Đề tài Giải pháp tiếp tục quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển nhằm tăng cường đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư

(3) Tiếp tục thực chấn chỉnh, quản lý đầu tư và xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước; rà soát lại chủ trương đầu tư và hiệu quả đầu tư đối với một số dự án lớn còn nhiều ý kiến khác nhau để xác định hướng xử lý. Các cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư phải soát xét và chịu trách nhiệm đối với các công trình đang xây dựng và dự định khởi công để bảo đảm hiệu quả đầu tư, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải; kiên quyết không quyết định đầu tư đối với các công trình chưa chắc chắn về nguồn vốn. Trên cơ sở đó, phân loại các dự án cần ra quyết định tạm dừng hoặc chấm dứt đầu tư theo các nguyên tắc sau: - Đối với các dự án đang chuẩn bị đầu tư, thẩm định lại các phương án đầu tư, xem xét lại các yêu cầu về quy hoạch, kỹ thuật, công nghệ, thị trường. nếu xét thấy việc đầu tư không mang lại hiệu quả thiết thực thì không quyết định đầu tư. - Đối với các dự án đang đầu tư, rà soát, tính toán cần thiết phải sửa đổi, bổ sung giải pháp kỹ thuật, thay đổi quy mô, công nghệ cho phù hợp nhằm đảm bảo tính hiệu quả của dự án, nếu xét thấy việc tiếp tục đầu tư không hiệu quả thì phải kiên quyết dừng đầu tư. - Trường hợp các dự án đầu tư xét thấy không hiệu quả nhưng vẫn tiếp tục được đầu tư dẫn đến không thu hồi được vốn, không trả được nợ vay thì người quyết định cho phép tiếp tục đầu tư phải bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật tùy theo mức độ vi phạm hoặc xử lý trách nhiệm hình sự nếu gây hậu quả nghiêm trọng.

doc53 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1344 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp tiếp tục quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển nhằm tăng cường đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n số kinh phí thực hiện dự án và hiệu quả cuối cùng. Đối với các dự án có nguồn vốn Ngân sách Nhà nước cần tuân thủ các khâu do Nhà nước quy định như thiết kế kỹ thuật, tổng mức dự toán sau khi được thống nhất cần trình cơ quan quản lý Nhà nước thẩm định, phê duyệt. Đối với các dự án có sự tham gia của nguồn vốn nước ngoài cần có sự thoả thuận, bàn bạc giữa các bên liên quan trong việc lựa chọn nhà thầu, tổ chức đấu thầu bởi nguồn vốn khác nhau thì các quy định pháp lý của Nhà nước áp dụng cho từng đối tượng cũng là rất khác nhau. 2.1.3.Thi công xây lắp công trình Trong giai đoạn thi công, xây lắp công trình có những công việc như: mua sắm thiết bị công nghệ, thi công xây lắp công trình, quản lý quá trình thi công,… Sau công đoạn đấu thầu chủ đầu tư đã lựa chọn được nhà thầu ưng ý. Hoàn tất các thủ tục pháp lý xin phép của Nhà nước, chủ đầu tư bắt đầu vào thực hiện thi công công trình. Thi công công trình là giai đoạn chủ chốt tạo nên công trình, nên việc mua sắm thiết bị, chuẩn bị nhân lực, vật lực là rất quan trọng. Nhưng chính thi công lại là gian đoạn xảy ra sai phạm nhiều nhất ở Việt Nam hiện nay. Do đặc điểm của các dựa sn đầu tư phát triển là các công trình có thời gian sử dụng dài, giá trị rất lớn nên chất lượng của công trình là điều tối quan trọng. Chất lượng của công rình phụ thuộc vào công tác quản lý thi công và vai trò của cơ quan quản lý giám sát. Hiện nay Việt Nam chưa phân biệt rõ quản lý dự án nói chung và quản lý thi công nói riêng. Do tầm quan trọng của quản lý thi công nên chủ đầu tư nên tách riêng quản lý dự án và quản lý thi công riêng rẽ. Hiện nay, các qui định về đầu tư xây dựng của chúng ta đang thực hiện theo Luật xây dựng năm 2003, trong đó hình thức quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình được người quyết định đầu tư, chủ đầu tư lựa chọn giữa hai hình thức là thuê tổ chức tư vấn quản lý hoặc trực tiếp quản lý bằng cách lập ban quản lý để giúp mình. Chính những quy định như thế của Nhà nước đã làm giảm sự trong sáng, minh bạch trong công tác quản lý thi công, tạo điều kiện cho tham nhũng, rút ruột công trình xảy ra và trở thành một tệ nạn như hiện nay. Sự giám sát nghiêm ngặt trong khâu quản lý thi công và sự chấp hành nghiêm túc của nhà thầu thi công chính là điều kiền để mang lại hiệu quả cao nhất cho khâu thi công công trình. 2.1.4.Nghiệm thu công trình, vận hành thử đưa vào sử dụng Trong khâu nghiệm thu công trình gồm các công việc như: đánh giá kết quả, vận hành thử đưa vào sử dụng, quyêt toán và bảo hành, bảo trì công trình,… Khi công trình hoàn thành chủ đầu tư và các cơ quan chức năng tiến hành nghiệm thu, đánh giá kết quả. Để nâng cao hiệu quả công tác thẩm định cần có một bên chịu trách nhiệm thẩm định và chứng nhận chất lượng công trình. Nhiệm vụ nạy thường được giao cho các nhà thầu chịu trách nhiệm giám sát quá trình thi công công trình trong phần thực hiện thi công. Nhà thầu chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát trong quá trình thực hiện thi công, tiến độ thực hiện, chất lượng của các hợp đồng mua sắm và nên làm việc độc lập với chủ đầu tư. Sau khi phần thực hiện thi công công trình kết thúc, nhà thầu quản lý thi công làm tiếp nhiệm vụ kết hợp cùng với nhà thầu thi công, chủ đầu tư, các cơ quan quản lý Nhà nước cung tiến hành nghiệm thu công trình. Sau đó chính nhà thầu này sẽ làm chứng nhận cho chất lượng của công trình. Do đó nhà thầu được chọn làm giám sát thi công phải là đơn vị có năng lực, uy tín cao. Quá trình vận hành thử kiểm tra công suất, các thiết bị đồ cũng cần được thực hiện nghiêm ngặt. Sau thực hiện nghiệm thu, vận hành thử chủ đầu tư quyết toán công trình cho nhà thầu. Do đặc điểm của các dự án đầu tư phát triển là các công trình có thời gian sử dụng lâu dài cho nên công tác bảo hành, bảo trì cần thực hiện nghiêm túc. Chủ đầu tư sẽ quyết toán cho nhà thầu nhưng bớt lại một phần để nhà thầu cam kết thực hiện đúng công tác bảo trì trong thời gian bảo hành cho công trình. 2.2. Tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển vào thực hiện dự án đầu tư ở VN Đầu tư là yếu tố trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ, cải thiện môi trường. Nhận thức được tầm quan trọng này, nên trong chiến lược 10 năm cũng như kế hoạch 5 năm, Đảng và Nhà nước đều đưa ra mục tiêu này và được coi là một trong mười mục tiêu tổng quát nhất. Với sự quan tâm đó về đầu tư của Đảng và Nhà nước, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP liên tục tăng qua các năm và đến nay đã đạt 38,7%, thuộc loại cao nhất thế giới, có chăng chỉ thấp thua tỷ lệ trên 40% của Trung Quốc. Cơ cấu nguồn vốn huy động đã có bước chuyển dịch quan trọng. Điểm nổi bật nhất là sự tăng lên mạnh mẽ của đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân, với tỷ trọng trong tổng số vốn đã lên đến 32,4%, cao hơn mười điểm phần trăm so với cách đây 5 năm. Đó là kết quả của việc thực hiện Luật Doanh nghiệp. Một điểm nổi bật khác là đã có trên 70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp (FDI) với tổng số vốn đăng ký mới và bổ sung tính từ năm 1988 đến nay đạt trên 66 tỉ USD, với số vốn thực hiện đạt được một nửa. Nguồn vốn này đã góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, tăng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp ngân sách... Đã có 45 nước và định chế tài chính quốc tế đã cam kết với số vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) lên đến 30 tỉ USD và số vốn giải ngân đạt khoảng 16 tỉ USD. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép 1996 – 2006 Số dự án Vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ) (*) Tổng số vốn thực hiện (Triệu đô la Mỹ) Tổng số Trong đó: Vốn pháp định Tổng số Chia ra Nước ngoài góp Việt Nam góp 1996 - 2000 1724 26259.0 10921.8 8714.5 2207.3 12944.8 1996 372 10164.1 3511.4 2906.3 605.1 2714.0 1997 349 5590.7 2649.1 2046.0 603.1 3115.0 1998 285 5099.9 2474.2 1939.9 534.3 2367.4 1999 327 2565.4 975.1 870.5 104.6 2334.9 2000 391 2838.9 1312.0 951.8 360.2 2413.5 2001 - 2005 3935 20720.2 7310.1 6878.1 432.0 13852.8 2001 555 3142.8 1708.6 1643.0 65.6 2450.5 2002 808 2998.8 1272.0 1191.4 80.6 2591.0 2003 791 3191.2 1138.9 1055.6 83.3 2650.0 2004 811 4547.6 1217.2 1112.6 104.6 2852.5 2005 970 6839.8 1973.4 1875.5 97.9 3308.8 Sơ bộ 2006 987 12003.8 4674.8 4328.3 346.5 3956.3 (*) Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm trước. (Nguồn: Tổng cục Thống kê) Nguồn vốn này đã được ưu tiên sử dụng để hỗ trợ phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Nhiều công trình quan trọng trong các lĩnh vực giao thông vận tải, năng lượng, thủy lợi quy mô lớn, giáo dục đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, chăm sóc sức khỏe... đã được xây dựng và nâng cấp. Nguồn vốn này đã góp phần tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ xây dựng pháp luật, cải cách hành chính, xây dựng chính sách và cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... Tỷ trọng nguồn vốn Nhà nước tuy đã giảm nhưng vẫn còn chiếm quá nửa tổng vốn đầu tư, có tác dụng hình thành các công trình trọng điểm của quốc gia, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, vùng mà các nguồn vốn khác không muốn đầu tư, có tác động là vốn mồi để thu hút các nguồn vốn khác... Cơ cấu đầu tư đã chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung cho những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế- xã hội; vừa tập trung cho tăng trưởng kinh tế, vừa quan tâm đến phát triển xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng; vừa tập trung cho vùng động lực, vừa tăng cho vùng nghèo, xã nghèo. Cơ chế quản lý đầu tư xây dựng và công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ đã có những đổi mới trong việc phân cấp, trong công tác giám sát. Nhờ những kết quả trên mà tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao, năm sau cao hơn năm trước; cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; cơ sở hạ tầng được xây dựng, nâng cấp... Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong lĩnh vực đầu tư cũng còn một số hạn chế, bất cập thể hiện trong các giai đoạn của quá trình thực hiêhn dự án đầu tư như sau: 2.2.1.Hoàn tất thủ tục triển khai đầu tư: Tầm quan trọng của khâu này là rất quan trọng, nhưng thực tế quá trình thực hiện DA DTPT ở nước ta thời gian qua diễn ra đã có rất nhiều sai sót, ở cả phía chủ quan và khách quan đã gây ra hậu quả lớn ảnh hưởng tới chất lượng của công trình. Thứ nhất, các công trình xây dựng xin giao đất, cấp đất để được đúng tiến độ thời gian đề ra là rất khó khăn. Nguyên nhân có thể do các bên. Hiện nay trong môi trường đầu tư ở Việt Nam các nhà đầu tư đang phải đối mặt với một “khái niệm” rất mới, đó là “đất sạch”. “Đất sạch” là đất đã bồi hoàn, giải tỏa và tiến hành xây dựng hạ tầng hoàn chỉnh, hiện nay đó là vấn đề nóng phải giải quyết. Các nhà đầu tư thực hiện nghiêm túc chức năng nhiệm vụ của mình trong đầu tư nhưng lại không nhận được sự thiện chí giúp đỡ từ các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương. Có nhà đầu tư xin cấp phép hàng năm trời nhưng vẫn chưa được cấp đất, trong khi đất đã được quy hoạch là rất nhiều. Khi được giao đất thì cơ hội đầu tư đã đi qua. Nguyên nhân khác, các nhà đầu tư VN còn thiếu kỹ năng và tính chuyên nghiệp trong quá trình chuẩn bị dự án đầu tư. Đối với các DA DT vốn Ngân sách nhà nước rót về cho các tỉnh còn khó khăn thì điều này càng được thể hiện rõ. Chủ đầu tư là các UBND Tỉnh, xã có thể trong suốt nhiệm kỳ thời gian hoạt động của họ chưa từng nhận được một dự án nào hoặc rât ít, nên sự thiếu chuyên nghiệp trong các khâu là điều không thể tránh khỏi. Thực tế cho thấy nhiều dự án được cấp đất nhưng vẫn bỏ không do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan như chậm giải phóng mặt bằng, thiếu vốn,…cũng đã gây thất thoát lãng phí hàng chục tỷ đồng của NN trong khi đó giá thuê đất ở VN được đánh giá là cao trong khu vực và trên thế giới. Chính sự thiếu chuyên nghiệp đó đã làm kéo dài thời gian chuẩn bị gây ra sự kém hiệu quả trong thực hiện dự án đầu tư. Nhưng sự thiếu hiệu quả trong khâu chuẩn bị thực hiện dự án không chỉ xuất phát từ nguyên nhân chủ quan. Thứ hai, khó khăn trong khâu xin giấy phép XD và các giây tờ liên quan. Hiện nay các quy định đầu tư xây dựng của Nhà nước nhiều nhưng vẫn còn sơ hở, không phải là một hệ thống ban hành đồng bộ, thường xuyên bị thay đổi, chủ quan duy ý chí và tạo kẽ hở cho người thi hành vi phạm định chế vì lợi ích các nhân. Do sự vận hành cơ chế quản lý của nhà nước gây ra, NN đã ban hành bộ luật Xây dựng nhưng cũng chưa quy định rõ nguyên tắc đầu tư dẫn đến tình trạng phổ biến là tất cả các khâu tham gia trong một công trình đều do một cơ quan quản lý và theo dõi. Việc tổ chức thực hiện đều theo một chu trình khép kín từ khâu thiết kế thi công, đến giám sát đấu thầu, nghiệm thu đều do một bộ một cơ quan quản lý, trọng tài là người cùng đơn vị, hiện tượng “vừa đá bóng vừa thổi còi” thì làm sao đảm bảo khách quan chung thực được. Cơ chế quản lý phân công công việc chồng chéo, không quy rõ trách nhiệm, thủ tục phiền hà đã tạo nên môi trường cho sự phát sinh tình trạng cục bộ, bản vị, khép kín, hạch sách NĐT. Thứ ba, công tác đền bù giải phóng mặt bằng là khâu chủ đạo nhưng cũng không tránh khỏi tình trạng không hiệu quả. Cơ chế chính sách của NN còn nhiều bất cập đã gây trở ngại không nhỏ cho quá trình đền bù, giải phóng mặt bằng. Giải phóng mặt bằng là vấn đề khó khăn nhất đối với các dự án, chứ không phải là thiếu vốn, 2 nhân tố