Đề tài Giải pháp và định hướng phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam

Sự phát triển và phồn vinh của một nền kinh tế không còn chỉ dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động, mà ở mức độ lớn được quyết định bởi trình độ công nghệ thông tin và tri thức sáng tạo. Cùng với xu thế đó, thương mại điện tử xuất hiện đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới bởi những ảnh hưởng to lớn của nó. - Thương mại điện tử làm thay đổi tính chất nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như nền kinh tế toàn cầu. Làm cho tri thức trong nền kinh tế ngày càng tăng lên và tri thức đã thực sự trở thành nhân tố và nguồn lực sản xuất quan trọng nhất, là tài sản lớn nhất của một doanh nghiệp. - Thương mại điện tử mở ra cơ hội phát huy ưu thế của các nước phát triển sau để họ có thể đuổi kịp thậm chí vượt các nước đã đi trước. - Thương mại điện tử xây dựng lại nền tảng, sức mạnh kinh tế quốc gia và có tiềm năng làm thay đổi cán cân tiềm lực toàn cầu.

doc44 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1176 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp và định hướng phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
úc tiến: 100 triệu đồng, dự án hạ tầng cơ sở tiêu chuẩn hoá công nghiệp thương mại do Viện nghiên cứu (Bộ Thương mại) xúc tiến: 50 triệu đồng, dự án bảo hộ quyền trí tuệ do Vụ chính sách (Bộ Thương mại) xúc tiến: 50 triệu đồng, dự án bảo vệ người tiêu dùng do Cục quản lý thị trường (Bộ Thương mại) xúc tiến: 50 triệu đồng, dự án an ninh quốc gia về Thương mại điện tử (Bộ Công an) xúc tiến: 50 triệu đồng, dự án các khía cạnh xã hội do Bộ Văn hoá thông tin thực hiện: 50 triệu đồng, dự án xây dựng kế hoạch chung và áp dụng Thương mại điện tử do Vụ Kế hoạch (Bộ Thương mại) xúc tiến: 50 triệu đồng, dự án đào tạo do Trung tâm tin học Bộ Khoa học công nghệ & Môi trường xúc tiến: 100 triệu đồng và dự án thử nghiệm các dạng thức hoạt động của Thương mại điện tử do Hội tin học Việt Nam xúc tiến: 150 triệu đồng. Hiện dự án đang có tốc độ xúc tiến nhanh nhất là tiểu dự án hạ tầng cơ sở thanh toán điện tử do Ngân hàng Công thương xúc tiến. Dự án này ngoài tiền ngân sách cấp còn có kinh phí của ngành ngân hàng cho phát triển Thương mại điện tử là 100000USD và còn được sự hỗ trợ thêm 100000USD của hãng Fujitsu (Nhật Bản). Tiểu dự án được cấp vốn lớn nhất do Hội tin học Việt Nam xúc tiến sẽ cho phép trên 40 doanh nghiệp về thương mại, dịch vụ thử nghiệm áp dụng Thương mại điện tử. Những doanh nghiệp này sẽ được hỗ trợ miễn phí xây dựng website, quảng cáo trên Internet trong vòng 48 tháng. II.2.2.Thực trạng hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin: Điều kiện đầu tiên để ứng dụng Thương mại điện tử là phải có một nền công nghệ thông tin đủ mạnh, đủ năng lực tính toán, xử lý và truyền thông tin, dữ liệu. Điều này còn có ý nghĩa là để ứng dụng Thương mại điện tử, Việt Nam phải có một nền công nghiệp phần cứng và phần mềm hiện đại, một nền bưu chính viễn thông tiên tiến dựa