Đề tài Giải pháp tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ giảm nghèo trong điều kiện hiện nay ở nước ta

Một số vấn đề khi thực hiện cho vay và thu hồi nợ : Thứ nhất, mức cho vay đối với từng hộ nghèo được ấn định dựa trên 2 cơ sở : 1/ nguồn vốn có thể huy động của Ngân hàng người nghèo; 2/ thực tế nhu cầu vay vốn, từng loại hộ sản xuất kinh doanh khác nhau. Hiện nay mức cho vay bình quân mỗi hộ nghèo là 1 triệu đồng và mức cao nhất là 2,5 triệu đồng là chưa phù hợp với các đối tượng hộ nghèo phi nông nghiệp, các hộ nghèo khai thác, đánh bắt hải sản. Bởi vậy, Ngân hàng người nghèo phải đảm bảo cho hộ nghèo một mức tín dụng để sản xuất tạo ra thu nhập, chứ không phải cho vay dàn đều. Việc dàn đều, chia bình quân nguồn vốn cho vay và mức cho vay là điều kiện cho sự vùng dậy tư tưởng trông chờ hưởng cứu tế của người nghèo Thứ hai, để cho hộ nghèo tạo ra thu nhập và trả nợ từ bán bán sản phẩm thì việc quy định thời hạn cho vay phải gắn liền với chu kỳ sản xuất của họ. Việc quy định thời hạn cho vay đối với hộ nghèo chỉ bằng hai loại ngắn hạn (12 tháng), trung hạn (36 tháng) là cần thiết song chính nó có thể là sự áp đặt phi lý trong nhiều trường hợp. Ví như cho vay nuôi lợn chẳng hạn, quy định thời hạn cho vay 12 tháng, vậy thử hỏi sau 15 tháng lợn mới đủ cân để bán thì xảy ra nợ quá hạn 3 tháng hoặc ép phải trả nợ, họ chấp nhận bán lợn giá rẻ. Bởi vậy thời hạn cho vay đối với hộ nghèo hoàn toàn được quy định gắn liền với chu kỳ sản xuất của cây trồng, vật nuôi, ngành nghề của họ. Tức ngân hàng có thể quy định nhiều loại thời hạn : 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, 15 tháng, . Thứ ba, để vốn tín dụng đến hộ nghèo không bẻ gi do sai đối tượng, sử dụng sai mục đích thì công việc kiểm tra trước của cán bộ tín dụng là không thể thiếu được. Bởi vậy, mô hình Ngân hàng người nghèo như đã đề xuất trên sơ đồ số 2 đủ điều kiện để thực thi chức năng kiểm tra này. Bộ phận cấp tín dụng chỉ được ký vào hợp đồng tín dụng khi có kết quả kiểm tra xác đáng của bộ phận hướng dẫn sản xuất, kiểm tra và thu nợ .

doc88 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1290 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ giảm nghèo trong điều kiện hiện nay ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng cho vay có thể bị sử dụng vào mục đích khác (như lương thực, chữa bệnh, tiền học cho con, ...) để đảm bảo những nhu cầu cơ bản của con người. Lập quỹ bù đắp rủi ro là việc cần thiết cho mọi tổ chức tín dụng, song nó lại cần thiết hơn đối với tổ chức tín dụng cho người nghèo. Vấn đề đặt ra, lấy nguồn đâu để lập quỹ bù đắp rủi ro này và sử dụng nó cho hiệu quả trong điều kiện Ngân hàng người nghèo với khả năng tạo lợi nhuận rất thấp. Bởi vậy, theo tôi, cần tạo ra một cơ chế lập quỹ bù đắp rủi ro cho Ngân hàng người nghèo phù hợp với tính "chính sách" của nó. Nhà nước nên cho phép trích ngân khoản từ ngân sách Nhà nước để cấp cho Ngân hàng người nghèo hình thành quỹ bù đắp rủi ro trên cơ sở có sự tự lực của Ngân hàng người nghèo. Tức là quỹ bù đắp rủi ro được lập từ hai nguồn : ngân sách Nhà nước cấp, nguồn trích từ lợi nhuận của Ngân hàng người nghèo. Song phần ngân sách Nhà nước cấp là chủ yếu, tỷ lệ này sẽ được giảm dần khi lợi nhuận của Ngân hàng người nghèo tăng lên. Nguồn của ngân sách cấp để hình thành quỹ bù đắp rủi ro cho Ngân hàng người nghèo được trích ra từ quỹ dự phòng trợ cấp các vùng thiên tai, xoá nợ, khoanh nợ, ... đối với hộ nghèo, vùng nghèo, vùng gặp khó khăn. Như vậy chi ngân sách Nhà nước thực tế không tăng lên mà thay đổi phương thức chỉ để đạt mục tiêu sử dụng cao hơn. Bởi phương thức trợ cấp khắc phục thiên tai bằng xin, cho, cấp chỉ phù hợp với những giải pháp tình thế mang tính cứu tế mà thôi. Để Ngân hàng người nghèo hoạt động và phát triển, quỹ bù đắp rủi ro được lập thường xuyên với số dư đủ lớn. Khi thực tế có rủi ro, được trích quỹ để bù đắp kịp thời đảm bảo nguồn vốn hoạt động cho Ngân hàng người nghèo. Quỹ bù đắp rủi ro cho Ngân hàng người nghèo khi chưa sử dụng (phản ánh trên số dư của quỹ) được sử dụng để tăng nguồn vốn cho vay và bảo tồn nó. Tuy nhiên, để quỹ này sử dụng đúng mục đích và hiệu quả phải có một cơ chế quản lý như đối với các quỹ tài chính đặc thù. Ngoài những nguồn vốn nói trên, Ngân hàng người nghèo có thể sử dụng tối đa nguồn huy động tiền gửi bằng việc quy định miễn nộp dự trữ bắt buộc vào Ngân hàng Nhà nước. Dự trữ bắt buộc là công cụ thực thi chính sách tiền tệ thuộc hệ thống ngân hàng hai cấp của các nước có nền kinh tế thị trường. Thực hiện dự trữ bắt buộc nhằm 3 mục đích : 1/ đảm bảo an toàn và khả năng thanh toán của ngân hàng thương mại; 2/ nới rộng hoặc thu hẹp hệ số tạo tiền của ngân hàng thương mại; 3/ tác động đến lãi suất đầu ra của ngân hàng thương mại. Như vậy nếu Ngân hàng người nghèo được thực thi chính sách miễn nộp dự trữ bắt buộc vào Ngân hàng Nhà nước sẽ tạo ra khả năng mở rộng hệ số tạo tiền của nó. Nói một cách cụ thể hơn, việc được miễn nộp tiền dự trữ bắt buộc đã tạo cho Ngân hàng người nghèo sử dụng tối đa nguồn vốn huy động từ tiền gửi để cho vay. Hơn nữa, đó cũng là điều kiện làm giảm đáng kể lãi suất cho vay đối với Ngân hàng người nghèo. Ngân hàng Trung ương hoàn toàn có đủ luận chứng để thực thi miễn nộp tiền dự trữ bắt buộc đối với Ngân hàng người nghèo bởi các lẽ sau : Một là, tiền gửi huy động của Ngân hàng người nghèo ít xẩy ra mất khả năng thanh toán bởi chủ yếu nguồn tiền gửi ổn định, quy mô nhỏ. Hai là, việc tăng hệ số tạo tiền, theo đó cung ứng tiền thông qua cấp tín dụng cho người nghèo tăng lên, song Ngân hàng Trung ương vẫn chủ động kiểm soát được lượng tiền cung ứng, bởi hạn mức tín dụng cho người nghèo có giới hạn theo khả năng nguồn vốn của Ngân hàng người nghèo. Ba là, nâng hệ số tạo tiền, giảm được lãi suất cho vay có tác động tích cực thực hiện chính sách ưu đãi với người nghèo, điều đó không ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường tín dụng của nền kinh tế bởi đối tượng nhận tín dụng được giới hạn trong khu vực hộ nghèo, vùng nghèo. Từ tính hợp lý đã phân tích trên, hơn nữa thực tiễn hoạt động của một ngân hàng "chính sách", yêu cầu Ngân hàng Trung ương phải thực thi chính sách miễn nộp dự trữ bắt buộc đối với Ngân hàng người nghèo. Tạo cho nó có khả năng tăng nguồn vốn hoạt động mà không gây tác động tiêu cực đến việc thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. 