Đề tài Giải pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam

Là một chi nhánh trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư, trong những năm qua, Hà Thành đã từng bước hoàn thành tốt công tác huy động nguồn vốn nhàn rỗi, góp phần đáp ứng tốt nhu cầu vốn cho mọi thành phần kinh tế. Trong thời gian tới, để đáp ứng tốt hơn nhu cầu về vốn và khẳng định vị thế cạnh tranh của mình, ngoài sự nghiên cứu kỹ lưỡng không những về mặt xây dựng chế độ, khảo sát thực tế tùy theo từng điều kiện vận dụng để có các giải pháp thiết thực, chi nhánh cũng cần có sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng trong việc tạo lập môi trường thuận lợi cho hoạt động huy động vốn của mình.Qua việc nghiên cứu về hoạt động huy động vốn và các giải pháp cho vấn đề này, tôi mong rằng trong thời gian tới chi nhánh sẽ thực hiện tốt và thắng lợi nhiệm vụ của mình trong việc huy động cũng như cung ứng vốn có hiệu quả cho sự phát triển hoạt động kinh doanh của bản thân chi nhánh nói riêng và nền kinh tế nói chung.

doc58 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1060 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sát định hướng hoạt động, phân tích và tập trung chỉ đạo với nhiều giải pháp linh hoạt và sáng tạo đã gia tăng khả năng sinh lời, đảm bảo cơ cấu thu nhập chi phí và lợi nhuận. Bảng 3: Các chỉ tiêu kết quả tài chính của chi nhánh Hà Thành STT Chỉ tiêu Năm 2003 2004 2005 2006 7 Tổng thu 33.929 97.538 182.850 295.140 8 Thu dịch vụ ròng 530 5.125 8.251 18.812 9 Lợi nhuận trước thuế 939 16.123 29.350 42.000 10 Quỹ DPRR - 1.700 8.750 21.000 11 Lợi nhuận sau thuế 676 11.609 21.132 30.240 Đơn vị: Triệu đồng (Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của chi nhánh Hà Thành – BIDV) Lợi nhuận trước thuế năm 2006 đạt 42 tỷ VND tăng trưởng 143% so với năm 2005. Đồng thời, cơ cấu nguồn thu đã chuyển biến phù hợp với thông lệ quốc tế, thu nhập phi lãi đạt 27 tỷ VND chiếm tỷ trọng 52% trong tổng thu nhập ròng sau khi đã loại trừ chi phí trích dự phòng rủi ro. Sau 06 tháng đầu năm 2007, chỉ tiêu lợi nhuận của Chi nhánh thực sự có bước chuyển biến mạnh mẽ, chênh lệch thu chi trong 06 tháng đầu năm 2007 đã đạt hơn 81 tỷ VND, lợi nhuận trước thuế đạt hơn 76,9 tỷ VND. Quỹ Dự phòng rủi ro của Chi nhánh tại thời điểm 30/06/2007 đã đạt 28,24 tỷ VND, tăng 134,5% so với năm 2006. Thu dịch vụ ròng của Chi nhánh trong năm 2006 đạt 18,812 tỷ VND, là một trong 10 đơn vị đứng đầu toàn hệ thống BIDV về phát triển dịch vụ. Đến 30/06/2007, thu phí dịch vụ của Chi nhánh đã đạt 7,2 tỷ VND tăng trưởng 47% so với cùng kỳ năm 2006. 2.1.2.4 Các hoạt động khác của chi nhánh Sự phát triển của Thị trường chứng khoán nước ta trong 2 năm qua đã mở ra cơ hội mới về huy động vốn cũng như cơ hội đầu tư trên thị trường. Đón bắt cơ hội thị trường nhằm đa dạng hoạt động tài sản có, Chi nhánh Hà thành đã triển khai nghiệp vụ đầu tư và đã thu được những kết quả đáng kể: thực hiện đấu giá thành công mua cổ phần phát hành lần đầu của năm công ty: Công ty CP Nhiệt điện Phả Lại (1.500.000 cổ phiếu), Công ty CP Gas Petrolimex (800.000 cổ phiếu), Công ty CP Than Cao Sơn (100.000 cổ phiếu), Công ty Cổ phần Thuỷ điện Thác Mơ (300.000 cổ phiếu), Công ty CP Bảo hiểm Dầu khí (250.000 Cổ phiếu) với doanh số đầu tư đạt hơn 103 tỷ VND. Chi nhánh đã cơ cấu lại danh mục đầu tư bán một phần cổ phiếu của Công ty CP Nhiệt điện Phả lại và Công ty CP Gas Petrolimex đem lại hơn 26 tỷ VND lợi nhuận. Bên cạnh các hoạt động của một ngân hàng thương mại thông thường, được sự uỷ quyền của Tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Chi nhánh Hà thành vinh dự thay mặt hệ thống thực hiện chức năng Ngân hàng chỉ định thanh toán chứng khoán tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà nội. Sau hơn hai năm thực hiện vai trò ngân hàng chỉ định thanh toán chứng khoán, với sự nỗ lực, tập trung cao độ, Chi nhánh đã thực hiện công tác thanh toán bù trừ tiền mua bán chứng khoán tại sàn giao dịch thứ cấp cho Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà nội an toàn, chính xác và nhanh chóng với doanh số thanh toán bù trừ năm 2006 đạt hơn 8.649 tỷ VND và 06 tháng đầu năm 2007 đã đạt hơn 120 nghìn tỷ VND. Bên cạnh đó, Chi nhánh đã thực hiện nhận, chi trả tiền đặt cọc ước khoảng 40 phiên đấu giá tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, đảm bảo an toàn, chính xác và nhanh chóng được Uỷ Ban Chứng khoán Nhà nước khen và đánh giá cao. Với phương châm phục vụ tốt nhất và gắn bó chặt chẽ với Trung tâm giao dịch Chứng khoán, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán, cùng với các thành viên lưu ký đảm bảo hoạt động thông suốt và an toàn cho thị trường, Chi nhánh cũng đã thực hiện ký hợp đồng cho vay hỗ trợ đảm bảo khả năng thanh toán đối với 60/63 Thành viên lưu ký. Doanh số cho vay đảm bảo khả năng thanh toán trong năm 2006 đạt 460 tỷ VND. 2.2 THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH HÀ THÀNH – NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM Đối với một ngân hàng hay một xí nghiệp, các yếu tố đầu ra có tác động chính đến hoạt động sản xuất kinh doanh hay lợi nhuận của đơn vị. Vốn huy động chính là đầu vào quan trọng nhất của ngân hàng và ngân hàng có đáp ứng được nhu cầu của xã hội hay không, có đưa được một mức giá cạnh tranh hay không do đó công tác huy động vốn là hoạt động mang ý nghĩa quyết định. Với các hình thức huy động đa dạng cùng mức lãi suất hợp lý cho các loại tiền gửi, đảm bảo tính cạnh tranh, chi nhánh Hà Thành đã thu hút được lượng vốn lớn, đảm bảo cả về chất lượng và số lượng vốn huy động thể hiện sự phát triển nhanh chóng vững chắc trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Bảng 4: Thực trạng huy động vốn tại chi nhánh Hà Thành Đơn vị: tỷ đồng STT Chỉ tiêu Năm 2003 2004 2005 2006 1 Tổng huy động vốn 737,576 1.303,907 2.435,044 3.486,544 2 Huy động vốn TCKT 147,839 546,167 1.574,962 2.733,195 3 Huy động vốn VNĐ 589,737 757,740 860,082 753,349 ( Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của chi nhánh Hà Thành – BIDV) Từ các kết quả trên cho thấy, nguồn vốn huy động của chi nhánh Hà Thành không ngừng tăng lên, từ năm 2003 tổng nguồn vốn huy động là 737,576 tỷ đồng lên 3.486,544 tỷ đồng tương ứng với lượng tăng tuyệt đối 2.748,968 tỷ đồng. Trong thời gian đầu mới thành lập, nguồn vốn huy động do huy động từ VNĐ là chủ yếu nhưng đến năm 2005 thì nguồn vốn huy động tăng rất nhanh và được thể hiện nhiều nhất ở huy động từ các tổ chức kinh tế, năm 2006 đạt 2.733,195 tỷ đồng. Những con số này thể hiện sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ, công nhân viên trong