trên một nền điện lực vững mạnh làm nền tảng. Tất cả các vấn đề trên phải đảm bảo tính kinh tế, hiệu quả tức là mức chi phí phải phù hợp để nhiều người tiêu dụng có thể tiếp cận được. Đây có thể coi là điều kiện quan trọng nhất để ứng dụng Thương mại điện tử. Công nghệ thông tin gồm 2 phần: công nghệ tính toán và công nghệ truyền thông. Thực trạng Công nghệ tính toán Từ cuối những năm 60 của thế kỷ trước, những chiếc máy tính đầu tiên đã xuất hiện ở Việt Nam, một số ở miền Bắc do Liên Xô viện trợ, một số khác do Mỹ trang bị ở miền Nam. Đến cuối những năm 70 chúng ta có khoảng 40 dàn máy tính lớn đặt ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, bao gồm các máy Misnk, EC và IBM. Đây có thể xem là những bước khởi đầu đánh dấu sự ra đời của ngành công nghiệp tính toán ở Việt Nam. Vào đầu những năm 80, máy vi tính ra đời và bắt đầu được nhập vào ở Việt Nam, mở đầu thời kỳ phát triển nhanh chóng tin học ở Việt Nam. Từ cuối năm 1994 đầu năm 1995, Việt Nam bắt đầu triển khai Chương trình Quốc gia về Công nghệ thông tin, các công ty tin học hang đầu thế giới như IBM, Compag, Digital bắt đầu tham gia thị trường Việt Nam. Số lượng máy tính PC nhập khẩu tăng vọt với tốc độ 50%/năm. Cũng theo số lượng thống kê, máy tính lắp ráp trong nước đang có xu hướng tăng nhanh khoảng 80-100 nghìn chiếc một năm. Trong nhiều cơ quan, doanh nghiệp dữ liệu đã được tổ chức thành các kho thông tin có cấu trúc (cơ sở dữ liệu) và chuẩn hoá dựa trên các phần mềm quản trị cơ sở dữ liệu nền mạng như Fox, Access, Oracle, SQL Server Các phần mềm nhóm như MS Office, Lotus Notes đã được sử dụng nhiều. Chúng ta xây dựng được 6 cơ sở dữ liệu quốc gia phục vụ cho mục tiêu tin học hoá quản lý nhà nước. Nhiều mạng máy tính dạng LAN, Intranet, chạy trên các hệ điều hành mạng khác nhau như Unix, Windows NT Nowell Netware đã được triển khai như mạng Văn phòng Chính phủ, mạng của Bộ Quốc Phòng, mạng của Bộ Tài chính, mạng Ngân hàng, mạng Tổng cục Hải quan Năm 1993, gần 99% máy tính được trang bị là thuộc các cơ quan Nhà nước. Tình trạng này ngày càng thay đổi đáng kể. Theo số liệu năm 1998, tỷ lệ là 75% ở các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp, 10% thuộc các cơ quan nghiên cứu và quốc phòng, 10% ở các cơ sở giáo dục và 5% ở các gia đình. Xu hướng chung ngày càng có nhiều gia đình trang bị máy tính tại nhà phục vụ công việc và học tập. Công nghiệp phần cứng ở nước ta mới chỉ ở khâu lắp ráp. Phần cứng thiết bị tin học chủ yếu là nhập khẩu. Từ năm 1998, chúng ta đã lắp ráp được máy tính mang thương hiệu Việt Nam đầu tiên và đến nay chủng loại máy tính lắp ráp trong nước rất phong phú. Tuy nhiên, tỷ lệ nội địa hoá thấp, phần lớn linh kiện phải nhập khẩu nên giá thành còn khá cao. Công nghiệp phần mềm Việt Nam đã và đang phát triển, từ chỗ chủ yếu là các dịch vụ cài đặt và hướng dẫn sử dụng các phần mèm có sẵn, đến nay đã có nhiều công ty phần mềm cho ra đời (cả nước ta có khoảng trên 300 công ty đăng ký trên mạng và trên 200 công ty vừa xuất khẩu phần mềm