giải ngân vốn vay, thời gian thực hiện, số nợ quá hạn và lãi treo… 3.2.1.8 Thực hiện theo dõi, tổng hợp và đánh giá hiệu quả dự án sau đầu tư Đây là vấn đề còn bỏ ngỏ trong công tác thực hiện nhiệm vụ cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh. Trong khi đó, xét về bản chất hoạt động thì hiệu quả cho vay ưu đãi không phải chỉ là thu hồi được cả gốc và lãi mà điều quan trọng hơn là vốn tín dụng đầu tư phát triển đem lại kết quả gì cho sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng và thành phố nói chung. Vì vậy, Chi nhánh nên tiến hành theo dõi và đánh giá hiệu quả sau đầu tư của dự án. Việc thu thập những thông tin này hoàn toàn không mất nhiều thời gian và công sức, các cán bộ tín dụng hoàn toàn có thể đảm nhận được. Mặt khác nó đem lại hiệu quả đáng kể cho hoạt động của Chi nhánh. Thông qua tổng hợp và đánh giá hiệu quả dự án sau đầu tư, Chi nhánh có thể rút ra những kinh nghiệm quí báu trong việc thực hiện nhiệm vụ. Không những thế nó còn là cơ sở để Chi nhánh xây dựng định hướng và kế hoạch hoạt động cả ngắn và dài hạn một cách cụ thể, chính xác và phù hợp với tình hình phát triển của thành phố. Kết quả đầu tư tổng hợp của các dự án vay vốn tín dụng đầu tư phát triển còn là những dữ liệu quan trọng để báo cáo Quỹ Hỗ trợ phát triển trung ương và Chính phủ làm cơ sở cho việc giao vốn cũng như kế hoạch thực hiện cho Chi nhánh. 3.2.1.9 Bổ sung trang thiết bị tin học Ngày nay, sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin đã làm cho xu thế tin học hóa diễn ra trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các thiết bị tin học được áp dụng rộng rãi trong nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh đã đem lại những kết quả to lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng. Để theo kịp sự phát triển chung của đất nước và đáp ứng yêu cầu công việc, Chi nhánh cần sớm bổ sung các trang thiết bị cần thiết cho hoạt động, đặc biệt là hoạt động cho vay đầu tư phát triển. Cần xây dựng một mạng thông tin nội bộ để phục vụ cho công tác quản lý và khai thác tìm kiếm thông tin của cán bộ tín dụng. Mặt khác, cũng nên trang bị đầy đủ máy vi tính để phục vụ cho công tác thẩm định dự án nhằm nâng cao hiệu quả và rút ngắn thời gian thẩm định. Trên cơ sở đó, đẩy nhanh tiến độ ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân vốn vay. 3.2.2 Một số kiến nghị với các cơ quan có liên quan Cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước là một nghiệp vụ thuộc lĩnh vực tài chính công. Do đó, Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội chỉ có thể nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển nếu được sự phối hợp và ủng hộ của Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có liên quan. Mặt khác, chủ dự án vay vốn tín dụng tại Chi nhánh cũng đóng vai trò trực tiếp quyết định đến hiệu quả hoạt động của Chi nhánh. Xuất phát từ đặc trưng đó, trên cơ sở nghiên cứu đề tài, xin đề xuất một số kiến nghị với Nhà nước và các đơn vị có liên quan. Các kiến nghị đều xuất phát từ lợi ích của cả 3 phía: Nhà nước, Chi nhánh Quỹ và chủ đầu tư như tiêu chí của tín dụng đầu tư phát triển và hướng vào mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh . Kiến nghị đối với Nhà nước 3.2.2.1 Tập trung tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước vào một đầu mối Như đã trình bày ở phần thực trạng, việc tồn tại quá nhiều kênh thực hiện cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước trên địa bàn thành phố khiến cho việc quản lý rất khó khăn, hơn nữa nguồn vốn lại phân tán, không có khả năng tập trung cho vay vào những dự án trọng điểm đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Điều này không chỉ làm giảm sút hiệu quả hoạt động của Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội mà còn gây khó khăn cho hoạt động của các ngân hàng thương mại được phân công thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước bởi vì các ngân hàng thương mại đều phải hạch toán riêng phần kinh doanh thương mại và phần cho vay ưu đãi để quyết toán với cơ quan tài chính. Từ thực tế trên, xin kiến nghị Nhà nước nên tập trung thống nhất tín dụng ưu đãi còn đang tồn tại đan xen ở các ngân hàng thương mại và kho bạc sang cho Quỹ Hỗ trợ phát triển đảm nhận. Theo đó, mô hình hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển sẽ tương tự như một ngân hàng chính sách. Có thể tham khảo mô hình hoạt động của ngân hàng chính sách Nhật Bản (policy-based financial institution) để xây dựng Quỹ Hỗ trợ phát triển như sau: Đây là một cơ quan tài chính-chính sách độc lập với ngân hàng trung ương, có vốn pháp định và được phép huy động vốn của các ngành Bưu điện và bảo hiểm xã hội, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, chỉ làm nhiệm vụ hỗ trợ tài chính cho các mục tiêu kinh tế do Chính phủ đề ra trong mỗi thời kỳ. Lãi suất của ngân hàng chính sách dựa trên cơ sở lãi suất cơ bản do ngân hàng trung ương công bố. Ngân hàng chính sách hoàn toàn không có cạnh tranh mà chỉ có phối hợp hoạt động với các tổ chức tín dụng khác nhằm hỗ trợ và thúc đẩy các mục tiêu kinh tế của Chính phủ. Cơ quan này được Nhà nước (Bộ tài chính) kiểm sát và tạo các điều kiện để nó hoàn thành nhiệm vụ do Chính phủ và Bộ tài chính giao. Quỹ Hỗ trợ phát triển kể từ khi được thành lập đến nay đã xây dựng cho mình một hệ thống từ trung ương đến địa phương có cơ sở vật chất tương đối ổn định, có đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm trong việc cấp phát và cho vay vốn Nhà nước đủ khả năng để thực hiện nhiệm vụ. Ngoài ra, tổ chức này không chịu sự điều chỉnh của Luật ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng do đó hoàn toàn có thể chuyển về Bộ tài chính quản lý để thực hiện theo mô hình trên. Thực hiện điều này, chắc chắn sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển nói chung và Chi nhánh Hà Nội nói riêng đồng thời công tác kiểm tra kiểm soát của Nhà nước sẽ tốt hơn, hiệu quả kinh tế xã hội tập trung hơn và đây cũng là nội dung cải cách hành chính thiết thực nhất. 3.2.2.2 Các cơ quan quản lý trung ương cần giao kế hoạch vốn đúng thời hạn, cơ quan quản lý thành phố cần bố trí đủ vốn cho các dự án đầu tư để dứt điểm nhanh, sớm đưa dự án vào hoạt động phát huy hiệu quả. Việc chậm trễ trong giao kế hoạch vốn hàng năm của Chính phủ khiến cho Quỹ Hỗ trợ phát triển luôn luôn ở trong tình trạng bị động. Nhiều dự án có hiệu quả cao đã không được chấp thuận cho vay do chưa có kế hoạch vốn. Hơn nữa, việc giao kế hoạch vốn nhỏ giọt, số vốn cân đối quá ít so với nhu cầu cũng làm cho đầu tư dàn trải và manh mún. Vì vậy để tạo điều kiện cho Chi nhánh Quỹ nâng cao hiệu quả hoạt động của mình, đề nghị Bộ kế hoạch đầu tư và Bộ tài chính thực hiện giao kế hoạch hàng năm đúng theo qui định vào khoảng tháng 10 năm trước, cùng với tiến độ giao các kế hoạch kinh tế xã hội khác. Mặt khác, cũng nên thực hiện cân đối vốn luôn một lần, tránh trường hợp đến cuối năm mới thông báo kế hoạch vốn bổ sung gây khó khăn cho hoạt động của Chi nhánh. Đó là cơ sở để cho Chi nhánh xây dựng kế hoạch hoạt động và triển khai thực hiện cho vay phát triển ngay từ đầu năm. Có như vậy