toàn chi nhánh. Biểu đồ huy động vốn của chi nhánh Hà Thành giai đoạn 2003- 2006 Như vậy chỉ qua số liệu thống kê của 4 năm qua đã cho thấy hoạt động huy động vốn của chi nhánh Hà Thành đạt hiệu quả tương đối cao, mức tăng trưởng nguồn vốn khá lớn và ổn định.Với mức tăng trưởng liên tục như trên, chứng tỏ chi nhánh Hà Thành đã nỗ lực rất lớn phát huy khả năng của mình trong việc thu hút nguồn vốn nhàn rỗi của nền kinh tế. Nhờ tăng được nguồn vốn đã giúp cho chi nhánh tăng lượng tài sản của mình lên nhanh chóng, thị phần huy động vốn trên địa bàn vẫn giữ vững trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng trên cùng địa bàn. Sự tăng trưởng về nguồn vốn được biểu hiện ở cả hình thức lẫn kỳ hạn huy động hết sức phong phú và đa dạng. 2.2.1 Về hình thức huy động Hiện nay tại chi nhánh Hà Thành đang tiến hành huy động vốn chủ yếu từ các nguồn: tiền gửi các tổ chức kinh tế, tiền gửi dân cư, phát hành các công cụ nợ. Để nắm rõ hơn, ta có thể xem: Bảng 5: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo đối tượng huy động Đơn vị: Tỷ đồng STT Chỉ tiêu Năm 2003 2004 2005 2006 1 Tổng huy động vốn 737,576 1.303,907 2.435,044 3.486,544 2 Tiền gửi không kỳ hạn 87,849 127,731 459,031 1.004,768 3 Tiền gửi c.dùng của CN và TCKT 88 37 37 0 4 Tiền gửi có kỳ hạn của TCKT 104,902 418,398 1.115,894 1.094,653 5 Tiền gửi có kỳ hạn của cá nhân 271,604 569,545 663,294 996,552 6 Kỳ phiếu ngắn hạn 96,810 73,136 121,110 351,835 7 Kỳ phiếu dài hạn 26,494 11,623 1,715 1,176 8 Chứng chỉ tiền gửi 59,319 64,516 35,118 36,487 9 Trái phiếu 2,598 1,958 1,882 1,073 ( Nguồn: Phòng nguồn vốn chi nhánh Hà Thành – BIDV) Có thể nhận thấy tổ chức kinh tế và dân cư là hai nguồn lớn ngân hàng có thể huy động vốn. Nếu xét về cơ cấu vốn vay thì lượng vốn huy động từ tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức kinh tế chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng vốn huy động được (31,4 %), tăng nhanh từ 104,902 tỷ đồng năm 2003 lên 1094,653 tỷ đồng năm 2006. Chiếm tỉ trọng lớn thứ 2 trong tổng vốn huy động được là từ tiền gửi có kỳ hạn của cá nhân. Đây cũng là nguồn vốn huy động chủ yếu và truyền thống của chi nhánh. Điều này chứng tỏ tiền gửi có kỳ hạn luôn được các cá nhân và tổ chức kinh tế ưa thích khi lựa chọn hình thức gửi tiền. Bên cạnh đó, huy động vốn của chi nhánh Hà Thành từ tổ chức kinh tế còn được thực hiện dưới tài khoản tiền gửi chuyên dùng, nguồn vốn của tài khoản này rất nhỏ và đến năm 2006, nguồn vốn huy động này không có. Ngoài ra, ngân hàng còn huy động bằng kỳ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi bởi loại hình huy động này là các công cụ rất quan trọng. Do đặc điểm riêng của chi nhánh là phục vụ cho đầu tư phát triển nên nhu cầu vốn là rất lớn do vậy ngân hàng đã thường xuyên huy động vốn từ các nguồn này để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư và số lượng huy động của khoản tiền này chiếm khoảng 5- 7 % tổng vốn huy động trong đó kỳ phiếu ngắn hạn tăng nhanh hơn so với các loại còn lại, cụ thể biểu hiện năm 2006 so với năm 2003, vốn huy động được từ kỳ phiếu ngắn hạn tăng từ 96,810 tỷ đồng lên 351,835 tỷ đồng, tăng tương ứng với 363,4%.Tính cho đến thời điểm hiện nay, nguồn vốn huy động từ kỳ phiếu đã thực sự đem lại hiệu quả cho chi nhánh vì lượng tiền thu được từ phát hành kỳ phiếu là tương đối ổn định. Sự ổn định của nguồn tiền này là rất có lợi đối với chi nhánh trong công tác đầu tư dài hạn và đảm bảo cho ngân hàng có khả năng huy động vốn nhanh khi có nhu cầu về vốn trong lúc chưa huy động được từ các nguồn khác. Tuy nhiên đối với kỳ phiếu và trái phiếu do thời gian đáo hạn tương đối dài nên tuy lãi suất của chúng có thể cao hơn lãi suất của tiền gửi tiết kiệm nên rủi ro và bất tiện cho người mua kỳ phiếu và trái phiếu là rất lớn. Do hiện nay lãi suất trên thị trường luôn biến động, khi cần tiền mặt họ muốn chuyển từ kỳ phiếu và trái phiếu sang tiền mặt là rất khó khăn, do vậy để tăng cường khả năng huy động nguồn này đòi hỏi ngân hàng phải có những giải pháp thích hợp tạo điều kiện cho khách hàng. Như vậy có thể khẳng định, quy mô nguồn vốn huy động của chi nhánh trong những năm qua tăng trưởng tương đối tốt và có xu hướng tiếp tục tăng trưởng vững chắc trong thời gian tới. Tuy nhiên sự tăng trưởng này diễn ra không đều trong toàn bộ cơ cấu, điều này phụ thuộc vào nhân tố cấu thành cũng như đặc điểm riêng của từng nguồn huy động. 2.2.2 Về kỳ hạn huy động Để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, ngân hàng đã liên tục đa dạng hóa các hình thức nhận tiền gửi với nhiều kỳ hạn khác nhau từ 1 đến 3 tháng, 6 đến 9 tháng và trên 1 năm. Xem xét cơ cấu kỳ hạn của hai nguồn vốn huy động chính là từ dân cư và các tổ chức kinh tế như sau: Bảng 6: Kết quả huy động vốn theo kỳ hạn nguồn tiền gửi Đơn vị: tỷ đồng STT Chỉ tiêu Năm 2003 2004 2005 2006 1 Tổng huy động vốn từ dân cư 231,548 603,107 721,244 748,532 Ngắn hạn 144,248 348,192 451,244 539,171. Dài hạn 87,3 254,915 270 245,361 2 Tổng huy động vốn từ TCKT 147,839 546,167 1.574,962 2.733,195 Ngắn hạn 101,204 428,594 1064,476 2.058,110 Dài hạn 46,635 117,573 510,486 675,085 ( Nguồn: Phòng kế hoạch nguồn vốn chi nhánh Hà Thành – BIDV) Nhìn vào bảng trên ta thấy nguồn vốn ngắn hạn huy động từ cả dân cư lẫn tổ chức kinh tế đều chiếm tỉ trọng khá cao. Nguồn vốn ngắn hạn luôn có tốc độ tăng cao và đều. Đối với nguồn ngắn hạn của tổ chức kinh tế được hình thành chủ yếu từ nguồn tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp. Nguồn tiền này tăng rất nhanh, gần như năm sau tăng gâp đôi năm trước và đến năm 2006, nguồn tiền này đạt mức 2.058,110 tỷ đồng. Hiện nay nguồn tiền này đang được chi nhánh tập trung khai thác bởi nguồn tiền này có chi phí tương đối thấp và khối lượng vốn huy động được lớn. Thực chất đây là mối quan hệ giữa chi nhánh với các doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp, bộ phận này có tính chất như một đảm bảo vốn mà các đơn vị gửi vào Ngân hàng dưới hình thức tích lũy nhằm đạt được một khối lượng tiền lớn để thanh toán, chi trả... Bên cạnh đó việc gửi tiền vào Ngân hàng còn được xem là cách bảo quản tiền nhàn rỗi có hiệu quả vì nó đảm bảo tiện ích, an toàn và được hưởng lãi trên khoản tiền gửi Đối với nguồn ngắn hạn huy động từ dân cư, nguồn vốn này cũng chiếm tỉ trọng khá lớn trong cơ cấu tổng vốn của ngân hàng mà khoản chủ yếu chính là tiết kiệm. Đây thật sự là nguồn huy động với tiềm năng dồi dào cho các ngân hàng khi chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh. Ta có thể thấy vốn ngắn hạn huy động từ dân cư tăng rất nhanh và đều, năm 2003 là 144,248 tỷ đồng và năm 