3.2.1.3. Giải pháp sử dụng vốn tín dụng hỗ trợ giảm nghèo của Ngân hàng người nghèo. ã Đối tượng được cấp tín dụng : Cấp tín dụng cho người nghèo chẳng khác gì tạo cho họ chiếc cần câu để họ câu được xâu cá. Để câu được xâu cá, người nghèo phải biết câu. Bởi vậy tín dụng cho người nghèo cũng chỉ cấp cho ai biết sử dụng nó tạo thu nhập để giảm dần nghèo đói. Để xác định đúng đối tượng loại này là hết sức cần thiết nhưng có nhiều phức tạp. Trước hết chúng ta phải xác định đối tượng người nghèo vay vốn là các hộ nghèo. Bởi vì từ sau khi có Nghị quyết 10 Đại hội Đảng lần thứ 6, hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ. Do vậy hộ nghèo được sử dụng làm đối tượng cấp tín dụng là hoàn toàn đáp ứng yêu cầu thực tiễn đã và đang đặt ra. Vậy cơ sở nào để xác định là hộ nghèo ? Như đã dẫn ở trên, hiện nay nước ta đang quy định chuẩn mực hộ nghèo theo công văn ngày 29/8/1995 của Bộ lao động Thương binh và Xã hội. Song vấn đề đặt ra, việc xác định hộ gia đình nào có mức thu nhập đúng chuẩn mực hộ nghèo là hết sức khó khăn, mỗi khi thu nhập làm ăn của từng hộ không được công khai. Vậy khả thi hơn cả, để xác định hộ nghèo một cách tương đối (theo nghĩa so với chuẩn mực thu nhập) phải thiết lập một cơ chế kiểm soát, giám sát của cộng đồng thông qua bình xét, lựa chọn công khai của các tổ chức, đoàn thể địa phương, làng thôn. Tính "công khai cộng đồng", tự nó sẽ lấn át và đè bẹp tính "độc quyền, xét, xin, cho" phi công đồng của tổ chức chính quyền sở tại thường xẩy ra trong việc công nhận hộ nghèo được vay vốn. Trở lại vấn đề "cần câu" và "xâu cá" nói trên, hộ nghèo muốn vay vốn phải biết sử dụng vốn mà quyết định trước hết là phải có sức lao động. Bởi vậy các đối tượng nghèo đói không có sức lao động hoặc đối tượng rượu chè, cờ bạc, ... không thuộc đối tượng cấp tín dụng. Những hộ nghèo và đối tượng thuộc dạng này phải có sự cứu tế của Nhà nước, xã hội và cộng đồng. ã Xác định điều kiện cấp tín dụng : Ngân hàng người nghèo cần tạo ra một điều kiện vay vốn nới rộng, thuận lợi cho người vay song phải đảm bảo tính nghiêm ngặt của tổ chức tín dụng này. Các điều kiện đó là : Thứ nhất, ngoài những điều kiện vay vốn thông thường của ngân hàng, các hộ nghèo phải cam kết chấp hành điều lệ vay vốn của Ngân hàng người nghèo như : gia nhập tổ hoặc dự án vay vốn, đóng cổ phẩn, tiết kiệm bắt buộc, sử dụng vốn tạo được thu nhập. Thứ hai, vốn vay trước hết dùng vào sản xuất kinh doanh tăng thu nhập sau đó mới cho vay sửa nhà cửa, tạo nơi ăn chốn ở và vay tiêu dùng khác. Thứ ba, cấp tín dụng cho hộ nghèo không áp dụng biện pháp thế chấp, bởi các lẽ sau : - Nhìn chung các hộ nghèo không có tài sản gì đáng giá để thế chấp, ngoài mảnh đất "cắm dùi" của họ. Nếu cấp tín dụng mà buộc hộ nghèo thế chấp tài sản là vấn đề không thực tế, không thực hiện được. - Người nghèo nước ta (mà chủ yếu tập trung là nông dân), nhìn chung họ có lòng tự trọng cao, nếu được vay vốn họ đều trả nợ sòng phẳng ngoại trừ thiên tai, hoả hoạn. Bởi vậy không áp dụng biện pháp thế chấp khi cấp tín dụng cho hộ nghèo là có luận cứ. Để hạn chế tối đa rủi ro do không thực hiện thế chấp khi cấp tín dụng, Ngân hàng người nghèo phải quy định : - Các hộ vay vốn phải tự nguyện gia nhập tổ hoặc dự án vay vốn qua đảm bảo của tổ hoặc dự án đó. Việc quy định lập quỹ tổ hoặc quỹ dự án vay vốn là điều kiện kinh tế cho sự đảm bảo vay vốn của thành viên. - Các hộ vay vốn phải được chính quyền phường xác xác nhận hộ nghèo được vay vốn và đảm bảo cho sự xác nhận đó. Tuy nhiên trên thực tế sự bảo đảm này đạt hiệu quả thấp hay cao phải có sự phối hợp chủ động của ngân hàng - là người cấp vốn tín dụng. Lãi suất cho vay đối với người nghèo đang là vấn đề phức tạp. Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này nhưng có thể tổng hợp thành hai loại như sau : Một là, để giúp đỡ người nghèo sản xuất, giảm bớt chi phí đầu vào nên áp dụng lãi suất cho vay theo dạng tài trợ (dưới 1%/tháng), như ở Thái lan cho vay nông dân nghèo với lãi suất 8 -9%/năm. Hai là, hiện nay người nghèo rất cần vốn để tổ chức sản xuất kinh doanh, một số phải vay nặng lãi ở thị trường vốn "ngầm", yêu cầu của họ là được vay vốn nhanh. Vì vậy, lãi suất cho vay đối với người nghèo nên áp dụng bằng lãi suất thị trường. Ngân hàng Rakyat ở Indonexia áp dụng lãi suất cho vay nông dân nghèo 12%/năm, xấp xỉ gần bằng lãi suất cho vay các đối tượng khác. Đặc biệt, Ngân hàng Grameen ở Bangladesh áp dụng lãi suất cho vay đối với người nghèo gấp 1,5 lần lãi suất cho vay bình thường mà chương trình tín dụng này vẫn thành công. Cả hai loại ý kiến nêu trên, xét điều kiện của Việt Nam trong thực tế là chưa hợp lý, bởi lẽ : Trường hợp thứ nhất, cho vay theo lãi suất tài trợ, bộc lộ một số nhược điểm : gây cho người nghèo tâm lý trông chờ, ỷ lại; sử dụng vốn sai mục đích, kém hiệu quả, thậm chí sử dụng vốn vay để gửi lại ngân hàng hoặc cho vay các đối tượng khác để hưởng chênh lệch lãi suất. Mặc khác nguồn vốn cho vay sẽ cạn kiệt dần do tiền lãi thu được, ngoài phần bù đắp chi phí, không thể bảo toàn vốn, chưa kể đến rủi ro, mất vốn. Vì vậy đã làm triệt tiêu dần tính sinh lời của vốn tín dụng. Trường hợp thứ hai, nếu cho vay với lãi suất ngang bằng lãi suất thị trường là không chú ý đến người nghèo khó. Đành rằng có khi họ cần vay vốn nhanh với lãi suất thị trường hoặc vay nặng lãi với lãi suất 4 đến 6%/tháng dưới các hình thức "vay nóng" hoặc "bán lúa non", nhưng thường do quá khốn quẫn phải "tay nóng bắt rái tai" mà thôi! Tệ nạn cho vay nặng lãi càng đẩy nhiều người nghèo vào ngõ cụt. Vấn đề đặt ra, một khi chúng ta thừa nhận giải pháp vốn tín dụng cho người nghèo là hết sức cần thiết và quan trọng, thì phải có sự ưu tiên về mặt lãi suất và điều kiện vay vốn không phải thế chấp. Mặt khác cùng với việc thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp để thực hiện mục tiêu giảm nghèo thì, lãi suất tín dụng cho người nghèo được đặt ra như một công cụ ảnh hưởng trực tiếp đối với quá trình ổn định đời sống, phát triển sản xuất và từ đó có thể bứt khỏi ngưỡng đói nghèo. Để khắc phục các tồn tại khi thực hiện chính sách lãi suất của hai loại ý kiến nêu trên, theo tôi, nên áp dụng mức lãi suất cho vay đối với người nghèo thấp hơn lãi suất thị trường và cao hơn lãi suất tài trợ song phải đảm bảo bù đắp được chi phí, bảo tồn được nguồn vốn, tiến tới có lợi nhuận để bù đắp rủi ro. Muốn vậy xác định lãi suất cho vay đối với người nghèo phải dựa vào nguyên tắc thực hiện bất đẳng thức sau : - Lãi suất Lãi suất Lãi suất đầu vào cho vay cho vay bình quân < bình quân < thị trường của Ngân hàng đối với bình người nghèo người nghèo quân. Vậy thì, theo nguyên tắc trên, lãi suất cho vay đối với người nghèo thấp hơn lãi suất cho vay thị trường bao nhiêu là vừa phải. Quan điểm tôi cho rằng sự ưu đãi về mặt lãi suất là cần thiết nhưng chỉ giảm khoảng 10 đến 15% so với lãi suất thị trường là có thể hợp lý. Ví dụ lãi suất cho vay thị trường là 1,5%/tháng thì lãi suất cho vay đối với người nghèo vào khoảng 1,25% đến 1,35%/tháng. Mức độ ưu