Với phương châm mở cửa nền kinh tế để hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã thu hút được 74 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào trong nước, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội đất nước. Để tiếp tục phát huy vai trò của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đối với nền kinh tế nước ta, Đảng và Nhà nước chủ trương đẩy mạnh hơn nữa việc khuyến khích thu hút FDI vào Việt Nam, đưa con số các nhà đầu tư vào Việt Nam không chỉ dừng lại ở con số 74 mà tăng lên cao hơn nữa. Trong đó, chúng ta cũng nhấn mạnh một số nước đầu tư quan trọng cần lưu ý. Đó là Singapore, Đài Loan, Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU, trong đó đặc biệt là Singapore và Đài Loan hiện nay là những nước đứng đầu trong đầu tư vào Việt Nam và cũng là nước có những nét tương đồng với ta về trình độ phát triển kinh tế, về cơ chế kinh tế, và về môi trường quốc tế
89 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1527 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp thu hút FDI của EU vào Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không được dự báo, thường đưa ra các quy định không mong đợi cho nhà đầu tư.
Về hệ thống luật pháp, nhận xét đầu tiên của nhà đầu tư khi đến Việt Nam là hệ thống luật pháp thiếu sự đồng bộ, thiếu rõ ràng và khó dự đoán trước được. Nhiều văn bản dưới luật ban hành chậm so với quy định, chậm đi vào cuộc sống. Một số văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành, địa phương có xu hướng xiết lại, dẫn đến tình trạng “trên thoáng, dưới chặt”, thậm chí chồng chéo, thiếu thống nhất. Các ưu đãi về thuế tài chính chưa cao, chủ yếu dành cho các lĩnh vực, địa bàn nhà đầu tư ít quan tâm, chưa thực sự hướng vào xuất khẩu, khai thác lợi thế so sánh của Việt Nam. Nhiều vướng mắc trong quá trình triển khai hoạt động thuộc phạm vi điều chỉnh của luật pháp chuyên ngành như đất đai, lao động, quản lý ngoại hối, chế độ kế toán kiểm toán, xuất nhập cảnh, thuế VAT… Hệ thống luật pháp của Việt Nam cũng chưa tạo ra một sân chơi bình đẳng cho nhà đầu tư trong nước và nhà ĐTNN.
1.3. Thủ tục hành chính
Thủ tục hành chính ở Việt Nam, nói chung, đã và đang cải tiến theo hướng đơn giản hoá, một cửa, giảm bớt các thủ tục trong các khâu đăng ký, cấp phép đầu tư, đăng ký và chuyển quyền sử dụng đất, rút ngắn thời gian thẩm định dự án
Mặc dù đã có những cải tiến đáng kể như vậy, nhưng thủ tục và cơ chế hành chính ở Việt Nam vẫn còn rất phức tạp, rườm rà, mất nhiều thời gian. Chẳng hạn, thủ tục cấp phép đã được cải tiến nhưng lại dẫn tới tình trạng “một cửa nhiều khoá”; sự phối hợp giữa các ngành còn chưa kịp thời; thủ tục sửa đổi giấy phép đầu tư thường phức tạp, tỉ mỉ làm hạn chế phát triển đầu tư thêm. Các thủ tục khác cũng trong tình trạng tương tự như : thủ tục hải quan không rõ ràng; thủ tục đất đai (giá thuê đất, chính sách giải toả, đền bù, cấp giấy chứng nhận quyển sử dụng đất) không đồng nhất và phức tạp; thủ tục xây dựng (cấp chứng chỉ quy hoạch, giấy phép xây dựng) còn nhiều phiền hà; thủ tục cấp Visa mất nhiều thời gian và lệ phí cao; việc tuyển dụng lao động phải qua trung tâm dịch vụ gây tốn kém thời gian, chi phí, nhưng chất lượng thấp…
1.4. Cơ sở hạ tầng vật chất – kỹ thuật
Mặc dù chỉ mới qua 15 năm đổi mới, nhưng cơ sở hạ tầng vật chất – kỹ thuật của Việt Nam đã có nhiều cải thiện đáng kể. Đặc biệt là ở một số địa phương như Tp. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai, và các tỉnh thành phố duyên hải miền trung đã có hệ thống giao thông tương đối thuận lợi, khoảng cách đến các cảng lớn ngắn, các dịch vụ bổ trợ như tài chính, ngân hàng phát triển đã thu hút mạnh FDI vào các khu vực này.
Cũng giống như nhiều LDCs khác, cơ sở hạ tầng vật chất – kỹ thuật của Việt Nam, nhìn một cách tổng quan, còn nhiều yếu kém và hạn chế. Hệ thống giao thông vận tải, điện, nước còn lạc hậu, đặc biệt là ở những khu công nghiệp, khu chế xuất. Các dịch vụ bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý, bảo hiểm… vẫn chưa được phát triển. Như vậy, mặc dù có một số địa phương đã có được cơ sở hạ tầng khá hấp dẫn ĐTNN, nhưng trong cả nước thì đây vẫn là nhân tố hạn chế đầu tư, điều này đòi hỏi Việt Nam phải nỗ lực hơn nữa để nâng cấp và phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại và mang tính cạnh tranh so với khu vực và thế giới.
1.5. Nguồn nhân lực
Ở Việt Nam, tuy đội ngũ lao động dồi dào về số lượng nhưng lại hạn chế về chất lượng, chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp FDI về lao động có tay nghề cao, kỷ luật lao động kém, năng suất lao động thấp. Do đó, thế mạnh về lao động của Việt Nam giảm dần.
Một công bố của Viện Phát triển hải ngoại Anh quốc (ODI) kết luận rằng tăng trưởng của FDI vào Việt Nam vào nửa đầu thập niên 90 là do chi phí lao động thấp. Tuy nhiên, gần đây chi phí lao động và một số chi phí khác ở Việt Nam hiện nay không còn là nhân tố thu hút FDI nữa vì chúng trở nên đắt tương đối so với các nước trong khu vực (Xem bảng 19).
Bảng 19 : Chi phí liên quan đến đầu tư tại một số thành phố Châu Á (năm 2000)
Đơn vị: USD
Thành phố
Chỉ tiêu
Hà Nội
Tp. Hồ Chí Minh
Thượng Hải
Bangkok
Kuala Lumpur
Jarkarta
Manila
Lương công nhân/tháng
93
94
199
147
341
122
179
Lương kỹ sư/tháng
263
216
362
325
649
177
320
Lương cán bộ quản lý/tháng
535
489
598
646
1454
443
563
Tiền thuê văn phòng/tháng/m³
19
15
24
10
17
20
28
Căn hộ cho người nhà nước thuê/tháng
1700
1700
1750
1330
921
2350
1550
Tiền điện kinh doanh/Kwh
0,07
0,07
0,07
0,04
0,05
0,017
0,09
Giá xăng
0,37
0,37
0,35
0,83
0,31
0,12
0,374
Thuế thu nhập cá nhân cao nhất
50
50
45
37
29
35
32
Nguồn: Báo điểm tin kinh tế ngày 21/4/2001
2. Môi trường bên ngoài
2.1. Xu hướng quốc tế hiện nay
Cuộc cạnh tranh kinh tế giữa các nước, mà đặc biệt là giữa Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản, đang trở nên gay gắt hơn. Các hàng rào thuế quan được dỡ bỏ nhưng lại xuất hiện ngày càng nhiều các biện pháp bảo hộ mới. Trước tình hình này, các TNCs cũng như các khối liên kết kinh tế (trong đó có EU) thực hiện đầu tư lẫn nhau để tránh những hàng rào bảo hộ này. Vì thế mà đầu tư của các công ty, các khối này ra ngoài sẽ giảm sút, và Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng ảnh hưởng này. Để thu hút được FDI của các tổ chức này thì Việt Nam cần phải cải cách nền kinh tế mạnh hơn nữa để có thể phát triển nhanh hơn, và đặc biệt là để tham gia vào WTO.