2006 là 537,171 tỷ đồng. Điều này có được là do ngân hàng đã áp dụng chính sách mềm dẻo về lãi suất và chính sách khách hàng hợp lý, càng ngày ngân hàng càng chiếm được cảm tình của đối tượng khách hàng này. Tuy nhiên, có thể thấy nguồn vốn trung và dài hạn cũng tăng đều nhưng với số lượng thấp hơn rất nhiều so với nguồn vốn ngắn hạn. Sở dĩ có vấn đề này là do trong những năm gần đây nhà nước luôn cắt giảm lãi suất để kích thích đầu tư của các doanh nghiệp hơn nữa người dân không ưa thích gửi tiền tiết kiệm có thời gian tương đối dài bởi họ sợ rủi ro do các biến động về lãi suất và lạm phát hoặc khi có việc đột xuất cần sử dụng khoản tiền này thì việc rút ra sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Để phục vụ cho hoạt động đầu tư của ngân hàng ngày càng tốt hơn trong thời gian tới, chi nhánh sẽ tăng cường nâng cao nguồn vốn trung và dài hạn bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn với lãi suất huy động hấp dẫn, tạo uy tín, mở rộng các quầy tiết kiệm, các dịch vụ chăm sóc khách hàng... nhằm đáp ứng nhu cầu của dân cư và mọi doanh nghiệp. Thông qua thực trạng huy động vốn tại chi nhánh Hà Thành, ta có thể nhận thấy đặc điểm chung nhất trong công tác huy động vốn là tổng nguồn vốn huy động liên tục tăng trưởng cao qua các năm, trong đó nguồn tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn chiếm tỉ lệ rất lớn, sau đó là các khoản khác như phát hành các công cụ nợ. Mặt khác sự tăng trưởng về nguồn vốn huy động cho thấy sự nỗ lực to lớn trong công tác mở rộng khai thông nguồn vốn huy động và chi nhánh ngày càng khẳng định được chỗ đứng và uy tín của mình trong giai đoạn mới. 2.3 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH HÀ THÀNH – NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 2.3.1 Kết quả đạt được trong công tác huy động vốn Trong những năm vừa qua, chi nhánh Hà Thành – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã đạt được những thành tích trong hoạt động huy động vốn của mình. Tổng nguồn vốn huy động được liên tục tăng cả về chất lượng lẫn số lượng, đặc biệt là nguồn vốn huy động từ tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức kinh tế chiếm tỉ trọng rất cao. Cơ cấu của nguồn vốn đã có sự thay đổi lớn và theo chiều hướng tích cực. Đã có sự cải thiện đáng kể về chênh lệch giữa kỳ hạn tài sản nợ và tài sản có, về quy mô của tổng nguồn vốn từ đó tạo sự phù hợp với cơ cấu tín dụng của Ngân hàng. Có thể nhận thấy công tác nguồn vốn đã trở thành công cụ điều hành quan trọng giúp Ban giám đốc quản lý tài sản nợ, tài sản có một cách hợp lý, sử dụng vốn hiệu quả, vừa tiết kiệm vừa đảm bao an toàn nguồn vốn kinh doanh và bước đầu nâng cao thu nhập cho chi nhánh. Có được kết quả trên là do chi nhánh đã không ngừng đổi mới và tự hoàn thiện mình để thích nghi với môi trường kinh doanh, cụ thể được biểu hiện: Chi nhánh đã liên tục đổi mới các hình thức huy động vốn trong dân cư, từng bước mở rộng mạng lưới phục vụ khách hàng bằng việc đưa thêm nhiều quầy giao dịch, quỹ tiết kiệm đi vào hoạt động, mạng lưới tiết kiệm được bố trí ngày càng thuận lợi cho khách hàng khi đến gửi tiền. Bên cạnh đó, chi nhánh cũng đã áp dụng các mức lãi suất linh hoạt phù hợp với các hình thức huy động vốn nhằm thu hút thêm khách hàng đến với chi nhánh. Chi nhánh đã đưa ra các hình thức tuyên truyền quảng cáo khuyếch trương giúp khách hàng nắm được nội dung và các thủ tục, thể lệ, ưu đãi được hưởng khi tiến hành giao dịch, tạo cho khách hàng tâm lý thoải mái, dần tạo niềm tin và uy tín của mình đối với khách, do đó khuyến khích khách hàng thường xuyên gửi tiền nhàn rỗi vào Ngân hàng. Chi nhánh luôn đảm bảo duy trì mức lãi suất hợp lý phù hợp với quy định theo khung lãi suất của Ngân hàng Nhà nước ban hành trong từng thời kỳ. Chính sách lãi suất của chi nhánh đã điều chỉnh sát mức quan hệ cung cầu tiền tệ trên thị trường tiền tệ cũng như tỷ lệ lạm phát trên thị trường do vậy chi nhánh đã giải quyết tốt các môi quan hệ giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. Ngoài ra chi nhánh còn tăng cường đổi mới máy móc và trang thiết bị hiện đại giúp cho việc huy động vốn được dễ dàng hơn nhất là trong khâu thanh toán trong nội bộ. 2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1 Hạn chế Bên cạnh những thành tích đã đạt được, chi nhánh còn tồn tại những hạn chế cần phải được hoàn thiện trong thời gian tới, cụ thể: Hình thức huy động vốn của chi nhánh chủ yếu là huy động từ tiền gửi của dân cư và tổ chức kinh tế, chi nhánh đã cố gắng rất nhiều trong công tác huy động vốn song chưa thực sự phong phú, còn đơn điệu và mang tính truyền thống, chưa đáp ứng được hết nhu cầu tiền gửi của khách hàng. Hình thức huy động chủ yếu của chi nhánh hiện nay vẫn là tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi doanh nghiệp và huy động bằng kỳ phiếu. Về cơ cấu nguồn vốn của chi nhánh, vốn huy động dài hạn chiếm tỉ trọng nhỏ, không đáp ứng được nhu cầu cho vay dài hạn, không phù hợp với cơ cấu tín dụng. Nguồn vốn huy động được dùng cho vay và đầu tư còn thấp dẫn đến sự chênh lệch lớn giữa nguồn vốn huy động được và khả năng sử dụng vốn, lượng vốn thanh toán điều chuyển đi ngày một gia tăng, điều này có ảnh hưởng xấu đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh. Mặc dù đã được đổi mới và hoàn thiện về công nghệ nhưng vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, dẫn đến tình trạng thanh toán tương đối nhanh trong nội bộ chi nhánh nhưng khi thanh toán ra bên ngoài thì luôn gặp ách tắc lòng vòng làm cho tốc độ luân chuyển chứng từ và luân chuyển vốn chậm. Vấn đề này đã làm giảm đáng kể nguồn vốn bằng tiền được gửi vào với mục đích thanh toán của khách hàng. 2.3.2.2 Nguyên nhân Do điều kiện làm việc của cán bộ công nhân viên còn chưa được thuận lợi, trang thiết bị kỹ thuật chưa thật sự hiện đại và cần đổi mới thêm. Mạng lưới quỹ tiết kiệm đã mở rộng nhưng chưa bao phủ kháp địa bàn. Marketing chưa có những biện pháp tiếp cận khách hàng thích hợp dẫn đến tình trạng khách hàng chỉ biết đến một vài hình thức dịch vụ ngân hàng truyền thống khi họ có quan hệ giao dịch với Ngân hàng. Do giá cả các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu của đông đảo mọi người dân như lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, phương tiện đi lại... tăng lên làm cho các hộ gia đình phải chi dùng nhiều tiền hơn cho các sinh hoạt hàng ngày, hạn chế số tiền nhàn rỗi có thể gửi ngân hàng. Họ thường gửi tiền vào ngân hàng với thời hạn ngắn để tiện cho việc rút ra khi cần thiết do đó nguồn vốn huy động dài hạn của ngân hàng luôn chiếm tỉ trọng thấp hơn so với ngắn hạn. Kỳ hạn các hình thức huy động vốn vẫn còn đơn điệu, đặc biệt là hình thức huy động vốn dài hạn. Hơn nữa chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI) còn ở mức cao, giá vàng biến động lớn, tỷ giá đô la Mỹ trên thị trường nhìn chung ổn định, nhưng cá biệt trên thị trường tự do có thời điểm biến động lớn,... Nguồn ngoại tệ tiền mặt từ kiều hối, từ người Việt Nam làm ăn và sinh sống ở nước ngoài chuyển về, từ khách du lịch quốc tế, từ buôn lậu còn lớn,... vẫn còn nhiều người cất trữ và sử dụng ngoại tệ. Cơ chế điều hành một số công cụ chính sách tiền tệ chưa linh hoạt, lãi suất huy động vốn ngoại tệ chưa thật sự hấp dẫn người dân. Do chủ trương tiến hành kinh doanh mà hội sở chính giao cho chi nhánh, chi nhánh thiếu vốn để trang bị công nghệ đồng bộ. Mặt khác công tác sổ sách, giấy tờ thủ tục trong hoạt động thanh toán không dung tiền mặt còn rườm rà, phức tạp cũng góp phần đáng kê vào việc giảm lượng vốn huy động trong chi nhánh. Với những kết quả đạt được và hạn chế trên đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn của chi nhánh nói riêng. Trong thời gian tới chi nhánh cần tiếp tục phấn đấu, đưa ra những nhóm giải pháp đồng bộ và có tính khả thi cao để khắc phục được những hạn chế của mình. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH HÀ THÀNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 3.1 ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1.1 Các chỉ tiêu cơ bản cần phấn đấu trong năm 2008 Chỉ tiêu Số dư (Tỷ VND) Tăng so với 2007 Tốc độ tăng trưởng BQ (/năm) Chỉ tiêu về quy mô 1 Tổng tài sản 7,600 82% 155%/năm 2 Huy động vốn 4,700 35% 160%/năm 3 Dư nợ tín dụng 3,100 37% 514%/năm 4 Hoạt động đầu tư 220 147% 5 Thu phí dịch vụ 18 64% 66%/năm Chỉ tiêu về chất lượng 1 Dư nợ/Tổng tài sản <50% 2 Đầu tư/Tổng tài sản >5% 3 Nợ NQD/Tổng dư nợ >90% 4 (Thu dịch vụ ròng + Thu đầu tư)/LNTT >40% 5 Nợ xấu/Tổng dư nợ <4% 6 Lợi nhuận trước thuế 90 35% 100%/năm (Nguồn: Báo cáo định hướng - kế hoạch kinh doanh) 3.1.2 Mục tiêu lớn cần ưu tiên của Chi nhánh Hà Thành Phấn đấu đến năm 2008 trở thành Doanh nghiệp hạng I Toàn thể cán bộ nhân viên nỗ lực phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kinh doanh được nhận bằng khen Thủ tướng nhân kỷ niệm 5 năm. Chương trình thực hiện Trong năm 2007 đã có dấu hiệu giảm sút huy động vốn và dịch vụ so với năm 2006, do vậy để đạt được mục tiêu đặt ra cần thực hiện nhiệm vụ kinh doanh toàn diện trên tổng thể các mặt hoạt động sau: 3.1.3.1 Tín dụng Tiếp tục ưu tiên hướng vào thị trường mới là khối khách hàng cá nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển tín dụng tiêu dùng, đa dạng hoá khách hàng, xây dựng nền khách hàng vững chắc. Phấn đấu đến năm 2010 tổng dư nợ tín dụng tiêu dùng đạt 45% trong tổng dư nợ. Ưu tiên phát triển khối khách hàng sử dụng trọn gói sản phẩm ngân hàng tại Chi nhánh, phát triển khách hàng tín dụng có nhu cầu sử dụng nhiều dịch vụ ngân hàng. Phát triển cho vay một số ngành nghề: thuỷ điện, nhiệt điện, xi măng, chế biến gỗ, bất động sản: đầu tư văn phòng cho thuê, khách sạn, chung cư. Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các dịch vụ tín dụng dưới các hình thức cấp tín dụng: cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá, bảo lãnh, bao thanh toán, thấu chi, tạm ứng và các hình thức cấp tín dụng khác. Coi chất lượng và an toàn hoạt động tín dụng là mục tiêu hàng đầu; gắn tăng trưởng tín dụng với kiểm soát chặt chẽ chất lượng và hiệu quả tăng trưởng tín dụng; Thu hồi các nợ xấu cũ, hạn chế sự gia tăng của nợ xấu mới. Tiếp tục đổi mới thủ tục cấp tín dụng theo hướng đơn giản, thuận tiện. Xử lý dứt điểm khoản nợ hạch toán ngoại bảng 3.1.3.2 Nguồn vốn Đảm bảo đáp ứng đủ vốn cho nhu cầu tín dụng và đầu tư đồng thời đóng góp vào cân đối vốn cho toàn hệ thống. Đa dạng hoá nguồn huy động, tập trung đẩy mạnh huy động vốn dân cư tạo nền vốn ổn định, tránh tình trạng phụ thuộc vào một số đối tượng khách hàng là tổ chức kinh tế. Đẩy mạnh kinh doanh vốn thu lợi nhuận tập trung tăng trưởng nguồn vốn có chi phí thấp phấn đấu nguồn tiền gửi thanh toán chiếm tỷ trọng 27-30% trong tổng nguồn huy động. Tập trung đẩy mạnh huy động vốn ngoại tệ từ dân cư và các tổ chức kinh tế có nguồn ngoại tệ lớn. Tận dụng cơ hội thị trường huy động nguồn vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài. 3.1.3.3 Dịch vụ Hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng truyền thống, đồng thời chủ động mở rộng các dịch vụ ngân hàng mới trên nền tảng công nghệ hiện đại của BIDV phù hợp với nhu cầu thị trường; Nâng cao các tiện tích thanh toán qua ngân hàng để khuyến khích các thành phần kinh tế, đặc biệt là các cá nhân sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Gắn tăng trưởng hoạt động dịch vụ với ứng dụng công nghệ hiện đại, tập trung thu dịch vụ tăng trưởng với tốc độ cao. Triển khai mạnh mẽ và đầy đủ các sản phẩm Hội sở chính đã triển khai, bên cạnh đó trên cơ sở nhu cầu khách hàng và thực tế hoạt động của đơn vị nghiên cứu đề xuất với Hội sở chính triển khai các dịch vụ mới, đặc biệt các dịch vụ cho cá nhân và dịch vụ phục vụ thị trường chứng khoán 3.1.3.4 Đầu tư Tiếp tục nghiên cứu các doanh nghiệp cổ phần, xây dựng, và thực hiện các phương án cơ cấu danh mục đầu tư hợp lý, hiệu quả, và sinh lời. Thực hiện đa dạng hoá danh mục đầu tư nhằm giảm thiểu rủi ro trong công tác đầu tư. Đa dạng các phương án, cách thức đầu tư nhằm đẩy mạnh hoạt động đầu tư, giữ vững vai trò là một trong bốn trụ cột hoạt động của Chi nhánh. 3.1.3.5 Công tác triển khai mạng lưới Tập trung mở rộng mạng lưới hoạt động tại các khu vực đông dân cư, trung tâm thương mại, siêu thị, và là ngân hàng chỉ định phục vụ một số lĩnh vực cụ thể như các bệnh viện, trường học… Phát triển các kênh phân phối dịch vụ mới nhằm tiết kiệm chi phí hoạt động như dịch vụ ngân hàng điện tử (Internet/phone/sms banking). 