đãi về lãi suất nói chung chỉ cần vừa phải để tạo tâm lý làm ăn cho họ, thể hiện có sự ưu ái của Nhà nước, cộng đồng đối với người nghèo. Một số vấn đề khi thực hiện cho vay và thu hồi nợ : Thứ nhất, mức cho vay đối với từng hộ nghèo được ấn định dựa trên 2 cơ sở : 1/ nguồn vốn có thể huy động của Ngân hàng người nghèo; 2/ thực tế nhu cầu vay vốn, từng loại hộ sản xuất kinh doanh khác nhau. Hiện nay mức cho vay bình quân mỗi hộ nghèo là 1 triệu đồng và mức cao nhất là 2,5 triệu đồng là chưa phù hợp với các đối tượng hộ nghèo phi nông nghiệp, các hộ nghèo khai thác, đánh bắt hải sản. Bởi vậy, Ngân hàng người nghèo phải đảm bảo cho hộ nghèo một mức tín dụng để sản xuất tạo ra thu nhập, chứ không phải cho vay dàn đều. Việc dàn đều, chia bình quân nguồn vốn cho vay và mức cho vay là điều kiện cho sự vùng dậy tư tưởng trông chờ hưởng cứu tế của người nghèo Thứ hai, để cho hộ nghèo tạo ra thu nhập và trả nợ từ bán bán sản phẩm thì việc quy định thời hạn cho vay phải gắn liền với chu kỳ sản xuất của họ. Việc quy định thời hạn cho vay đối với hộ nghèo chỉ bằng hai loại ngắn hạn (12 tháng), trung hạn (36 tháng) là cần thiết song chính nó có thể là sự áp đặt phi lý trong nhiều trường hợp. Ví như cho vay nuôi lợn chẳng hạn, quy định thời hạn cho vay 12 tháng, vậy thử hỏi sau 15 tháng lợn mới đủ cân để bán thì xảy ra nợ quá hạn 3 tháng hoặc ép phải trả nợ, họ chấp nhận bán lợn giá rẻ. Bởi vậy thời hạn cho vay đối với hộ nghèo hoàn toàn được quy định gắn liền với chu kỳ sản xuất của cây trồng, vật nuôi, ngành nghề của họ. Tức ngân hàng có thể quy định nhiều loại thời hạn : 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, 15 tháng, ... Thứ ba, để vốn tín dụng đến hộ nghèo không bẻ gi do sai đối tượng, sử dụng sai mục đích thì công việc kiểm tra trước của cán bộ tín dụng là không thể thiếu được. Bởi vậy, mô hình Ngân hàng người nghèo như đã đề xuất trên sơ đồ số 2 đủ điều kiện để thực thi chức năng kiểm tra này. Bộ phận cấp tín dụng chỉ được ký vào hợp đồng tín dụng khi có kết quả kiểm tra xác đáng của bộ phận hướng dẫn sản xuất, kiểm tra và thu nợ ... Thứ tư, để vốn cho vay đúng đến đối tượng được cấp, mặt khác tránh các trung gian quy định thu phụ phí, vấn đề đặt ra, phải tạo một cơ chế mà Ngân hàng người nghèo phát vốn trực tiếp đến từng hộ nghèo hoặc thông qua tổ trưởng vay vốn hoặc trưởng dự án vay vốn. ở đây cần lưu ý rằng việc cấp vốn trực tiếp không đồng nghĩa với việc nhận tiền mặt thực tế của người vay. Tức là cán bộ tín dụng làm đầy đủ thủ tục cấp vốn và trao trực tiếp cho hộ nghèo, họ trực tiếp lĩnh tiền mặt ở các ngân hàng nông nghiệp cấp 4 hoặc ngân hàng nông nghiệp huyện, thị, ... Thứ năm, việc thu nợ tiền vay đối với hộ nghèo phải căn cứ vào thu hoạch sản phẩm thực tế của họ. Nhiệm vụ thu nợ là công việc thường xuyên được giao chuyên trách cho một bộ phận của từng Ngân hàng người nghèo thực hiện, Với quy định chuyên trách vừa là người hướng dẫn sản xuất, vừa kiểm tra sử dụng vốn thì việc thu nợ lại càng thuận lợi hơn. Trong nhiều trường hợp, cán bộ thu nợ có thể giúp đỡ bao tiêu sản phẩm để các hộ nghèo có tiền trả nợ. Thứ sáu, Ngân hàng người nghèo cần thực hiện một quy trình mà ở đó các thủ tục nghiệp vụ đơn giản (theo nghĩa dễ tiếp cận nghiệp vụ tín dụng này) và thực hiện quy chế công khai hoá mọi công đoạn thủ tục xin cấp tín dụng đối với hộ nghèo. Sự công khai này bao gồm : mức cho vay, thời hạn cho vay, danh sách được xét cho vay, điều kiện và thủ tục cho vay, ... được thông báo rộng rãi để có sự giám sát của cộng đồng. 3.2.2. Giải pháp khai thác và sử dụng tối đa các nguồn vốn hỗ trợ giảm nghèo thông qua các chương trình và dự án. Hiện nay ở nước ta đang có 14 chương trình và dự án trực tiếp giảm nghèo hoặc có nội dung gắn với giảm nghèo. Do phạm vi, quy mô nghèo đói cả nước, mặt khác tính chất và phương thức hỗ trợ vốn cho nó cũng cần áp dụng khác nhau, nên với quy mô nguồn vốn của Ngân hàng người nghèo, tự nó chưa thể bao quát thực hiện mục tiêu giảm nghèo ở nước ta hiện nay. Vì lẽ đó giải pháp khai thác tối đa các loại vốn hỗ trợ giảm nghèo cho các chương trình và dự án nói trên hết sức cần thiết. Tuy nhiên trên phạm vi nghiên cứu với dung lượng có hạn, luận án chỉ đề xuất giải pháp khai thác vốn đối với một số chương trình, dự án có tác động lớn đến thực hiện mục tiêu giảm nghèo. 3.2.2.1. Vốn hỗ trợ từ chương trình tạo việc làm. Vốn hỗ trợ cho chương trình tạo việc làm có tác động rất lớn để thực hiện mục tiêu giảm nghèo ở nước ta hiện nay. Mặc dù nó có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp. Tuy nhiên, thực trạng cho thấy nguồn vốn hỗ trợ tạo việc làm chưa được khai thác tối đa, xét cả về phương diện huy động lẫn phương thức sử dụng. Đặc biệt tính không thống nhất trong cung ứng vốn (tài trợ, cấp phát, cho vay lãi suất khác nhau) đã tạo ra sự phức tạp trong quản lý nguồn vốn này nói riêng và gây lộn xộn trên thị trường tài chính, tín dụng nói chung. Để khắc phục những hạn chế này, hơn nữa tạo ra nguồn vốn đáp ứng cao hơn để thực hiện chương trình tạo việc làm, tôi xin đề xuất một số vấn đề sau : Thứ nhất, tất cả các nguồn vốn cho tạo việc làm đều phải được thương mại hoá để sinh lời và tăng trưởng nó thông qua kênh tín dụng. Những khoản cấp phát dưới mọi hình thức của ngân sách Nhà nước (cả Trung ương và địa phương) bao cấp cho các trung tâm đào tạo việc làm, trung tâm xúc tiến việc làm, các tổ chức khác đảm nhận công tác tạo việc làm phải được chuyển về quỹ quốc gia giải quyết việc làm để cho vay. Thứ hai, nguồn vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm, ngoại trừ một bộ phận được chuyển cho Ngân hàng người nghèo quản lý, phần còn lại tập trung hỗ trợ tạo việc làm ở đô thị (bao gồm cả thị tứ, thị trấn) hoặc một số dự án công cộng để hút lao động thiếu việc làm theo mùa từ nông thôn. Các dự án nhỏ khu vực nông thôn do Ngân hàng người nghèo cấp vốn. Thứ ba, nguồn vốn từ "quỹ cho vay ưu đãi tạo việc làm ở đô thị" và "quỹ ưu đãi cho vay sinh viên nghèo" được lập ở hệ thống Ngân hàng công thương Việt nam cần được mở rộng ra hệ thống Ngân hàng ngoại thương Việt nam, ngân hàng cổ phần đô thị. Để thống nhất quản lý, tránh cho vay chồng chéo nên uỷ thác cho Ngân hàng công thương Việt nam thực hiện. Thứ tư, nguồn vốn cho vay tạo việc làm từ kênh ngân sách Nhà nước (qua kho bạc Nhà nước) hay kênh ngân hàng đều áp dụng thống nhất một mức lãi suất và quy định bằng lãi suất cho vay hộ nghèo của Ngân hàng người nghèo. Nếu không như vậy sẽ phát sinh sự suy bì giữa những người nghèo, người thiếu việc làm và tất yếu nguồn vốn sẽ chạy từ kênh này sang kênh nọ một cách tuỳ tiện, tiêu cực sẽ phát sinh. Thứ năm, theo số liệu của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, đến