mới đảm bảo hoàn thành kế hoạch vốn được giao và có điều kiện tìm kiếm hỗ trợ cho các dự án đầu tư phát triển bằng các nguồn khác. Về phía cơ quan quản lý thành phố, trong thời gian qua việc bố trí vốn cho các dự án nhìn chung còn dàn trải, chưa tập trung dứt điểm gây ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư. Dự án bị chậm trễ do không đủ vốn đầu tư làm phát sinh hàng loạt những chi phí khác khiến cho dự toán thay đổi nhiềulần và kết quả là vốn đầu tư thực tế tăng lên rất nhiều so với dự toán ban đầu. Hậu quả của việc này là vốn kế hoạch được cân đối lại càng không đủ để bố trí cho dự án và dự án càng chậm trễ, vốn đầu tư của Nhà nước càng không có khả năng thu hồi. Để khắc phục tình trạng này, UBND thành phố mà trực tiếp là Sở kế hoạch đầu tư cần bố trí đủ vốn và dứt điểm cho các dự án. Tiêu chí bố trí vốn nên được xét theo thứ tự ưu tiên như sau: - Các dự án chuyển tiếp đang thực hiện có hiệu quả - Các dự án trọng điểm của thành phố thuộc các chương trình kinh tế lớn của Chính phủ - Các dự án nhóm C mới có hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ cao - Các dự án nhóm B cần có thiết kế chi tiết và dự toán cho từng hạng mục để tạo điều kiện cho thành phố bố trí vốn theo đúng tiến độ của dự án - Các dự án dở dang nếu thấy không đạt hiệu quả thì chấm dứt ngay việc bố trí vốn để chuyển sang các dự án có hiệu quả hơn. 3.2.2.3 Xây dựng chính sách ưu đãi phù hợp và linh hoạt hơn Về đối tượng ưu đãi, với mục tiêu công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước, Chính phủ nên tập trung vào những đối tượng thực sự đem lại hiệu quả về mặt tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội. Không nên coi tín dụng đầu tư phát triển là nguồn vốn để thực hiện công tác chính sách của Nhà nước mà nên đặt tín dụng đầu tư phát triển vào đúng vai trò của nó: tạo ra sự phát triển kinh tế cả về mặt lượng và mặt chất. Để đạt được mục đích này, Chính phủ nên tập trung ưu tiên cho các đối tượng thuộc các ngành công nghiệp mũi nhọn, các ngành kỹ thuật công nghệ cao, công nghiệp chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu và các dự án sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế có khả năng thu hồi vốn trực tiếp thuộc các đối tượng được khuyến khích đầu tư trong Luật khuyến khích đầu tư. Các dự án mang tính xã hội nhiều hơn tính kinh tế nên chuyển sang cho ngân sách thực hiện cho đúng với chức năng của nó. Việc qui định các đối tượng ưu đãi cần có sự ổn định tương đối trong một thời gian dài để các doanh nghiệp có định hướng chính xác trong việc xây dựng kế hoạch đầu tư. Về lãi suất, hoạt động cho vay đầu tư phát triển của Nhà nước không nhằm mục đích kinh doanh và hoàn toàn không cạnh tranh với các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, chủ đầu tư vay vốn tín dụng đầu tư phát triển để thực hiện dự án lại phải cạnh tranh với các đơn vị kinh tế khác. Vì vậy để đảm bảo tính ưu đãi rõ ràng là lãi suất cho vay đầu tư phát triển cần phải thấp hơn lãi suất cho vay trung dài hạn của các ngân hàng thương mại. Thực tế là mức lãi suất áp dụng hiện nay tại Chi nhánh chưa đảm bảo nguyên tắc đó (trừ một số dự án thuộc diện ưu đãi đặc biệt như cơ khí 3,5%/năm, chương trình kiên cố hoá kênh mương 0%) Do đó, Chính phủ nên phối hợp với Bộ tài chính nghiên cứu một chính sách lãi suất phù hợp hơn. Có thể dựa trên các điều kiện kinh tế vĩ mô và đặc điểm, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như mức độ khuyến khích đầu tư, Chính phủ qui định một tỷ lệ hỗ trợ nhất định đối với các dự án vay vốn tín dụng đầu tư phát