vừa kết hợp các hoạt động kinh doanh) nhiều sản phẩm đáp ứng các nhu cầu công việc cụ thể trong nhiều lĩnh vực khác nhau như tài chính kế toán, địa chính, quản lý nhân sự, quản lý văn thư, điều tra thống kê Đặc biệt, một số công ty tin học hàng đầu như FPT, Lạc Việt đã có nhiều sản phẩm xuất khẩu. Tuy nhiên, quy mô của các công ty phần mềm còn khá nhỏ, chỉ có khoảng 10-20 nhân viên. Chỉ có một vài công ty có số nhân viên trên 100 người. Đội ngũ làm phần mềm chưa thật sự lành nghề, chưa có nhiều kinh nghiệm trong Thương mại điện tử. Các công ty trong nước mới chỉ đạt được 10% thị trương phần mềm trong nước. Tình hình trên do các nguyên nhân chủ yếu sau: Thứ nhất, khách hàng (bao gồm cả các cơ quan và các nhân) chưa thấy được vai trò quan trọng của phần mềm trong các dự án tin học. Thứ hai, tình trạng sao chép bất hợp pháp các sản phẩm phần mềm có tính phổ biến. Việt Nam nằm trong những nước đứng đầu về tình trạng sao chép đĩa lậu. Mỗi phần mềm của Microsoft có giá bản quyền khoảng vài trăm đôla một chiếc đĩa. Nhưng ngoài thị trường nó bị sao chép và chỉ có giá khoảng 7000-8000VND cho một đĩa. Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu là do đời sống của nhân dân còn thấp, họ không đủ tiền mua đĩa có bản quyền. Với các công ty trong nước, đây là yếu tố cản trở các công ty đầu tư vào nghiên cứu và sản xuất phần mềm ứng dụng. Thị trường công nghệ tin học ở Việt Nam năm 1997 đạt tổng doanh thu khoảng 450 triệu USD bằng 1,7%GDP Việt Nam, 1,5% doanh số thị trường công nghệ tin học Châu Á, 0,2% doanh số thị trường tin học toàn cầu. Trong đó, phần cứng chiếm khoảng 80%, phần mềm khoảng 5%, truyền dữ liệu khoảng 5%, dịch vụ khoảng 10%. Năm 1998, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế khu vực, doanh số giảm xuống còn khoảng 300 triệu USD. Trong đó, phần cứng chiếm khoảng 100 triệu USD, phần mềm chiếm 80 triệu USD. Việt Nam tham gia mạng toàn cầu tương đói chậm, tháng 11 năm 1997 kết nối Internet, giữa năm 1999 mới có khoảng 20000 thuê bao, chủ yếu là khách hàng của các nhà cung cấp dịch vụ lớn như VDC (Công ty dịch vụ gia tăng và truyền số liệu), FPT (Công ty phát triển và đầu tư công nghệ), NetNam (Viện công nghệ thông tin). Lĩnh vực này đang phát triển nhanh dần, số thuê bao Internet đang tăng với tốc độ 600-700 thuê bao một tháng. Dịch vụ Internet đang mở rộng, các báo điện tử xuất hiện ngày một nhiều. Đến nay đã có chợ công nghệ VietNamNet trên mạng- nơi các doanh nghiệp có thể đăng ký để mua bán sản phẩm qua mạng hoặc quảng bá sản phẩm của mình Thực trạng công nghệ truyền thông Ngành viễn thông Việt Nam những năm gần đây tăng trưởng tới 7%/năm. Năm 1992 có 45 triệu phút đàm thoại thì năm 1996 tăng lên 300 triệu phút. Liên lạc viễn thông được sử dụng qua vệ tinh của nước ngoài và hiện nay là vệ tinh VinaSat1. Các công nghệ và thiết bị điều khiển tự động tăng tiến đã được sử dụng trong nhiều ngành khác nhau như hệ thống định vị toàn cầu trong địa chính (GPS – Global Positioning System), thiết bị điều khiển bay trong