nay cả nước có trên 140 trung tâm đào tạo việc làm và xúc tiến việc làm (gọi chung là trung tâm xúc tiến việc làm). Ngoài 53 trung tâm xúc tiến việc làm do Sở Lao động Thương binh và Xã hội các địa phương quản lý còn có các trung tâm của đoàn thể, quân đội, các quận, huyện và có cả tư nhân. Mục tiêu của các trung tâm xúc tiến việc làm là dạy nghề, tư vấn và giới thiệu việc làm - là chiếc cầu nối giữa người cần việc, việc cần người. Nguồn vốn hoạt động của các trung tâm xúc tiến việc làm được hình thành rất đa dạng bao gồm : vốn tự có, vốn ngân sách cấp, vốn huy động bằng vay ngân hàng, vay từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm và thu học phí và phí xin việc làm. Những năm qua, hệ thống trung tâm xúc tiến việc làm đã đào tạo và giới thiệu việc làm cho hàng chục vạn người - đó là thành tích không ai có quyền phủ nhận. Song vấn đề đáng nói ở đây, qua khảo sát thực tế vẫn chưa có giải pháp quản lý hệ thống trung tâm này vào hoạt động có tổ chức, giải quyết vốn cho nó đủ mạnh để thực sự trở thành "điểm hẹn" của thị trường lao động. Quả thật, vốn huy động từ nhiều kênh, thậm chí quy định thu học phí, phí xin việc một cách tuỳ tiện để dùng làm nguồn vốn hoạt động; vấn đề tạo nghề không gắn trách nhiệm tạo việc đã biến một số trung tâm thành nơi môi giới và kinh doanh việc làm. Một số trung tâm được hình thành để tạo đủ yếu tố pháp lý cho việc vay vốn ưu đãi, xin nguồn tài trợ, ... Từ thực trạng phân tích trên, tôi xin đề xuất cách giải quyết trên các điểm sau : - Chuyển hệ thống xúc tiến việc làm vào một mối là ngành Lao động Thương binh và Xã hội quản lý và cấp giấy phép hoạt động. Nội dung hoạt động bao gồm cả tạo nghề và tạo việc; mặt khác yêu cầu các trung tâm phải thực hiện hợp đồng dân sự với học viên. - Mỗi trung tâm được vay vốn tạo việc làm vào một kênh là kho bạc Nhà nước. - Mức thu từ học phí, phí xin việc phải thống nhất trong cả nước và khả năng đóng góp của người thiếu việc làm. - Nhà nước cần chuyển các nguồn tài trợ cho các trung tâm xúc tiến việc làm vào quỹ quốc gia tạo việc làm. Họ có thể vay lại bằng dự án được luận chứng từ nguồn vốn quỹ này. Thứ sáu, để tránh cấp vốn tín dụng tạo việc làm giữa kênh Ngân hàng và kênh kho bạc Nhà nước chồng chéo, trùng lặp cần có một quy định phân vùng "lãnh thổ" cấp vốn (hoặc đối tượng được cấp vốn) thông qua một văn bản Liên ngành giữa hai ngành này. Thứ bảy, cần hình thành các dự án công cộng như xây dựng đường xá, kênh mương thuỷ lợi, ... vừa thu hút được nguồn nhân lực nông thôn với chi phí tiền công thấp vừa tạo việc để tăng thu nhập cho nông dân nghèo vươn lên khỏi cảnh "treo hái là treo niêu". Cần xác định rằng, các dự án công cộng dùng nhiều lao động phổ thông được hình thành ở các đô thị là thị trường lớn hút nguồn lao động thất nghiệp theo mùa ở nông thôn tràn vào thành phố. Kinh nghiệm nhiều nước, hình thành các dự án công cộng đã thành công, bảo đảm việc làm cho bất kỳ ai cần việc làm (như dự án đảm bảo việc làm của ấn độ). Để các dự án này thành công cần có sự tham gia lựa chọn của cộng đồng địa phương, hỗ trợ của ngân sách Nhà nước. 3.2.2.2. Vốn hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn để cải thiện khả năng tiếp cận thị trường cho người nghèo. Ai cũng thừa nhận rõ rằng, những người nghèo nào tiếp cận được với cơ sở hạ tầng thì có khả năng hưởng lợi trong sản xuất kinh doanh do vị trí tạo sinh lời của nó. Bởi vậy, phát triển cơ sở hạ tầng là yếu tố quan trọng của chính sách hỗ trợ giảm nghèo ở nông thôn, đặc biệt vùng cao, vùng sâu. Tuy nhiên một số đầu tư có thể có lợi cho người nghèo nhưng sự ưu tiên của nó có thể chậm lại. Chẳng hạn nếu xét về hiệu quả trực tiếp thì việc đầu tư có khả năng hoàn trả cao, thu hồi vốn nhanh sẽ được ưu tiên trước. Ngược lại, đầu tư hạ tầng cho các vùng nghèo sẽ thu hồi vốn chậm là điều trở ngại cho nhà đầu tư nếu không dựa trên mục tiêu giảm nghèo khi đánh giá dự án. Vấn đề đặt ra, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn nói chung và theo đó có những ưu tiên các loại dự án mà người nghèo tiếp cận hiệu quả nhanh hơn là yêu cầu vốn cho sự phát triển, hơn nữa là sự ưu tiên phát triển đó. Hiện nay cơ sở hạ tầng nông thôn như đường sá, thuỷ lợi, trường học, trạm điện, ... đang được giao cho các địa phương chịu trách nhiệm, song những tỉnh, huyện và những vùng nghèo lại khó có thể thực hiện được chức năng của mình bởi thiếu vốn. Điều quyết định gỡ bí cho nó, không những thế mà cho cả khu vực nông thôn, cần đặt lên bàn cân mọi nguồn lực để khai thác và lựa chọn hiệu quả đầu tư trên các cơ sở sau : ã Vốn ngân sách Nhà nước : Do yêu cầu cân đối thu chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn nên chi ngân sách cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn thường có giới hạn. ở những tỉnh tự cân đối được ngân sách thường căn cứ vào tốc độ tăng huy động thuế và phí vào GDP để tăng chi cho đầu tư nông thôn trên cơ sở nhu cầu thực tế. Nhưng ở những tỉnh hưởng cân đối ngân sách Trung ương thì chi cho đầu tư nông thôn thường rất thấp, bị động so với nhu cầu thực tế. Thậm chí chương trình đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn tại huyện, xã có xu hướng đùn đẩy cho tỉnh đảm nhận. Giải pháp tăng thu, tiết kiệm chi của ngân sách địa phương để tăng chi đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn tỏ ra ít hữu hiệu đối với nhiều địa phương nghèo. Bởi vậy bài toán vốn ngân sách cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn cần giải theo các định hướng đề xuất sau : Một là, ngân sách tỉnh đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn đối với các công trình lớn liên quan đến nhiều huyện, nhiều xã như hồ đập, trung tâm y tế, đường, giao thông liên huyện, các công trình lớn của vùng, của quốc gia theo sự uỷ quyền của Trung ương. Những công trình còn lại giao cho huyện và xã thực hiện trên nguyên tắc tự cân đối thu chi, tỉnh chỉ cấp hỗ trợ để phát huy khả năng nguồn vốn huy động của cơ sở. Hai là, Trung ương cần giao nhiệm vụ thu chi ngân sách ổn định trong nhiều năm đảm bảo chủ động cho địa phương trong việc cân đối ngân sách địa phương nói chung và cân đối cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn nói riêng. Ba là, kết hợp quản lý giữa ngành dọc và địa phương đối với các khoản kinh phí đầu tư cơ sở hạ tầng thông qua kinh phí uỷ quyền do các ngành dọc quản lý để tránh chi trùng lặp của và quản lý chặt chẽ hơn nguồn vốn ngân sách Trung ương. Bốn là, quản lý chặt chẽ các khoản phụ thu, phí trên địa bàn xã để bổ sung đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn và phân cấp ngân sách xã quản lý. Năm là, khai thác các nguồn vốn tiềm năng từ quỹ đất, quỹ tài nguyên để dựa vào cân đối ngân sách và đầu tư trở