3.1.3.6 Công tác tổ chức – đào tạo Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: lựa chọn cán bộ từ khâu tuyển dụng, đào tạo tại chỗ và cử cán bộ tham gia các lớp học bổ trợ kiến thức phục vụ thực hiện nhiệm vụ. Bổ sung cán bộ chủ chốt cho các đơn vị nhằm đảm bảo yêu cầu công việc ngày càng mở rộng. Đảm bảo các lợi ích của người lao động. 3.2 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH HÀ THÀNH – NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM Qua việc nghiên cứu thực trạng hoạt động huy động vốn tại chi nhánh Hà Thành trong những năm gần đây, chúng ta thấy ngoài những thành tựu đã đạt được trong công tác huy động vốn, chi nhánh vẫn còn một số nhược điểm. Căn cứ vào mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước và phương hướng nhiệm vụ hoạt động của Ngân hàng trong thời gian tới, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp 3.2.1 Mở rộng mạng lưới và tiếp tục đa dạng hóa hình thức huy động vốn Những năm gần đây, chi nhánh Hà Thành đã có nhiều đổi mới trong công tác huy động vốn, từng bước phù hợp với nguyện vọng và nhu cầu của khách hàng đến gửi tiền. Tuy nhiên, để tạo sự hấp dẫn mới trong hoạt động huy động vốn thì chi nhánh cần phải có sự quan tâm hơn nữa đối với các nguồn tiền gửi, cụ thể như: 3.2.1.1 Đa dạng hóa các hình thức tiền gửi tiết kiệm Ta biết rằng, huy động vốn luôn đi đôi với sử dụng vốn. Phải xuất phát từ những mục tiêu định trước thì hệ số sử dụng vốn sẽ cao. Để chủ động trong khâu sử dụng vốn, Ngân hàng cần đưa ra các kỳ hạn huy động vốn phù hợp với kỳ hạn tín dụng và ngược lại muốn mở rộng hay đa dạng tín dụng thì trước tiên phải đa dạng về loại hình cũng như thời hạn huy động vốn. Điều đó có nghĩa là ứng với vốn tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn thì cần phải có vốn huy động ngắn hạn, trung và dài hạn. Để đa dạng hóa các hình thức tiền gửi tiết kiệm, ngân hàng cần đa dạng hóa tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn bằng cách đưa ra nhiều kỳ hạn 1 tháng, 3 tháng,....1 năm, 5 năm thậm chí là 10 năm hoặc 20 năm nếu như khách hàng có nhu cầu và ứng với mỗi kỳ hạn, chi nhánh phải xác định mức lãi suất huy động tương ứng vừa hấp dẫn khách hàng vừa đảm bảo nguyên tắc lãi suất trả cho tiền gửi có kỳ hạn dài cao hơn lãi suất trả cho kỳ hạn ngắn. Tuy nhiên mức lãi suất trả cho các kỳ hạn này không được vượt quá lợi nhuận bình quân chung của các ngành vì nếu lãi suất đầu vào cao sẽ làm lãi suất đầu ra cao và ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng cũng như lợi nhuận của chi nhánh. Cùng với việc đa dạng hóa các kỳ hạn gửi tiền thì chi nhánh cũng cần đa dạng hóa các hình thức hưởng lãi đối với các khoản tiền gửi nhằm giảm bớt thiệt thòi cho khách hàng gửi tiền khi phải rút toàn bộ hoặc rút một phần tiền gửi trước hạn, ví dụ chi nhánh có thể áp dụng hình thức hưởng lãi cuối kỳ với lãi suất cao hơn hưởng lãi trước, hưởng lãi cao nhất nếu tiền gửi một lần và rút một lần, hưởng lại không kỳ hạn hay kỳ hạn ngắn đối với khoản rút trước hạn một hay nhiêu lần theo phương pháp số dư bình quân ( trong đó nếu tiền gửi có kỳ hạn vừa và dài nhưng có bảo hiểm thì quy định này chỉ nên áp dụng cho các khoản tiền có kỳ hạn kéo dài từ 3 năm trở lên và chỉ số bảo hiểm của tiền gửi phải luôn được thông báo theo từng thời kỳ trên cơ sở khoa học của các cơ quan chuyên trách). * Áp dụng phiếu tiết kiệm có kỳ hạn chuyển nhượng Thông thường khách hàng gửi tiền có kỳ hạn dài rất lo lắng khi họ muốn chuyển đổi khoản tiền này sang một loại công cụ dễ sử dụng hơn nhưng sẽ gặp khó khăn khi ngân hàng chưa có loại tiết kiệm có khả năng chuyển nhượng. Do vậy để thu hút các khoản tiền gửi có kỳ hạn dài chi nhánh cũng nên phát hành các loại “ phiếu tiế kiệm có thể chuyển nhượng” ra thị trường để có thể dung hòa lợi ích của cả 2 bên là tạo thuận lợi và an tâm cho khách hàng khi muốn gửi tiền với kỳ hạn dài nhưng lại có nhu cầu chi tiêu trong tương lai gần, mặt khác Ngân hàng sẽ tạo cho mình nguồn lợi có thời gian dài, ổn định. * Áp dụng hình thức huy động tiết kiệm dài hạn có mục đích Ngoài việc mở rộng các loại tiền gửi truyền thống, ngân hàng cần quan tâm đến các hình thức huy động tiết kiệm dài hạn có mục đích như: - Hình thức tiết kiệm xây dựng nhà ở: Hình thức này tạo cho ngân hàng nguồn vốn có thời hạn dài đồng thời khách hàng gửi tiền có quyền vay tiền tối đa bằng số tiền đã gửi tiết kiệm với mục đích cải tạo và xây dựng nhà ở. Hiện nay thu nhập và nhu cầu chi tiêu cho nhà ở của dân cư vẫn cao nên việc làm này là có thể thực hiện được. Nó sẽ khuyến khích người dân gửi tiền nhiều hơn, ngoài ra dân cư có thể tiết kiệm để mua các phương tiện sinh hoạt đắt tiền như xe máy, máy giặt...Để huy động được nguồn tiền này, chi nhánh cần phải tạo được sự hấp dẫn đối với khách hàng bằng việc trực tiếp đứng ra làm môi giới trung gian cho khách hàng gửi tiền với các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp những mặt hàng mà khách hàng đang có nhu cầu. Chi nhánh cũng phải thực hiện hộ khách hàng các thủ tục chuyển giao quyền sở hữu, đảm bảo về chất lượng và giá cả với khách hàng. Nếu làm được như vậy thì tài khoản của khách hàng có tiền nhàn rỗi đang có nhu cầu mua bán sẽ tăng lên. - Hình thức tiết kiệm hưu trí bảo thọ: dành cho người có thu nhập hiện tại muốn dùng trong tương lai khi về già bằng cách hàng tháng gửi một số tiền nhất định theo từng thời hạn khác nhau. - Hình thức tiết kiệm học đường: hình thức này cũng đang được các công ty bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam thực hiện, đây là hình thức dành cho những gia đình trẻ có hoặc chưa có con nhưng muốn tiết kiệm để sau này sẽ có một khoản tiền chi trả cho con học hành,... - Hình thức tiết kiệm bảo đảm bằng vàng hay USD hoặc hình thức huy động bằng vàng: hình thức này tránh cho khách hàng tâm lý sợ mất giá trị tài sản, hình thức tiền gửi này không những gây cho khách hàng tâm lý đảm bảo được giá trị tài sản mà còn nhận được một khoản lãi từ phía ngân hàng, ngoài ra còn có thể sử dụng tiết kiệm có quay số mở thưởng theo định kỳ. 3.2.1.2 Tăng cường huy động tiền gửi doanh nghiệp Đây là loại tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế gửi vào với mục đích thanh toán, chi trả hoặc phát hành séc. Chi nhánh cần đặt việc huy động nguồn tiền này lên hàng đầu, phấn đấu trở thành trung tâm thanh toán của dân cư bởi loại tiền này có chi phí huy động thấp, không cần bảo hiểm do thời hạn ngắn, ít bị ảnh hưởng về giá trị tiền gửi và khối lượng tiền gửi lớn. Nhược điểm của loại tiền này là thường xuyên biến động và không ổn định do phụ thuộc vào nhu cầu chi tiêu thường xuyên của khách hàng nhưng bù lại chi nhánh có thể duy trì được số lượng lớn khách hàng đến gửi tiền, thanh toán qua hoạt động giao dịch của mình và góp phần trực tiếp nâng cao uy tín của Ngân hàng. Ngân hàng cần nâng cao hiệu quả nhanh chóng, an toàn của các công cụ thanh toán và trong điều kiện nước ta hiện nay phải tiến hành cải tiến công cụ thanh toán. Ngoài ra, chi nhánh cần tích cực vận động khách hàng chuyển tiền qua hình thức thanh toán bằng séc cầm tay hay thể thanh toán ATM mới. Điều này vừa tạo thuận lợi cho khách hàng khi cầm séc nộp vào Ngân hàng có thể nhận ngay tiền mặt hoặc chuyển vào tài khoản của họ, vừa tạo điều kiện cho chi nhánh thu hút thêm vốn từ tiền gửi 3.2.1.3 Đa dạng hóa các công cụ nợ Một hình thức huy động vốn nữa của