hàng không Mạng điện thoai cơ bản đã được số hoá. Đến tháng 3-2001, tổng thuê bao điện thoại đạt 3,5 triệu máy, số thuê bao di động các loại đạt trên 700 nghìn máy. Mật độ điện thoại trung bình đạt 5máy/100dân, gấp 2,5 lần so với năm 90, đã có 87% xã trong cả nước được phục vụ dịch vụ điện thoại. Năm 1993, Tổng cục Bưu chính viễn thông Việt Nam đã thiết lập mạng truyền thông số liệu quốc gia dựa trên công nghệ X.25, gọi là mạng VIETPAC. Mạng này nối 32 tỉnh và thành phố. Sau khi đưa vào sử dụng, mạng này nhanh chóng tỏ ra không đáp ứng được nhu cầu truyền dữ liệu ngày càng tăng. Để đáp ứng được nhu cầu, Tổng cục Bưu chính viễn thông đã phát triển mạng toàn quốc VNN kết nối Internet và các mạng nội bộ của các cơ quan nhà nước và cá nhân. VNN là một mạng quốc gia đường dài, có 2 cổng kết nối mạng trục quốc tế, một ở TPHCM, một ở Hà Nội. Cổng Hà Nội có 2 đường quốc tế, một đường có vận tốc 256 Kb/sec nối với Úc bằng vệ tinh, một với vận tốc 2 Mb/sec nối với Hồng Kông bằng cáp quang. Cổng TPHCM cũng có 2 đường quốc tế, một đường có vận tốc 64 Kb/sec nối với Mỹ bằng vệ tinh, một với vận tốc 2 Mb/sec bằng cáp quang. Mạng trục Bắc- Nam có 2 đường truyền vận tốc 2 Mb/sec và một đường dự phòng 192 Kb/sec nối với mạng X.25. VNN có thể cung cấp các dịch vụ nối mạng trục cho khoảng 30 mạng thiết lập và các dịch vụ nối mạng Internet với vận tốc 64 Kb/sec. Nhờ các mạng nội bộ và các mạng quốc gia, công việc quản lý một số ngành đã được tin học hoá: Bộ Tài chính có thể nhận được thông tin hàng ngày từ các điểm thu thuế của 61 tỉnh và thành phố trong cả nước và thông qua một mạng kết nối hơn 10 nghìn máy PC có thể quản lý thu chi hàng ngày cả nước. Tổng cục Hải quan đã có mạng thu được thông tin hàng ngày về hoạt động xuất nhập khẩu từ 131 cơ sở. Hệ thống Ngân hàng Việt Nam (Ngân hàng quốc gia và các ngân hàng thương mại) đã thiết lập được mạng liên kết khoảng 15 nghìn máy với trung tâm. Hàng không quốc gia đã có mạng trên 20 nghìn máy liên kết các phòng vé, sân bay và kho hàng. Tuy nhiên vẫn còn những tồn tại chính đối với ngành truyền thông hiện nay: Thứ nhất, tính tin cậy của dịch vụ truyền thông còn thấp. Thứ hai, chi phí cho nó còn quá cao so với thu nhập bình quân của người dân và so với các nước khác. Thứ ba, Nhà nước chưa có chính sách khuyến khích mọi người sử dụng các dịch vụ truyền thông. Thứ tư, mật độ và mức độ phổ cập mạng lưới các dịch vụ viễn thông và Internet còn nhỏ bé, thấp hơn nhiều so với mức bình quân của thế giới. Cụ thể là ở Việt Nam mật độ máy điện thoại là 5/100dân trong khi bình quân thế giới là 20/100dân, số người sử dụng Internet là 0,2% so với thế giới là 7%. Thứ năm, mạng truyền thông chưa đáp ứng được nhu cầu truy cập nhanh Internet của người dân và doanh nghiệp. Thứ sáu, chất lượng dịch vụ viễn thông, dịch vụ Internet chưa cao, vẫn còn hiện tượng nghẽn mạch vào giờ cao điểm. Thứ bảy, hệ thống máy chủ của các nhà cung cấp dịch vụ còn chưa đủ mạnh. II.2.3.Thưc trạng hạ tầng cơ sở nhân lực và kỹ năng nguồn nhân lực Nguồn