triển so với lãi suất cơ bản do ngân hàng Nhà nước công bố. Trên cơ sở tỷ lệ hỗ trợ này và lãi suất cho vay trung dài hạn bình quân của các ngân hàng thương mại, Quỹ Hỗ trợ phát triển sẽ xác định lãi suất cho vay trong từng thời kỳ theo nguyên tắc trên. Như thế vừa đảm bảo tính linh hoạt hợp lý của lãi suất cho vay, vừa đảm bảo được khả năng định hướng và quản lý của Nhà nước, vừa nâng cao ý thức trách nhiệm của Quỹ Hỗ trợ phát triển đối với hoạt động. Về thời hạn cho vay, thời hạn cho vay tối đa 10 năm hiện nay là không phù hợp, nhất là đối với các dự án có thời gian thu hồi vốn lâu như trông cây công nghiệp, trồng rừng nguyên liệu. Do đó, Chính phủ cần nghiên cứu qui định thời gian cho vay đối với các dự án này đảm bảo tiêu chí của đầu tư phát triển. Mặt khác, thời hạn cho vay được xác định từ khi nhận được khoản vay đầu tiên đến khi trả hết nợ. Tuy nhiên, do đặc trưng của các dự án đầu tư phát triển, trên thực tế có một số dự án trong thời gian thực hiện bị gián đoạn không giải ngân tiếp được do những điều kiện khách quan như những vướng mắc trong giải phóng mặt bằng, đấu thầu máy móc thiết bị…nên thời gian sử dụng vốn thực tế ít hơn nhiều. Vì vậy các cơ quan chức năng cần nghiên cứu đưa ra qui định cụ thể đối với những trường hợp này. Ngoài ra, qui định về thời gian ân hạn đối với dự án được tính từ thời điểm rút vốn cũng chưa thật hợp lý, đặc biệt là đối với những dự án có thời gian đầu tư dài và giải ngân rải rác. Vì vậy, Chính phủ nên qui định thời gian ân hạn được tính riêng theo từng lần phát sinh nợ vay. Các điều kiện về bảo đảm tiền vay nên bình đẳng giữa các thành phần kinh tế để đảm bảo tiêu chí cho vay ưu đãi của Nhà nước. 3.2.2.4 Các Bộ ngành và Quỹ Hỗ trợ phát triển cần phối hợp hoạt động với nhau để sớm đưa ra văn bản thống nhất hướng dẫn thực hiện các nghị định của Chính phủ và các quyết định của thủ tướng Chính phủ. Việc chậm trễ và không đồng bộ trong hướng dẫn thi hành các nghị quyết, nghị định của Chính phủ và thủ tướng Chính phủ của các Bộ, ngành không những đã làm cho chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng chậm đi vào cuộc sống mà còn gây lúng túng cho Chi nhánh trong việc thực hiện. Cho đến nay, Chi nhánh vẫn chưa triển khai cho vay đối với các dự án đầu tư thuộc các chương trình phát triển nông nghiệp, chế biến, trang trại, đống tàu, nuôi trồng thuỷ sản và các dựa án xã hội hoá giáo dục, y tế do thiếu những hướng dẫn cụ thể của các Bộ ngành hau sự không đồng bộ trong các văn bản hướng dẫn. Chẳng hạn, đối với kinh tế trang trại, nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày 2/2/2000 của Chính phủ có 2 văn bản hướng dẫn được đưa ra sau đó 4-6 tháng. Thông tư liên tịch của liên bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn-Tổng cục thống kê ngày 23/6/2001qui định đối tượng để xác định kinh tế trang trại là các hộ nông dân, công nhân, viên chức Nhà nước và lực lượng vũ trang đã nghỉ hưu, các hộ thành thị và cá nhân chuyên sản xuất (bao gồm nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản) hoặc sản xuất nông nghiệp là chính có kiêm nhiệm các hoạt động dịch vụ phi nông nghiệp ở nông thôn. Trong khi đó, thông tư 82/2000/TT-BTC ngày 14/8/2000 của Bộ tài chính lại qui định là các trang trại sản xuất hành xuất khẩu, trồng rừng nguyên liệu tập trung, cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả, nuôi trồng thuỷ hải sản và chăn nuôi bò sữa, xây dựng hhẹ thống dẫn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt trang trại, sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu vi sinh, chế