đảm bảo cho công tác này có hiệu quả là nâng cao nhận thức của người dân trong việc Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế; tiếp đó là hoạt động của chính quyền địa phương khi thực thi phải đúng luật, nghiêm chỉnh. Nếu làm tốt những việc này thì mới có thể giải quyết được những vấn đề rất nan giải, vướng mắc hiện nay liên quan đến đất đai. Nhưng từ phía NĐT cũng góp phần làm chậm quá trình nảy bởi sự non nớt về kinh nghiệm thực hiện. Công tác đền bù giải phóng mặt bằng rất cần sự phối hợp nhịp nhàng của nhà ĐT và chính quyền, UBND sở tại bởi chính UBND mới là đơn vị nắm quyền, Pháp luật trong tay. Sự chủ động phối hợp của chính quyền địa phương là chìa khoá mở cánh cửa thúc đẩy tiến độ dền bù giải phóng mặt bằng. Đây cũng là kinh nghiệm quý báu cho các nhà đầu tư khi bắt tay chuẩn bị thực hiện dự án. 2.2.2.Thiết kế lập dự toán thi công Hiện nay công tác tuyển chọn nhà thầu tư vấn và khảo sát đưa ra dự toán của công trình là 2 bước thực hiện còn nhiều bất cập. Thứ nhất, công tác tuyển chọn nhà thầu tư vấn hiệu quả còn nhiều khó khăn. Đối với các nhà thầu trong nước có một số nhà thầu có chất lượng nhưng đa số còn rất yếu trong kinh nghiệm hoạt động. Do đó sự giúp đỡ của nhà thầu tư vấn đến chủ đầu tư còn thấp. Công tác quan trọng của nhà thầu tư vấn là khảo sát thiết kế, đưa ra tổng mức dự toán hiện nay còn thực hiện còn kém hiệu quả. Điều đó là rất nguy hiểm cho công tác đấu thầu sau này. Tình trạng chú yếu vẫn diễn ra thường xuyên hiện nay tại các cuộc đấu thầu tại VN là các nhà thầu đưa giá thấp, thắng thầu bằng mọi giá rồi trong khi thi công công trình sẽ đưa ra đủ lý do để tăng vốn cho dự án. Điều đó diễn ra tại hầu hết các tỉnh thành, ngành làm hiệu quả đầu tư xuống rất thấp. Để khắc phục điều đó, việc đưa ra mức tổng dự toán công trình chính xác là rất quan trọng. 2.2.3. Thi công xây lắp công trình Trình độ chuyên môn và năng lực các nhà thầu xây lắp của Việt Nam ngày càng được cải thiện, tiến độ thi công còn chậm Tồn tại trong công tác đấu thầu. Nguyên vật liệu sử dụng hiệu quả chưa cao thể hiện trong thất thóat, lãng phí,… Đội ngũ giám sát và thực hiện thi công công trình còn chưa đáp ứng nhu cầu trong kỹ năng quản lý và trình độ chuyên môn. Vai trò của chủ đầu tư còn mờ nhạt. Sự quản lý của các cơ quan chức năng đối các công trình còn buông lỏng. Lãng phí thất thoát trong đầu tư, nợ đọng trong đầu tư xây dựng cơ bản. 2.2.4. Nghiệm thu kết quả, vận hành thử đưa vào sử dụng Quá trình nghiệm thu công trình… Vận hành thử đưa vào sử dụng… 3. Vận hành khai thác kết quả đầu tư Đầu tư phát triển là một hoạt đông lâu dài mà kết quả của nó là những công trình có tuổi đời kinh tế lâu dài. Điều đó tất yếu dẫn đến thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài. Vận hành các kết quả đầu tư của giai đoạn thực hiện đầu tư nhằm đạt được các mục tiêu của dự án. Như phần lý luận dã trình bày những kết quả này và mục tiêu của dự án sẽ phụ thuộc trực tiếp vào quá trình tổ chức quản lý hoạt động các kết quả đầu tư. Thực tế có rất nhiều công trình xây dựng cơ bản, từ một vài tỷ đồng đến hàng nghìn tỷ đồng, sau khi hoàn thiện thi công thì không thể đưa vào khai thác ngay chỉ vì thiếu đồng bộ của quy trình đầu tư. Đó là một thực tế yếu kém của về năng lực quản lý ở Việt Nam. Ta có thể đưa ra một vài ví dụ về những trường hợp cụ thể: + Dự án cầu Thanh Trì hiện nay được ghi nhận là dự án cầu lớn nhất Đông Dương, với chiều dài 3084m, rộng 33,1m và 6 làn xe chạy (trong đó có 4 làn xe cao tốc với tốc độ cho phép 100km/h). Tổng mức dự toán đầu tư ban đầu 410 triệu USD được khởi công vào năm 2002, theo kế hoạch đến tháng 11 năm 2006 là hoàn tất và thông xe. Nhưng phải đến tận 02/02/2007 bộ Giao Thông vận tải mới chính thức làm lễ “thông xe phần chính của cầu”. Còn các phần khác vẫn nằm trong tình trạng dở dang do còn vướng nhiều nút cỏ trai chưa được giải tỏa không bàn giao mặt bằng đúng tiến độ. Theo đánh giá sơ bộ, với kinh phí đầu tư 410 triệu USD xấp xỉ 6600 tỷ VNĐ. Mặc dù nguồn vốn vay chính là ODA của Nhật với lãi suất ưu đãi nhưng cái giá phải trả cho nó là không nhỏ. Nếu lấy lãi suất huy động trái phiếu chính phủ 8%, ước tính con số 6600 tỷ VNĐ sẽ cho số tiền lãi phát sinh là 525 tỷ VNĐ mỗi năm hay tương đương 1,5 tỷ VNĐ mỗi ngày vốn đã giải ngân. Cầu đã xây xong, chưa đưa vào sử dụng có nghĩa là chưa sinh ra một đồng lợi nhuận nào nhưng sau mỗi ngày lại lãng phí mất 1,5 tỷ VNĐ. Đó là riêng lẻ một công trình trong khi thực tế thì có hàng trăm công trình khác với tổng số vốn đầu tư hàng nghìn tỷ VNĐ khi hoàn thành không được đưa vào sử dụng ngay, con số thiệt hại thực sự làm đau đầu những nhà quản lý của đất nước và gây lên những bức xúc trong dư luận. Có thể nói cho dù các công trình với quy mô khác nhau, thời gian đắp chiếu dài ngắn khác nhau nhưng tất cả đều có chung một nguyên nhân là: Sự không đồng bộ trong quá trình triển khai dự án, sự ách tắc trong quá trình giải tỏa bàn giao mặt bằng và sự bất cập của quản lý hành chính. Sự lãng phí thể hiện rõ nhất khi hàng loạt công trình xây dựng đưa vào sử dụng không đạt hiệu quả kinh tế xã hội do không khai thác hết công xuất, thiếu nguyên liệu mà chủ yếu là do quy hoạch kém, không đồng bộ, không gắn kết với quy hoạch phát triển ngành, vùng. Như thực trạng nhà máy xay xát lúa gạo cầu Nguyễn, nhà máy chế biến thủy sản đông lạnh Diêm Điền... sau khi đầu tư xong mới thấy chưa tính hết quy hoạch vùng nguyên liệu cung cấp, yếu tố đầu vào, đầu ra không đảm bảo nên nhà máy không hoạt động được. Hàng loạt cảng biển nhà máy đường... với hàng nghìn tỷ đồng hiện nay không phát huy tác dụng, sắp tới là hàng loạt các khu công nghiệp, sân bay, bến cảng mới và nhiều công trình, dự án nhóm B,C ở các địa phương đang được dư luận quan tâm nếu chủ đầu tư không cẩn trọng thì cũng dễ dẫn đến thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản. Chương 3 Giải pháp tiếp tục quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển nhằm tăng cường đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư 1 Giai đoạn chuẩn bị trong giai đoạn này cần quán triệt các đặc điểm sau của hoạt động đầu tư phát triển: -Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn. Do đó đòi hỏi phải có giải pháp tạo vốn và huy động vốn hợp lý, xây dựng các chính sách, quy hoạch, kế hoạch đầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư, bố trí vốn theo đúng tiến độ, thực hiện đầu tư trọng tâm trọng điểm, -Các thành quả hoạt động đầu tư phát triển thường phát huy ngay tác dụng ở nơi nó được tạo dựng lên. Vì thế cần có chủ trương đầu tư đúng, lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lý -Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao, đòi hỏi công tác chuẩn bị phải được