Đề tài Giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng Ngoại thương Hà Nội

Hiện nay , lượng ngoại tệ giao dịch trên TTNTLNH đã chiếm tới 90% tổng số giao dịch của cả nước , thị trường đóng vai trò quan trọng trong việc xác định tỷ giá thị trường giữa các NHTM . Qua TTNTLNH , các NHTM đã đáp ứng được nhu cầu mua bán ngoại tệ của mình , từ đó đẩy mạnh hoạt động kinh doanh đối ngoại và thanh toán quốc tế . Khi mới thành lập chỉ có 23 thành viên tham gia thị trường . Đến nay đã có tới trên 60 thành viên khiến cho hoạt động của thị trường sôi động lên nhiều nhất là có sự tham gia của nhiều ngân hàng liên doanh như City Bank , Standart Charted . Gần đây , với quy chế mới " Quy chế tổ chức và hoạt động của TTNTLNH " ban hành kèm theo Quyết định số 101/1999/QĐ - NHNN 13 ngày 26/3/1999 của Thống đốc NHNN , đã có những quy định rộng hơn về điều kiện thành viên tham gia thị trường , về loại đồng tiền được sử dụng trong giao dịch , về các loại hình giao dịch , lượng ngoại tệ giao dịch . đây chính là điều kiện thuận lợi cho nhiều chi nhánh ngân hàng lớn tham gia vào thị trường này , mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ của mình .

doc44 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1599 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng công bố và ngược lại. Điều kiện thực hiện nghiệp vụ giao ngay là : Trước hết phải có nhu cầu của khách hàng. Thông thường, nghiệp vụ giao ngay phát sinh khi có nhu cầu của khách hàng. Ngân hàng sẽ thực hiện nghiệp vụ này để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Nghiệp vụ giao ngay còn được thực hiện trong hoạt động đầu cơ của ngân hàng. Dự đoán tỷ giá của một đồng tiền trong thời gian tới, ngân hàng sẽ mua đồng tiền đó theo hợp đồng giao ngay với các ngân hàng khác. Khi tỷ giá thay đổi theo đúng dự đoán, ngân hàng có thể bán trao ngay số tiền đầu cơ đó và thu chênh lệch. Ngoài ra nghiệp vụ trao ngay được sử dụng kết hợp với các nghiệp vụ khác trong các đầu cơ chênh lệch lãi suất b. Nghiệp vụ hối đoái kỳ hạn Nghiệp vụ hối đoái kỳ hạn được thực hiện bằng hợp đồng mua bán ngoại tệ kỳ hạn, trong đó việc hoàn tất nghiệp vụ này được thực hiện vào một thời điểm nhất định sau đó, với tỷ giá nhất định đã được quy định trong hợp đồng tại thời điểm ký kết Chức năng kinh tế của nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ có kỳ hạn nhằm tránh những rủi ro về tỷ giá trong kinh doanh ngoại thương. Thông qua việc thoả thuận một nghiệp vụ kinh doanh kỳ hạn với ngân hàng, cả người nhập khẩu và người xuất khẩu đều có thể tính toán trước được hiệu quả kinh doanh của mình bởi vì những khoản ngoại tệ có được hoặc cần có trong tương lai đã xác định được ngay tỷ giá vào lúc hợp đồng mua bán kỳ hạn được thoả thuận Đối với ngân hàng, nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ có kỳ hạn không chỉ đáp ứng được nhu cầu chống lại rủi ro về tỷ giá mà còn có ý nghĩa sống còn đối với nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của bản thân ngân hàng. Bằng việc ký kết hai loại hợp đồng mua hợp đồng bán ngoại tệ có kỳ hạn các ngân hàng vừa đáp ứng nhu cầu của khách hàng vừa tránh được trạng thái ngoại tệ mở đầy rủi ro đối với ngân hàng khi tình trạng số dư tài khoản kinh doanh ngoại hối của một ngân hàng ở mức không cân bằng Thị trường hối đoái giao ngay và thị trường hối đoái kỳ hạn có những đặc điểm chung về phạm vi nhân sự tham gia và tổ chức thị trường, kỹ thuật ký kết các hợp đồng, ưu thế giao dịch của đồng USD, điểm khác biệt lớn nhất giữa chúng thể hiện ở chỗ ; trên thị trường kỳ hạn, tỷ giá giao dịch ít phụ thuộc vào mức độ cung cấp thời hạn mà phụ thuộc lớn và mức chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền giao dịch Các thuật ngữ chuyên môn đối với 3 loại tỷ giá có kỳ hạn có thể phát sinh về mặt lý thuyết so với tỷ giá giao ngay bao gổm : - Pari ( bằng nhau ) : Không có chênh lệch giữa tỷ giá kỳ hạn và giao ngay - Deport ( giảm ) : Phẩn chênh lệch thấp hơn của tỷ giá kỳ hạn so với tỷ giá giao ngay Ví dụ : Tỷ giá giao ngay USD/DEM 20500-20510 Điểm kỳ hạn 1 tháng được công bố : USD/DEM 00145-0135 Tức là giá kỳ hạn 1 tháng là : 20355-20375 ( 20500-00145 và 20510-00135 ) - Report ( tăng ) : Phần chênh lệch cao hơn của tỷ giá kỳ hạn so với tỷ giá giao ngay Ví dụ : Tỷ giá giao ngay : USD/DEM 20500-20510 Điểm kỳ hạn 1tháng được công bố : USD/DEM : 0013-0014 Tức là kỳ hạn 1 tháng là : 2063-2065 ( 20500+0013 và 20510+0014 ) Công thức tính tỷ giá kỳ hạn như sau : Tỷ giá kỳ hạn = Tỷ giá cao ngay + Report ( - Deport ) Trong đó Report ( Deport ) = Tỷ giá giao ngay * số ngày * chênh lệch lãi suất : 360*100 Mức tăng hay mức giảm của tỷ giá kỳ hạn so với tỷ giá giao ngay được tính trên cơ sở chênh lệch lãi suất bởi vì để tránh phải chịu rủi ro thay cho khách hàng khi ngân hàng ký các hợp đồng kỳ hạn mua ( bán ) ngoại tệ, ngân hàng sẽ thực hiện các giao dịch dựa trên lãi suất các đồng tiền đó. Giả sử ngân hàng ký một hợp đồng kỳ hạn 3 tháng với nhà xuất khẩu. Như vậy, tại thời điểm ký kết hợp đồng ngân hàng sẽ thực hiện 3 công việc sau: - Vay ngoại tệ trên thị trường với kỳ hạn 3 tháng số tiền vay được xác định sao cho lãi vay cộng với gốc vay bằng số ngoại tệ mua kỳ hạn - Dùng ngoại tệ vay được mua nội tệ theo tỷ giá giao ngay - Cho vay số nội tệ thu được vào một tổ chức tín dụng với kỳ hạn 3 tháng để thu lời Đến thời điểm thanh toán ngân hàng sẽ thực hiện các giao dịch sau: - Thu nợ số nội tệ gửi trên thị trường - Trao nội tệ cho nhà xuất khẩu và nhận ngoại tệ - Dùng ngoại tệ trả nợ đã vay trên thị trường Như vậy những giao dịch cần thiết trên tạo thành vòng tròn khép kín giúp cho ngân hàng có thể loaị trừ rủi ro hối đoái mà ngân hàng phải chịu thay cho khách hàng. Tuy nhiên, do đặc điểm từng ngân hàng khác nhau nên tỷ giá kỳ hạn công bố giữa các ngân hàng có thể rất chênh lệch Điều kiện để thực hiện nghiệp vụ kỳ hạn là: - Trước hết các quy định của pháp luật phải cho phép và tạo điều kiện cho các ngân hàng qua các quy định về cách xác định tỷ giá kỳ hạn phí hợp đồng... để thực hiện được nghiệp vụ này. - Khách hàng biết đến nghiệp vụ này của ngân hàng và có yêu cầu thực hiện nó nhằm tránh những biến động tỷ giá ảnh hưởng bất lợi tới hoạt động kinh doanh của anh ta - Khả năng của ngân hàng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng, nếu ngân hàng chỉ thực hiện một nghiệp vụ kỳ hạn đơn lẻ, ngân hàng có thể gánh chịu một số rủi ro hối đoái thay cho khách hàng của mình.Vậy khả năng, mối quan hệ của ngân hàng với các khách hàng khác, với các ngân hàng bạn trong nước và quốc tế là yếu tố quan trọng để ngân hàng thực hiện được các nghiệp vụ đối ứng loại trừ rủi