nhân lực cho Thương mại điện tử được hiểu là tất cả các chủ thể tham gia vào hoạt động của Thương mại điện tử, bao gồm các công chức chính phủ, các nhà doanh nghiệp và đông đảo người tiêu dùng. Để phát triển và ứng dụng Thương mại điện tử đòi hỏi nguồn nhân lực không chỉ cần có đủ số lượng và chất lượng cán bộ chuyên môn mà quan trọng hơn là phải có được đa số người tiêu dùng biết các kiến thức làm việc trên mạng, sử dụng thành thạo các kỹ năng công nghệ thông tin, các công cụ điện tử, biết ngoại ngữ, hiểu biết về pháp luật Chuyên gia công nghệ thông tin Tính đến năm 1980, Việt Nam chưa có khoa công nghệ thông tin trong các trường Đại học, đồng thời cũng chưa có hệ thống đào tạo các chuyên gia và cán bộ cho ngành khoa học mới mẻ và hướng thực tiễn này. Đội ngũ những người làm tin học trong giai đoạn này là các nhà toán học chuyển qua nghiên cứu tin học thông qua tự học khi máy tính điện tử bắt đầu vào Việt Nam và một số những người được đào tạo về chuyên môn này ở nước ngoài về. Sau năm 1980 nhiều trường đã thành lập khoa công nghệ thông tin như Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Quốc gia Việc đào tạo trong nước dần được mở rộng cả về quy mô và chất lượng. Song song với đào tạo trong nước, Nhà nước tiếp tục gứi sinh viên theo học ở các nước phát triển hàng đầu như Mỹ, Pháp, Úc, Canada, Ấn Độ Lực lượng chuyên gia tin học Việt Nam hiện nay có thể chia thành 4 nhóm chính: Nhóm 1: Gồm các chuyên gia cao cấp được đào tạo ở nước ngoài và các nhà toán học đã chuyển hướng nghiên cứu từ nhiều năm qua. Theo thống kê năm 1999 là khoảng 15 nghìn ngưòi. Con số ấy hiện nay còn lớn hơn rất nhiều và sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới. Nhóm2: Các cán bộđào tạo từ các khoa công nghệ thông tin của các trường Đại học trong nước, mỗi năm có khoảng 1000 người. Theo đánh giá của Hội Tin học Việt Nam, trong vài năm gần đây các sinh viên chuyên ngành công nghệ thông tin khi tốt nghiệp có trình độ khá cao và trình độ này được nâng lên nhanh chóng khi họ tham gia vào công việc thực tế. Nhóm 3: Gồm các học viên qua đào tạo ngắn hạn tại các trường trung học, trung tâm hoặc tự học. Số này còn được gọi là các kỹ thuật viên tin học. Hiện nay có khoảng vài vạn người và số lượng đang tăng lên rất nhanh. Nhóm 4: Gồm những người Việt kiều làm tin học. Theo thống kê chưa đầy đủ có khoảng 50 nghìn người. Lực lượng này theo đánh giá chung là giỏi, nhiều người có trình độ cao, một số đang là chuyên gia hàng đầu của các tổ chức tin học thế giới. Đa số họ có nguyện vọng về tham gia hoạt động và đóng góp trí tuệ cho sự nghiệp phát triển công nghệ thông tin nước nhà. Họ có nhu cầu tìm hiểu rất lớn về chủ trương, chính sách của Nhà nước ta trong các vần đề liên quan. Lực lượng làm tin học ở nước ta có một số ưu điểm sau: Nhiều người thông minh, có đầu óc sáng tạo đặc biệt trong lĩnh vực phần mềm ứng dụng. Có khả năng nhận biết và thích ứng nhanh với xu thế phát triển mới của công nghệ thông tin. Cần cù và chịu khó, có khả năng làm việc ngay