quan tâm đặc biệt. Ta đưa ra các giải pháp sau: 1.1.Tiếp tục thực hiện chính sách huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế. Đối với các dự án đầu tư từ ngân sách, cần rà soát lại nguồn vốn ngân sách nhà nước; cân đối ngay từ đầu năm và giao cho cơ sở thực hiện cùng với kế hoạch vốn ngân sách tập trung. Rà soát các dự án đầu tư trong năm, đình hoãn khởi công các dự án chưa thật cần thiết, chưa đủ các điều kiện để khởi công, tập trung vốn đầu tư cho các dự án quan trọng, các dự án có thể hoàn thành trong năm đưa vào khai thác sử dụng. Việc điều chỉnh các dự án đầu tư đang triển khai nếu xét thấy thật cần thiết và phải thực hiện nghiêm túc. Đối với nguồn vốn tín dụng: có biện pháp huy động đủ nguồn vốn tín dụng trong nước ngay từ đầu năm để tập trung cho vay các dự án sản xuất, kinh doanh thuộc các lĩnh vực được ưu tiên nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong từng ngành theo hướng phát huy được lợi thế và tăng khả năng cạnh tranh của các sản phẩm. Sửa đổi bổ sung cơ chế tín dụng đầu tư theo hướng sắp xếp lại các đối tượng cho vay, lãi suất cho vay; đơn giản hoá các thủ tục và qui trình vay vốn; tăng cường hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư. Đối với nguồn vốn của doanh nghiệp Nhà nước, đẩy mạnh thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy việc giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp nhà nước; tạo điều kiện doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả, có tích luỹ để đưa vào đầu tư. Khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước thực hiện khấu hao nhanh tài sản cố định và huy động thêm các nguồn lực khác để tăng vốn đầu tư. Đối với nguồn vốn của tư nhân và dân cư, trên cơ sở Luật Doanh nghiệp và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, khuyến khích đầu tư vào các ngành, lĩnh vực nhằm tạo sự chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong từng ngành, từng sản phẩm thuộc các ngành công nghiệp, nông lâm ngư nghiệp và dịch vụ. Đối với thu hút vốn đầu tư nước ngoài:Tập trung rà soát để giảm các chi phí đầu vào: điện, cước phí viễn thông quốc tế, cước phí vận tải biển. Tiến tới xoá bỏ chênh lệch về giá dịch vụ giữa doanh nghiệp trong nước và đầu tư nước ngoài. Tiếp tục mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực điện tử, cơ khí chế tạo công nghệ cao; đa dạng hoá hình thức đầu tư nước ngoài theo hướng chuyển đổi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần. Hoàn thiện một bước về luật pháp, cơ chế chính sách về đầu tư nước ngoài theo hướng tạo môi trường pháp lý thông thoáng và các điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài. Cải tiến các thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hoá việc cấp phép đầu tư, mở rộng phạm vi các dự án thuộc diện đăng ký cấp phép đầu tư. Tiếp tục nghiên cứu để ban hành các chính sách tháo gỡ khó khăn về thuế, sử dụng đất đai, ngoại hối, khuyến khích các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Ban hành các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển công nghệ kỹ thuật cao, quản lý và phát triển thị trường kinh doanh bất động sản có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoaì. Tăng cường công tác xúc tiến đầu tư vào các địa bàn, đối tác trọng điểm, thành lập văn phòng xúc tiến đầu tư ở một số địa bàn trọng yếu. Ngoài ra sẽ triển khai thực hiện một số giải pháp huy động vốn như: phát hành trái phiếu để tăng nguồn vốn đầu tư cho một số công trình lớn. Nghiên cứu cơ chế để sử dụng có hiệu quả nguồn ngoại tệ của dân cư đang gửi tại các ngân hàng; đồng thời có giải pháp tiền tệ hạn chế thanh toán bằng tiền mặt, từng bước hướng dẫn để dân cư gửi tiền vào ngân hàng để huy động cho phát triển... 1.2. Cải tiến, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch. Quy hoạch phải đảm bảo cụ thể hoá đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện công tác kế hoạch hoá và thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Quy hoạch phải được luận chứng đầy đủ; vừa có tính mềm dẻo, linh hoạt vừa có tính bắt buộc và phải có tầm nhìn dài hạn; được công khai hoá. Công tác quy hoạch phải phù hợp với kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, có sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế; tránh tình trạng thông qua quy hoạch để thực hiện độc quyền. Quy hoạch phải được triển khai đầy đủ từ quy hoạch tổng thể đến quy hoạch cụ thể và phải được tiến hành lập cũng như điều chỉnh kịp thời. Những dự án quy hoạch quan trọng phải được tổ chức nghiên cứu chu đáo và có kế hoạch huy động các tư vấn giỏi tham gia lập quy hoạch. Nâng cao chất lượng, căn cứ khoa học của quy hoạch. Thực hiện công khai, minh bạch, thu hút rộng rãi ý kiến đóng góp, tranh thủ sự giám sát thực hiện của cộng đồng. Đưa công tác quy hoạch nhằm đưa công tác quy hoạch vào nề nếp. Cần chủ động cập nhật, bổ sung các qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, qui hoạch phát triển ngành; trong đó xây dựng các chương trình phát triển, xác định các dự án đầu tư. Gắn quy hoạch với kế hoạch và với nhu cầu thị trường. Trên cơ sở đó hình thành cơ cấu đầu tư hợp lý trong từng ngành, từng vùng. 1.3. Nghiên cứu hoàn thiện phân cấp trong khâu chuẩn bị đầu tư. Hoàn thiện tiêu chí phân nhóm các dự án đầu tư:Cùng với việc phân cấp về thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư, cần tiếp tục nghiên cứu để có cách phân loại các dự án đầu tư cho phù hợp hơn với từng loại dự án sử dụng các nguồn vốn khác nhau và với qui mô vốn đầu tư của dự án khác nhau, cụ thể là: - Một trong những đề xuất là nên phân chia các nhóm dự án phù hợp theo 2 mảng đầu tư: Đầu tư trong nước và Đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc phân chia các dự án vào các nhóm trong từng mảng cần căn cứ vào 3 yếu tố: Tính chất, phạm vi hoạt động (theo ngành và theo lãnh thổ, nhu cầu sử dụng đất đai) của các dự án; Theo nguồn vốn đầu tư; Theo quy mô vốn đầu tư của từng nguồn vốn. Vốn Ngân sách nhà nước (bao gồm cả vốn ODA); vốn Nhà nước bảo lãnh, có thể chia thành 4 nhóm: A, B, C và D. Theo hướng này có thể qui định cụ thể mức vốn đối với các dự án được phân cấp cho cấp huyện và xã phê duyệt dự án đầu tư. Vốn tín dụng đầu tư (kể cả tín dụng ưu đãi), vốn của khu vực tư nhân, các nguồn vốn huy động khác... việc phân loại dự án theo nhóm chủ yếu để xác định qui mô của dự án, chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Nhà nước chỉ định hướng và thông qua chủ trương đầu tư. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, có thể chia thành 3 nhóm: nhóm A, B và C, trong đó nhóm C chỉ áp dụng đối với các dự án triển khai trong các khu công nghiệp. (2) Về thẩm quyền quyết định đầu tư: Phù hợp quan điểm, nguyên tắc phân cấp và với hệ thống phân nhóm dự án theo tiêu chí nói trên, thẩm quyền quyết định đầu tư sẽ chia thành 4 cấp tương ứng đối với từng nguồn vốn: Các dự án được các cơ quan nhà nước quyết định đầu tư: - Các dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách (kể cả vốn do Chính phủ vay, Chính phủ bảo lãnh): Thủ tướng Chính phủ quyết định các dự án nhóm A; Chủ tịch các tỉnh, thành phố; Người đứng đầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ quyết định các dự án nhóm B và C; Chủ tịch các quận, huyện được uỷ quyền quyết định các dự án nhóm C; Chủ tịch các xã, phường được uỷ quyền quyết định các dự án nhóm D; Các dự án sử dụng nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước: Thủ tướng Chính phủ quyết định các dự án nhóm A thuộc lĩnh vực an ninh, quốc phòng, các công trình bảo mật, có ý nghĩa chính trị quan trọng; Chủ đầu tư quyết định các dự án thuộc nhóm B và C. Cấp phép đầu tư: - Đối với các dự án đầu tư bằng nguồn vốn trong nước (các dự án thực hiện bằng vốn tư nhân, các dự án của các thành phần kinh tế khác không sử dụng vốn Ngân sách nhà nước): Thủ tướng Chính phủ cấp phép đầu tư các dự án thuộc nhóm A thuộc lĩnh vực an ninh, quốc phòng, các công trình bảo mật, công trình có ý nghĩa chính trị quan trọng; Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư các dự án thuộc nhóm B và C. Đối với các dự án đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài (FDI): Thủ tướng Chính phủ quyết định các dự án thuộc nhóm A; Chủ tịch các tỉnh, thành phố quyết định các dự án thuộc nhóm B và nhóm C; Ban quản lý các khu công nghiệp được uỷ quyền quyết định các dự án thuộc nhóm C. Theo đó, sự khác biệt trong phân cấp thẩm quyền quyết định đầu tư so với hiện hành là: các dự án được quản lý chặt chẽ về mặt chủ trương (văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng,...), về quy hoạch (kết cấu hạ tầng), về bảo vệ môi trường, dự án có sử dụng tài nguyên với quy mô lớn và các dự án sử dụng vốn ngân sách với quy mô lớn (qui định mức cụ thể cho mỗi ngành, mọi lĩnh vực). Các dự án khác tuỳ theo nguồn vốn mà phân cấp thích hợp không căn cứ vào mức vốn. Kể cả dự án đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài không áp dụng cơ chế uỷ quyền. (3). Sửa đổi về quản lý các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước Cần đổi mới tổ chức quản lý dự án đầu tư và xây dựng theo hướng giảm số cấp kiểm tra, xem xét quyết định đầu tư. Chỉ nên giữ lại 2 cấp gồm cấp chủ đầu tư và cấp quyết định đầu tư; trong đó cấp chủ đầu tư hoàn toàn chịu trách nhiệm về chất lượng dự án đầu tư và quá trình triển khai xây dựng, cấp quyết định đầu tư chịu trách nhiệm về thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện dự án. (4). Bổ sung, sửa đổi về phân cấp trong quyết toán công trình đầu tư: Phân cấp phê duyệt quyết toán vốn đầu tư nên được sửa đổi như sau: đối với những dự án đầu tư do Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư thì Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt (trừ các dự án quan trọng do Quốc hội trực tiếp phê duyệt). Đối với các dự án khác, nguyên tắc chung là cấp nào ra quyết định đầu tư thì cấp đó phê duyệt quyết toán. Ví dụ công trình do Bộ trưởng, Chủ tịch UBND tỉnh ra quyết định đầu tư thì Bộ trưởng, Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt quyết toán... 2.Giai đoạn thực hiện: Xuất phát từ đặc điểm quan trọng là thời kỳ đầu tư kéo dài. Nhiều công trình đầu tư có thời gian kéo dài hàng chục năm. Do vốn lớn lại nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư, xuất hiện các tồn tại như: (1) Lãng phí, thất thoát trong đầu tư lớn. Nguyên nhân của tình trạng lãng phí thất thoát trong đầu tư có nhiều, thể hiện ở tất cả các khâu trong quá trình đầu tư. Ngay từ khâu tính toán, xác định tổng mức vốn đầu tư cho dự án chưa quan tâm sâu sát tới việc tiết kiệm vốn đầu tư; nhiều dự án thiết kế phô trương hình thức, không phù hợp với thực tế sử dụng. Sử dụng đơn giá, định mức không theo quy định làm tăng khối lượng vốn đầu tư, tăng dự toán công trình. Còn những biểu hiện tiêu cực trong quản lý và thi công công trình, nhiều dự án không làm đúng thiết kế, chủ đầu tư và bên thi công móc nối, thoả thuận khai tăng số lượng, điều chỉnh dự toán rút tiền và vật tư của công trình. Nhiều dự án đầu tư không theo quy hoạch, điều tra khảo sát thị trường không kỹ, chưa quan tâm sâu sát đến đầu ra của sản phẩm, dự án hoàn thành nhưng không phát huy được hiệu quả. Ngoài ra, trình độ năng lực quản lý, điều hành của các chủ đầu tư, của ban quản lý dự án, các tổ chức tư vấn còn yếu kém cũng là nguyên nhân gây lãng phí, thất thoát vốn đầu tư. Chất lượng của các tổ chức tư vấn đầu tư còn thấp; khi xây dựng dự án và thiết kế kỹ thuật lập tổng dự toán chưa dựa vào các quy chuẩn, đơn giá, định mức... gây nên lãng phí lớn. Năng lực của các chủ đầu tư không phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý; không kiểm tra, giám sát được các tổ chức tư vấn, các nhà thầu. Công tác giám sát thi công còn mang tính hình thức. (2) Tình hình nợ đọng trong đầu tư và xây dựng là vấn đề bức xúc. Khả năng cân đối nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước còn rất hạn hẹp. Do đặc thù của các công trình, dự án thuộc hạ tầng giao thông, thủy lợi, bên A, cơ quan cấp phát vốn, cơ quan kiểm toán khó kiểm tra, kiểm soát về khối lượng thi công, đơn giá và định mức trong dự toán được duyệt. Các Bộ ngành, các tỉnh, thành phố còn buông lỏng trong công tác quản lý đầu tư và xây dựng, cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng hiện hành còn thiếu những chế tài, biện pháp cụ thể nhằm kiểm soát và hạn chế việc phê duyệt dự án đầu tư tràn lan như hiện nay. Nhiều Bộ, ngành và địa phương còn tư tưởng nể nang, dễ dàng đối với các chủ đầu tư trong việc vay mượn vốn, cho phép các nhà thầu ứng trước vốn để thi công các công trình, dự án. Trong quá trình điều hành kế hoạch, phát hiện thực hiện vượt vốn, các cơ quan quản lý chưa kịp thời can thiệp để có biện pháp xử lý. (3) Những tồn tại trong công tác đấu thầu: Một số cán bộ thuộc đơn vị Chủ đầu tư, Ban quản lý dự án thiếu tính chuyên nghiệp, chưa được đào tạo đầy đủ, thiếu kinh nghiệm nên còn nhiều hạn chế trong triển khai công tác đấu thầu. Nhiều trường hợp không thực hiện đúng Quy chế Đấu thầu như mở thầu chậm, chỉ định thầu vượt mức cho phép, tổ chức đấu thầu mang tính hình thức, đặc biệt là hình thức đấu thầu hạn chế... Chất lượng các công tác phục vụ cho đấu thầu (trực tiếp hoặc gián tiếp) như chất lượng của báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán còn thấp. Một số trường hợp xây dựng dự toán quá thấp gây khó khăn trong quá trình xét kết quả trúng thầu, phải chào lại giá, phải điều chỉnh dự toán làm