tạo máy công cụ, máy động lực phục vụ sản xuất nông nghiệp, xây dựng cơ sở chế biến nông lâm thuỷ sản. Bên cạnh đó, một loạt các dự án thuộc chương trình cơ khí cũng bị trì hoãn giải ngân để chờ đợi các qui định cụ thể về lãi suất và các điều kiện ưu đãi theo nghị quyết 11/2000/NQ-CP. Do đó, đề nghị các Bộ ngành có liên quan sớm nghiên cứu để ban hành các văn bản hướng dẫn tạo khuôn khổ pháp lý và hướng dẫn cho hoạt động Chi nhánh. Mặt khác, giữa các cơ quan này nên có một sự phối hợp nhất định trên cơ sở các qui định của Nhà nước để tránh việc các văn bản hướng dẫn không thống nhất hoặc khác về cơ bản so với văn bản qui định của Chính phủ gây khó khăn cho hoạt động triển khai thực hiện của Chi nhánh. Kiến nghị về phía chủ đầu tư 3.2.2.5 Chủ đầu tư cần sử dụng vốn đúng mục đích, thực hiện tốt nghĩa vụ trả nợ ý thức của chủ đầu tư đóng vai trò quyết định đỗi với kết quả hoạt động của Chi nhánh. Vì vậy, khi được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển tại Chi nhánh, chủ đầu tư nên sử dụng vốn vay đúng mục đích theo kế hoạch, thực hiện đầu tư vào sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm trong quá trình hoạt động của đơn vị trên nguyên tắc đảm bảo khả năng sinh lợi của đồng vốn. Đồng thời cần có ý thức thực hiện các điều kiện về trả lãi và trả gốc theo đúng hợp đồng tín dụng đã ký, tránh tình trạng chiếm dụng vốn cũng như tâm lý ỷ lại vào Nhà nước, xin chuyển vốn vay thành vốn cấp phát gây ảnh hưởng đến hiệu quả đồng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Điều này không chỉ góp phần gia tăng hiệu quả hoạt động của Chi nhánh mà còn mang lại lợi ích cho chính chủ đầu tư. Dự án đầu tư có hiệu quả cao và quan hệ tín dụng tốt sẽ là cơ sở để chủ đầu tư dễ dàng được vay vốn ưu đãi cho các dự án đầu tư phát triển tiếp theo. 3.2.2.6 Nâng cao năng lực thiết kế và thực hiện dự án Trong quá trình sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước hiện nay, việc thiếu kinh nghiệm của chủ đầu tư về thủ tục đầu tư, thủ tục đấu thầu và giải phóng mặt bằng, ký kết các hợp đồng ngoại thương hay thiết kế xây dựng dự án, tính toán tổng vốn đầu tư đã gây chậm trễ trong quá trình ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân vốn vay làm giảm hiệu quả hoạt động của Chi nhánh rất nhiều. Để giải quyết vấn đề này, chủ đầu tư cần xây dựng một đội ngũ những cán bộ có kiến thức và am hiểu về các lĩnh vực trên hoặc thuê chuyên gia tư vấn để giải quyết tốt các vấn đề còn vuớng mắc. Về phía Chi nhánh, điều này góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân để hoàn thành kế hoạch được giao. Về phía chủ đầu tư nó cũng là điều kiện để dự án được thực hiện một cánh nhanh nhất và ít tốn kém nhất. 3.2.2.7 Chủ đầu tư khi đã ký kết hợp đồng tín dụng cần phải nhanh chóng hoàn tất mọi thủ tục để giải ngân vốn vay tránh tình trạng cố tình trì hoãn để không phải nhận nợ sớm Hiện nay còn tồn tại tình trạng một số chủ đầu tư chỉ quan tâm đến việc được ghi kế hoạch và vay vốn chứ chưa thực sự quan tâm đến dự án đầu tư. Vì vậy, một số hợp đồng tín dụng đã ký kết từ năm 99 nhưng đến nay vẫn chưa giải ngân do chủ đầu tư chậm trễ trong việc đưa dự án vào thực hiện để tránh phải nhận nợ sớm. Vì thế, đề nghị các chủ đầu tư chỉ đăng ký vay vốn và ký hợp đồng tín dụng khi thực sự có nhu cầu, tránh tình trạng vay “để dành” nhằm đảm bảo hiệu quả của vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đồng thời nhanh chóng hoàn tất thủ tục hoặc bổ sung kịp thời những giấy tờ, khoản mục được yêu cầu để đẩy nhanh tiến độ giải ngân. Đề xuất kịp thời