ro trên. Hơn nữa, ngân hàng còn có khả năng đưa ra mức tỷ giá kỳ hạn hấp dẫn với khách hàng hơn các ngân hàng khác. - Nghiệp vụ hối đoái tương lai Đây là nghiệp vụ mới đưa vào các dao dịch ngoại tệ từ đầu những năm 80. Nghiệp vụ này cũng được thực hiện theo hợp đồng kỳ hạn trong đó quy định trách nhiệm mua hoặc bán một khối lượng ngoại tệ nhất định vào thời điểm ấn định và theo tỷ giá thoả thuận từ trước. Điểm khác biệt giữa hợp đồng tương lai và hợp đồng kỳ hạn là hợp đồng tương lai được tiêu chuẩn hoá cao thể hiện ở những điểm sau : - Số đồng tiền giao dịch chỉ giới hạn ở một số ít đồng tiền có lưu lượng giao dịch lớn - Quy mô của từng giao dịch : Được quy định là một bội số chuẩn theo từng loại đồng tiền giao dịch - Thời điểm tất toán : Được quy định là một số thời điểm nhất định trong năm bất kể hợp đồng được ký kết vào các thời gian khác nhau - Phương thức đánh dấu thị trường : Các hoạt động trên thị trường hối đoái tương lai không tất toán trực tiếp giữa người bán và người mua. Việc ký kết mỗi một hoạt động là việc ký kết với quỹ cân đối. Các hợp đồng được đảm bảo thực hiện bằng giá trị nguồn đảm bảo bằng quỹ cân đối. Quỹ này sau mỗi ngày làm việc có trách nhiệm đánh giá lại các hợp đồng giao dịch trên cơ sở coi tỷ giá tất toán là giá bình quân cuối ngày giao dịch. Nếu có sự thay đổi về giá so với hợp đồng đã ký kết quỹ cân đối sẽ thực hiện 3 nhiệm vụ sau : Chuyển tiền ( số chênh lệch từ việc thay đổi giá từ nguồn đảm bảo của bên bị thiệt hại sang bên được lợi, huỷ bỏ hợp đồng cũ và ký kết hợp đồng mới. - Khác với giao dịch hối đoái kỳ hạn, các dao dịch hối đoái tương lai rất ít được duy trì cho tới thời điểm tất toán. Trong khi tỷ lệ hợp đồng kỳ hạn được thực hiện là 2% ở ngày đến hạn thì hợp đồng tất toán trước hạn là 98% - Nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ ( Swap ) Trong nghiệp vụ kinh doanh kỳ hạn, một ngân hàng chỉ hợp đồng một phía để phục vụ khách hàng của mình nghĩa là ngân hàng mua hoặc bán ngoại tệ theo tỷ giá kỳ hạn mà không đồng thời thoả thuận với khách hàng một nghiệp vụ đối ứng bán hoặc mua lại. Còn giữa các ngân hàng người ta phổ biến sử dụng nghiệp vụ Swap có nghĩa là hoán đổi. Đó là một nghiệp vụ mà cùng với một bạn hàng, ngân hàng đồng thời mua và bán hai loại ngoại tệ khác nhau theo tỷ giá giao ngay và tỷ giá kỳ hạn Ví dụ : Một ngân hàng dùng FRF mua USD của một ngân hàng khác theo tỷ giá giao ngay, đồng thời bán luôn cho ngân hàng đó số USD nói trên theo tỷ giá kỳ hạn để thu về FRF. Chênh lệch giữa tỷ giá giao ngay và tỷ giá kỳ hạn thực hiện trong hợp đồng Swap được gọi là mức SWAP. Cách tính mức Swap : Mức Swap = Tỷ giá giao ngay * chênh lệch lãi suất * thời hạn /360*100 1 + lãi suất nội tệ * thời hạn /360*100 Ngoài ra, hợp đồng Swap ngoại tệ còn có thể biểu hiện dưới hình thức khác. Theo hợp đồng một khoản cho vay và một khoản cho nợ bằng hai đồng tiền khác nhau có cùng danh nghiã với một thời hạn nhất định. Như vậy, hợp đồng Swap ngoại tệ sẽ bao gồm 3 phần : - Thời điểm ký kết hợp đồng : hai bên trao đổi ban đầu về vốn - Trong thời hạn hợp đồng : hai bên trao đổi những khoản tiền lãi phải trả và lãi nhận được từ khoản vay và cho vay của mình. - Thời điểm kết thúc hợp đồng : hai bên trao đổi vốn gốc Thồng thường, tỷ giá xác định trong hợp đồng Swap để xác định giá trị danh nghĩa tương đương của hai đồng tiền là tỷ giá giao ngay tại thời điểm giao dịch Điều kiện để thực hiện nghiệp vụ Swap cũng tương tự như với nghiệp vụ kỳ hạn với đối với một số đối tượng sau : - Một doanh nghiệp lớn vừa có hoạt động xuất và nhập khẩu. Doanh nghiệp vừa nhận được khoản thu ngoại tệ về xuất khẩu. Anh ta muốn đổi ra nội tệ để sử dụng chi trả trong nước. Tuy nhiên, anh ta lại có nhu cầu trong tháng tới để trả tiền hàng nhập khẩu. Thay vì ký kết hợp đồng bán ngoại tệ giao ngay và hợp đồng mua ngoại tệ kỳ hạn, doanh nghiệp này sẽ sử dụng Swap. Như vậy, doanh nghiệp vừa đảm bảo tránh được rủi ro hối đoái vừa giảm được chi phí giao dịch phải trả cho ngân hàng khi chỉ ký kết Swap, chứ không phải hai hợp đồng riêng biệt. - Một doanh nghiệp lớn có các công ty con ở nước ngoài. Doanh nghiệp này có thể tận dụng những điều kiện vay ưu đãi trong nước, sau đó thực hiện Swap với một ngân hàng nước ngoài để dùng đồng tiền nước đó đầu tư vào công ty con của nó. - Đối với ngân hàng thương mại, Swap là công cụ hữu hiệu tạo ra trạng thái vốn của hai đồng tiền mà không làm ảnh hưởng tới trạng thái ngoại hối. Vì vậy, giao dịch này trong thực tế thường được các ngân hàng thực hiện với nhau nhằm thoả mãn nhu cầu sử dụng một đồng tiền nhất định mà không phải đi vay trên thị trường. Nghiệp vụ Swap còn giúp các ngân hàng cân bằng được sự mất cân đối về hối đoái trong các nghiệp vụ tiền gửi và tiền vay. - Nghiệp vụ hối đoái theo quyền chọn Nghiệp vụ hối đoái theo quyền chọn là một sự thoả thuận bằng hợp đồng giữa người mua và người bán về quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán một loại ngoại tệ nhất định với số lượng cụ thể theo một tỷ giá cố định vào một thời điểm cụ thể Trong hợp đồng này, người mua quyền lựa chọn phải trả cho người bán một khoản tiền đảm bảo. Thông qua đó người mua dành được quyền lựa chọn mua hoặc bán một loại ngoại tệ nào đó. Mặt khác, anh ta có từ bỏ quyền lựa chọn của mình khi thấy bất lợi. Rủi ro của người mua quyền chọn chỉ giới hạn ở số tiền cho quyền đó. Ngược lại, người bán quyền chọn thu được một khoản tiền từ việc bán quyền nhưng thành đối tác thụ động, chịu rủi ro không hạn mức khi tỷ giá biến động không thuận lợi cho anh ta.Như vậy nghiệp vụ theo quyền chọn có một số đặc điểm sau : Vào ngày đến hạn người mua quyền chọn có thể thực hiện hợp đồng đã ký hoặc huỷ bỏ hợp đồng để tận dụng tỷ giá ngoại hối có lợi tại thời điểm đó Tỷ giá trong trao đổi là tỷ giá cơ sở. Nó là tỷ giá cố định được lập ra do thoả mãn giữa khách hàng và ngân hàng Khoản phí hợp đồng do người mua quyền trả cho người bán hợp đồng quyền chọn. Như vậy, hợp đồng quyền chọn là một công cụ bảo đảm tỷ giá thực sự cho các nhà kinh doanh xuất - nhập khẩu, các nhà đầu tư. Tham gia vào thị trường quyền chọn, ngoài các ngân hàng, các nhà xuất - nhập khẩu còn có cả tổ chức kinh tế có ngoại tệ trên tài khoản, muốn tăng thu nhập bằng việc thu thêm các lệ phí quyền và chấp nhận làm đối tác thụ động hay các nhà đầu cơ tham dự với mục đích thu lợi nhuận chênh lệch 2.2.5 Ưu thế của các ngân hàng thương mại trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ - Với tư cách là một tổ chức trung gian tài chính cung cấp các dịch vụ tốt nhất cho khách hàng, NHTM thường có một hệ thống cơ sở vật chất hiện đại luôn thích ứng với nhu cầu đổi mới