chi nhánh cần được quan tâm là hình thức phát hành các công cụ nợ bao gồm kỳ phiếu, trái phiếu mặc dù đây là hình thức huy động vốn khoong thường xuyên. Ngân hàng nên thực hiện nghiệp vụ chiết khấu kỳ phiếu, trái phiếu nhằm tạo tính lỏng cho công cụ nợ này hoặc phát hành các trái phiếu có khả năng chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường. Các trài phiếu này có thể bán lại cho các cá nhân, doanh nghiệp, các ngân hàng hay cho bất kỳ cơ quan nào có khả năng tài chính để mua nó. Ngân hàng cũng nên có các loại trái phiếu khác nhau như vô danh, ghi danh, ghi sổ...với các hình thức trả lãi và thời hạn khác nhau để đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Để nâng cao hiệu quả huy động vốn có thời hạn trong thời gian dài cho đầu tư thì một vấn đề quan tâm trong huy động vốn là ngân hàng phải lấy tư cách của nhà nước hoặc địa phương để huy động vốn đầu tư cho các công trình kinh tế trọng điểm. Ngân hàng nên phát hành kỳ phiếu, trái phiếu có mục đích với các hình thức đa dạng hơn như kỳ phiếu có mục đích trả lãi trước, trả lãi sau,...lãi suất và kỳ hạn cũng phải được điều chỉnh linh hoạt hơn tùy thuộc vào môi trường cạnh tranh cũng như quan hệ cung cầu trên thị trường. Ngân hàng sẽ thu hút được lượng vốn không nhỏ, chi phí huy động vốn ít khi sử dụng hình thưc huy động này. 3.2.2 Thực hiện chính sách lãi suất huy động linh hoạt, hợp lý Lãi suất là công cụ quan trọng để Ngân hàng có thể hấp dẫn được khách hàng từ đó huy động nguồn vốn nhàn rỗi một cách có hiệu quả. Bởi khách hàng có tiền nhàn rỗi muốn gửi tiết kiệm, trong điều kiện bình thường không có khủng hoảng và lạm phát tiền tệ thì họ sẽ xem lãi suất tiền gửi huy động theo cách thức nào, nơi nào cao hơn, mục tiêu hàng đầu của họ vẫn là lãi suất sau đó mới đến vấn đề an toàn tiền gửi và các dịch vụ tiện ích được hưởng từ phía Ngân hàng. Nếu khách hàng đánh giá được các ngân hàng có hệ số an toàn và dịch vụ tiện ích như nhau thì họ sẽ nghĩ đến việc lựa chọn ngân hàng quen dùng. Điều này không thật sự quá khó đối với khách hàng vì phương tiện thông tin đại chúng ngày càng trở nên thông dụng và phổ biến. Để nâng cao hiệu quả huy động vốn cho đầu tư thì chi nhánh cần tăng lượng vốn huy động và giảm chi phí huy động, không có nghĩa là tăng lãi suất huy động. Nếu tăng lãi suất huy động sẽ làm tăng chi phí hoặc giảm thu, hạn chế công tác cho vay. Do vậy Ngân hàng cần đưa ra mức lãi suất hợp lý để kích thích khách hàng tuy nhiên cần phải duy trì mức lãi suất ổn định nhằm tạo sự an tâm cho khách hàng. Trong những năm qua, chi nhánh Hà Thành đã bước đầu sử dụng thành công chính sách lãi suất và thu hút một số lượng vốn đáng kể, tuy nhiên để có thể thu hút được lượng vốn nhiều hơn, chi nhánh cần duy trì thường xuyên chính sách lãi suất linh hoạt và hợp lý theo hướng sau: Lãi suất huy động và cho vay phải phù hợp với từng lĩnh vực kinh doanh cụ thể. Quy chế trả lãi tiền gửi phải thống nhất xuyên suốt và tiện lợi cho phép khách hàng được lựa chọn nhiều hình thức khác nhau. Chỉ đạo lãi suất theo quy luật kinh tế thị trường và mối quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ. Lãi suất đầu ra sẽ quyết định lãi suất đầu vào, căn cứ vào lãi suất sử dụng vốn để quyết định lãi suất huy động vốn ...Qua đó đảm bảo lượng vốn vào và lượng tín dụng ra liên tục tăng. Xóa bỏ đi sự chênh lệch về lãi suất giữa tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức kinh tế và tiền gửi có kỳ hạn của dân cư như hiện nay, không phân biệt chủ thể tiến hành gửi tiền là ai mà chỉ quan tâm đến khối lượng và kỳ hạn tiền gửi, ứng với mỗi kỳ hạn là một mức lãi suất thích hợp theo nguyên tắc thời hạn càng dài lãi suất càng cao nhằm khuyến khích dân cư và tổ chức kinh tế gửi tiền vào chi nhánh. Chi nhánh cần phải xác định cho mình một chính sách lãi suất linh hoạt và hợp lý, đảm bảo mức lãi suất bình quân không tăng lên đối với toàn bộ nguồn vốn huy động đông thời khuyến khích khách hàng duy trì số dư tài khoản với thời gian dài hơn thời gian gửi ban đầu. 3.2.3 Thực hiện tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt Đây vốn là phương thức huy động vốn tiền gửi tốt nhất của các Ngân hàng thương mại. Nó tạo điều kiện tập trung tăng cường nguồn vốn đầu tư đúng chỗ có hiệu quả cho sự phát triển của nền kinh tế. Thông qua hình thức này, Ngân hàng sẽ tập trung được khoản thanh toán giữa các khách hàng mở tài khoản ở các Ngân hàng, bởi muốn thanh toán được thì trên tài khoản thanh toán của khách hàng luôn phải có số dư tiền gửi, điều này tạo ra một lượng vốn nhàn rỗi tập trung. Khi có càng nhiều khách hang tham gia hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt thì số vốn huy động của Ngân hàng càng lớn và ằng kênh tín dụng riêng của mình, Ngân hàng có thể đầu tư cho vay, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa. Tuy nhiên việc sử dung phương thức này vẫn còn khó thực hiện bởi đối với dân cư do thu nhập còn thấp, sự phát triển của hệ thống thương nghiệp hiện nay chưa tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động thanh toán qua ngân hàng diễn ra. Trong thời gian tới, chi nhánh cần tạo thói quen thanh toán không dùng tiền mặt ngay trong ngân hàng đối với bản thân cán bộ công nhân viên thông qua hinh thức trả lương dưới dạng thẻ thanh toán tín dụng cá nhân, thẻ rút tiền tự động, sau đó mở rộng phạm vi cung cấp cho khách hàng tài khoản chi phiếu dụng thanh toán các hóa đơn điện thoại, dịch vụ mua hàng... Mặt khác tích cực vận động các doanh nghiệp, tổ chức hành chính sự nghiệp mở tài khoản thanh toán không dùng tiền mặt từ đó thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi của các đơn vị này. 3.2.4 Coi trọng chất lượng phục vụ khách hàng Ngày nay chất lượng dịch vụ khách hàng cũng như thái độ phục vụ của nhân viên Ngân hàng được khách hàng giành sự quan tâm đến nhiều hơn. Có thể nói tất cả những nỗ lực của Ngân hàng về chính sách lãi suất hay hình thức huy động vốn của chi nhánh sẽ không có hiệu quả nếu khách hàng phải tiếp xúc với một nhân viên thiếu lịch sự. Để tạo được niềm tin và sự hứng thú khi giao dịch với chi nhánh,ngoài các sản phẩm đã được đa dạng hóa thì chi nhánh cần quan tâm đến việc nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Chi nhánh cần tạo ra một quy chuẩn về chất lượng phục vụ sao cho khách hàng sẽ luôn có mong muốn được quay lại giao dịch với chi nhánh chứ không phải một ngân hàng hay một tổ chức tín dụng nào khác. Mỗi cán bộ của chi nhánh phải luôn được khuyến khích và tạo mọi điều kiện phát huy khả năng, sức lực để không xảy ra bất cứ sai sót trong khâu giao dịch với khách hàng. Ngoài ra việc thực hiện nhanh và chính xác các hoạt động nghiệp vụ cũng cần được coi là biện pháp thu hút khách hàng của chi nhánh. 