2.2. Tác động từ các thị trường cạnh tranh
Mặc dù FDI trên thế giới suy giảm trầm trọng nhưng Châu Phi, Đông Âu, Trung Quốc vẫn là những địa điểm thu hút dòng vốn FDI. Trong những nước này thì đáng nói nhất là Trung Quốc, vì cùng với việc gia nhập WTO, Trung Quốc sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh lớn của ASEAN nói chung và của Việt Nam nói riêng. Theo đánh giá của EIU, trong thời kỳ 2001 – 2005, Trung Quốc đứng thứ 4 trong số 10 địa chỉ thu hút vốn FDI hàng đầu thế giới, với lượng vốn tiếp nhận trung bình hàng năm là 57,6 tỷ USD, chiếm 6,5% tổng FDI toàn thế giới. Hiện Trung Quốc chiếm hơn 1/2 vốn đầu tư của Mỹ và Tây Âu. Theo báo Handelsbatt, mặc dù các TNCs hiện không có ý định rút khỏi khu vực Đông Nam Á. Song các nước và vùng lãnh thổ giàu có ở Đông Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, và Trung Quốc với dân số khổng lồ, theo các chuyên gia Đức, đang có sức hút to lớn đối với các nhà ĐTNN, nhất là các nhà đầu tư EU khi họ đầu tư ra nước ngoài để chiếm lĩnh thị trường. Với sức hút mạnh như vậy, Trung Quốc sẽ làm giảm vốn đầu tư vào các nước khác trong đó có Việt Nam. Theo đánh giá của Công ty tư vấn rủi ro chính trị và kinh tế (PERC) tháng 9/2000 cho thấy, nếu xét cả 2 nhân tố giá cả và chất lượng lao động thì Trung Quốc và Ấn Độ là 2 thị trường lao động hấp dẫn nhất. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng bởi chính sách hội nhập tích cực của Myanmar và Campuchia vào khu vực ASEAN. Hơn nữa, sau khủng hoảng 1997, các nước trong khu vực nhất là Thái Lan và Hàn Quốc thực hiện chính sách cải tổ mạnh mẽ và triệt để đối với khu vực dịch vụ và ngân hàng cùng với sự giúp đỡ có hiệu quả của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) tạo ra sự phục hồi nhanh chóng biến các quốc gia này vươn lên vị trí hàng đầu, là nơi đến của dòng FDI. Điều này là thách thức rất lớn đối với các LDCs trong đó có Việt Nam.
2.3. Tác động của việc Việt Nam gia nhập AFTA, khu vực đầu tư ASEAN (AIA) và ký kết Hiệp định thương mại Việt – Mỹ
Đây sẽ là điểm sáng cho môi trường đầu tư của Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực, các nhà đầu tư sẽ đầu tư vào Việt Nam làm bàn đạp xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ để hưởng ưu đãi về thuế quan. Cũng như vậy, khi tham gia vào AIA, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận được nguồn vốn FDI trên thế giới và trong khu vực nhờ hoạt động của tổ chức này. Hơn nữa, ĐTNN luôn có mối quan hệ mật thiết với thương mại quốc tế, vì vậy, khi Việt Nam tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế thì chắc chắn kim ngạch xuất nhập khẩu sẽ tăng và thúc đẩu hoạt động FDI. Tuy nhiên, Việt Nam cần tăng cường hơn nữa tỷ trọng xuất khẩu công nghiệp trong kim ngạch xuất nhập khẩu, vì thực tế ở các nước Thái Lan, Philippines, Maylaysia cho thấy tỷ trọng này chiếm tới 50% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, vì vậy đã tạo động lực thu hút FDI (Tạp chí Phát triển kinh tế, số 120/2000).
III/ Phương hướng thu hút FDI vào Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010
Để phục vụ tốt nhất cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2006 -2010, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra phương hướng thu hút FDI nhằm vào một số điểm trọng yếu sau :
1. Phương hướng chung về thu hút FDI vào Việt Nam :
Việt Nam chủ trương khuyến khích FDI vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến; công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn; các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử, vật liệu mới, viễn thông, sản xuất phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và các ngành mà Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh gắn liền với công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH.
Nhà nước ta cũng chủ trương tiếp tục thu hút FDI vào những địa bàn có nhiều lợi thế để phát huy vai trò của các vùng động lực, tạo điều kiện liên kết phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh; Khuyến khích và dành ưu đãi tối đa cho FDI vào những vùng, địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và đẩy mạnh đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ở các địa bàn này bằng các nguồn vốn khác để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động FDI. Tập trung thu hút FDI vào các khu công nghiệp tập trung đã hình thành theo quy hoạch đã phê duyệt.
Để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010 và phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 2006 – 2010, khu vực FDI phải phát triển ổn định hơn, đạt kết quả cao hơn, đặc biệt là về chất lượng, so với thời kỳ trước, để đẩy nhanh CNH – HĐH đất nước.
Về FDI của EU : hiện nay vốn FDI của EU vào nước ta còn ở mức chưa tương xứng với tiềm năng của cả hai bên. Do đó chủ trương của Việt Nam là cần phải tăng số dự án đầu tư của EU được cấp giấy phép hoạt động tại Việt Nam, cũng như tăng số vốn đầu tư đăng ký và vốn thực hiện của các dự án đó; đưa một số nhà đầu tư EU hàng đầu vào top 10 nước có đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam. Cụ thể : trong giai đoạn 2006 – 2010, theo tôi, chúng ta cần tăng số dự án được cấp giấy phép của EU trong tổng số các dự án FDI được cấp phép ở Việt Nam lên khoảng 17% (tăng 6,14% so với trước) với tổng vốn đầu tư chiếm khoảng 20% (giai đoạn 2001 – 2005 là 15% đến 16%, tăng từ 4 – 5%); phấn đấu thu hút khoảng gần 800 triệu USD/năm vốn FDI của EU (tức là khoảng từ 4 – 5 tỷ USD trong 5 năm tới); nâng tỷ trọng vốn trung bình trên 1 dự án lên khoảng 18 triệu USD; nâng tỷ lệ vốn thực hiện/vốn đăng ký lên khoảng 65 – 75% (tăng 10,4 – 20,4% so với trước), trong đó với Hà Lan cần cố gắng duy trì tỷ lệ vốn thực hiện cao như hiện nay (gần 100%) và Đan Mạch (trên 100%); và nâng vị trí đầu tư của Pháp lên hàng thứ 5, Hà Lan lên hàng thứ 6, và Anh lên hàng thứ 10 trong tổng số các nước và vùng lãnh thổ có đầu tư vào Việt Nam.
2. Phương hướng thu hút FDI vào Việt Nam phân theo nước đầu tư:
Với phương châm mở cửa nền kinh tế để hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã thu hút được 74 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào trong nước, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội đất nước. Để tiếp tục phát huy vai trò của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đối với nền kinh tế nước ta, Đảng và Nhà nước chủ trương đẩy mạnh hơn nữa việc khuyến khích thu hút FDI vào Việt Nam, đưa con số các nhà đầu tư vào Việt Nam không chỉ dừng lại ở con số 74 mà tăng lên cao hơn nữa. Trong đó, chúng ta cũng nhấn mạnh một số nước đầu tư quan trọng cần lưu ý. Đó là Singapore, Đài Loan, Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU, trong đó đặc biệt là Singapore và Đài Loan hiện nay là những nước đứng đầu trong đầu tư vào Việt Nam và cũng là nước có những nét tương đồng với ta về trình độ phát triển kinh tế, về cơ chế kinh tế, và về môi trường quốc tế. Theo đó, top 10 nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, theo tôi như sau
Bảng 20 : Dự kiến 10 nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010
STT
Quốc gia và vùng lãnh thổ
Giai đoạn 2001 – 2005
Giai đoạn 2006 – 2010
1
Singapore
Singapore
2
Đài Loan
Đài Loan
3
Nhật Bản
Nhật Bản
4
Hàn Quốc
Hồng Kông
5
Hồng Kông
Pháp
6
British Virginlslands
Hà Lan
7
Pháp
British Virginlslands
8
Hà Lan
Thái Lan
9
Thái Lan
Hoa Kỳ
10
Malaysia
Vương quốc Anh
Như vậy, vị trí của 3 nước dẫn đầu Singapore, Đài Loan và Nhật Bản là không đổi vì đây là những nhà đầu tư tích cực nhất từ trước tới nay tại Việt Nam và đầu tư của họ tại nước ta có hiệu quả cao. Với phương châm nhấn mạnh vai trò của 5 nhà đầu tư như đã nói ở trên, vị trí của EU (Pháp, Hà Lan và Anh) và Hoa Kỳ được nâng lên, mà cụ thể là Anh và Hoa Kỳ sẽ có mặt trong top 10 nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 (trong khi giai đoạn 2001 – 2005 thì không có 2 quốc gia này trong top 10 nước nói trên).