kéo dài thời gian. Nhiều trường hợp thiết kế ban đầu không chuẩn xác, trong quá trình thực hiện phải thay đổi bổ sung dẫn đến làm tăng giá trị hợp đồng, kéo dài thời gian thực hiện.Trong một số trường hợp chỉ định thầu thì dự toán cao là cơ sở ký hợp đồng sẽ có thể dẫn đến thất thoát. Hiện nay còn thiếu các quy định về chế tài, trách nhiệm lập và duyệt đối với báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật, dự toán. Các quy định trong một số hợp đồng thầu quá đơn giản, chưa đủ chặt chẽ, chưa gắn trách nhiệm giữa Chủ đầu tư và nhà thầu, dồn sức ép vào một phía, thiếu các điều kiện chi tiết gây khó khăn cho thực hiện. Một số nội dung trong Quy chế Đấu thầu chưa được cụ thể hoá về: mẫu hoá các nội dung trong quá trình đấu thầu, hình thức áp dụng; quy định về khiếu nại trong đấu thầu. Công tác đào tạo trong đấu thầu còn bất cập, thiếu các Trung tâm đào tạo thường xuyên cán bộ về đấu thầu, làm giảm hiệu quả triển khai công tác này. (4) Tồn tại trong giám sát và đánh giá đầu tư. Chất lượng các báo cáo về đánh giá đầu tư còn sơ sài, chưa đủ các thông tin cần thiết để tổng hợp báo cáo. Công tác giám sát nói chung còn chưa thường xuyên, bị động và chủ yếu tổng hợp từ các báo cáo theo quy định, chưa có tác dụng phát hiện kịp thời và xử lý các vi phạm. Công tác giám sát cộng đồng chưa được chú trọng. Ta đưa ra các giải pháp như sau: 2.1. Tăng cường công tác giám sát đầu tư. Giữ vững kỷ cương trong quản lý đầu tư và xây dựng, thực hiện tốt công tác giám sát và đánh giá đầu tư theo quy định. Nơi chưa thực hiện công tác này cần làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm của các đơn vị liên quan để đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh Thực hiện giám sát ngay từ khâu bố trí đầu tư đảm bảo tuân thủ theo quy hoạch, kế hoạch được duyệt, thực hiện giám sát trong tất cả các khâu của quá trình đầu tư; tổ chức tốt việc đánh giá đầu tư của ngành và địa phương nhằm xem xét, đánh giá cụ thể tình hình và kết quả đầu tư của ngành và địa phương, tìm các biện pháp nâng cao hiệu quả đầu tư, kịp thời rút kinh nghiệm và chấn chỉnh công tác quản lý đầu tư. Không phê duyệt dự án đầu tư nếu chưa làm rõ và đảm bảo tính khả thi về nguồn vốn; Đối với các dự án đã triển khai thực hiện, không phê duyệt điều chỉnh về nội dung đầu tư hay tổng mức đầu tư khi dự án chưa thực hiện giám sát và báo cáo theo quy định. Về công tác giám sát cộng đồng đối với các hoạt động đầu tư: Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp địa phương cần có biện pháp để thực hiện giám sát cộng đồng đối với các hoạt động đầu tư trên địa bàn của địa phương. Các chủ đầu tư chủ động và nghiêm túc thực hiện các yêu cầu về giám sát cộng đồng đối với các dự án do mình quản lý. Cần có văn bản quy định cụ thể về Công tác giám sát của cộng đồng, trong đó có qui định cụ thể việc công khai hoá các dự án, các công trình đầu tư và cơ chế tham gia giám sát của người dân, các tổ chức tư vấn độc lập, các phương tiện thông tin đại chúng. Cần nhanh chóng tổ chức các đơn vị đầu mối thực hiện nhiệm vụ giám sát, đánh giá đầu tư, tích cực chủ động thực hiện nhiệm vụ, có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn, tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao năng lực của các đơn vị đầu mối thực hiện nhiệm vụ này. Các đơn vị đầu mối cần khẩn trương xây dựng cơ sở dữ liệu về hoạt động đầu tư thuộc phạm vi mình quản lý trên cơ sở sử dụng công nghệ tin học. Tổ chức, bố trí cán bộ, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho các đơn vị đầu mối để trở thành trung tâm giám sát, đánh giá đầu tư có khả năng cung cấp dữ liệu, phân tích, đánh giá thường xuyên về tình hình đầu tư trong phạm vi quản lý của mình. Hoàn chỉnh và ban hành các quy định liên quan đến công tác giám sát, đánh giá đầu tư, sớm ban hành định mức chi phí giám sát, đánh giá đầu tư. Cần thể chế hóa ở cấp độ cao, đủ hiệu lực đối với các chế tài để đảm bảo thực hiện nghiêm túc công tác giám sát, đánh giá đầu tư. Ngoài các chế tài chung quy định trách nhiệm của các cơ quan, cần có các quy định về trách nhiệm của các cá nhân, hình thức và mức độ xử lý cụ thể và nghiêm khắc đối với các cơ quan và cá nhân không thực hiện hoặc thực hiện không tốt nhiệm vụ giám sát và đánh giá đầu tư. Phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp, các lĩnh vực công tác (thanh tra, kiểm tra) để thực hiện các nhiệm vụ giám sát, đánh giá đầu tư, nắm và xử lý các vấn đề phát sinh, ngăn chặn kịp thời ảnh hưởng hoặc hậu quả tiêu cực của nó. 2.2. Các biện pháp triển khai công tác quản lý về đấu thầu. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu, đảm bảo tính đồng bộ của văn bản pháp quy, ban hành mẫu hồ sơ mời thầu về mua sắm hàng hoá. Tăng cường công tác hướng dẫn thực hiện Quy chế Đấu thầu; tổ chức một số hội nghị, lớp tập huấn trên các địa bàn trọng điểm để phổ biến các quy định mới về đấu thầu. Tổ chức các đoàn kiểm tra, thanh tra công tác đấu thầu, tập trung vào một số vùng và lĩnh vực trọng điểm như giao thông, dầu khí, xây dựng, điện lực, nông nghiệp, bưu chính viễn thông... và một số địa phương. Củng cố lực lượng thanh tra chuyên ngành và quản lý đấu thầu để triển khai thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra về đấu thầu theo quy định. Tăng cường tính công khai, minh bạch trong công tác đấu thầu, thực hiện mục tiêu của công tác đấu thầu là cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế. Các Ban quản lý dự án, các đơn vị có liên quan có trách nhiệm cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ giúp cho quá trình đấu thầu được thông suốt và đảm bảo tính công khai, minh bạch Tăng cường việc chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền theo đúng quy định. Trong quá trình phê duyệt kế hoạch đấu thầu cần lưu ý áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi là chủ yếu, hạn chế việc áp dụng hình thức chỉ định thầu hoặc hình thức đấu thầu hạn chế. Nâng cao chất lượng của các Báo cáo nghiên cứu khả thi, chất lượng của tư vấn thiết kế, tránh việc điều chỉnh bổ sung trong quá trình thực hiện dự án. Phải chủ động tổ chức kiểm tra, thanh tra kịp thời các gói thầu khi có khiếu kiện việc đấu thầu vi phạm qui chế đấu thầu. 2.3. Nâng cao hiệu quả đầu tư, chống lãng phí, thất thoát vốn đầu tư nhà nước. (1) Cần ban hành quy chế quản lý đầu tư sử dụng vốn nhà nước theo hướng loại bỏ dần tình trạng khép kín trong đầu tư xây dựng; tách chức năng quản lý nhà nước với quản lý kinh doanh trong tất cả các khâu trong quản lý đầu tư xây dựng. Người ra quyết định đầu tư không kiêm nhiệm chủ đầu tư; thực hiện đấu thầu chọn chủ đầu tư, tư vấn quản lý dự án; xây dựng và ban hành tiêu chí, tiêu chuẩn làm chủ đầu tư, ban quản lý dự án kèm theo