công nghệ như hệ thống thông tin liên lạc, các phòng... thêm vào đó là một đội ngũ nhân viên được đào tạo chuyên sâu. - NHTM giữ vị trí trung tâm trong các hoạt động thanh toán quốc tế mà hoạt động kinh doanh ngoại tệ luôn có mối quan hệ gắn bó với các nghiệp vụ này bởi cùng xuất phát từ sự ra đời và phát triển của thương mại quốc tế. Bởi vậy việc tiến hành kinh doanh ngoại tệ tại các NHTM một mặt hỗ trợ cho các hoạt động thanh toán quốc tế, mặt khác nhờ đó mà phát triển - Hệ thống NHTM được hoạt động trên phạm vi quốc tế và mối quan hệ này càng được mở rộng cũng như các hoạt động kinh doanh ngoại tệ luôn được tiến hành trên thị trường có quy mô quốc tế Những lợi thế này giúp ngân hàng có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh ngoại tệ thường xuyên, liên tục và chính xác như đòi hỏi đặt ra của thị trường hối đoái mà không một tổ chức nào có thể so sánh được. 2.2.6 Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng thương mại a. Điều kiện kinh tế xã hội - Sự quản lý vĩ mô của nhà nước Bất kỳ hoạt động kinh doanh nào trong nền kinh tế cũng chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng thương mại cũng không nằm ngoài quy luật đó. Sự quản lý vĩ mô này được thông qua hai chính sách sau: + Chính sách tỷ giá hối đoái + Chính sách tỷ giá ngoại hối Chính sách tỷ giá : Chính sách tỷ giá là một bộ phận của chính sách tiền tệ có nhiệm vụ đảm bảo và ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao bền vững. Một chính sách có hiệu quả phải đảm bảo ổn định tỷ giá trên mối tương quan cung cầu trên thị trường khuyến khích được xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ quốc gia về ngoại tệ Hoạt động kinh doanh ngoại tệ gắn liền với sự biến động tỷ giá trên thị trường vì vậy chịu ảnh hưởng gián tiếp từ chính sách tỷ giá của nhà nước. Đối với một quốc gia có hai chính sách quản lý tỷ giá như sau + Chính sách tỷ giá thả nổi : Đặc điểm cơ bản của chính sách này là việc xác định tỷ giá giữa các đồng tiền hoàn toàn do quan hệ cung cầu về các đồng tiền trên thị trường quyết định + Chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý : Với chính sách này tỷ giá giữa các đồng tiền chủ yếu do quan hệ cung cầu quyết định. Trong một số trường hợp nhất định, Nhà nước có thể can thiệp để đảm bảo mức tỷ giá không biến động lớn đột ngột ảnh hưởng tới sự phát triển nền kinh tế. Do ý nghĩa quan trọng của tỷ giá đối với nền kinh tế nên hầu hết các quốc gia hiện nay đều áp dụng chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý. Vì vậy, trong điều hành hoạt động kinh doanh ngoại tệ của mình các ngân hàng cần luôn quan tâm và tuân thủ theo các văn bản hướng dẫn của nhà nước về điều hành tỷ giá Chính sách quản lý ngoại hối quốc gia: Chính sách quản lý ngoại hối quốc gia là những quy định pháp lý những thể lệ cụ thể của nhà nước trong vấn đề quản lý ngoại tệ, vàng, bạc đá quý cũng như các chứng từ có giá trị ngoại tệ cũng như việc trao đổi sử dụng mua bán ngoại tệ trên thị trường nội địa và thanh toán quốc tế Nội dung của chính sách quản lý ngoại hối là quản lý và kiểm soát các luồng vận động của ngoại hôí từ nước ngoài vào và từ trong nước ra có liên quan đến quan hệ ngoại thương và các quan hệ kinh tế đối ngoại khác bằng ngoại tệ. Đồng thời chính sách quản lý ngoại hối cũng quản lý và kiểm soát sự lưu thông của ngoại hối ( đặc biệt là ngoại tệ ) trong phạm vi quốc gia Như vậy, một chính sách quản lý ngoại hối đúng đắn sẽ góp phần khuyến khích ngoại thương, hợp tác quốc tế thu hút đầu tư nước ngoài... từ đó sẽ thúc đẩy hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng phát triển. Trên thế giới hiện nay tồn tại song song hai chế độ quản lý ngoại hối: + Chế độ quản lý tự do : Chế độ này được áp dụng ở các nước tư bản phát triển. Nó cho phép đồng tiền quốc gia được tham gia vào thị trường quốc tế, tự do chuyển đổi ra tiền tệ nước ngoài. Việc xuất nhập khẩu tư bản, việc lưu thông ngoại tệ trên thị trường nội địa là hoàn toàn tự do. Sự vận hành và phát triển của thị trường hối đoái hoàn toàn theo cơ chế thị trường. Nhà nước chỉ tác động một cách gián tiếp thông qua các công cụ quản lý vĩ mô. Chế độ quản lý này phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế trên thế giới hiện nay, nhưng nó chỉ áp dụng ở các nền kinh tế thị trường hoàn hảo có thị trường hối đoái và các thị trường khác phát triển ở trình độ cao, đồng tiền bản tệ là đồng tiền chuyển đổi. Khi đó hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng thương mại có cơ hội phát triển, mở rộng cả quy mô và loại hình. + Chế độ quản lý chặt chẽ. Chế độ này áp dụng ở các nước đang phát triển và kém phát triển. Trong chế độ này Nhà nước quản lý chặt chẽ các luồng vận động của ngoại hối ra vào quốc gia. Trong phạm vi quốc gia việc lưu hành ngoại tệ bị giới hạn ở mức tối thiểu. Các nguồn ngoại tệ thu được của tổ chức cá nhân phải bán lại cho nhà nước thông qua hệ thống ngân hàng. Mọi nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu phải được phép của cơ quan chính phủ có thẩm quyền. Ngoại tệ không được mua bán tự do, không được mở tài khoản tại nước ngoài nếu chưa có giấy phép của thống đốc ngân hàng nhà nước. Các hoạt động kinh tế quốc gia đều phải sử dụng nội tệ. Đồng nội tệ chưa được tự do tham gia vào thị trường quốc tế Khi nền kinh tế trong giai đoạn đầu phát triển thì rất cần chính sách quản lý chặt chẽ như vậy. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM vẫn có điều kiện phát triển song bị hạn chế về quy mô loại hình do sự quản lý chặt chẽ của nhà nước. - Sự phát triển kinh tế chung của đất nước Thực tế cho thấy ở những nước có nền kinh tế phát triển, hoạt động kinh doanh ngoại tệ rất phát triển. Bởi vì hoạt động này gắn liền với những hoạt động ngoại thương, dịch vụ quốc tế, đầu tư quốc tế, chuyển giao công nghệ kỹ thuật quốc tế và nhiều hoạt động kinh tế khác. Mỗi hoạt động là một bộ phận của nền kinh tế chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Chẳng hạn như kinh nghạch xuất nhập khẩu tăng trưởng, đầu tư ra nước ngoài và đầu tư của nước ngoài vào trong nước gia tăng thì nhu cẩu về mua bán ngoại tệ, nhu cầu về tài trợ ngoại thương, nhu cầu tự bảo vệ trước rủi ro ngoại hối sẽ càng lớn nó đòi hỏi hoạt động kinh doanh ngoại tệ phát triển để đáp ứng. Ngược lại, khi kinh doanh ngoại tệ phát triển càng tạo ra điểu kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại của đất nước Ngoài ra giá trị đồng bản tệ được hậu thuẫn bằng sự phát triển kinh tế của chính quốc gia đó. Một đất nước có nền kinh tế phát triển và ổn định đồng tiền nước đó sẽ có uy tín trên thị trường tài chính thế giới, là đồng tiền có khả năng chuyển đổi. Với