3. Phương hướng thu hút FDI vào Việt Nam phân theo lĩnh vực đầu tư :
Việt Nam chủ trương khuyến khích mạnh ĐTNN vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, nhất là đường sá giao thông, cấp thoát nước. Tăng cường đầu tư nâng cấp các công trình cơ sở hạ tầng như cung cấp điện, nước, các công trình giao thông, cảng biển nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Nhà nước ta cũng chủ trương điều chỉnh một số quy hoạch ngành nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự tham gia đầu tư của các nhà ĐTNN, nhất là đối với các ngành sản xuất thép, xi măng, điện lực. Việt Nam cũng chú trọng phát triển ngành dịch vụ theo tinh thần Chỉ thị số 49/2004/CT-TTg ngày 24/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ. Cụ thể, theo Cục ĐTNN, Việt Nam dự kiến thu hút vốn FDI của EU vào các ngành kinh tế giai đoạn 2006 – 2010 như sau :
Bảng 21 : Dự kiến vốn FDI đăng ký theo ngành vào Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010
Đơn vị : triệu USD
Chuyên ngành
Giai đoạn 2001 - 2005
Giai đoạn 2006 - 2010
Tỷ trọng tăng (giảm) so với giai đoạn 2001-2005
1. Công nghiệp và xây dựng
11.390
12.000
Tỷ trọng (%)
71,9
60,0
-11,9
2. Nông – Lâm – Ngư nghiệp
1.559
2.000
Tỷ trọng (%)
9,8
10,0
+0,2
3. Dịch vụ
2.901
6.000
Tỷ trọng (%)
18,3
30,0
+11,7
Tổng
15.850
20.000
Nguồn : Cục ĐTNN – Bộ KH&ĐT
Như vậy, giai đoạn 2006 – 2010 Việt Nam chủ trương giảm tỷ trọng vốn FDI trong công nghiệp, tăng tỷ trọng FDI trong nông – lâm – ngư nghiệp và đặc biệt là dịch vụ. Sở dĩ như vậy là vì Việt Nam đang chủ trương cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng công nghiệp - dịch vụ phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp CNH – HĐH đất nước, phát triển đất nước ta thành nước công nghiệp vào năm 2020 như Đảng ta đã đề ra.
4. Phương hướng thu hút FDI vào Việt Nam phân theo vùng :
Trước đây, vốn FDI thường tập trung vào các tỉnh phía Nam và một số thành phố lớn, nơi có cơ sở hạ tầng tốt hơn các vùng khác, đã dẫn tới việc phát triển mất cân đối giữa các vùng, tăng khoảng cách về mức sống giữa các thành phần dân cư, và góp phần tạo ra làn sóng di dân từ nơi có điều kiện sống thấp đến nơi có điều kiện sống cao hơn gây khó khăn cho chính quyền địa phương nơi nhận dân tới và cũng gây khó khăn cho Chính phủ trong việc giải quyết hàng loạt các vấn đề liên quan. Do đó, để khu vực kinh tế có vốn ĐTNN góp phần tích cực hơn vào sự phát triển kinh tế xã hội giữa các vùng ở Việt Nam, chúng ta cần phải có phương hướng thu hút ĐTNN khả thi và phù hợp với mục tiêu phát triển chung của cả nước nhằm khai thác tiềm năng kinh tế ở tất cả các vùng trong cả nước. Theo Cục ĐTNN, đến năm 2010 chúng ta cần thu hút FDI của EU vào các vùng như sau:
Bảng 22 : Dự kiến vốn FDI đăng ký theo vùng vào Việt Nam giai đoạn
2006 – 2010 Đơn vị : triệu USD
Vùng kinh tế
Giai đoạn 2001 – 2005
Giai đoạn 2006 – 2010
Tỷ trọng tăng (giảm) so với giai đoạn 2001-2005
I. Cả nước
15.850,0
20.000
1.1. Trung du miền núi phía Bắc
792,5
1.000
So với cả nước (%)
5,0
5,0
0
1.2. Đồng bằng sông Hồng
3.170,0
5.000
So với cả nước (%)
20,0
25,0
+5,0
1.3. Duyên hải miền Trung
1.268,0
1.600
So với cả nước (%)
8,0
8,0
0
1.4. Tây Nguyên
-
400
So với cả nước (%)
-
2,0
-
1.5. Đông Nam Bộ
9.510,0
10.000
So với cả nước (%)
60,0
50,0
-10,0
1.6. Đồng bằng sông Cửu Long
792,5
1.000
So với cả nước (%)
5,0
5,0
0
1.7. Dầu khí ngoài khơi
317,0
1.000
So với cả nước (%)
2,0
5,0
+3,0
II. Vùng trọng điểm
12.680,0
16.000
Vùng trọng điểm/Cả nước(%)
80,0
80,0
0
2.1. Vùng KTTĐ phía Bắc
3.170,0
5.000
So với cả nước (%)
20,0
25,0
+5,0
2.2. Vùng KTTĐ Trung bộ
792,5
1.400
So với cả nước (%)
5,0
7,0
+2,0
2.3. Vùng KTTĐ phía Nam
8.717,5
9.600
So với cả nước (%)
55,0
48,0
-7,0
Nguồn : Cục ĐTNN – Bộ KH&ĐT
Như vậy, trong giai đoạn 2006 – 2010, Việt Nam chủ trương giảm 7% (so với cả nước) vốn FDI vào vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, tăng vốn FDI vào vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và Trung bộ nhằm cân đối trình độ phát triển và khai thác hợp lý tiềm năng của các khu vực kinh tế trọng điểm của cả nước. Theo vùng kinh tế, trong giai đoạn 2006 – 2010, Việt Nam sẽ giảm mạnh tỷ trọng vốn FDI của khu vực Đông Nam Bộ (giảm 10% (so với cả nước)). Còn Trung du và miền núi phía Bắc, Duyên hải miền Trung, và Đồng bằng sông Cửu Long sẽ giữ nguyên tỷ trọng vốn FDI (so với cả nước) thu hút được vào các khu vực này. Đồng bằng sông Hồng là nơi cần phải chú ý phát triển hơn nữa nhằm khai thác tiềm năng của vùng đồng bằng màu mỡ này, do đó Việt Nam chủ trương sẽ tăng tỷ trọng vốn FDI vào đây so với cả nước thêm 5%. Như vậy chúng ta sẽ rút ngắn bớt được khoảng cách phát triển giữa các vùng. Đồng thời, để nhằm khai thác tiềm năng lớn về dầu mỏ và khí đốt, giai đoạn tới chúng ta dự kiến sẽ tăng tỷ trọng vốn FDI vào khu vực dầu khí ngoài khơi (so với cả nước) thêm 3%.
Nhìn chung, nếu thực hiện đạt kế hoạch thì Việt Nam có thể phần nào cân đối lại khoảng cách phát triển giữa các vùng trên cả nước, để các vùng này sẽ phục vụ tốt hơn nữa cho sự nghiệp phát triển nền kinh tế quốc dân.