lại cho địa phương có nguồn thu để phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Sáu là, Nhà nước cần có chính sách ưu tiên trong việc sử dụng nguồn vốn từ quỹ hỗ trợ đầu tư cho phát triển hạ tầng nông thôn các vùng khó khăn và nghèo. ã Vốn huy động từ các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân : Vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn hiệu quả thu hồi chậm và thấp nên để huy động các nguồn vốn khác ngoài nguồn vốn ngân sách cho lĩnh vực này phải quan tâm hai vấn đề. Một là, có sự khuyến khích các nhà đầu tư bao gồm trên các lĩnh vực : môi trường đầu tư thuận lợi, có bảo đảm để người đầu tư yên tâm bỏ vốn, thực hiện các hỗ trợ và ưu đãi về đầu tư. Hỗ trợ đầu tư bao gồm : hỗ trợ cơ sở vật chất, hỗ trợ để tạo điều kiện cho họ tăng vốn kinh doanh, hỗ trợ về chuyển giao công nghệ. Hai là, phải đa dạng các hình thức huy động vốn từ các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân cho đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn mới khơi tăng được mọi nguồn lực tiềm tàng, sẵn có từng địa bàn cụ thể. ã Vốn đi vay : Vốn đi vay cho mục tiêu đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn chủ yếu là các nguồn dài hạn, lãi suất ổn định. Trong điều kiện nguồn vốn dài hạn từ kênh ngân hàng chưa thể đáp ứng, Nhà nước cần cho phép các tỉnh phát hành trái phiếu công trình địa phương để vay dân tạo nguồn cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Trái phiếu công trình địa phương được phát hành có sự bảo lãnh của Chính phủ hoặc ngân sách tỉnh. Vốn nước ngoài đầu tư vào Việt nam hiện nay bao gồm các nguồn : viện trợ phát triển chính thức, đầu tư trực tiếp, nguồn tín dụng thương mại và nguồn tài trợ không chính thức khác. Song có hai nguồn sau đây có khả năng tăng đầu tư cho hạ tầng nông thôn. - Viện trợ phát triển chính thức (ODA) : Là nguồn vốn do các nước và các tổ chức quốc tế viện trợ không hoàn lại, nguồn cho vay lãi suất thấp hoặc cho vay không lãi. Đâylà nguồn vốn tài trợ có mục tiêu thực hiện các chương trình làm động lực cho cải cách kinh tế như đường quốc lộ, thuỷ điện, thuỷ lợi lớn, đường dây cao thế, ... Nguyên tắc sử dụng nguồn vốn này rất chặt chẽ, sử dụng đúng dự án tài trợ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có khả năng để hút nguồn đầu tư này cho phát triển hạ tầng nông thôn. Đặc biệt đối với khu vực miền núi và vùng nghèo bằng các chương trình và dự án như qui hoạch nông thôn, nước sạch nông thôn, ... - Vốn đầu tư trực tiếp (FDI) : Là nguồn vốn của tổ chức và cá nhân nước ngoài góp vốn đầu tư trực tiếp bằng hình thức liên doanh theo quy định của luật đầu tư. Trong 5 năm thực hiện chính sách mở cửa, nước ta đã thu hút được một khối lượng vốn FDI với tổng số vốn đăng ký 18 tỷ USD, đã thực hiện 5,796 tỷ USD. Trong đó thu hút vào lĩnh vực nông - lâm ngư xấp xỉ 4% tổng số vốn. Tuy nhiên để mở rộng hút vốn đầu tư FDI cho phát triển hạ tầng nông thôn và các vùng nghèo, chúng ta phải phát huy tiềm năng và lợi thế so sánh của Việt nam tạo ra môi trường thuận lợi, cởi mở để khuyến khích đầu tư nước ngoài. - Ngoài hai nguồn vốn nói trên, chúng ta cũng cần tận dụng tối đa các nguồn tài trợ của các tổ chức phi Chính phủ và cá nhân ở nước ngoài tài trợ cho phát triển hạ tầng nông thôn thông qua các dự án và chương trình khác nhau. 3.2.2.3. Huy động và sử dụng vốn hỗ trợ giảm nghèo từ các quỹ của các tổ chức quần chúng hiệp, hội trong nước. Hiện nay đang có nhiều ý kiến khác nhau về sự xuất hiện các mô hình tổ chức dịch vụ tài chính vi mô không chính thức để tài trợ vốn cho người nghèo như : quỹ hỗ trợ nông dân của Hội nông dân, quỹ tương trợ phụ nữ nghèo của Hội phụ nữ và một số quỹ khác. Song xét chung, có hai loại ý kiến sau đây : Thứ nhất, loại ý kiến cho rằng, ra đời các kênh dẫn vốn nói trên làm tăng thêm sự lộn xộn của thị trường tình chính - tín dụng ở nông thôn nói chung và kênh dẫn vốn cho người nghèo nói riêng. Bởi nó đã làm phát sinh cho vay trùng lặp, chồng chéo, vốn cho vay chạy vòng vèo, ... và cuối cùng hiệu quả vốn tiếp cho người nghèo đạt hiệu quả thấp. Do đó cần xem lại sự tồn tại của nó. Thứ hai, loại ý kiến cho rằng, phát triển các quỹ tạo nguồn vốn hỗ trợ nông dân nghèo và phụ nữ nghèo là đáp ứng sự đa dạng hoá các nguồn vốn, từ đó đáp ứng nhiều hơn nhu cầu vốn cho người nghèo. Vì vậy sự phát triển của các quỹ này là phù hợp cần được nghiên cứu và xác định hướng hoàn thiện để nâng cao về mặt thể chế trong tương lai. Tôi đồng tình với loại ý kiến này. Bởi vậy xin đề xuất một số điểm nhằm huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ giảm nghèo từ các quỹ nói trên như sau : Đối với quỹ hỗ trợ nông dân : Một là, Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế hoạt động đối với quỹ hỗ trợ nông dân phù hợp chính sách tín dụng cho người nghèo trên cơ sở tham chiếu tính đặc thù hoạt động của Hội nông dân. Về hướng lâu dài, nếu đủ khả năng, cần chuyển nó trở thành dạng ngân hàng cổ phần nông thôn. Trước mắt, để củng cố hoạt động của quỹ hỗ trợ nông dân, Ngân hàng Nhà nước cần tạo điều kiện giúp đỡ nghiệp vụ cho cán bộ quản lý quỹ này. Hai là, phải xác định đối tượng cho vay nông dân nghèo là hộ. Hội nông dân phải kết hợp tốt với Ngân hàng người nghèo để phân vùng đối tượng cho vay, tránh cấp vốn chồng chéo. Mặt khác, quỹ hỗ trợ nông dân có thể kết hợp làm dịch vụ cho Ngân hàng người nghèo đối với các dự án nhỏ. Sự liên kết này sẽ cho phép giảm thiểu các chi phí trong vấn đề tiếp cận vốn tín dụng đến với nông dân nghèo. Ba là, lãi suất cho vay đối với nông dân ngheo từ quỹ hỗ trợ nông dân phải quy định bằng mức lãi suất cho vay đối với hộ nghèo từ nguồn vốn của Ngân hàng người nghèo. Bốn là, hoạt động của quỹ hỗ trợ nông dân phải được điều chỉnh trong một thiết chế kiểm soát của cộng đồng nông dân nghèo. Có như vậy mới đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững lâu dài của quỹ. Năm là, để tăng nguồn vốn hoạt động, quỹ hỗ trợ nông dân cần thiết áp dụng mô hình nhóm nông dân tiết kiệm và vay vốn. Mặt khác mở rộng nguồn tài trợ thông qua hình thành các dự án phát triển nông thôn mới. Về quỹ tương trợ phụ nữ nghèo : Một là, để tạo nguồn vốn tài trợ từ nước ngoài, Hội phụ nữ phải tích cực chủ động phối hợp với các tổ chức và các ngành liên quan xây dựng các dự án kêu gọi tài trợ theo hướng lồng ghép các mục tiêu, chương trình mà Hội phụ nữ là người đại diện. Hai là, mở rộng hình thức tiết kiệm nhóm để tăng nguồn cho vay, đặc biệt Hội phụ nữ phải thường xuyên tổ chức các đợt tiết kiệm tạo quỹ vì phụ nữ nghèo để tăng nguồn hoạt động cho quỹ. Ba là, về lãi suất cho vay, quỹ tương trợ phụ nữ nghèo không cần áp dụng lãi suất thấp, bởi 3 lý do : 1/ phụ nữ nghèo vay vốn gắn liền với tiết kiệm món nhỏ, họ cần đáp ứng vốn kịp thời hơn là ưu đãi về lãi suất; 2/ để mở rộng nguồn vốn cho quỹ thường phải đi vay các ngân hàng với lãi suất thị trường nên cho vay áp dụng lãi suất thị trường là tất yếu; 3/ đảm bảo nguồn tài chính cho quỹ hoạt động lâu dài. Bốn là, cũng như quỹ hỗ trợ nông dân, để nâng vị trí pháp lý cho hoạt động quỹ tương trợ phụ nữ nghèo cũng cần có một quy chế từ phía Ngân hàng Nhà nước. Về lâu dài quỹ tương trợ này, cần phát triển thành các ngân hàng cổ phần nông thôn hoặc đô thị. 3.3. Những điều kiện thực hiện các giải pháp về tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ giảm nghèo. 