đồng bản tệ mạnh, thị trường hối đoái ở nước đó sẽ phát triển hoàn thiện và là cơ sở điều kiện để hoạt động kinh doanh ngoại tệ phát triển. - Các yếu tố khác : Hoạt động kinh doanh ngoại tệ có tính quốc tế. Vì thế, một nhân tố nào đó tác động đến thị trường tài chính thế giới sẽ có ảnh hưởng không nhỏ tới kinh doanh ngoại tệ của NHTM. Cụ thể như : sự ra đời của các liên minh tiền tệ khu vực hay sự xuất hiện của các đồng tiền chuẩn quốc tế khác bên cạnh đồng USD. Một ví dụ rõ ràng gần đây nhất là sự ra đời của đồng EURO - đồng tiền chung của 11 nước trong liên minh châu Âu từ ngày 1/1/99. Kim nghạch thương mại của 15 nước trong châu Âu chiếm tới 21% tổng kim nghạch thương mại thế giới, so với Mỹ là 19,6%. Như vậy vai trò độc tôn của USD trong thương mại quốc tế chắc chắn bị ảnh hưởng. Với tiềm lực kinh tế mạnh và ổn định của châu Âu, đồng EURO sẽ trở thành một đồng tiền dự trữ của thế giới và là một trong những đồng tiền chủ yếu trong thanh toán, có vị trí " ngang ngửa " với đồng USD của Mỹ và đồng JPY của Nhật. Các ngân hàng trên toàn cầu đều bị ảnh hưởng trực tiếp của sự kiện này. Các nhà kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng cần phải tính toán lại cơ cấu dự trữ ngoại tệ, cải tiến thiết bị, đào tạo nhân viên thích ứng với điều kiện mới này. Trên đây là tổng hợp các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM. Các yếu tố đều có mối quan hệ hữu cơ với nhau, chúng tác động đồng thời với những ảnh hưởng khác nhau lên hoạt động này. Các nhà ngân hàng cần nắm bắt các yếu tố ảnh hưởng trên để có thể điều hành hoạt động kinh doanh ngoại tệ đúng luật và có hiệu quả nhất. - Các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh ngoại tệ a. Ngân hàng Khả năng của ngân hàng Hoạt động kinh doanh ngoại tệ trước hết đòi hỏi chi phí cho thiết bị văn phòng rất lớn : trang bị máy tính, nối mạng thông tin, chi phí cho tất toán nghiệp vụ và giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh này. Vì vậy, nếu ngân hàng không có nhiều khách hàng giao dịch và kinh doanh nghiệp vụ liên ngân hàng không suôn sẻ thì các chi phí hoạt động này của ngân hàng sẽ ảnh hưởng đáng kể tới lợi nhuận của ngân hàng. Ngân hàng sẽ không thể phát triển hoạt động kinh doanh này. Mặt khác, trong kinh doanh ngoại tệ, ngoài trình độ nghiệp vụ cao các nhân viên ngân hàng càng phải luôn linh hoạt và nhạy bén, tính toán chính xác và thận trọng. Họ cũng phải biết kiến thức ngoại ngữ tốt đặc biệt là tiến Anh, vì công việc này đòi hỏi phải có quan hệ thường xuyên với nước ngoài. Như vậy, trình độ của cán bộ kinh doanh ngoại tệ cũng ảnh hưởng lớn tới hoạt động của ngân hàng Chính sách của ngân hàng Bất kỳ hoạt động nào của ngân hàng cũng chịu ảnh hưởng lớn của những đường lối chiến thuật và mục tiêu đề ra của bản thân ngân hàng. Nếu một ngân hàng có chính sách mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ như áp dụng các điểu kiện ưu đãi về tỷ giá, về chi phí giao dịch... đầu tư vào trang thiết bị máy móc hiện đại, đầu tư nâng cao trình độ nhân viên kinh doanh ngoại tệ... chắc chắn ngân hàng sẽ thu hút thêm được nhiều khách hàng và hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng sẽ phát triển. Sự phát triển của các hoạt động có liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng Mọi hoạt động của ngân hàng đều có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Chúng được coi như từng bộ phận của một cỗ máy hoàn chỉnh mà nó chỉ hoạt động tốt khi tất cả các bộ phận đều hoạt động tốt. Từng bộ phận sẽ tạo điều kiện cho nhau hoàn thành công việc của mình và thúc đẩy nhau cùng phát triển Đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ, có hai lĩnh vực hoạt động hoạt động có liên quan mật thiết với nhau là cho vay ngoại tệ và thanh toán quốc tế. + Cho vay ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá hay để sản xuất thu gom hàng xuất khẩu thì cuối cùng đều phát sinh nghiệp vụ mua bán ngoại tệ. Ngân hàng cần mua ngoại tệ để thanh toán L/C đến hạn, khách hàng khi đến hạn phải mua ngoại tệ để trả nợ tiền vay ; doanh nghiệp xuất khẩu cần bán ngoại tệ để lấy nội tệ tiêu dùng trong nước. + Thanh toán quốc tế thực hiện thanh toán tiền hàng cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Doanh nghiệp nhập khẩu phải mua ngoại tệ để trả tiền hàng nước ngoài, doanh nghiệp xuất khẩu cẩn bán ngoại tệ từ nguồn thu xuất khẩu như vậy đều phát sinh nghiệp vụ mua bán ngoại tệ. + Như vậy có thể nói tại một ngân hàng có các hoạt động như : Cho vay ngoại tệ, thanh toán quốc tế... phát triển mạnh thì tất yếu dẫn đên sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Ngoài ra còn có một số yếu tố khác ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng như : mức độ thâm niên của ngân hàng, địa thế của ngân hàng,...Một ngân hàng có mức độ thâm niên cao có uy tín tổng hợp các dịch vụ cung ứng tốt và đa dạng lại có trụ sở thuận tiện thì chắc chắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến giao dịch. b. Khách hàng Cũng như trong bất kỳ hoạt động kinh doanh nào của ngân hàng thương mại khách hàng có ảnh hưởng trực tiếp tới kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng Ví dụ trong việc tạo nguồn, nếu ngân hàng có nhiều khách hàng xuất khẩu có nguồn thu ngoại tệ lớn và ổn định thì đây là điều kiện rất thuận lợi cho ngân hàng để có nguồn vốn ngoại tệ trực tiếp. Nguồn này rõ ràng có chi phí thấp hơn so với việc huy động từ các NHTM khác hoặc mua trên thị trường. Hoặc, để hoạt động tín dụng ngoại tệ của ngân hàng có hiệu quả, trước hết khách hàng - doanh nghiệp phải có được những dự án sinh lời. Sau đó chữ tín của doanh nghiệp trong vay trả nợ ngân hàng cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngoại tệ. Còn hoạt động mua bán ngoại tệ theo nghiệp vụ khách hàng cũng xuất phát từ nhu cầu khách hàng. Số lượng khách hàng, quy mô của khách hàng tham gia vào thương mại quốc tế có lớn hay không để tạo nên sự sôi động của hoạt động này trong ngân hàng. Như vậy, khách hàng của ngân hàng có một ý nghĩa quan trọng với việc mở rộng, phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ trong ngân hàng. 2.2.7 Một số rủi ro mà ngân hàng thương mại thường gặp phải trong kinh doanh ngoại tệ. Sự khác biệt giữa các ngoại tệ khác nhau dẫn đến sự chênh lệch giữa tài sản và nguồn vốn của ngân hàng bằng ngoại tệ, các khoản cho vay, các khoản nợ bằng ngoại tệ cũng như các đồng ngoại tệ vào. Sự giao động của tỷ giá bắt nguồn từ sự phát triển củâ hoạt động đầu cơ, nhu cầu phòng tránh rủi ro tài chính. Quản lý rủi ro hối đoái của ngân hàng liên quan tới hoạt động của các nhân viên hối đoái, hoạt động quản lý của khách hàng cũng như