IV/ Các giải pháp thúc đẩy thu hút FDI của EU vào Việt Nam giai đoạn 2006-2010
1. Nhóm giải pháp để tăng cường thu hút FDI nói chung vào Việt Nam :
1.1. Ổn định kinh tế vĩ mô :
Ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện tiền đề cho mọi sự tăng trưởng, thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một trong những nội dung chính của việc tạo lập và ổn định kinh tế vĩ mô là ổn định tiền tệ. Sử dụng hệ thống tiền tệ làm công cụ để ổn định kinh tế vĩ mô ở Việt Nam, cho đến nay vẫn còn nhiều điểm cần phải sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh. Để duy trì sự ổn định của tiền tệ, cần xác định quan điểm rõ ràng về hiểm hoạ lạm phát và các giải pháp kiềm chế nó.
Bản chất của vấn đề này là ở chỗ đầu tư cao có khả năng dẫn tới lạm phát. Do vậy, một trong những giải pháp ổn định tiền tệ chủ yếu là năng lực kiểm soát và điều chỉnh nhịp độ, cơ cấu đầu tư sao cho nền kinh tế không bị quá “nóng” song vẫn đảm bảo tốc độ tăng trưởng như dự kiến.
Chính sách kinh tế của Việt Nam tuy đã được đổi mới nhưng về cơ bản vẫn là chính sách cơ cấu kinh tế hướng nội, khuyến khích thay thế nhập khẩu vì vậy môi trường đầu tư cạnh tranh thấp, kém hiệu quả. Việt Nam cần phải chuyển mạnh sang chính sách cơ cấu kinh tế hướng ngoại, khuyến khích hướng về xuất khẩu, đặt các nhà đầu tư vào thế cạnh tranh gay gắt, càng cạnh tranh gay gắt càng hấp dẫn họ. Bên cạnh đó, cần lưu ý rằng : mức độ hiện đại công nghệ đến đâu đều tuỳ thuộc vào những điều kiện cụ thể và chính sách của Nhà nước.
Về chính sách kinh tế đối ngoại : Nhà nước Việt Nam đã có quyết định chuyển hướng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sang Châu Âu và Bắc Mỹ. Đây là một quyết định đúng đắn vì trong bối cảnh khủng hoảng khu vực vừa qua, quan hệ đầu tư của Việt Nam với các nước trong khu vực đã giảm đáng kể, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa các nước Châu Âu và Bắc Mỹ thực sự có những nguồn vốn dồi dào và công nghệ tiên tiến nhất. Việc chuyển hướng này bắt đầu có tác dụng. Tuy nhiên, cần có chính sách khuyến khích rõ ràng, cụ thể hơn nhằm thu hút vốn đầu tư từ khu vực này.
Về chính sách thuế, cần phải có một số điều chỉnh sau :
- Giảm mức thuế nhập khẩu cho hầu hết các hàng công nghiệp chế biến, để buộc các nhà đầu tư trong và ngoài nước phải tính đến việc hoàn vốn nhanh và đổi mới công nghệ…
- Cách tính thuế thu nhập : chế độ phân biệt hai giá áp dụng cho các chuyên gia cao cấp, các nhà kỹ thuật và quản lý nước ngoài… cần phải được điều chỉnh hợp lý để thu hút họ vào làm việc tại Việt Nam.
- Đưa thị trường chứng khoán vào hoạt động là một vấn đề cấp bách. Thiếu thị trường chứng khoán các nhà kinh doanh không có điều kiện chuyển vốn từ nơi kém hiệu quả đến nơi có hiệu quả cao hơn. Do vậy họ phải chịu rủi ro.
Cần tạo thế chủ động trong việc thu hút vốn FDI bằng cách xây dựng quy hoạch tổng thể và chi tiết đối với từng thời kỳ. Quy hoạch này phải đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các ngành, vùng về cả trung hạn và dài hạn; Cần nhanh chóng ban hành quy hoạch vùng, tránh tình trạng chậm quy hoạch chi tiết về đất công nghiệp, làm cho các nhà ĐTNN bị động trong việc lựa chọn địa điểm đầu tư. Đối với quy hoạch phát triển các ngành kinh tế – kỹ thuật, cần chú ý kế hoạch phát triển các ngành trung và dài hạn để có quy định cụ thể.
Về chính sách đất đai: Cần ban hành chính sách và chế độ đền bù tài sản trên đất, áp dụng thống nhất một chính sách đền bù khi Nhà nước thu hồi đất (không phân biệt dùng cho an ninh quốc phòng hay cho ĐTNN). Việc quy định cụ thể giá đất đền bù sẽ tránh được tình trạng các nhà ĐTNN muốn giải toả đất ngay lại phải cam kết tuyển dụng lao động của các hộ dân này và phải tốn thêm chi phí đào tạo và nhiều thứ khác nữa vì số lao động này chắc chắn không đủ tiêu chuẩn để vào làm việc ở các doanh nghiệp có vốn FDI.
Cần từng bước thực hiện thống nhất thuế đất đối với các doanh nghiệp. Sắp xếp lại danh mục các đô thị khi xác định tiền thuê đất cho phù hợp với thực tế và khả năng thu hút vốn ĐTNN, trên cơ sở đó xem xét để giảm mức tiền thuê đất cho phù hợp với định hướng thu hút đầu tư ở các địa phương, đảm bảo mức tiền cho thuê đất không cao hơn so với các nước trong khu vực.
1.2. Nâng cấp cơ sở hạ tầng
Ngoại trừ đối với các nhà ĐTNN chuyên kinh doanh trong lĩnh vực hạ tầng, còn sự phát triển của cơ sở hạ tầng của một quốc gia và một địa phương tiếp nhận FDI luôn là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các quyết định và triển khai trên thực tế các dự án đầu tư đã cam kết. Một tổng thể hạ tầng phát triển phải bao gồm một hệ thống giao thông vận tải đồng bộ và hiện đại với các cầu, cảng, đường xá; một hệ thống thông tin liên lạc với các phương tiện nghe nhìn hiện đại; hệ thống điện nước dồi dào và tiện lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống và một hệ thống mạng lưới cung cấp các loại dịch vụ khác (y tế, giáo dục, giải trí, các dịch vụ hải quan, tài chính, thương mại, quảng cáo, kỹ thuật…) phát triển rộng khắp, đa dạng và có chất lượng cao.
Trong các điều kiện và chính sách hạ tầng phục vụ FDI, chính sách đất đai và bất động sản có sức chi phối mạnh mẽ đến luồng FDI đổ vào một nước. Càng tạo cho các chủ ĐTNN sự an tâm về sở hữu và quyền chủ động định hoạt sử dụng mua bán đất đai, bất động sản mà họ có được bằng nguồn vốn đầu tư của mình như một đối tượng kinh doanh thì họ càng mở rộng hầu bao đầu tư lớn và lâu dài hơn vào các dự án trên lãnh thổ nước và địa phương tiếp nhận đầu tư.
Nâng cấp cơ sở hạ tầng như cung cấp nước sinh hoạt, điện, kết nối Internet là một trong những ưu tiên hàng đầu. Đặc biệt, Nhà nước nên tập trung đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng, bảo đảm các công trình hạ tầng kỹ thuật (đường, điện, nước, thông tin liên lạc) đến tận hàng rào các khu công nghiệp; cho phép cạnh tranh tự do phát triển các dịch vụ tin học và viễn thông để giảm phí truy cập Internet, cước điện thoại quốc tế, và các dịch vụ khác ngang bằng với các nước khác trong khu vực.