3.3.1. Tạo lập môi trường chính sách và pháp lý cần thiết để các tổ chức tài chính vi mô trực tiếp cung ứng vốn cho người nghèo hoạt động và phát triển. Để thực hiện các giải pháp tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ giảm nghèo đã nói trên thì vấn đề quyết định trước hết, phải tạo ra một thể chế phù hợp cho hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô. Theo tôi, Ngân hàng Trung ương cần xác định rõ loại ngân hàng "chính sách" trong hệ thống ngân hàng Việt nam, trong đó tất yếu có Ngân hàng người nghèo Việt nam. Ngân hàng "chính sách" được quy định bằng những điều cụ thể trong luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng. Thể chế hoạt động của Ngân hàng người nghèo Việt nam được xây dựng bằng điều lệ hoặc cần thiết phải có pháp lệnh riêng. Mặt khác, bên cạnh Ngân hàng người nghèo, Ngân hàng Trung ương phải tạo thể chế chính thức cho các tổ chức tài chính vi mô và dịch vụ tài chính vi mô có đủ môi trường pháp lý để hoạt động. Nên chăng mở rộng các mô hình dịch vụ tài chính vi mô lên một cấp độ mới trong sự liên kết với các tổ chức tài chính vi mô chính thức. Để làm được điều này, phải có một ban điều phối Trung ương từ phía Chính phủ, đảm bảo sự hoạt động thống nhất toàn hệ thống tài chính vi mô thực hiện hỗ trợ vốn cho người nghèo. 3.3.2 Thực hiện chính sách ruộng đất. Ngày 27/9/1993, Chính phủ có nghị định 64/CP ban hành bản quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Tiếp đến ngày 15/1/1994, Chính phủ lại ban hành bản quy định về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp tại nghị định 02/CP. Song theo báo cáo của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, đến nay vẫn còn 19,3% số hộ gia đình nông dân với khoảng 20% diện tích đất nông nghiệp chưa được giao theo Nghị định 64/CP; việc giao đất, giao rừng kết hợp với chính sách định canh, định cư và thực hiện chương trình 327 vẫn tiến hành còn chậm. Bởi vậy, phải có những biện pháp hữu hiệu để thực hiện Nghị định 64/CP, đảm bảo cho nông dân thực hiện "5 quyền" được Luật đất đai quy định. Trong đó có quyền chuyển đổi để khắc phục tình trạng đất chia manh mún ảnh hưởng đến canh tác; quyền chuyển nhượng để ruộng đất từng bước tích tụ hình thành hộ sản xuất hàng hoá, thu hút lao động; quyền thế chấp để tạo điều kiện cho nông dân vay vốn sản xuất. Tuy nhiên, để ngăn chặn tình trạng đầu cơ đất làm cho nông dân nghèo bị phá sản thì Nhà nước cần thực hiện cơ chế thuế luỹ tiến trong việc sử dụng đất nông nghiệp. Về thực hiện Nghị định 02/CP, cần giao đất, khoán rừng ổn định lâu dài và giao một lần cho hộ gia đình, các tổ chức dự án 327, bao gồm : khoán đất lâm nghiệp để bảo vệ, trồng rừng mới, khoanh nuôi tái sinh rừng phòng hộ, băng cỏ cản lửa kết hợp với chăn nuôi; giao đất trồng lâm nghiệp cho hộ dự án thực hiện sản xuất nông, lâm kết hợp. 3.3.3. Thực hiện chính sách khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm (gọi chung là khuyến nông). Mục đích chủ yếu của khuyến nông là đưa vào các vùng nông thôn những hiểu biết, kỹ thuật mới, những công nghệ hợp lý để kích thích sự tiến bộ trong sản xuất và cải thiện đời sống của những nông dân, gia đình họ và cộng đồng của họ. Đây là một lĩnh vực cực kỳ quan trọng, bởi thiếu nó người nông dân sẽ bị lệ thuộc vào nhiều khó khăn trong quá trình sản xuất và làm ăn. Ví dụ, để đổi mới một loại giống cây trồng có năng suất cao hơn thì cần có cán bộ khuyến nông hướng dẫn cho nông dân kỹ thuật, kinh nghiệm gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch và bảo quản sản phẩm. Bởi vậy, về khuyến nông, phải đảm bảo chuyển giao đến hộ nông dân kịp thời và chính xác thông tin về kỹ thuật, các nguồn thông tin đa dạng khác tạo điều kiện để nông dân được tiếp cận trực tiếp với thị trường. Chương trình mà khuyến nông phải tập trung vào bao gồm : chuyển dịch cơ cấu cây trồng và mùa vụ, mở rộng các giống mới, công nghệ sản xuất mới và bảo vệ sản xuất mùa màng. Để khuyến nông thực sự là một dịch vụ quyết định năng suất cây trồng, vật nuôi, ngành nghề nông nghiệp thì tổ chức này cần được tăng cường cả chiều rộng và chiều sâu. Nhà nước phải có hỗ trợ nhất định về tài chính để tổ chức này hoạt động có hiệu quả, mặt khác nó được xem như một dịch vụ cho nông dân để thu hút nhưng cần có quy định là dịch vụ miễn phí cho các đối tượng nông dân nghèo. 3.3.4 Cần có chính sách đầu tư mạnh mẽ để phát triển công nghiệp chế biến, dịch vụ và các ngành nghề đa dạng ở nông thôn. Lâu nay khi bàn về phát triển nông nghiệp, nông thôn chỉ nói đến phát triển trồng trọt, chăn nuôi truyền thống; các ngành nghề chế biến, dịch vụ nông thôn, ngành nghề thủ công truyền thống, mở ra nghề mới thường không ai nhấn mạnh. Hiện nay, lao động dư thừa trong nông thôn ngày càng tăng, có thể tới 30%, tương ứng 6 - 7 triệu người nhưng nhiều ngành nghề truyền thống không được khơi dậy, sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi không tổ chức chế biến được, phải bán sản phẩm thô với giá thấp. Điều đó do nhiều nguyên nhân, song quyết định vẫn chưa có chính sách đầu tư mạnh mẽ vào khu vực này. Chỉ có giải quyết tốt khâu chế biến sản phẩm nông nghiệp, mở ra nhiều ngành nghề ở nông thôn thì nông dân mới có thị trường tạo ra thu nhập cao hơn. Mặt khác hộ nghèo ở nông thôn không phải ai cũng đủ ruộng canh tác, thu nhập cuộc sống của họ phải nhìn từ nhiều nguồn. Bởi vậy, chính sách đầu tư của Nhà nước để phát huy mọi tiềm năng ở nông thôn, sẽ tạo điều kiện cho những hộ nghèo có thể vươn lên tăng thu nhập, dần dần bước khỏi ngưỡng đói nghèo. 