những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để phối hợp tìm hiểu nguyên nhân và nhanh chóng tìm biện pháp tháo gỡ. Kết luận Là một bộ phận của tín dụng Nhà nước, tín dụng đầu tư phát triển ra đời trong giai đoạn còn muôn vàn khó khăn của công cuộc đổi mới đất nước đã góp phần hình thành nên một quan hệ kinh tế mới giữa Nhà nước và các chủ thể khác của nền kinh tế. Những thành quả mà tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã và đang góp phần tạo dựng là không thể phủ nhận. Nó chứng minh được việc sử dụng vốn tín dụng ưu đãi để đầu tư phát triển theo định hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước là hoàn toàn đúng đắn. Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Hà Nội-đơn vị được giao nhiệm vụ thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trên địa bàn thành phố Hà Nội-tuy mới đi vào hoạt động hơn một năm song đã phát huy được vai trò của mình, trở thành nguồn cung ứng vốn lớn phục vụ cho đầu tư phát triển thủ đô. Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, mà đặc biệt là hình thức cho vay ưu đãi đã thực sự trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho các dự án đầu tư, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng phát triển của thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn tồn tại không ít mặt hạn chế làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Chi nhánh nói riêng và sự phát triển kinh tế xã hội thủ đô nói chung. Do đó, trên cơ sở định hướng phát triển của thành phố giai đoạn 2002-2010 và phương hướng hoạt động của Quỹ trong thời gian tới, Chi nhánh cần chủ động, kịp thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc nhằm đẩy mạnh vai trò hoạt động của mình cũng như hiệu quả vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước trong đầu tư phát triển kinh tế xã hội thủ đô. Nhất định với những giải pháp hữu hiệu và đồng bộ, hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ hỗ trợ phát triển Hà Nội sẽ phát huy hiệu quả tương xứng với tiềm năng và vị thế của Chi nhánh cũng như yêu cầu phát triển của thành phố. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn Nguyễn Thanh Sơn đã giúp em hoàn thành khoá luận này. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính-Federic Minskin 2. Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ-Trường đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh 3. Giáo trình Kinh tế đầu tư-Trường đại học Kinh tế quốc dân 4. Giáo trình Tài chính công 5. Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) 6. Nghị định 43/1999/NĐ-CP, 50/1999/NĐ-CP, Nghị định 52/1999/NĐ-CP và một số văn bản pháp luật của Chính phủ, Quỹ Hỗ trợ phát triển, các Bộ ngành khác có liên quan 7. Japan policy-based financial institution 8. Báo cáo thực hiện kế hoạch đầu tư và kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước của Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội 9. Báo cáo tổng kết,quyết toán của Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Hà Nội 10. Tạp chí tài chính, thông tin tài chính, tạp chí kinh tế phát triển, báo đầu tư 11.Nghị định số 385 - HĐBT ngày 7 tháng 11 năm 1990 12.Nghị định số 177/CP ngày 20 tháng 10 năm 1994 13.Nghị định số 42 - CP ngày 16 tháng 7 năm 1996 14.Nghị định số 92 - CP ngày 23 tháng 8 năm 1997 15.Nghị định số 52 - 1999 - NĐCP ngày 8 tháng 7 năm 1999 16.Nghị định số 43 - CP ngày 16 tháng 7 năm 1996 17.Nghị định số 93 - CP ngày 23 tháng 8 năm 1997 Nghị định số 88/1999/NĐCP ngày 4 tháng 9 năm 1999.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0098.doc
Tài liệu liên quan