1.3. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách về FDI
Tính hấp dẫn của một quốc gia trong lĩnh vực đầu tư trước hết phải được thể hiện ở hệ thống luật pháp, trong đó Luật ĐTNN là một bằng chứng cụ thể của sự mở cửa. Các nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư vào một nước nào đó đều phải đụng chạm tới rất nhiều vấn đề về luật pháp và các văn bản dưới luật (từ việc góp vốn, thuê và tuyển dụng lao động…). Nếu không có các văn bản hướng dẫn cụ thể thì họ sẽ không hiểu được ý đồ của nước sở tại và không hoạt động được. Hệ thống pháp luật về lĩnh vực ĐTNN của Việt Nam hiện nay cần được xây dựng theo hướng nhất quán, ổn định trên cơ sở hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, bình đẳng với tất cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Tính đồng bộ phải được xem xét cả về mặt kinh tế và xã hội. Về thời gian, phải đảm bảo tính kịp thời cũng như sự đồng bộ giữa các văn bản luật và văn bản dưới luật.
Về Luật ĐTNN, cần đưa thêm các quy định để đảm bảo nguyên tắc đối xử quốc gia (National Treatment) trong các lĩnh vực như : các biện pháp về đầu tư có liên quan đến thương mại (TRIMs) và chế độ cấp giấy phép đầu tư. Ngoài ra, cần có lộ trình thống nhất Luật ĐTNN với Luật Khuyến khích đầu tư trong nước thành 1 bộ luật chung về khuyến khích đầu tư. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng vì việc chia cắt môi trường đầu tư theo các luật khác nhau, phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư sẽ tạo môi trường đầu tư không bình đẳng, sẽ có lợi cho một nhóm đầu tư này và bất lợi cho các nhóm đầu tư khác.
Đối với các văn bản luật, sau một thời gian ban hành và thực hiện nên được xem xét, đánh giá lại vì mỗi văn bản sau khi ban hành sẽ bị thay đổi khi những điều kiện để thực hiện nó không còn nữa. Ngoài ra, trên cơ sở việc thu thập các thông tin thực tế từ các doanh nghiệp, các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học và cán bộ quản lý kinh tế, các cơ quan chức năng sẽ tổng hợp lại, sửa đổi và xây dựng phương án hoàn chỉnh. Các quy định hướng dẫn thi hành luật ĐTNN, sau khi cấp giấy phép đầu tư và trong quá trình doanh nghiệp hoạt động cần phải được bổ sung (như thông tư về giám định, thông tư về thanh lý…).
Hình thức công ty quản lý vốn, theo các chuyên gia kinh tế, là hình thức đầu tư được áp dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới, đối với những tập đoàn có nhiều dự án đầu tư tại một nước. Việc cho phép nhà ĐTNN có nhiều dự án đầu tư tại Việt Nam được thành lập công ty quản lý vốn để quản lý các dự án đầu tư của mình là rất cần thiết. Hoạt động của công ty này giúp cho các nhà ĐTNN điều phối và hỗ trợ hoạt động cho các dự án đầu tư khác nhau một cách có hiệu quả, vừa tiết kiệm chi phí, vừa nâng cao tính hiệu quả trong các dự án đầu tư của họ.
Ngoài ra cũng cần bỏ quy định về phần vốn góp của bên nước ngoài trong liên doanh phải lớn hơn 30% vì quy định này sẽ ngăn cản các nhà đầu tư có vốn vừa và nhỏ đầu tư vào Việt Nam.
Cần phải xây chính sách thu hút các TNCs. Đây là các đặc điểm đáng lưu ý trong việc xây dựng chính sách thu hút FDI ở Việt Nam. Trước tiên cần khuyến khích các TNCs đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp chế tạo và dịch vụ. Đây là thế mạnh của các TNCs, đặc biệt là các TNCs lớn của các nước công nghiệp phát triển Châu Âu. Bằng cách này, Việt Nam không chỉ thu hút được nhiều vốn đầu tư mà còn nhận được công nghệ chuyển giao một cách trực tiếp từ công nghệ nguồn (công ty mẹ) và tiếp cận nhanh chóng vào thị trường thế giới thông qua mạng lưới marketing toàn cầu của họ. Trong khi đó các đối tác có tiềm năng đầu tư hạn chế thường chuyển giao công nghệ lạc hậu qua các chi nhánh TNCs, theo mô hình “đàn nhạn bay” hoặc công nghệ trình độ thấp. Vì vậy cần phải có những tổ chức tư vấn chất lượng cao, những toà án giải quyết tranh chấp có uy tín, hiểu biết sâu sắc về pháp luật Việt Nam cũng như của thế giới.
1.4. Tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư
Tăng cường hoạt động nghiên cứu, cập nhật các tình hình, xu thế phát triển của các thị trường vốn đầu tư thế giới, chính sách đầu tư của các TNCs để sớm có đối sách thích hợp với hoạt động thu hút FDI, để đa phương hoá các đối tác ĐTNN, tạo thế chủ động trong mọi tình huống.
Ngoài ra, còn cần khuyến khích, kêu gọi đầu tư trên các trang web, qua các kênh thông tin đại chúng trong nước và quốc tế; tiếp tục cử các đoàn vận động đầu tư hoặc đặt văn phòng đại diện đầu tư ở nước ngoài; tạo điều kiện cho các tập đoàn lớn thế giới mở văn phòng đại diện để khuyến khích họ tìm dự án đầu tư; phát triển các dịch vụ bảo hiểm đầu tư trong nước và quốc tế để tăng độ an toàn khiến các nhà đầu tư an tâm và tích cực đầu tư vào Việt Nam.
1.5. Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về FDI :
Việc tăng cường sự quản lý của bộ máy quản lý Nhà nước và hiệu quả của nó có vai trò vô cùng quan trọng, nó không những dẫn đường cho các hoạt động FDI mà còn tạo cơ sở vững chắc cho các cải thiện về môi trường đầu tư. Để từng bước nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về FDI trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần tiến hành ngay các biện pháp sau :
Một là, các cơ quan cấp giấy phép đầu tư phải thường xuyên rà soát, phân loại các dự án FDI đã được cấp giấy phép để có những biện pháp thích hợp, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp FDI.
Đối với các doanh nghiệp đã đi vào sản xuất kinh doanh, các bộ ngành và UBND các tỉnh, trong phạm vi thẩm quyền của mình cần động viên khen thưởng kịp thời để khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động tốt, tiếp tục phát triển, đồng thời cần có các biện pháp thích hợp để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến thị trường tiêu thụ sản phẩm, các nghĩa vụ thuế.
Đối với các dự án đang triển khai thực hiện, các cơ quan có thẩm quyền cần tích cực hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, nhất là trong khâu đền bù, giải phóng mặt bằng để nhanh chóng hoàn thành xây dựng cơ bản, đưa doanh nghiệp vào sản xuất kinh doanh.
Đối với các dự án chưa triển khai, song xét thấy vẫn còn khả năng thực hiện, cần thúc đẩy việc triển khai trong một khoảng thời gian nhất định và giải quyết các vướng mắc, kể cả việc điều chỉnh mục tiêu và quy mô dự án.
Đối với các dự án chưa triển khai và không có triển vọng thực hiện, kiên quyết thu hồi giấy phép đầu tư, giành địa điểm cho các nhà đầu tư khác. Như thế vừa tiết kiệm được thời gian, vừa tránh lãng phí địa điểm và tiền bạc.
Hai là, kiểm soát chặt chẽ việc thành lập mới các khu công nghiệp và đánh giá tình hình triển khai các khu công nghiệp đã có quyết định thành lập. Điều chỉnh lại Quy hoạch phát triển khu công nghiệp đến năm 2010 cho phù hợp với tình hình thực tế tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương có thể chủ động xây dựng mới hoặc mở rộng khu công nghiệp trong trường hợp đã lấp đầy trên 60% diện tích đất công nghiệp hiện có.
Ba là, tiếp tục thực hiện chủ trương phân cấp quản lý Nhà nước về FDI cho UBND cấp tỉnh trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất quản lý về quy hoạch, cơ cấu, chính sách và cơ chế, trong đó chú trọng phân cấp quản lý Nhà nước đối với các hoạt động sau giấy phép đầu tư của các dự án có vốn FDI; tăng cường sự hướng dẫn, kiểm tra của các bộ, ngàng Trung ương. Có cơ chế xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm luật pháp, chính sách, quy hoạch trong việc thực hiện chủ trương phân cấp quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài, kể cả việc chấm dứt hiệu lực của các giấy phép đầu tư sai quy định.