chức năng và trách nhiệm cụ thể cho từng chức danh công việc; tăng cường sử dụng các tổ chức tư vấn giám sát độc lập trong quá trình thực hiện dự án, đặc biệt đối với các dự án lớn; các tổ chức tư vấn thiết kế, các nhà thầu xây dựng, các tư vấn giám sát không thuộc cùng một Bộ, một tỉnh, một thành phố; từng bước hình thành tổ chức tư vấn độc lập; xây dựng lộ trình xoá bỏ tình trạng khép kín hiện nay. Đồng thời với việc phân cấp trong quản lý đầu tư và xây dựng, tiếp tục bổ sung các chế tài về quản lý nhà nước đủ mạnh để tăng cường trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động đầu tư xây dựng, cụ thể một số vấn đề đặc biệt quan tâm là: Đối với người quyết định đầu tư: Song song với việc đẩy mạnh phân cấp, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị, Bộ, ngành, địa phương, trong cơ chế quản lý đầu tư cần bổ sung các chế tài đủ mạnh để nâng cao trách nhiệm của người ra quyết định đầu tư. Người quyết định đầu tư sẽ phải bị xử phạt hành chính, cách chức hoặc miễn nhiệm khi quyết định những dự án đầu tư sai, gây lãng phí tiền bạc của Nhà nước, không để tình trạng người quyết định đầu tư sai nhưng vẫn đứng ngoài cuộc như hiện nay. Đối với chủ đầu tư: Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm toàn diện về hiệu quả, chất lượng và tiến độ xây dựng của dự án. Giám đốc điều hành dự án cần lựa chọn là người có đủ điều kiện về năng lực, phù hợp với từng loại và cấp công trình theo quy định. Nếu chủ đầu tư không có đủ điều kiện năng lực, thì phải thuê các tổ chức tư vấn quản lý dự án theo quy định. Kiện toàn, sắp xếp lại các ban quản lý dự án, tiến tới xoá bỏ các ban quản lý không đủ điều kiện năng lực, thành lập các ban quản lý chuyên nghiệp hoạt động theo mô hình tư vấn quản lý dự án. Ban hành tiêu chí đánh giá năng lực của Ban quản lý dự án. Đối với nhà thầu: Bổ sung cơ chế quản lý chặt chẽ và quy định về năng lực hành nghề của nhà thầu, quy định các loại hình và quy mô công trình các nhà thầu được phép tham gia phù hợp với trình độ và năng lực của nhà thầu. Cần chấm dứt ngay tình trạng nhà thầu nhận thầu bằng mọi giá hoặc giao thầu lại cho các nhà thầu không có đủ điều kiện năng lực thi công, xây dựng công trình. Trường hợp phát hiện có hiện tượng thông đồng, móc ngoặc giữa chủ đầu tư với tổ chức tư vấn hoặc nhà thầu xây dựng, thì theo mức độ sai phạm có cơ chế đủ mạnh như phạt tiền, thi hành kỷ luật hành chính, phạt không cho tham gia hoạt động xây dựng ít nhất 1 năm, có thông báo trên trang web. Đối với tổ chức tư vấn thiết kế và tư vấn giám sát thi công: Tổ chức tư vấn thiết kế kỹ thuật phải có đủ năng lực chuyên môn và có đủ tư cách pháp nhân, chịu trách nhiệm trước chủ đầu tư và trước pháp luật về thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán của công trình, dự án phù hợp với các qui định hiện hành. Nâng cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân thực hiện việc giám sát thi công theo đúng thiết kế kỹ thuật, đúng qui trình, qui phạm và tiêu chuẩn kỹ thuật, chủng loại và chất lượng vật tư…. Từng bước chuyển dần các tổ chức này sang hoạt động độc lập, các công trình, dự án do các đơn vị trong Bộ, địa phương làm chủ đầu tư và tổ chức thực hiện thi công (nhà thầu) thì không sử dụng các tổ chức tư vấn trong Bộ và địa phương. Ban hành tiêu chí năng lực đối với các tổ chức tư vấn thiết kế kỹ thuật và tổ chức tư vấn giám sát thi công. (2) Cải cách thủ tục hành chính trong quản lý đầu tư xây dựng Đi đôi với việc phân cấp, dần dần từng bước tách chức năng quản lý sản xuất ra khỏi chức năng quản lý nhà nước nhằm xoá bỏ tình trạng khép kín trong các khâu từ lập, thẩm định, phê duyệt, tổ chức đấu thầu, thi công,...trong cùng một Bộ, ngành và địa phương. Để thống nhất quản lý nhà nước về lập và quản lý chi phí đầu tư xây dựng cần sửa đổi, bổ sung những tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng đã lạc hậu không còn phù hợp; sớm nghiên cứu ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn phù hợp với tiến bộ khoa học, kỹ thuật và thông lệ quốc tế. Hoàn thiện, bổ sung hệ thống chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật, hệ thống tiêu chuẩn, quy phạm và các chỉ tiêu định mức kinh tế - kỹ thuật, đơn giá xây dựng, suất vốn đầu tư… phục vụ công tác quản lý đầu tư xây dựng phù hợp thực tế và thông lệ quốc tế. Nghiên cứu hình thành cơ quan, tổ chức độc lập (không trong cùng một bộ có đơn vị xây lắp) để phê duyệt định mức, tiêu chuẩn, qui trình, qui phạm… Có thể thành lập Cục quản lý nhà nước về vấn đề này. (3) Tiếp tục thực chấn chỉnh, quản lý đầu tư và xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước; rà soát lại chủ trương đầu tư và hiệu quả đầu tư đối với một số dự án lớn còn nhiều ý kiến khác nhau để xác định hướng xử lý. Các cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư phải soát xét và chịu trách nhiệm đối với các công trình đang xây dựng và dự định khởi công để bảo đảm hiệu quả đầu tư, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải; kiên quyết không quyết định đầu tư đối với các công trình chưa chắc chắn về nguồn vốn. Trên cơ sở đó, phân loại các dự án cần ra quyết định tạm dừng hoặc chấm dứt đầu tư theo các nguyên tắc sau: - Đối với các dự án đang chuẩn bị đầu tư, thẩm định lại các phương án đầu tư, xem xét lại các yêu cầu về quy hoạch, kỹ thuật, công nghệ, thị trường... nếu xét thấy việc đầu tư không mang lại hiệu quả thiết thực thì không quyết định đầu tư. - Đối với các dự án đang đầu tư, rà soát, tính toán cần thiết phải sửa đổi, bổ sung giải pháp kỹ thuật, thay đổi quy mô, công nghệ cho phù hợp nhằm đảm bảo tính hiệu quả của dự án, nếu xét thấy việc tiếp tục đầu tư không hiệu quả thì phải kiên quyết dừng đầu tư. - Trường hợp các dự án đầu tư xét thấy không hiệu quả nhưng vẫn tiếp tục được đầu tư dẫn đến không thu hồi được vốn, không trả được nợ vay thì người quyết định cho phép tiếp tục đầu tư phải bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật tùy theo mức độ vi phạm hoặc xử lý trách nhiệm hình sự nếu gây hậu quả nghiêm trọng. - Các ngân hàng thương mại, Quỹ Hỗ trợ phát triển, phải chịu trách nhiệm liên đới do kết quả tính toán, xem xét tính khả thi của dự án dẫn đến cho vay không hiệu quả, không thu hồi được vốn. (4) Ban hành quy định về trách nhiệm của người thẩm định, người quyết định dự án đầu tư theo hướng: Người ký quyết định đầu tư dự án phải chịu trách nhiệm xác định rõ và bảo đảm tính khả thi về nguồn vốn đầu tư cho dự án theo đúng yêu cầu tiến độ, trong đó dự án nhóm C phải thực hiện từ khởi công đến hoàn thành không quá 2 năm; nhóm B không quá 4 năm; các dự án đầu tư phải nằm trong kế hoạch 5 năm và các loại quy hoạch được cấp thẩm quyền phê duyệt. Khi phê duyệt điều chỉnh dự án đầu tư, phải