3.3.5. Mở rộng thực hiện bảo hiểm bắt buộc đối với cây trồng, vật nuôi cho nông nghiệp. Mức độ rủi ro của cây trồng, vật nuôi thường lớn và phụ thuộc đa dạng yếu tố như khí hậu, thời tiết, lụt bão, bệnh dịch và thiên tai khác. Nếu không được bảo hiểm đền bù thì nông dân nói chung, hộ nghèo nói riêng gặp rủi ro sẽ trắng tay. Song đây là một nghiệp vụ bảo hiểm gặp nhiều khó khăn, bởi phí bảo hiểm phải tính cao, nông dân và người nghèo khó chấp nhận. Thực tế để mở rộng nghiệp vụ bảo hiểm này, các công ty bảo hiểm đã có nhiều cách khác nhau, nhưng xét chung có mấy cách sau : - Bảo hiểm từng loại cây trồng, vật nuôi. - Bảo hiểm phần lớn các loại cây trồng vật nuôi chủ yếu . - Không bảo hiểm rủi ro do thiên tai bão lụt gây ra. Nhìn chung nghiệp vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi cần được nghiên cứu để thực hiện trên bình diện rộng, vừa đảm bảo đền bù kịp thời rủi ro cho nông dân, vừa tạo cho công ty bảo hiểm có thể thực hiện được (thu lớn hơn chi), tôi xin đề xuất như sau : Thứ nhất, rủi ro do thiên tai bão lụt không áp dụng bảo hiểm, mà nó được bù đắp bằng : một phần quỹ bảo hiểm rủi ro của Ngân hàng người nghèo (đối với người vay vốn), ngân sách trợ cấp đột xuất, tương trợ của cộng đồng, tài trợ khác của các tổ chức trong và ngoài nước. Thứ hai, rủi ro trong các trường hợp khác đều phải bảo hiểm, nông dân đóng bảo hiểm bằng hình thức bắt buộc, phí bảo hiểm được thu khi bán sản phẩm. Riêng phí bảo hiểm của các hộ nghèo được ngân sách Nhà nước tài trợ một phần hoặc toàn bộ. 3.3.6 Hình thành và ban bố dự luật tín chấp vay vốn tín dụng trong Bộ luật dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam. Như trên đã phân tích, cấp vốn tín dụng cho người nghèo tự nó đã hàm chứa tính rủi ro cao dẫn đến mất vốn. Hơn nữa, chủ yếu áp dụng biện pháp tín chấp khi cấp vốn thì rủi ro mất vốn càng có nguy cơ xẩy ra cao hơn. Trong thực tế, mặc dù việc tín chấp có đảm bảo của chính quyền sở tại hoặc tổ nhóm vay vốn của người vay song khi rủi ro thì vấn đề xử lý mất vốn chưa có một điều luật cụ thể nào quy định. Không ít trường hợp gây phức tạp trong việc xử lý, giải quyết nợ khê đọng hoặc nợ khó đòi phát sinh khi cho các hộ nghèo vay vốn. Để thu hồi vốn, họ thường sử dụng giải pháp nhờ cơ quan pháp luật song trong tay cơ quan pháp luật vẫn chưa đủ điều luật cụ thể để phân định và xử lý. Rốt cuộc cơ quan yêu cầu là Ngân hàng người nghèo hoặc kho bạc Nhà nước thường phải chi phí một khoản tiền không biết hạch toán vào đâu cho hợp lý. Một số trường hợp, cơ quan cấp vốn tín dụng đã dùng tối đa các giải pháp khác nhau nhưng vốn vẫn không thu hồi được. Từ thực tiễn nói trên, để hạn chế rủi ro mất vốn, tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lý và giám sát vốn cho vay, Nhà nước phải hình thành và ban bố một dự luật riêng về tín chấp vay vốn đối với người nghèo. Có như vậy mới tạo điều kiện cho các cơ quan được giao nhiệm vụ cấp vốn tín dụng thực hiện thông đồng bén giọt chương trình tín dụng cho người nghèo. 3.3.7. Thể chế hoá chính sách nhà ở đối với người nghèo. Nhà ở của đa số các hộ nghèo, gia đình chính sách đang được đặt ra như một chính sách lớn về xã hội ở nước ta hiện nay, đặc biệt là các đô thị, vùng gặp thiên tai. Song vấn đề đặt ra, chuyển sang cơ chế thị trường thì nhà ở được coi là một hàng hoá, Nhà nước không thể dùng vốn ngân sách xây dựng nhà ở và phân phối cho người nghèo. Bởi vậy cần phải có một chính sách riêng về nhà ở cho đối tượng người nghèo trên cơ sở thực hiện chiến lược "tạo điều kiện về nhà ở cho nhân dân" của Nhà nước. Mục tiêu của chính sách nhà ở cho người nghèo là làm sao tạo mọi điều kiện để người nghèo có nhà ở. Nhưng chính sách đó chỉ được thực thi trên một cơ chế nhất định từ phía Nhà nước. Theo tôi, chính sách nhà ở cho người nghèo phải xác định rõ một số cơ chế có thể thực thi trong điều kiện thực tế về đất ở, về hạ tầng nhà ở, quỹ nhà công, nguồn tài chính huy động. ã Về đất ở : Nhà nước có thể miễn giảm tiền đất, các loại thuế đất cho người nghèo khi họ được giao đất làm nhà ở. Đối với khu vực đô thị, Nhà nước cần mở rộng xây dựng nhà cao tầng để bán hoặc cho người nghèo thuê. Họ có thể được mua hoặc thuê ở các tầng trên với giá thấp hơn bởi các căn hộ tầng cao không phải chịu hoặc chịu ít tiền đất tính theo hệ số tầng ở. Đối với các khu vực nhà ở "ổ chuột" hoặc ở tạm của dân nghèo, khi giải toả Nhà nước phải có chính sách đền bù riêng để họ có đủ chỗ ở tối thiểu. ã Về hạ tầng nhà ở : Nói chung các khu nhà mới của dân nghèo đô thị, Nhà nước phải hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng. Đối với các khu nhà tạm, nhà "ổ chuột" không phải di chuyển theo quy hoạch thì Nhà nước hỗ trợ kinh phí và bằng các nguồn đóng góp khác để xây dựng và cải tạo từng bước hạ tầng tối thiểu cho sinh hoạt của dân cư. ã Về quỹ nhà công : Kinh nghiệm ở nhiều nước, họ vẫn duy trì một quỹ nhà công riêng để giải quyết nhà ở cho người nghèo trong xã hội. ở nước ta diện tích quỹ nhà công vừa ít (81 triệu m2) lại vừa sử dụng lãng phí nên cần nhanh chóng có một cuộc thống kê, phân loại, điều chỉnh và khai thác triệt để quỹ nhà hiện có. Từ đó có thể tạo ra một quỹ nhà dư ra do sử dụng bất hợp lý để chuyển cho người nghèo thuê. Hiện nay tại các thành phố lớn đang nhiều người nghèo và người thu nhập thấp chỉ trông chờ được thuê nhà công với giá như hiện nay là họ có thể cải thiện được đời sống. Bởi thực tế thuê nhà ở tư nhân phải trả tiền thuê có khi gấp cả chục lần so với thuê nhà của Nhà nước. Bên cạnh quỹ nhà nói trên, Nhà nước cần khuyến khích phong trào xây dựng nhà tình nghĩa cho các hộ gia đình chính sách và neo đơn trong cộng đồng. ã Về nguồn tài chính : Nhà nước có nhiều biện pháp khác nhau để hỗ trợ nguồn tài chính cho các hộ nghèo tạo lập nhà ở nhưng có hai cách đang làm có nhiều kết quả cần phải tăng cường mở rộng, đó là : - Ngân hàng cho vay làm nhà với lãi suất thấp và thế chấp chính bằng ngôi nhà đó. Đối với những vùng nghèo và thiên tai, việc áp dụng lãi suất thấp để cho vay làm nhà sẽ được ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho ngân hàng. - Chính quyền sở tại với tư cách thay mặt Nhà nước tại địa phương, thông qua các hội và đoàn thể để kêu gọi các cơ quan, cá nhân tài trợ cho các hộ nghèo làm nhà, có thể bằng tiền, hoặc bằng hiện vật. Tóm lại : Đa dạng hoá mọi nguồn vốn hỗ trợ cho người nghèo và thương mại hoá nó là quan điểm chung nhất trong việc tạo nguồn lực thực hiện mục tiêu giảm nghèo đói ở nước ta. Vấn đề có tính quyết định là phải thiết lập hệ thống tài chính vi mô đủ lớn để huy động vốn và chuyển tải vốn cho người nghèo, bao gồm: hệ thống Ngân hàng người nghèo chuyên biệt, nâng cao hiệu quả kênh vốn tín dụng Nhà nước và các tổ chức dịch vụ tài chính vi mô (Hội nông dân, Hội phụ nữ, ...) bằng việc xác lập vị trí pháp lý và cơ chế hoạt động cho mỗi mô hình tổ chức. Tuy nhiên việc hỗ trợ vốn cho người nghèo chỉ được giải quyết tốt trong mối quan hệ đồng bộ như tạo môi trường sản xuất kinh doanh, thực hiện hỗ trợ tích cực của cộng đồng cho người nghèo. kếT LUậN Tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ giảm nghèo là vấn đề thời sự nóng hổi song nhiều khó khăn hiện nay ở nước ta. Qua toàn bộ những luận đề được trình bày, luận án đã giải quyết cơ bản các yêu cầu của đề tài nghiên cứu đặt ra, thể hiện trên các nội dung sau : 1. Khái quát hoá những vấn đề lý luận về kinh tế thị trường, bao gồm : đặc trưng kinh tế thị trường và ưu khuyết tật của nó, vai trò điều tiết của Nhà nước và cơ chế sử dụng vốn trong nền kinh tế thị trường. Từ sự phân tích đi đến kết luận : đói nghèo là tất yếu khách quan ở nước ta hiện nay và có nhiều nguyên nhân dẫn đến đói nghèo song suy cho cùng là do thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Phân tích các phương thức hỗ trợ vốn cho người nghèo, luận án chỉ rõ, để sử dụng vốn hỗ trợ giảm nghèo hiệu quả thì mọi nguồn vốn phải qua tác động của kênh tín dụng, giảm dần tài trợ cấp phát cho người nghèo. 