1.6. Cải cách thủ tục hành chính :
Cần công khai quy trình thủ tục lập hồ sơ dự án, thẩm định dự án, triển khai và quản lý dự án, quy định cụ thể thời gian giải quyết công việc, trách nhiệm của từng cơ quan và cá nhân thực hiện từng phần việc. Cần trao quyền nhiều hơn nữa cho các nhà chức trách thực hiện cấp giấy phép đầu tư để họ chủ động xử lý các vấn đề phát sinh và đảm bảo chủ trương “một cửa”. Mặt khác, việc đơn giản hoá thủ tục thông qua chế độ một cửa, cần quy động lệ phí rõ ràng cho mỗi loại giấy phép và theo mức phí tuyệt đối. Như vậy các nhà đầu tư sẽ tính toán chính xác chi phí và thu nhập. Tuy nhiên, cần tiến tới chế độ đăng ký đầu tư, giảm tối đa cơ chế xin – cho tránh làm mất thời gian, tiền bạc của nhà đầu tư và hạn chế tiêu cực.
Cần đưa ra các chỉ dẫn – càng cụ thể càng tốt – về định mức, tiêu chuẩn, chi phí của từng mục để chủ đầu tư tham khảo khi lập dự án và làm căn cứ để thẩm định dự án. Hiện nay, các nước mới thực hiện thẩm định dự án theo phương thức các nhà đầu tư đăng ký đầu tư, tiến hành xây dựng và trước khi đi vào hoạt động thì mới tiến hành thẩm định về tổng vốn đầu tư, về kiến trúc, về môi trường… nếu các dự án đủ tiêu chuẩn quy định thì cấp giấy phép. Việt Nam nên thực hiện theo hình thức này vừa có hiệu quả hơn vừa không gây phiền hà cho các nhà đầu tư.
Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương phân cấp uỷ quyền cấp giấy phép đầu tư cho các địa phương, tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ địa phương, thiết lập chế độ báo cáo thống kê từ các doanh nghiệp, các sở kế hoạch và đầu tư để đảm bảo tổng hợp, phân tích và đề ra các chính sách kịp thời trong lĩnh vực FDI. Các UBND các tỉnh cần làm tốt chức năng quản lý nhà nước trên địa bàn lãnh thổ đối với mọi hoạt động FDI theo nội dung quy định tại điều 58 của Luật ĐTNN tại Việt Nam năm 1996 và điều 97 Nghị định 12/CP của Chính phủ, thành lập nhóm công tác nòng cốt là sở kế hoạch và đầu tư phối hợp với các ban, ngành, địa phương để tập trung xử lý dứt điểm những vấn đề phát sinh liên quan đến việc triển khai các dự án ĐTNN; Thường xuyên gặp gỡ, đối thoại với cộng đồng các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để tìm hiểu tình hình, tháo gỡ kịp thời khó khăn cho các nhà đầu tư.
Cải cách thủ tục hành chính theo nguyên tắc hoạt động đầu tư thuộc quyền của các doanh nghiệp. Nhà nước chỉ nên có chức năng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc thực hiện các dự án đầu tư, trên cơ sở đó quy định các thủ tục hành chính thích hợp, giám sát và kiểm tra đúng mức. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác chống tham nhũng để lấy lại lòng tin cho các nhà đầu tư, tạo môi trường đầu tư “sạch hơn”, xếp thứ hạng cao hơn để thu hút trở lại dòng FDI.
Vấn đề cải cách thủ tục hành chính có liên quan đến cải cách bộ máy quản lý hành chính, đây là một vấn đề vô cùng phức tạp. Vì vầy phải có những cải tiến phù hợp và chú ý đến thông lệ quốc tế. Trong khâu lập hồ sơ nên giảm bớt các loại giấy tờ không cần thiết, đơn giản hoá thủ tục cho các loại dự án vừa và nhỏ.
1.7. Thực hiện tốt công tác đào tạo nguồn nhân lực :
Hiện tại, chi phí lao động thấp vẫn là yếu tố hấp dẫn ĐTNN ở Việt Nam. Tuy nhiên, đến giai đoạn cao của khoa học – kỹ thuật, giá cả lao động sẽ không còn là nhân tố được các nhà ĐTNN đánh giá cao. Vấn đề không chỉ là số lượng mà là chất lượng lao động. Tài nguyên, khoáng sản là yếu tố hạn định. Sự hấp dẫn của hệ thống pháp luật của các nước đều như nhau thì phải cần đến lợi thế về con người. Tiềm năng con người là vô hạn. Phát triển kinh tế dựa vào tiềm năng của con người là hướng đi đúng đắn nhất.
Hiện nay, Việt Nam đang ở trong một cái bẫy của trình độ thấp, có nền công nghệ thông tin chậm phát triển, do vậy không đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin cho các nhà ĐTNN về thị trường, về tiến trình thực hiện AFTA, về việc gia nhập WTO, về việc thực hiện Hiệp định thương mại Việt – Mỹ… Bên cạnh đó việc phát triển công nghệ thông tin, cần phải có đội ngũ lao động có kiến thức, có chuyên môn, hiểu luật pháp… Hệ thống giáo dục của Việt Nam cần phải theo những tiêu chuẩn quốc tế và chế độ thi tuyển cán bộ trong các dự án liên doanh cần diễn ra công khai, minh bạch, tránh tình trạng phía đối tác Việt Nam tuyển dụng tuỳ tiện, vị nể trong bố trí công việc. Có như vậy mới thu hút được nhân tài trong các dự án FDI, hạn chế tình trạng phá sản, giải thể vì lý do yếu kém năng lực quản lý và chất lượng tay nghề kém từ phía Việt Nam. Lực lượng lao động của Việt Nam cần phải đào tạo sao cho có trình độ cao cả về chuyên môn và ngoại ngữ theo hướng tự đào tạo và đào tạo theo chứng chỉ. Việc đào tạo phải gắn với thực tiễn để có thể ứng dụng lý thuyết, mang lại hiệu quả cao trong thực tiễn.
Cần đào tạo nhiều công nhân lành nghề, chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo của hệ thống các trường trung học và dạy nghề. Nguồn lao động cần được bố trí thích hợp, có làm được như vậy họ mới phát huy được sở trường của mình và cống hiến được nhiều hơn.
Đối với những cán bộ làm việc trong các công ty có vốn FDI hay làm việc ở những khâu có liên quan đến hoạt động FDI thì cần phải tuyển chọn chặt chẽ về cả trình độ lẫn phẩm chất đạo đức. Trong rất nhiều trường hợp, các nhà ĐTNN sẽ không thể gian lận được trong chuyển giao công nghệ, kinh doanh và thuế… nếu như các cán bộ của Việt Nam liêm khiết, không bị mua chuộc, biết đặt lợi ích quốc gia lên trên hết. Trong thời bình với mục tiêu hàng đầu là phát triển kinh tế, phẩm chất đạo đức cách mạng vì lý tưởng của chủ nghĩa xã hội càng phải được rèn luyện và phát huy.
Tăng chi ngân sách hàng năm để tăng cường giáo dục và đào tạo toàn diện, nâng cao chất lượng lao động của Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của nhà ĐTNN về chất lượng, giá cả và kỷ luật lao động. Về lâu dài chính phủ cần có những chính sách đón đầu trong giáo dục và đào tạo nhân lực, nhất là về kỹ thuật và kỹ năng kinh doanh.