quản lý rủi ro của bản thân ngân hàng từ các giao dịch thương mại và tài chính, từ tài sản và nguồn vốn a) rủi ro về tỷ giá: Tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền các nước luôn biến động trên thị trường do nhiều nguyên nhân như cán cân thanh toán, chính sách thuế quan, năng suất lao động, tình hình kinh tế, chính sách xã hội của mỗi nước. Do việc các biến cố thay đổi là khó lường trước được chính xác nên dẫn đến việc mua bán ngoại tệ của các ngân hàng gặp rủi ro, thậm chí là rủi ro rất lớn. Rủi ro tỷ giá xảy ra khi một " vị thế " được tạo ra, ví dụ một ngân hàng mua của một khách hàng hay của một ngân hàng nào đó một lượng USD với tỷ giá nhất định thì cho đến lúc bán lại khối lượng này thì ngân hàng mới hết lo lắng về tỷ giá. Rủi ro chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian cho đến khi " vị thế " được san bằng. Rủi ro sẽ tăng lên theo thời gian mà " vị thế " này tồn tại, nhưng nó quan trọng ngay cả khi khoảng thời gian giữa lúc hình thành và khoá sổ " vị thế " này, thậm chí trong vòng 1 phút. " Vị thế " đề cập ở trên chính là trạng thái ngoại hối, cho dù trạng thái trường ( long possition ) hay trạng thái đoản ( short possition ) thì ngân hàng cũng bị rủi ro về tỷ giá. b. Rủi ro tín dụng Rủi ro đầu tiên là rủi ro phát sinh khi các bên tham gia gặp khó khăn về tài chính, sự thua lỗ của các bên đối tác có thể xảy ra trong thời hạn hợp đồng, ít nguy hiểm hơn là rủi ro phát sinh vào ngày tới hạn. Trong trường hợp này, người quản lý ngân quỹ hy vọng có một nguồn tiền vào để thay thế vào ngày hết hạn hợp đồng. Rủi ro tín dụng nghiêm trọng hơn là trong trường hợp bên tham gia hợp đồng cũng là ngân hàng phá sản vào ngày đến hạn thanh toán và sau khi các bước đầu tiên của giao dịch đã hoàn tất. Do sự khác nhau về múi giờ giữa các trung tâm tài chính, bên tham gia sẽ chuyển tiền tương đương cho bạn hàng vào giờ làm việc quy định trong khi bạn hàng đó tuyên bố phá sản trước khi mở phiên giao dịch để thay thế giao dịch đó. Điều này dẫn tới tổn thất 100%bên liên quan. Rủi ro này sẽ được giảm bớt nếu có một sự hạn chế giao dịch với từng khách hàng ,sau khi tìm hiểu về khách hàng đó bằng cách thiết lập các điều khoản huỷ bỏ hợp đồng nếu tình hình tài chính của bên đối tác giảm sút cũng như đòi hỏi một khoản bảo hiểm theo tỷ lệ phần trăm nhất định tuỳ theo mức độ tín nhiệm. Ngân hàng quản lý các quy định quốc tế thì cho rằng việc áp dụng các quy định chung về vốn tự có để tránh rủi ro trên thị trường là một trong các biện pháp để xác định trạng thái ngoại tệ cẩn có trong các nghiệp vụ phát sinh . Có thể nói thêm ở đây một loại rủi ro về chủ quyền của một nước, nước đó là rủi ro chính trị nếu chính phủ của một quốc gia có các lý do tài chính hoặc chính trị đã can thiệp vào để gây khó khăn cho các khoản trả nợ. Đặc biệt rủi ro xảy ra khi mà nước đối tác là một nước có đồng tiền ít được giao dịch, chỉ có duy nhất ngân hàng trung ương có giao dịch hối đoái. Ví dụ, một công ty cần có một lượng bản tệ nhất định để trả một khoản vay ngoại tệ nhưng NHTƯ không cho phép thì việc hoàn trả khoản vay sẽ không thực hiện được bằng ngoại tệ dự kiến. Vì vậy, hạn mức hối đoái đặt ra cho giao dịch ngoại tệ đối với từng quốc gia tuỳ theo điểu kiện cụ thể của nước đó là một giải pháp cần thiết. c. Rủi ro tính lỏng Rủi ro này là rủi ro về luân chuyển vốn ngân hàng có thể gặp rủi ro này bởi vì nhân viên kinh doanh ngoại tệ đầu tư các khoản vốn với thời hạn dài hạn của các khoản cho vay đó. Khi có sự luân chuyển vốn không phù hợp về thời gian đáo hạn, tỷ lệ lãi suất có thể tăng và do đó ngân hàng sẽ bị lỗ, ngược lại, lãi suất giảm thì nhân viên kinh doanh đã đem lại khoản lãi cho ngân hàng. Giải pháp của ngân hàng là phải nắm vững thông tin, có kế hoạch luân chuyển nhiều nguồn ngoại tệ khác nhau để đảm bảo luôn có thể thanh toán vào thời điểm thanh toán của từng loại ngoại tệ cụ thể. d. Rủi ro căn bản Rủi ro này xảy ra khi ngân hàng hoạt động trên thị trường giao sau bởi có rủi ro giữa sự chênh lệch tỷ giá giao sau với tỷ giá giao ngay vào thời điểm tới hạn hợp đồng giao sau. Trong hợp đồng mua ngoại tệ, nếu tỷ giá giao ngay trong tương lai lớn hơn tỷ giá trong hợp đồng thì ngân hàng sẽ được lợi, còn ngược lại ngân hàng sẽ chịu một khoản lỗ. Rủi ro này là rủi ro của thị trường mà ngân hàng không thể tránh khỏi. Nó sẽ được hạn chế nếu ngân hàng có hệ thống thu thập thông tin và xử lý, đưa ra các dự đoán về tỷ giá sát vơí thực tế. Tuy nhiên, ngân hàng vẫn luôn phảỉ lập một quỹ phòng ngữa để bù đắp những thiệt hại do rủi ro này gây ra. Thực tiễn đã cho thấy, công tác quản lý rủi ro hối đoái đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM. Tăng cường quản lý rủi ro hối đoái sẽ thúc đẩy hoạt động của ngân hàng trên thị trường hối đoái có hiệu quả hơn, kinh doanh có lãi, bảo toàn vốn và giảm thiểu rủi ro. Chương 2 : Thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng Ngoại thương Hà nội 1. Tình hình chung tác động tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ của hệ thống NHTM Việt Nam . 1.1 Những tác động tích cực . Trong giai đoạn đầu mở cửa của nền kinh tế nước ta hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM là một trong những lĩnh vực hoạt động ngân hàng chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà nước . Bởi vì hoạt động này rất " nhạy cảm " với hàng loạt chỉ số quan trọng của nền kinh tế như tỷ giá hối đoái , lạm phát , lãi suất ... Từ đó ảnh hưởng lớn đến thu nhập quốc dân , thu nhập quốc dân theo đầu người . Mặt khác , khi mà hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM Việt Nam chủ yếu xuất phát từ việc đáp ứng nhu cầu khách hàng thì kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng năm , lượng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cũng có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng tới hoạt động này . Bối cảnh chung của nền kinh tế - xã hội với tác động của nó tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ của hệ thống NHTM Việt Nam được xem xét trên các mặt sau : 1.1.1 Những thành tựu của nền kinh tế sau hơn 15 năm đổi mới . Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam (12/1986) được coi như điểm mốc đánh dấu một giai đoạn phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam từ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN với chính sách mở cửa nền kinh tế , từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực vào thế giới , nền kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ và thực sự đạt được những thành tựu đáng kể sau : Những thành công trong quan hệ đối ngoại Năm 1995 ba sự kiện nổi bật về lĩnh vực đối ngoại đánh dấu những thành công ngoại giao đầu tiên của nước ta : Thứ nhất , nước CHXHCN Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ với Mỹ . Sự kiện này chấm dứt những năm tháng Việt Nam bị bao vây cô lập một cách phi lý , tạo ra những điều kiện thuận lợi cho đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và thương mại quốc tế của Việt Nam phát triển . Thứ hai , nước ta ký kết hiệp định khung hợp tác với liên minh châu Âu , mở ra thị trường mới với nhiều đối tác mới cho các doanh nghiệp Việt Nam trong kinh doanh . Thứ ba , đó là sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN . ASEAN là khu vực kinh tế năng động , có nhịp độ tăng trưởng cao trên thế giới . Cùng với việc gia nhập ASEAN , Việt Nam cũng tham gia khối mậu dịch tự do của ASEAN là AFTA và ký kết hiệp định thuế quan CEPT . AFTA với mục tiêu tự do hoá thương mại trong ASEAN bằng việc xoá bỏ các hàng rào thuế quan và rào cận phi thuế quan sẽ đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu trong khu vực . Đồng thời bằng việc đưa ra một khối thị trường thống nhất , ASEAN sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực . Đó chính là cơ hội mới cho Việt Nam trong phát triển thương mại quốc tế và thu hút đầu tư nưỡc ngoài . Kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng Cùng với chính sách mở cửa nền kinh tế , tận dụng những lợi thế so sánh của quốc gia trong xuất khẩu và khai thác những ưu thế từ bên ngoài trong nhập khẩu để phát triển kinh tế xã hội . Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng nhanh qua các năm . Trong giai đoạn 1990 - 1997 , kim ngạch xuất khẩu tăng trung bình trên 20% năm . Nhu cầu nhập khẩu cũng tăng rất nhanh . Có những kỳ , việc đáp ứng ngoại tệ cho thanh toán nhập khẩu khiến cho một số ngân hàng phải lao đao . Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực và thế giới , năm 1999 kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam tăng trưởng chậm lại . Song với chủ trương của nhà nước ta khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất , kinh doanh hàng xuất khẩu , cải cách thủ tục xuất nhập khẩu , cải cách hệ thống thuế XNK ... cùng với xu hướng hội nhập kinh tế Việt Nam trong khu vực và thế giới , hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta sẽ có những chuyển biến tích cực và tăng trưởng mạnh trong tương lai. Đầu tư nước ngoài gia tăng . Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành ngày 29/12/1987 , tạo những cơ sở pháp lý cơ bản đầu tiên cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam . Từ đó đến nay , Việt Nam luôn được coi là một trong những nước có điều kiện khá thuận lợi cho đầu tư nước ngoài : nguyên liệu và nhân công tại chỗ , giá rẻ , cùng với những nỗ lực của chính phủ Việt Nam trong chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài giữa giá thuê đất đai , cho phép chuyển lợi nhuận về nước , tổ chức các buổi gặp gỡ kiến nghị giữa chính phủ và các nhà đầu tư . Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã liên tục gia tăng . Số dự án và số vốn đăng ký tăng nhanh qua các năm . Như vậy , hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài gia tăng tại Việt Nam đã và đang đã tạo ra những điểu kiện thuận lợi đồng thời là những thách thức cho sự phát triển của hoạt động kinh doanh ngoại tệ ở các NHTM ở Việt Nam nói chung và hệ thống NHNT Việt Nam nói riêng . Nhu cầu ngoại tệ ngày càng lớn của khách hàng đang phát triển tương ứng cả về quy mô lẫn chất lượng . Song , không phải ngân hàng nào cũng có thể thoả mãn nhu cầu đó , bởi vì hoạt động này đòi hỏi một sự đầu tư rất lớn cả về công nghệ và nhân lực . Nó thách thức các NHTM Việt Nam trong cạnh tranh thu hút khách hàng và tăng cao lợi nhuận cho ngân hàng . 1.1.2 Cải cách cơ cấu tổ chức , đổi mới quản lý trong hệ thông ngân hàng Việt Nam Cải cách cơ cấu tổ chức và quản lý . Bước vào thời kỳ đổi mới , hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có những chuyển biến sâu sắc cả về tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động . Nghị định 53 / HĐBT ngày 23/03/1988 và pháp lệnh ngân hàng ra đời bước đầu đã quán triệt các nguyên tắc kinh tế thị trường trong tổ chức , vận hành hệ thống ngân hàng . Cụ thể là thiết lập một hệ thống ngân hàng theo mô hình hai cấp , tách chức năng kinh doanh của NHTM với chức năng quản lý vĩ mô trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng và ngân hàng và NHNN , NHNN thực hiện chức năng cả ngân hàng Trung ương , chấm dứt các nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ . Các NHTM đóng vai trò các doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán độc lập , tự chịu trách nhiệm đối với hoạt động kinh doanh của mình . Hoạt động kinh doanh của NHTM thực sự đã chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước . Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước , ngành ngân hàng đã đổi mới từng bước công nghệ ngân hàng cả về kỹ thuật và trình độ , kiến thức cán bộ . Các định chế quy chế hệ thống luật mới được ban hành để điều chỉnh hoạt động ngân hàng trong điều kiện mới . Trong đó hoạt động kinh doanh ngoại tệ đã trở thành một hoạt động không thể thiếu được của các NHTM . Vì vậy , các NHTM Việt Nam phải đổi mới cơ cấu tổ chức ngân hàng , đổi mới công nghệ , nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ ngân hàng . Điều đó tạo ra sức ép về vốn đối với nhiều ngân hàng hiện nay . Đặc biệt , tháng 12/1997 , hai Luật ngân hàng là " Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam " và " Luật các tổ chức tín dụng " đã được Quốc hội thông qua ngày 1/1/1998 đã có hiệu lực thi hành . Điều đó thể hiện sự quan tâm của nhà nước Việt Nam trong việc hoàn thiện môi trường pháp lý , luật pháp hoá hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế . Đối với các NHTM , " Luật các tổ chức tín dụng " tạo ra hành lang pháp lý cơ bản , tạo điều kiện hoạt động an toàn bình đẳng giữa các thành viên , đồng thời hội nhập được với khu vực và thế giới . Đổi mới quản lý vĩ mô , đặc biệt trong lĩnh vực quản lý ngoại hối và hoạt động kinh doanh ngoại tệ Cơ chế điều hành Tỷ giá hối đoái thể hiện mối tương quan giá trị giữa các đồng tiền khác nhau nên nó được coi là " tâm " của mọi hoạt động kinh doanh ngoại tệ . Vì vậy cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái là một trong các yếu tố quan trọng tác động tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM . Kể từ năm 1986 , cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái của nhà nước ta đã có những " "thay đổi căn bản " , có thể chia thành ba giai đoạn . Giai đoạn 1986 - 1988 , Việt Nam thi hành chế độ đa tỷ giá mang nặng tính quan liêu