tiến hành giám sát, đánh giá đầu tư, xác định rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan của việc điều chỉnh dự án và biện pháp xử lý của các bên có liên quan trước khi báo cáo cấp có thẩm quyền phê duyệt, điều chỉnh dự án đầu tư. Người có thẩm quyền quyết định đầu tư nếu làm sai pháp luật, không hiệu quả phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả do quyết định không đúng gây ra. Chỉ quyết định đầu tư khi đã xác định rõ nguồn vốn, đúng quy hoạch, bảo đảm có hiệu quả và không trái với các quy định hiện hành về quản lý đầu tư và xây dựng; quy định rõ trách nhiệm cá nhân của người thẩm định, người quyết định đầu tư, người giám sát thi công đối với chất lượng công trình. (5) Vốn ngân sách Nhà nước dành cho đầu tư phát triển phải được các cơ quan dân cử bàn, quyết định, tập trung chủ yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và thực hiện các chương trình mục tiêu, đặc biệt là các chương trình hỗ trợ cho sự phát triển các vùng có nhiều khó khăn. (6) Thanh tra các cấp tập trung thanh tra đầu tư xây dựng cơ bản, áp dụng đồng bộ các biện pháp chống dàn trải, lãng phí, thất thoát, tiêu cực trong đầu tư xây dựng cơ bản. Tăng cường năng lực các cơ quan làm nhiệm vụ thanh tra, điều tra, kết luận những trường hợp sai phạm để xử lý nghiêm minh. (7) Rà soát lại các công trình đầu tư bằng trái phiếu Chính phủ theo hướng: những công trình, dự án được đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ, phải có dự án sẵn sàng, dự án phải hiệu quả mới phát hành trái phiếu. (8) Tích cực giải quyết nợ tồn đọng trong đầu tư xây dựng cơ bản theo hướng: các Bộ, cơ quan Trung ương và các địa phương phải dành thỏa đáng vốn đầu tư trong dự toán ngân sách để thanh toán, không để phát sinh nợ mới trái với quy định của pháp luật; các địa phương đã khởi công xây dựng công trình khi dự án chưa được duyệt, dựa vào huy động vốn của nhà thầu, nay phải dành một phần ngân sách hằng năm của địa phương để trả nợ và không được tái diễn cách đầu tư tuỳ tiện này. (9) Xây dựng hệ thống cung cấp thông tin về doanh nghiệp làm cơ sở để các ngân hàng xem xét, quyết định việc cho vay. Xây dựng thí điểm dịch vụ đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp để hỗ trợ các ngân hàng khi xem xét cho doanh nghiệp vay vốn. 3. Giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. Ở giai đoạn này, hoạt động đầu tư có đặc điểm nổi bật sau: -Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài. -Quá trình vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng. Các nội dung cần chú ý trong giai đoạn này là: Thứ nhất, cần xây dựng cơ chế và phương pháp dự báo khoa học cả ở cấp vĩ mô và vi mô về nhu cầu thị trường đối với sản phẩm đầu tư tương lai, dự kiến khả năng cung từng năm và toàn bộ vòng đời dự án. Cần nâng cao hiệu quả của hoạt động nghiên cứu triển khai, những giải pháp khoa học đưa ra cần có khả năng ứng dụng cao vào thực tế. Để làm được điều này, cần có sự phối hợp giữa các viện nghiên cứu ở các bộ ngành, các lĩnh vực với các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Nhà Nước cần đóng vai trò quan trọng trong hoạt động nghiên cứu triển khai, do đây là hoạt động đòi hỏi vốn đầu tư lớn không phải doanh nghiệp dân doanh nào cũng đủ khả năng triển khai thực hiện. Thứ hai, quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh chóng đưa các thành quả đầu tư vào sử dụng, hoạt động tối đa công suất để nhanh chóng thu hồi vốn, tránh hao mòn vô hình. Thứ ba, chú ý đúng mức đến yếu tố độ trễ thời gian trong đầu tư. Đầu tư trong năm nhưng thành quả đầu tư chưa chắc phát huy tác dụng ngay trong năm đó mà từ những năm sau và kéo dài trong nhiều năm. Phương thức quản hội, đảm bảo kết hợp hài hoà giữa các loại lợi ích, phát huy vai trò chủ động sáng tạo của chủ đầu tư, vai trò kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý lý hoạt động đầu tư cần có sự thống nhất hợp lý với các chỉ số kinh tế, kỹ thuật của dự án đầu tư. Quán triệt đặc điểm này cần nâng cao hiệu quả công tác đánh giá kết quả, chi phí, hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển. Hiệu quả của đầu tư phát triển phản ánh quan hệ giữa kết quả kinh tế xã nghèo... nhưng rất quan trọng để nâng cao chất lượng cuộc sống và vì hội thu được với chi phí bỏ ra để thu được kết quả đó. Kết quả và hiệu quả đầu tư phát triển cần được xem xét cả trên phương diện chủ đầu tư và toàn xã nhà nước các cấp. Thực tế có những khoản đầu tư không trực tiếp tạo ra tài sản mới cho doanh nghiệp như đầu tư cho y tế, giáo dục, xoá đói giảm mục tiêu phát triển. KẾT LUẬN Đầu tư với vai trò quyết định cho sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, có ý nghĩa lớn nhằm duy trì và nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế đó. Trong thời đại hiện nay, Việt Nam đã hội nhập và đối mặt với nhiều cơ hội cũng như thách thức mới. Nền kinh tế mở cửa đã thu hút được một lượng không nhỏ nguồn vốn đầu tư cho nhu cầu trong nước và chính lượng vốn đó đã góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển đất nước. Nhưng chúng ta không chỉ cần giữ vững tốc độ tăng trưởng mà còn phải tăng nhanh hơn nữa, thế nên giải quyết tốt bài toán về đầu tư và hiệu quả đầu tư là điều không đơn giản. Tổng vốn đầu tư và cơ cấu đầu tư như thế nào cho hợp lí, quản lí đầu tư như thế nào cho hiệu quả là thách thức rất lớn. Điều đó đòi hỏi chúng ta không ngừng tiếp thu và tiếp tục quán triệt sâu sắc các đặc điểm của đầu tư phát triển vào công tác quản lý thực hiện dự án đầu tư. Đảm bảo sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển vào công tác quản lý thực hiện dự án đầu tư chính là sự nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, qua đó gián tiếp tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư phục vụ cho phát triển đất nước, là công cụ giúp thực hiện các chỉ tiêu phát triển xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Kinh Tế Đầu Tư – PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ quang Phương. GT Lập Dự Án Đầu tư - PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt. Quyết định Dự Toán Vốn Dầu tư – Harold Bierman,JR. Seymour Smidt Nxb Thống Kê 1995. Tập bài giảng Đấu Thầu – ThS. Đinh Đào Ánh Thủy. Tập bài giảng quản trị rủi ro – TS. Nguyễn Hồng Minh. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 344, 347, 348, 349, 355 Tạp Chí NH số 19, 20 (10/2007), 1 (1/2008). Thông tin tham khảo từ các trang web: www.gso.gov.vn www.mot.gov.vn www.moi.gov.vn Báo: Thời báo kinh tế Việt Nam Báo đầu tư ®Æc ®iÓm cña ®Çu t­ ph¸t triÓn vµ sù qu¸n triÖt c¸c ®Æc ®iÓm cña ®Çu t­ ph¸t triÓn vµo c«ng t¸c chuÈn bÞ thùc hiÖn vµ vËn hµnh kÕt qu¶ ®Çu t­

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24694.doc
Tài liệu liên quan