1.8. Tiếp tục giữ vững, ổn định chính trị
Giữ vững, ổn định chính trị có ý nghĩa quyết định đến việc thu hút FDI. Bởi vì mỗi khi tình hình chính trị không ổn định (và đi liền với nó là luật pháp thay đổi) cũng có nghĩa là mục tiêu thu hút vốn FDI sẽ thay đổi và phương thức để đạt được mục tiêu đó cũng thay đổi. Điều này có nghĩa là những cái mà ngày hôm qua đã xây dựng được dưới chế độ xã hội cũ sẽ trở thành lạc hậu, thậm chí phải phá bỏ. Hậu quả của sự phá bỏ ấy là sự thiệt hại về lợi ích, trong đó nhà ĐTNN sẽ phải gánh chịu một phần, như vậy rõ ràng không đáp ứng được mục tiêu lợi nhuận của các nhà đầu tư (chưa kể đến trường hợp mất hoàn toàn vốn đầu tư do chính quyền mới thực hiện quốc hữu hoá).
Kinh nghiệm của nhiều nước đã cho thấy, khi tình hình chính trị mất ổn định, thậm chí có dấu hiệu mất ổn định thì các nhà đầu tư sẽ không đầu tư hoặc ngừng việc đầu tư của mình. Chẳng hạn, sự mất ổn định về chính trị – xã hội ở Nga thời gian qua đã làm nản lòng các nhà đầu tư, mặc dù Nga là một thị trường rộng lớn, có nhiều tiềm năng.
Tiêu chí của sự ổn định chính trị mà các nhà đầu tư quan tâm là sự bền vững của chính phủ và mức độ cạnh tranh quyền lực giữa các phe phái chính trị. Nếu các điều kiện khác của môi trường đầu tư không đổi, thì chính trị càng ổn định thì độ tin cậy càng cao, càng hấp dẫn các nhà đầu tư, sự ổn định chính trị có thể được coi là một lợi thế so sánh cần phát huy.
Để giữ vững và tăng cường ổn định chính trị ở Việt Nam thì yếu tố quyết định là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và vai trò nhà nước pháp quyền của
dân, do dân và vì dân, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, kịp thời ngăn chặn âm mưu của các thế lực phản động, đảm bảo an ninh quốc phòng, bảo vệ chủ quyền quốc gia, từng bước đi lên CNXH.
Trong những năm qua, Việt Nam đã giữ ổn định chính trị – xã hội và được dư luận thế giới đánh giá cao. Đây là một lợi thế so sánh cần được phát huy.
2. Nhóm giải pháp riêng cho thu hút FDI từ các nước EU
2.1. Giải pháp tăng cường thu hút FDI từ các TNCs của EU
Hiện nay, trong xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới, chiến lược đầu tư cắm nhánh ở nước ngoài thông qua các TNCs nổi lên là một hình thức FDI phát triển mạnh của các nước tư bản công nghiệp nói chung và đặc biệt là của khối EU. Sự liên kết giữa TNCs của EU được thực hiện trong điều kiện có một thị trường Châu Âu thống nhất là điều kiện để các công ty bổ sung, hỗ trợ nhau, giải quyết nhanh chóng mọi yêu cầu của sản xuất kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của EU với 2 đối thủ của họ là Mỹ và Nhật Bản, nhất là trong các ngành công nghiệp kỹ thuật cao, đòi hỏi phải có sự liên kết mới có thể đạt được quy mô và khả năng kỹ thuật tiên tiến. Liên kết công ty trong điều kiện thị trường châu Âu thống nhất còn cho phép các công ty phân bố lại sản xuất ra ngoài thị trường thống nhất, di chuyển sang các khu vực có tiền lương thấp để giảm thiểu chi phí sản xuất. Trong những năm qua, một số TNCs của EU cũng đã bắt đầu quan tâm đến Việt Nam. Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan thì đầu tư trực tiếp của các công ty này vẫn còn rất khiêm tốn so với khả năng lớn mạnh của họ. Do đó, vấn đề đặt ra trước mắt là làm thế nào thu hút nhiều hơn nữa đầu tư từ các công ty này. Muốn vậy, chúng ta cần phải dựa vào đặc điểm hoạt động của các công ty này để đề ra các giải pháp phù hợp.
Thứ nhất, TNCs của EU thường đầu tư lẫn nhau và đầu tư vào các nước phát triển, nhất là Mỹ. Vì vậy, để tăng cường mối quan hệ với các công ty này, chúng ta nên quan hệ với các đối tác của họ để từ đó có một cầu nối dẫn tới quan hệ với chính các công ty. Đối với Mỹ, sau khi Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được ký kết, quan hệ thương mại đầu tư của 2 nước đã có những chuyển biến đáng kể. Đây là một dấu hiệu tốt để ta có thể thông qua mối quan hệ với Mỹ tiếp cận với các đối tác EU mà Mỹ đã quan hệ từ lâu.
Thứ hai, các TNCs của EU thường tập trung đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ. Dựa vào đặc điểm này, chúng ta cần xây dựng danh mục những dựa án kêu gọi ĐTNN tập trung vào những ngành thế mạnh của các công ty này để thu hút đầu tư của họ vào Việt Nam. Đặc biệt đối với Việt Nam, một đất nước giàu tiềm năng để phát triển công nghiệp dầu khí, một lĩnh vực cũng là thế mạnh của các TNCs EU, thì ngoài việc thu hút FDI của EU vào các dự án thăm dò, khai thác dầu khí, cần khuyến khích mạnh mẽ các công ty EU đầu tư vào các dự án phát triển công nghiệp lọc, hoá dầu, vận chuyển và chế biến các sản phẩm từ khí…
Thứ ba, các TNCs EU đều thực hiện đa dạng hoá hình thức đầu tư như việc lập các xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, liên doanh với nhiều chủ thể đầu tư, các hình thức chuyển giao công nghệ, BOT, BTO, … Tuy nhiên, khi đầu tư vào Việt Nam, các công ty này chủ yếu đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh, còn hình thức BOT, BTO, BT hầu như còn rất ít, trong khi trên thực tế Việt Nam lại yếu kém về cơ sở hạ tầng mà lĩnh vực này lại cần có những dự án hợp tác theo hình thức BOT, BTO, BT. Vì vậy, phía Việt nam cần xem xét khả năng dự án hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ để nhanh chóng triển khai các dự án BOT, BTO, BT tại Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, bưu chính viễn thông…
Thứ tư, các TNCs EU sử dụng kết hợp chặt chẽ chiến lược “ngoại vi” và “trọng tâm” trong kinh doanh. Đối với các khu vực thuận lợi, các công ty này thường chú ý đến những vùng giáp ranh giữa nhiều quốc gia để khai thác được thị trường nhiều phía, còn đa số các trường hợp khác các công ty đều chuyển hướng tập trung vào những khu vực có trình độ đô thị hoá cao nhằm khai thác thị trường cả về chiều rộng và chiều sâu. Việt Nam có một vị trí địa lý khá thuận lơi để các công ty EU thực hiện mục tiêu dùng một nước để làm bàn đạp thâm nhập vào các thị trường lân cận. Vì vậy, chúng ta cần tận dụng lợi thế này, nhanh chóng nâng cấp cơ sở hạ tầng, phát triển nhiều khu đô thị hoá để đủ sức cạnh tranh với các nước trong khu vực trong việc thu hút đầu tư của EU; đồng thời do vị trí địa lý của ta khá xa với các nước EU nên việc tiếp cận trực tiếp với các đối tác EU gặp nhiều khó khăn, chúng ta phải đặt đại diện của mình tại những quốc gia trong khu vực mà EU có quan hệ để một mặt học hỏi kinh nghiệm thu hút và quản lý FDI từ những nước này, mặt khác thực hiện những chương trình vận động xúc tiến đầu tư của EU vào Việt Nam thông qua những nước này hoặc thậm chí nếu cần thiết phải xây dựng cả những cơ sở sản xuất kinh doanh tại chính những nước này để có thể tiếp thu những công nghệ mà EU đã mang tới trong khi những công nghệ đó còn chưa được EU mang tới Việt Nam.
Thứ năm, như đã trình bày ở Chương II, trong các lĩnh vực đầu tư, mỗi thành viên EU có một thế mạnh riêng. Do đó, chúng ta cần căn cứ vào từng thế mạnh đó cũng như đặc điểm đầu tư của từng nước để có những giải pháp thích hợp trong việc thu hút FDI của EU vào Việt Nam sao cho vừa tận dụng được các thế mạnh của từng nhà đầu tư EU đồng thời phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả khối.