3.2.5 Đẩy mạnh chiến lược Marketing cho toàn bộ hoạt động của chi nhánh Trong thời gian gần đây, lĩnh vực hoạt động Marketing đã phát triển bao trùm sang cả lĩnh vực dịch vụ. Hiện nay Marketing ngân hàng là một trong các nhiệm vụ quan trọng không chỉ đối với nhân viên ngân hàng mà còn là của các cán bộ lãnh đạo. Đặc biệt trong gia đoạn hiện nay khi sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng ngày một gia tăng thì Marketing ngày càng trở nên quan trọng. Một trong những chương trình điển hình nhất của hoạt động Marketing nói chung và Marketing ngân hàng nói riêng là thuyết trình, quảng cảo trên truyền hình...Ngân hàng có thể áp dụng phương pháp thuyết trình ở các doanh nghiệp bằng việc thành lập các đội đặc biệt về giới thiệu sản phẩm của ngân hàng, họ đi đến các doanh nghiệp liên hệ, xin phép được thuyết trình về tiện ích của dịch vụ mà ngân hàng đưa ra. Với cách tiếp cân trực tiếp khách hàng, ngân hàng sẽ thu thập được thông tin về nhu cầu của khách hàng qua việc lấy ý kiến trực tiếp của khách hàng. Việc tổ chức một đội ngũ chuyên viên quảng cáo, tuyên truyền mang tính chất chuyên nghiệp là công việc quan trọng của chi nhánh.Còn sự kết hợp giữa quảng cáo và uy tín của ngân hàng đã thực sự truyền đạt được thông tin tinh túy nhất của ngân hàng tới khách hàng, điều này sẽ làm tăng niềm tin nơi khách hàng. Thêm vào đó là hình thức khuyến mãi, đây là hình thức bổ trợ cho quảng cáo, tạo sự hấp dẫn và phong phú. Một khi đưa ra được hình thức khuyến mãi đa dạng vào những thời điểm thích hợp thì ngay lập tức nó sẽ tạo ra sự thích thú nơi khách hàng, họ không những được hưởng lãi suất cao mà còn được hưởng các dịch vụ khuyến mại đem lại. Đội ngũ khách hàng truyền thống này đã vô hình trở thành người quảng cao, tuyên truyền hữu hiệu và tốt nhất cho chi nhánh bởi họ là người hiểu rõ về chi nhánh. 3.2.6 Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng Nhận thức được tầm quan trọng của phát triển công nghệ để quốc tế hóa dịch vụ là một trong những chiến lược cạnh tranh ngân hàng. Chi nhánh cần phải có các chiến lược công nghệ, bao gồm phần cứng mới nhất, phần mềm cập nhật, hệ thống mở. Mỗi thẻ tiết kiệm và tài khoản cá nhân của khách hàng đều được sử dụng như một tài khoản tiền gửi thanh toán, theo đó người gửi tiền tại chi nhánh có thể phát hành séc, sử dụng thẻ điện tử hay áp dụng những hình thức thanh toán không dùng tiền mặt khác để chi trả thanh toán cho người thụ hưởng mà không nhất thiết phải có mặt tại chi nhánh hay quỹ huy động vốn của cơ sở. Ngân hàng cần hoàn thiện hệ thống kế toán huy động vốn và thanh toán qua ngân hàng bởi tầm quan trọng của dịch vụ này đối với ngân hàng. 3.2.7 Nâng cao nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ Yếu tố con người đóng vai trò chủ đạo trong mọi hoạt động của xã hội. Trong kinh doanh và đặc biệt trong hoạt động kinh doanh tiền tệ ngân hàng thì yếu tố này vô cùng quan trọng, đây cũng là khâu then chốt quyết định sự thành công của ngân hàng. Để tạo ra kết quả trong kinh doanh khong những cần có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao mà còn phải có lòng yêu nghề và đạo đức nghề nghiệp. Chi nhánh Hà Thành đã củng cố và hoàn thiện tổ chức bộ máy đặc biệt là đổi mới cơ chế quản lý, điều hành, tăng cường giám sát và kiểm tra nội bộ, quản lý tài chính, tăng cường kỷ luật lao động. Để nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ của mình, chi nhánh cần phải thường xuyên tiến hàng tổ chức các lớp đào tạo nâng cao trình độ kết hợp với các chính sách khuyến khích về vật chất và tinh thần cho những nhân viên trực tiếp tham gia hay tự học để nâng cao nghiệp vụ của mình. Chi nhánh có thể tạo điều kiện thuận lợi cho nhân viên của minh đi nghiên cứu tìm hiều, tham quan học tập tại một số nước khác có ngành ngân hàng phát triển. Bên cạnh đó, chi nhánh cũng cần phải có hình thức thưởng phạt nghiêm minh ... Từ đó chi nhánh tạo cho mình đội ngũ nhân viên theo đúng tiêu chuẩn, hiểu biết pháp luật, có trình độ chuyên môn giỏi, tác phong làm việc chuyên nghiệp chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng và đặc biệt là trong công tác huy động vốn. 3.2.8 Một số biện pháp khác Trong nền kinh tế thị trường luôn có sự thay đổi về lãi suất, lạm phát, tỷ giá khiến cho hoạt động của ngân hàng tiềm ẩn rủi ro, đặc biệt đối với các khoản tiền gửi dài hạn. Do đó ngân hàng nên cùng với khách hàng thực hiện việc bảo hiểm cho các khoản tiền gửi này để đảm bảo thua thiệt cho khách hàng và ngân hàng trong trường hợp có rủi ro xảy ra Thực hiện công tác tư vấn cho người gửi tiền để tạo sự yên tâm cho khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng. 3.3. KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN CẤP TRÊN 3.3.1 Kiến nghị đối với Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam 3.3.1.1 Xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý dựa trên điều kiện cụ thể của chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam cần căn cứ vào tình hình và yêu cầu của thị trường, từng điều kiện cụ thể của chi nhánh về các mặt để xây dựng và hoàn thiện chiến lược kinh doanh hợp lý đồng thời cũng phải đề ra các biện pháp thích hợp phục vụ cho chiến lược đó. Chiến lược huy động vốn được xem là một trong những chiến lược quan trọng cấu thành nên chiến lược nguồn vốn của ngân hàng. Khi xây dựng và điều chỉnh chiến lược này, ngoài việc xác định những chỉ tiêu cụ thể và khoa học, đòi hỏi Ngân hàng phải đưa ra các biện pháp thực hiện chặt chẽ, hữu hiệu, đảm bảo đáp ứng đầy đủ các nguyên tắc trên tức là phải luôn bám sát vào tình hình của từng chi nhánh, vào các yếu tố khác. Chiến lược huy động vốn phải là thể thống nhất giữa các chiến lược cấu thành nên nó, trong sự liên quan hệ thống với các chiến lược phát triển của ngân hàng trên tất cả các mặt, chịu sự quy định của chiến lược phát triển chung. Có như vậy hoạt động huy động vốn cua Ngân hàng Đầu tư cùng các đơn vị thành viên mới đạt hiệu quả. 3.3.1.2 Mở rộng mạng lưới Ngân hàng Đầu tư và phát triển Bên cạnh việc xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý, Ngân hàng cần có những biện pháp đẩy mạnh và phát triển mạng lưới các chi nhánh của mình nhằm tạo ra cơ cấu hợp lý trên toàn hệ thống đặc biệt là các khu chế xuất, các vùng nông thôn. Đối với các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa thì công tác quản lý có phần vất vả và phức tạp nhưng không có nghĩa điều đó không thực hiện được. Cùng với việc mở rộng mạng lưới chi nhánh, ngân hàng cần củng cố, nâng cao