2. Phân tích và đánh giá thực trạng đói nghèo và việc hỗ trợ vốn cho người nghèo thời gian vừa qua trên cả hai phương thức : cấp phát và cho vay; từ 3 loại nguồn : ngân sách, tín dụng ngân hàng và nguồn của các tổ chức cộng đồng. Luận án đã chỉ rõ hiệu quả một số tồn tại và nguyên nhân dẫn đến của từng phương thức tài trợ và từng kênh tài trợ. Đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm hỗ trợ vốn cho người nghèo ở một số nước trong khu vực, luận án rút ra một số vấn đề có thể vận dụng vào Việt nam. 3. Trình bày và phân tích rõ hệ thống các quan điểm hỗ trợ vốn cho người nghèo. Các quan điểm này được đặt ra trên cơ sở các luận cứ khoa học cũng như điều kiện thực tiễn nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường ở nước ta. 4. Đề xuất hệ thống giải pháp tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ giảm nghèo trong điều kiện hiện nay ở nước ta, bao gồm 2 giải pháp lớn : 1/ Hoàn thiện và phát triển ngân hàng phục vụ người nghèo lên một cấp độ mới và tách khỏi hệ thống ngân hàng nông nghiệp; 2/ Khai thác và sử dụng tối đa các nguồn vốn hỗ trợ giảm nghèo thông qua các chương trình dự án quốc gia và tổ chức cộng đồng. Những giải pháp này sẽ đảm bảo tính khả thi đồng thời với việc hoàn thiện và phát triển hệ thống tài chính vi mô ở nước ta. Tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ giảm nghèo đang là một nghị sự đồ sộ trên văn đàn kinh tế. Chúng ta không thể hy vọng một sớm một chiều có thể giải quyết được. Bởi vậy, để góp phần sớm giải được bài toán về vốn cho người nghèo, tác giả luận án kỳ vọng các giải pháp đề xuất sớm được nghiên cứu và áp dụng. Tuy nhiên với dung lượng nghiên cứu của một công trình khoa học, ắt rằng luận án không thể tránh khỏi những mặt hạn chế. Tác giả mong nhận được nhiều chỉ dẫn và góp ý của các nhà khoa học, cán bộ quản lý và đồng nghiệp để tiếp tục hoàn thiện luận án tốt hơn. danh mục Tài liệu tham khảo 1. Luận cứ khoa học của việc đổi mới chính sách và cơ chế quản lý tiền tệ trong nền kinh tế thị trường - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước mã ố KX 03 - 08 - Chủ nhiệm đè tài GS. Cao Cự Bội. 2. PTS. Cao Sỹ Kiên : Đổi mới chính sách tiền tệ tín dụng ngân hàng trong giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường - Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Hà nội 1995. 3. PTS. Lê Văn Châu : Chính sách tiền tệ trong giai đoạn mới - Những điều kiện mới và thách thức mới - Tạp chí lý luận và nghiệp vụ ngân hàng 2/1996. 4. Hệ thống tài chính cộng hoà Triều tiên - Viện khoa học ngân hàng - Hà nội 1993. 5. Phan Văn Thường : Suy nghĩ về các giải pháp cân bằng thiếu hụt ngân sách Nhà nước - Tạp chí khoa học ngân hàng tháng 6/1996. 6. Văn kiện Đại hội 6 của Đảng cộng sản Việt nam. 7. Văn kiện Đại hội 7 của Đảng cộng sản Việt nam. 8. Văn kiện Đại hội 8 của Đảng cộng sản Việt nam. 9. S,Míhkin : Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính - Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật - Hà nội 1995. 10. Chính sách tài chính quốc gia 1996 - 2000 - Tạp chí Cộng sản số 2/1996. 11. F.Anghen, nguồn gốc gia đình của chế độ tư bản và của Nhà nước - NXB Sự thật, Hà nội năm 1961. 12. Các Mác : Tư bản, quyển 1, tập 2, NXB Sự thật, Hà nội 1960. 13. Các Mác : Tư bản, quyển 1, tập 3, NXB Sự thật, Hà nội 1976. 14. Các Mác : Tư bản, quyển 2, tập 1, NXB Sự thật, Hà nội 1960. 15. Các Mác : Tư bản, quyển 3, tập 1, NXB Sự thật, Hà nội 1960. 16. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế thị trường, NXB Sự thật, Hà nội 1991. 17. Võ Đình Hảo - Các công cụ tài chính trong nền kinh tế thị trường - Thông tin chuyên đề - Bộ Tài chính 1993. 18. Đổi mới ngân sách Nhà nước, NXB Thống kê, Hà nội 1992. 19. Hoàn thiện cơ chế tín dụng Nhà nước ở Việt nam và việc áp dụng nó trong hệ thống kho bạc Nhà nước, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ Tài chính, Cục kho bạc Nhà nước thực hiện năm 1993. 20. Kinh tế thị trường lý thuyết và thực tiễn, Uỷ ban kế hoạch Nhà nước và quỹ hoà bình Sasakawa xuất bản năm 1993, tập 1, tập 3 . 21. Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước ngày 23/5/1990, tạp chí Ngân hàng số 6 năm 1990. 22. Tổng hợp tình hình thu - chi ngân sách 1991 - 1994. Bộ Tài chính - Vụ ngân sách Nhà nước tháng 9/1994. 23. Phan Văn Thường - Bàn về chính sách hỗ trợ vốn cho người thôi việc trong khu vực Nhà nước, Tạp chí Lao động công đoàn, số 173, tháng 8/1995. 24. Phan Văn Thường - Bàn thêm về các giải pháp hỗ trợ vốn xoá đói giảm nghèo, Tạp chí ngân hàng, tháng 9/1995. 25. Phan Văn Thường - Vấn đề đặt ra về vốn cho phát triển kinh tế tư nhân, Tạp chí ngân hàng, tháng 2/1996. 26. Phan Văn Thường - Ngân hàng thương mại với vai trò định chế tài chính trung gian trên thị trường chứng khoán, Tạp chí thị trường tài chính - tiền tệ, số 3, tháng 3/1996. 27. Phan Văn Thường - Cần điều chỉnh thời gian thu lãi suất khi nông dân vay vốn. Báo nhân dân 3/4/1996. 28. Giáo sư Cao Cự Bội - Vốn cho phát triển khoa học công nghệ, báo Nhân dân, 3/4/1996. 29. Tạp chí Tài chính - các số từ 1992 đến 1995. 30. Vũ Văn Hoá - Lưu thông tiền tệ và tín dụng, trường Đại học Tài chính - kế toán - Hà nội 1993. 31. Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước Việt nam và Ngân hàng nông nghiệp Việt nam. 32. Báo cáo thường niên kho bạc Nhà nước Việt nam. 33. Luật đất đai, NXB chính trị quốc gia. 34. Lê Hồng Thái - chính sách bảo trợ sản xuất nông nghiệp ở Thái Lan, Inđonêxia, Tạp chí kinh tế dự báo, số 255 tháng 7 - 1994. 35. Cao Cự Bội - Tín dụng cho nông dân nghèo. Thời báo ngân hàng, tháng 8/1994. 36. Cao Cự Bội - Tín dụng nông thôn Việt nam, Tạp chí nghiên cứu của UBKHNN, năm 1990. 37. Niêm giám thống kê, 1991 - 1994. 38. Những điểm hình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Bộ kế hoạch và đầu tư, Hà nội , 6/1996. 39. Malayxia, Ngân hàng cho người nghèo đề ra mục tiêu cao hơn cho châu á, JocelineSan, trích từ Thời báo New Straits, 19/10/1993.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0117.doc
Tài liệu liên quan