2.2. Tăng cường mối quan hệ giao lưu hợp tác giữa Việt Nam và các nước thành viên EU
Trên cơ sở mối quan hệ tốt đẹp từ trước tới nay giữa Việt Nam và các nước thành viên EU (đặc biệt là giữa Việt Nam với các nước CNXH ở Đông Âu – thành viên mới của EU), chúng ta cần giữ gìn và tăng cường xây dựng mối quan hệ ấy ngày càng gắn bó, thân thiết hơn. Muốn thế, Việt Nam cần tăng cường các cuộc gặp gỡ cấp cao giữa các nhà lãnh đạo của 2 phía Việt Nam và EU, để từ đó củng cố mối quan hệ lâu dài và tạo thêm nhiều cơ hội đầu tư mới.
Các cuộc hội thảo, triển lãm giới thiệu các doanh nghiệp Việt Nam ở Châu Âu hay ngược lại, giới thiệu các doanh nghiệp EU ở Việt Nam, hoặc trao đổi thông tin từ 2 phía cũng là cách để gia tăng sự hiểu biết lẫn nhau, tạo tiền đề cho quan hệ đầu tư sau này. Đây là một biện pháp rất quan trọng vì theo ông Rob Lally, Tham tán Thương mại Anh tại Việt Nam, sở dĩ còn nhiều nhà đầu tư lớn của EU chưa mấy quan tâm đến thị trường Việt Nam là một phần do doanh nghiệp 2 bên còn thiếu hiểu biết về nhau.
Bên cạnh đó, có thể tổ chức nhiều cuộc giao lưu văn hoá - xã hội, đẩy mạnh hoạt động du lịch, tổ chức các hoạt động văn hoá tại Việt Nam và các nước thành viên EU như “những tuần lễ văn hoá Việt Nam tại Bỉ” tổ chức từ 2/9 đến 4/10/2001, nhằm giúp 2 bên hiểu rõ thêm về phong tục tập quán cũng như thị hiếu, sở thích của nhau, đồng thời đem lại những đánh giá tốt đẹp từ phía bạn. Đây cũng là một cách quảng cáo gián tiếp cho đầu tư của EU vào nước ta.
Trên đây là những giải pháp cơ bản nhất nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn FDI của EU tại Việt Nam, phục vụ tốt nhất cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta. Để những giải pháp này mang lại kết quả như mong muốn cần phải có sự đồng tâm hợp sức cùng cố gắng thực hiện của Nhà nước và toàn thể nhân dân ta.
KẾT LUẬN
Liên minh Châu Âu – như đã phân tích ở trên, là tổ chức duy nhất có mục tiêu cơ bản và lâu dài là thống nhất cả một châu lục về cả kinh tế và chính trị, dựa trên các nguyên tắc quy định riêng của khối. Hơn 10 năm qua, EU đã tồn tại và không ngừng phát triển, đóng một vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực đối với thế giới nói chung và từng nước thành viên nói riêng. Nhờ những thành công mà EU đã đạt được trong tiến trình đi tới nhất thể hoá kinh tế – tiền tệ và tài chính, Việt Nam đang chú trọng tới việc phát triển và đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế – thương mại, đầu tư với EU. Từ khi Việt Nam và EU thiết lập quan hệ ngoại giao, đặc biệt là sau khi Hiệp định khung hợp tác được ký kết đến nay, những kết quả đạt được trong quá trình hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư đã khẳng định rõ sự biến chuyển cả về lượng và chất của quan hệ hợp tác Việt Nam – EU.
FDI của EU rót vào Việt Nam ngay từ năm 1988, liền sau khi Việt Nam ban hành Luật ĐTNN. Nguồn vốn này không chỉ trải ra trên nhiều địa bàn của nước ta, mà còn được tiến hành ở nhiều lĩnh vực. Các hình thức đầu tư của EU tuy chưa đa dạng, song quy mô các dự án này đều khá lớn, việc thực hiện khá thuận lợi đem lại lợi ích cho cả hai bên.
Tuy nhiên, cho dù số lượng FDI từ EU đổ vào Việt Nam là tương đối lớn, song so với tiềm lực của họ, con số này vẫn khá khiêm tốn. Vì vậy, muốn có hiệu quả cao hơn Việt Nam cần phải kiên quyết hơn nữa trong việc khắc phục các nhược điểm, học hỏi kinh nghiệm của những nước đi trước. Muốn thế thì Việt Nam phải đề ra và thực hiện tốt các biện pháp cải thiện môi trường đầu tư của nước mình.
Mặc dù còn phải đương đầu với nhiều khó khăn trong bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực như hiện nay, nhưng chúng ta không thể phủ nhận được tiềm năng kinh tế, chính trị của EU về lâu dài trong một trình tự chính trị và kinh tế thế giới đang được hình thành là vô cùng to lớn. Chính vì vậy, trong thập niên tới cũng như trong những năm tiếp theo, Việt Nam cần tanh thủ mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư với các nước EU trên cơ sở củng cố và tăng cường vị trí và lòng tin đối với các nước là đối tác truyền thống, Việt Nam cũng cần lấy đó làm điểm tựa, là cầu nối để hình thành các quan hệ hợp tác đầu tư với các đối tác mới còn lại trong khối EU. Có được mối quan hệ tốt đẹp với các nước thành viên EU có trình độ phát triển cao là một thành công đối với Việt Nam, chúng ta cần giữ gìn và tiếp tục hướng tới một tương lai tươi sáng hơn.
Với việc tiếp tục duy trì quan điểm phát triển và mở rộng quan hệ hợp tác với tất cả các nước trên thế giới vì lợi ích trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập và chủ quyền của mỗi dân tộc, tạo điều kiện cho sự hội nhập và phát triển kinh tế của Việt Nam. Với thiện chí và tiềm năng to lớn của Việt Nam và EU, chúng ta tin tưởng rằng quan hệ hợp tác đầu tư giữa Việt Nam và EU sẽ ngày càng phát triển tốt đẹp cả trong quan hệ Việt Nam – EU và trong khuôn khổ ASEAN – EU và ASEM.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Bùi Huy Khoát –Thúc đẩy quan hệ thương mại - đầu tư giữa Liên hiệp Châu Âu và Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI
2/ FDI với kinh tế – thương mại Việt Nam, xuất bản 11/2002
3/ GS.TS. Võ Thanh Thu – Quan hệ kinh tế quốc tế
4/ GS.TS. Vũ Thị Ngọc Phùng – Giáo trình kinh tế phát triển (tập 1), NXB Thống kê – 2000.
5/ Lê Văn Châu – Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế ở Việt Nam.
6/ Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Nxb Thống kê năm 2000.
7/ Nguyễn Hữu Phước – Việt Nam với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
8/ Niên giám thống kê từ 1994 đến 2003, Nhà xuất bản thống kê.
9/ PGS. TS. Kim Ngọc – Kinh tế thế giới 2003 – 2004 đặc điểm và triển vọng.
10/ PTS. Vũ Trường Sơn - Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
11/ Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, các số năm 2003, 2004, 2005.
12/ Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, các số năm 2002, 2003, 2004.
13/ Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, các số năm 2004.
14/ Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, các số năm 2002, 2003, 2004.
15/ Tạp chí Kinh tế và Dự báo, các số năm 2004.
16/ Tạp chí Kinh tế và Phát triển, các số năm 2004.
17/ Tạp chí Thương nghiệp thị trường Việt Nam, các số năm 2002, 2003, 2004.
18/ Tạp chí Thông tin tài chính, các số năm 2004.
19/ Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 9/2004
20/ Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước – Hợp tác kinh tế và thương mại với EU
21/ Vũ Chí Lộc - Giáo trình Đầu tư nước ngoài, NXB Giáo dục (1997)
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0050.doc