chất lượng và đổi mới hoạt động của các quỹ tiết kiệm, các phòng giao dịch hiện có, đảm bảo đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng khi đến với ngân hàng, qua đó tạo niềm tin trong khách hàng và thu hút được ngày càng nhiều nguồn vốn nhàn rỗi của họ. 3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng nhà nước 3.3.2.1 Tháo gỡ vướng mắc về cơ chế chính sách tiền tệ, tín dụng cho các ngân hàng thương mại Đến nay đã có hàng chục văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành hai luật ngân hàng đã được ban hành. Song một loạt cơ chế về lãi suất, tỉ giá, quản lý ngoại hối, các quy định về cho vay, thế chấp, bảo lãnh vẫn còn những vướng mắc, bất cập không phù hợp với thông lệ quốc tế, gây cản trở công tác huy động vốn, mở rộng tín dụng, đáp ứng yêu cầu vốn nội tệ và ngoại tệ cho các thành phần kinh tế. Chính vì vậy trong thời gian tới ngân hàng nhà nước cần tiếp tục hoàn thiệ, đổi mới các văn bản, các chính sách kinh tế vĩ mô, cụ thể: *Về lãi suất: Ngân hàng cần ban hành một hệ thống lãi suất cơ bản hợp lý, có tính ổn định lâu dài và phù hợp với từng thời kỳ nhất định nhưng vẫn đảm bảo mức lãi suất thực dương có lợi cho người gửi tiền, người vay tiền và ngân hàng. Việc Ngân hàng nhà nước chuyển từ cơ chế lãi suất trần và sàn sang điều hành theo lãi suất cơ bản là một bước tiến lớn. Tuy nhiên về lâu dài Ngân hàng nhà nước cũng cần có nhứng biện pháp hạ thấp dẫn mức lãi suất trong nền kinh tế để từng bước hòa nhập với mặt bằng lãi suất chung của các nước trong khu vực và trên thế giới bởi trong tương lai với xu hướng tự do hóa lãi suất giữa các nước, mức lãi suất sẽ là như nhau thi việc duy trì một mức lãi suất quá cao sẽ gây cản trở cho cac doanh nghiệp khi tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng, điều này làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước và hiệu quả kinh doanh cũng như hoạt động huy động vốn của NHTM cũng sẽ giảm. * Về tỉ giá: để hạn chế sự biến động về tỉ giá, tạo sự an tâm cho khách hàng gửi tiền cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động huy động vốn của các NHTM, Ngân hàng nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện và tập trung các vấn đề như hoàn thiện thị trường hối đoái và thị trường nội tệ, hình thành các quỹ ngoại tệ tập trung do Ngân hàng nhà nước trực tiếp đứng ra điều hành và quản lý nhằm dự trữ một lượng ngoại tệ đủ mạnh để can thiệp vào thị trường khi cần thiết, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về ngoại hối, cho phép tỷ giá được hình thành khách quan hơn, sát thực với quan hệ cung càu ngoài tệ trên thị trường ở những thời điểm nhất định. * Thực hiện một số biện pháp nhằm phát triển thị trường vốn như: Tái cấp vốn trung và dài hạn cho các ngân hàng thương mại bằng cách nới lỏng điều kiện vay và lãi suất cho vay hợp lý. Có biện pháp điều chỉnh thích hợp khi có sự biến động từ thị trường, không nên quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc quá cao vì nó ảnh hưởng đến nguồn vốn vay cũng như lợi nhuận của NHTM. Xây dựng các quỹ vốn huy động và quỹ bảo hiểm tiền gửi giúp ngân hàng thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán và tự chủ trong việc phát hành các công cụ nợ. Có biện pháp khuyến khích các NHTM thành lập các công ty kinh doanh chứng khoán nhằm tạo cho thị trường này thêm sôi động và hiệu quả. 3.3.2.2 Tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát hoạt động của NHTM Thanh tra là giải pháp mạnh mẽ và có ý nghĩa quyết định với việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý vị phạm của tổ chức tín dụng, làm cho hoạt động của tổ chức tín dụng trở nên lành mạnh và hiệu quả. Trong thời gian gần đây, tình hình nợ quá hạn của các tổ chức tín dụng ngày càng cao và việc chấp hành các quy định về tỉ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng thanh toán chưa được thực hiện đúng , do vậy sự giám sát của ngân hàng nhà nước là rất cần thiết. Bên cạnh đó, Ngân hàng nhà nước cần yêu cầu NHTM công khai thông tin về tình hình hoạt động của mình, một phần giúp NHTM hoạt động lành mạnh hơn, mặt khách giúp khách hàng theo dõi được hoạt động của ngân hàng từ đó sẽ yên tâm để đầu tư hơn. Trên đây là một số giải pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Hà Thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Các giải pháp này đều có mối quan hệ và tác động lẫn nhau do đó chúng phải được kết hợp một cách đồng bộ thì mới đảm bảo mang lại thành công thực sự cho hoạt động huy động vốn của chi nhánh. KẾT LUẬN Một lần nữa phải khẳng định hoạt động huy động vốn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Đặc biệt đối với nước ta hiện nay, nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển đang là đòi hỏi cấp bách, các Ngân hàng thương mại cần phấn đấu, tìm tòi đổi mới phương thức huy động vốn, trọng tâm hơn cần đổi mới là công tác huy động vốn. Là một chi nhánh trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư, trong những năm qua, Hà Thành đã từng bước hoàn thành tốt công tác huy động nguồn vốn nhàn rỗi, góp phần đáp ứng tốt nhu cầu vốn cho mọi thành phần kinh tế. Trong thời gian tới, để đáp ứng tốt hơn nhu cầu về vốn và khẳng định vị thế cạnh tranh của mình, ngoài sự nghiên cứu kỹ lưỡng không những về mặt xây dựng chế độ, khảo sát thực tế tùy theo từng điều kiện vận dụng để có các giải pháp thiết thực, chi nhánh cũng cần có sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng trong việc tạo lập môi trường thuận lợi cho hoạt động huy động vốn của mình.Qua việc nghiên cứu về hoạt động huy động vốn và các giải pháp cho vấn đề này, tôi mong rằng trong thời gian tới chi nhánh sẽ thực hiện tốt và thắng lợi nhiệm vụ của mình trong việc huy động cũng như cung ứng vốn có hiệu quả cho sự phát triển hoạt động kinh doanh của bản thân chi nhánh nói riêng và nền kinh tế nói chung. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Tài chính doanh nghiệp _ Chủ biên: PGS.TS Lưu Thị Hương Giáo trình Ngân hàng thương mại _ Chủ biên: PGS.TS Phan Thị Thu Hà Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại hiện đại _ Davidcox Giáo trình tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính _ Frederic S.Mishkin Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại _ Tác giả: Lê Văn Tư Báo cáo kết quả kinh doanh hàng năm của chi nhánh Hà Thành Tạp chí tài chính, phát triển kinh tế, ngân hàng và tạp chí lưu hành nội bộ của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam Thời báo ngân hàng về hoạt động huy động vốn Một số tài liệu tham khảo khác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0213.doc
Tài liệu liên quan