bao cấp . Tỷ giá hối đoái được nhà nước trực tiếp xác định mà không tính đến cung cầu trên thị trường , mang tính chất cố định giữa đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ theo 3 loại tỷ giá khác nhau : Tỷ giá mậu dịch , tỷ giá phi mậu dịch và tỷ giá kết toán nội bộ . Chính cơ chế này làm cho doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ không muốn bán cho ngân hàng mà bán ra ngoài tạo nên thị trường chợ đen mua và bán ngoại tệ với tỷ giá rất chênh lệch so với tỷ giá của nhà nước mà nhà nước không thể kiểm soát được . Giai đoạn 1989 - 1998 : Trước tình hình trên ngày 3/3/1989 chủ tịch hội đồng bộ trưởng ra chỉ thị số 43/CT , đã xoá bỏ chế độ đa tỷ giá , duy trì chế độ một tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ khác áp dụng trong mọi hình thức thanh toán giữa ngân hàng và khách hàng . Tỷ giá này sẽ được điều chỉnh thường xuyên sát với thị trường . Cụ thể hơn , đến ngày 20/9/1994 , quyết định số 205/QĐNH7 của Thống đốc NHNN quy định việc điều tiết tỷ giá như sau : NHNN công bố hàng ngày tỷ giá chính thức của đồng Việt Nam với một số ngoại tệ trên các phương tiện thông tin đại chúng . Tỷ giá này được các TCTD có giấy phép kinh doanh ngoại tệ dùng làm cơ sở để xác định tỷ giá giao dịch trong một biên độ nhất định . Biên độ này được NHNN điều chỉnh qua các thời kỳ , phù hợp với chính sách tỷ giá hối đoái của NHNN . Như vậy , bằng việc điều chỉnh một cách linh động biên độ giao dịch cho phép , NHNN có thể điều tiết tỷ giá khá linh hoạt , thực hiện mục tiêu ổn định đồng tiền Việt Nam , ổn định môi trường kinh tế xã hội , hướng theo mục tiêu hỗ trợ xuất khẩu . Tuy nhiên , NHNN không thể thay đổi biên độ dao động tỷ giá cho phép hàng ngày được trong khi việc thực thi chính sách tiền tệ , chính sách tỷ giá hối đoái đòi hỏi phải điều hành hàng ngày . Hơn nữa , tỷ giá chính thức trong giai đoạn này đã thể hiện rõ tính hành chính của nó . Tỷ giá giao dịch ngoại tệ thực tế trên thị trường có tổ chức hầu như tách rời tỷ giá chính thức ở mức độ tối đa cho phép . Tất cả các đợt điều chỉnh tăng biên độ hay tỷ giá chính thức đều có chung một xu thế là sự giảm đến mức tối đa cho phép của tỷ giá đồng Việt Nam . Giai đoạn từ 25/2/1999 đến nay. Quyết định số 64/1991/QĐ-NHNN đã được ban hành , đã đánh dấu một sự thay đổi về chất trong cơ chế điều tiết tỷ giá của nước ta - điều tiết trên cơ sở thị trường . Theo quyết định này , NHNN công bố giao dịch tỷ giá bình quân hàng ngày trên cơ sở giá trị thực tế bình quân hình thành ở thị trường liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất . Cơ chế này không có nghĩa là tỷ giá hoàn toàn thả nổi . NHNN quy định tỷ giá giao dịch trên thị trường có tổ chức hàng ngày bị khống chế trong biên độ là 0,1% so với tỷ giá bình quân do NHNN công bố . Như vậy , cơ chế điều tiết tỷ giá mới đã thể hiện đúng nguyên tắc : Điều tiết theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước . Tỷ giá công bố đã phản ánh trung thực tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ có tổ chức ( chiếm 90% doanh số hoạt động ngoại tệ trong nền kinh tế ) việc khống chế biến động của tỷ giá sẽ giúp đồng Việt Nam tránh được những biến động đột xuất có thể gây ra tâm lý sùng bái ngoại tệ còn cao của nền kinh tế nước ta hiện nay . Với chính sách điều hành tỷ giá mới này sẽ giúp cho các TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ để xác định được tỷ giá mua bán ngoại tệ sát với cung cầu thị trường , có sự chủ động trong hoạt động kinh doanh , từ đó điều hành được nó theo đúng nghĩa . Thực tế sau khi áp dụng quyết định mới , việc mua bán ngoại tệ giữa các NHTM , giữa ngân hàng với khách hàng được thực hiện thuận lợi . Tỷ giá ngoại tệ giữa thị trường tự do và do NHNN công bố đã ít chênh lệch . Việc công bố một tỷ giá này là phù hợp với thông lệ quốc tế và phù hợp với chế độ hạch toán kinh tế . Nó sẽ thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng và làm cho hoạt động này "Xích lại " gần hơn với trình độ khu vực và thế giới . Chính sách quản lý ngoại hối của nhà nước Chính sách quản lý ngoại hối của nhà nước theo tinh thần đổi mới được thiết lập bằng " Điều lệ quản lý ngoại hối của nước CHXHCN Việt Nam " ban hành kèm theo nghị định số 161- HĐBT ngày 18/10/1988 của Hội đồng bộ trưởng . Văn bản này được xem như là một văn bản pháp quy về quản lý ngoại hối đầu tiên của nhà nước ta trong công cuộc đổi mới đất nước , với mục đích bảo vệ độc lập chủ quyền về tiền tệ , thống nhất quản lý và kinh doanh ngoại hối , góp phần củng cố và mở rộng các quan hệ kinh tế , chính trị , văn hoá với nước ngoài . Từ đó đến nay liên tục có những văn bản mới điều chỉnh , bổ sung nhằm hoàn thiện hơn các quy định về quản lý ngoại hối của Việt Nam như : Nghị định số 63 / 1998 NĐ - CP ngày 17/8/1998 của chính phủ về quản lý ngoại hối và thông tư số 01/1999/NHNN ngày 15/4/1999 hướng dẫn thi hành Quyết định số 173 /1998/QĐ - TTg ngày 12/9/1998 về nghĩa vụ bán quyền mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức . Quyết định số 232/1998 QĐ - TTg ngày 1/12/1998 về việc sửa đổi khoản 1 và 2 Điều 1 quyết định số 173/1998/QĐ - TTg . Quyết định số 37/QĐ/TTg ngày 14/2/1998 của thủ tướng chính phủ về một số biện pháp quản lý ngoại tệ . Cơ chế quản lý ngoại hối từng bước được sửa đổi , bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn kinh tế . Hiện nay Việt Nam thi hành chế độ quản lý chặt chẽ đối với những nội dung chính sau : - Nhà nước thực hiện thống nhất quản lý và kinh doanh ngoại hối thông qua NHNN Việt Nam và chịu sự quản lý của NHNN trong lĩnh vực này là các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ . Ngoài các ngân hàng này còn có một số ít cá nhân , đơn vị được thu ngoại tệ do đặc điểm kinh doanh riêng , nhưng phải có giấy phép của NHNN . Nhà nước nghiêm cấm việc lưu thông ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam . - Quy định về mua bán và gưỉ ngoại tệ tại ngân hàng : Mọi nguồn thu ngoại tệ của các tổ chức , đơn vị kinh tế đều phải gửi vào một tài khoản tiền gửi ngoại tệ mở tại ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ tại Việt Nam , được giữ lại một phân số ngoại tệ trên tài khoản ( 20% nguồn thu vãng lai ) , còn lại toàn bộ phải bán cho ngân hàng . Khi đơn vị có nhu cầu , ngân hàng có trách nhiệm bán lại cho đơn vị tối thiểu bằng số ngoại tệ đã mua của đơn vị . Mọi giao dịch mua bán vay mượn ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam nhất thiết phải có sự tham gia của ngân hàng với tư cách là người mua người bán hoặc người tài trợ . - Quy định về việc mở tài khoản tại nước ngoài . Các đơn vị tổ chức có ngoại tệ ở Việt Nam muốn được mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài phải có giấy phép của NHNN Việt Nam . Các đối tượng này rất hạn chế , chỉ bao gồm : các ngân hàng , công ty tài chính , các đơn vị thuộc ngành hàng không , hàng hải , bưu điện , bảo hiểm , một số đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài . Như vậy , chính sách quản lý ngoại hối của nhà nước trong thời gian qua tạo điều kiện tập trung hầu hết các nhu cầu về ngoại tệ qua hệ thống ngân hàng . Từ đó hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM trở nên phần nào thuận lợi và sôi động qua việc mua bán thường xuyên với khách hàng , với các ngân hàng bạn , qua xử lý trạng thái ngoại tệ thừa , thiếu so với mức mong muốn mỗi khi có một nghiệp vụ mua bán phát sinh qua cân đối vốn nội tệ và ngoại tệ ... Hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng : Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ( TTNTLNH ) được thành lập theo " Quy chế tổ chức và hoạt động của TTNTLNH " ban hành theo Quyết định số 203 QĐ - NH 13 của Thống đốc NHNN ngày 20/9/1994 . TTNTLNH do NHNN tổ chức và điều hành đã chính thức đi vào hoạt động từ 15/10/1994 cho tới nay . Mục đích của việc thành lập TTNTLNH là nhằm hình thành thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức , làm cơ sở cho việc triển khai thị trường hối đoái hoàn chỉnh ở Việt Nam . Hiện nay , lượng ngoại tệ giao dịch trên TTNTLNH đã chiếm tới 90% tổng số giao dịch của cả nước , thị trường đóng vai trò quan trọng trong việc xác định tỷ giá thị trường giữa các NHTM . Qua TTNTLNH , các NHTM đã đáp ứng được nhu cầu mua bán ngoại tệ của mình , từ đó đẩy mạnh hoạt động kinh doanh đối ngoại và thanh toán quốc tế . Khi mới thành lập chỉ có 23 thành viên tham gia thị trường . Đến nay đã có tới trên 60 thành viên khiến cho hoạt động của thị trường sôi động lên nhiều nhất là có sự tham gia của nhiều ngân hàng liên doanh như City Bank , Standart Charted ... Gần đây , với quy chế mới " Quy chế tổ chức và hoạt động của TTNTLNH " ban hành kèm theo Quyết định số 101/1999/QĐ - NHNN 13 ngày 26/3/1999 của Thống đốc NHNN , đã có những quy định rộng hơn về điều kiện thành viên tham gia thị trường , về loại đồng tiền được sử dụng trong giao dịch , về các loại hình giao dịch , lượng ngoại tệ giao dịch ... đây chính là điều kiện thuận lợi cho nhiều chi nhánh ngân hàng lớn tham gia vào thị trường này , mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ của mình . 1.2 Những khó khăn và thách thức Bối cảnh cạnh tranh gay gắt trong nước Hiện nay , trên địa bàn Thành phố Hà nội cũng như một số thành phố lớn khác , các NHTM đã bước vào môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt . Tính đến hết năm 1997 , Việt Nam đã có 4 ngân hàng liên doanh , 24 chi nhánh ngân hàng nước ngoài , 1 công ty cho thuê tài chính và hai công ty liên doanh trong lĩnh vực này , gần 76 văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài của gần 30 quốc gia và vùng lãnh thổ . Hầu hết các ngân hàng nước ngoài đến hoạt động ở nước ta đểu nằm trong 500 ngân hàng lớn nhất thế giới . Sự xuất hiện của các ngân hàng trên với kỹ thuật công nghệ hiện đại trình độ nhân viên cao có kinh nghiệm tạo ra những sức ép cạnh tranh rất lớn cho các NHTM Việt Nam , nhất là trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ - một hoạt động có tính truyền thống và là thế mạnh của các ngân hàng nước ngoài . Hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập Mặc dù cho đến nay , sau hơn 15 năm đổi mới chúng ta đã đạt được một số thành tựu nhất định trong lĩnh vực xây dựng và củng cố hệ thống pháp luật như việc ban hành và công bố hàng loạt các luật , các văn bản luật cũng như là văn bản dưới luật có liên quan đến hoạt động của ngân hàng như : Luật đầu tư nước ngoài , Luật NHNN , Luật các TCTD , các văn bản có tính hướng dẫn có liên quan ... tạo ra một hành lang pháp lý cho các hoạt động của các NHTM , giúp các NHTM yên tâm hơn trong hoạt động của mình . Tuy nhiên do mới được ban hành và chúng ta đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nên những văn bản pháp luật nêu trên sẽ không tránh khỏi những sai sót , vướng mắc , mâu thuẫn trong quá trình thực hiện .. và trong thời gian tới chắc chắn nhà nước sẽ tiếp tục ban hành và chỉnh sửa các điều luật của mình . Từ đó sẽ gây ra không ít khó khăn cho các hoạt động của các NHTM nói chung và hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM nói riêng , trong đó có ngân hàng Ngoại thương Hà nội . Những biến đổi trên thị trường tài chính khu vực và thế giới Cuộc khủng hoảng tài chính khu vực bùng nổ từ tháng 7/1997 đã gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM Việt Nam trong 2 năm 1997 & 1998 . Tâm lý sùng bái ngoại tệ mạnh , đặc biệt là USD gây khó khăn trong việc huy động nguồn vốn của các NHTM . Các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ cũng không muốn bán mà tìm cách để không phải bán ngoại tệ cho ngân hàng . Tỷ giá hối đoái không ổn định khiến cho giao dịch ngoại tệ giữa các NHTM giảm hẳn , cung cầu ngoại tệ trên TTNTLNH thường mất cân đối . Cuộc khủng hoảng còn tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu , đầu tư nước ngoài vào Việt Nam - là những yếu tố trực tiếp ảnh hưởng tới doanh số kinh doanh ngoại tệ của của các ngân hàng . Ngoài ra một sự kiện nổi bật trên thị trường tài chính quốc tế đầu năm 1999 đó là sự ra đời của đồng tiền chung châu Âu ( đồng EURO ) , cũng có tác động không nhỏ tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM . Hiện nay Liên minh châu Âu l à một đối tác quan trọng của Việt Nam trong hoạt động ngoại thương . Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với EU chiếm khoảng 12 - 14 % tổng kim ngạch hàng năm . Như vậy các ngân hàng nên đa dạng hoá đồng tiền giao dịch , trong đó chú ý tới tỷ trọng của đồng EURO - đồng tiền chung của 11 nước châu Âu hiện nay và trong tương lai là 15 nước . Cơ cấu dự trữ ngoại tệ của các NHTM cũng nên thay đổi , tránh phụ thuộc quá nhiều vào đồng USD 2 . Vài nét khái quát về ngân hàng Ngoại thương Hà nội 2.1 Sự ra đời và phát triển của ngân hàng Ngoại thương Hà nội Ngân hàng Ngoại thương Hà nội ra đời theo quyết định số 177/NH QĐ ngày 22/12/1984 của Tổng giám đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam thành lập chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Hà nội và chính thức hoạt động từ ngày 1/3/1985 bao gồm 5 phòng : - Phòng kế hoạch và tín dụng - Phòng thanh toán quốc tế - Phòng kế hoạch tài vụ - Phòng hành chính nhân sự - Tổ quỹ tiền mặt và bàn thu đổi ngoại tệ tại sân bay quốc tế Nội bài .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28243.doc
Tài liệu liên quan