cả trong những điều kiện rất thiếu và khó khăn, đặc biệt là có khả năng và ý chí tự học rất cao. Tuy nhiên lực lượng này cũng có một số nhược điểm như: Tổng số chuyên gia công nghệ thông tin đã đào tạo mới trên 30.000 người. Đây là con số còn quá khiêm tốn. Chúng ta nhận thấy rõ ràng là nhân lực của Việt Nam còn thấp kém ở mọi lĩnh vực, mọi cấp bậc. Không khó gì để nhận biết khoảng cách quá lớn giữa những gì chúng ta có với những gì hoạt động dựa trên kinh tế tri thức cần. Và trên thực tế ngay cả lực lượng lao động nhỏ cung cấp cho vài khu công nghệ cao cũng trở thành vấn đề nan giải. Hơn nữa, lực lượng làm phần mềm của chúng ta còn quá mỏng, tính chuyên nghiệp chưa cao do chưa được đào tạo bài bản và cọ sát thực tế để thuần thục các kỹ năng. Chính vì vậy mặc dù có những đơn đặt hàng ngay lập tức các doanh nghiệp Việt Nam dù rất muốn vẫn phải ngậm ngùi đứng ngoài. Theo số liệu thống kê của Hội tin học thành phố Hà Nội hiện có khoảng 6000 có trình độ đại học về công nghệ thông tin nhưng thực tế chỉ khoảng 10% làm phần mềm. Điều tra tại 39 doanh nghiệp làm phần mềm cho thấy số nhân viên làm phần mềm chỉ chiếm 43% trong khi đó nhu cầu là 70%. Cho đến nay, chủ yếu là các trường mới chỉ tập trung đào tạo các chuyên gia phần mềm. Nguyên nhân chính là do việc đào tạo các chuyên gia phần cứng đòi hỏi điều kiện vật chất rất lớn. Trong lĩnh vực phần mềm các chuyên gia Việt Nam chưa đủ năng lực xây dựng các phần mềm có quy mô toàn cục(ở mức quốc gia và quốc tế). Số lượng các phần mềm trong nước còn ít. Nguyên nhân là do hạ tầng công nghệ thông tin quốc gia chưa đồng đều, vững chắc và thuận lợi để phát triển các hệ thống như vậy. Lực lượng cán bộ tin học được đào tạo ra nhiều nhưng chưa tập hợp và khai thác được. Một số rất lớn được nhận vào các cơ quan làm việc nhưng thực chất là làm trái nghề hoặc làm công việc không xứng với năng lực được đào tạo. Một điều đáng lo ngại là nếu những năm trước đây các học sinh giỏi đều thích học công nghệ thông tin thì hiện nay xu thế trên đã giảm đi rất nhiều do chất lượng đào tạo trong nước còn thấp, nhiều kỹ sư tin học sau khi ra trường chỉ chuyên sửa máy hoặc bán máy. II.2.4. Thực trạng chủ thể tham gia vào Thương mại điện tử và kỹ năng nguồn nhân lực Có ba chủ thể tham gia vào Thương mại điện tử là Chính phủ, doanhnghiệp và người tiêu dùng Chính phủ Là lực lượng tiến bộ và hiện đại nhất. Chính phủ hoàn toàn có thể sử dụng thành thạo các tiến bộ về Công nghệ thông tin. Các doanh nghiệp Hiện nay mới chỉ có một số rất nhỏ các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm đến Thương mại điện tử, chỉ có trên 1000 doanh nghiệp có trang Web riêng trong số hàng ngàn chục doanh nghiệp. Ở nhiều cơ quan và doanh nghiệp, nhiều cán bộ, nhân viên chưa từng được dùng máy tính. Những người được dùng máy tính cũng chỉ dừng lại ở mức là dùng nó để soạn thảo văn bản. Trình độ ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và kinh doanh chưa phù hợp với nhiệm vụ thực tiễn. Trong một điều tra mẫu của quỹ phát triển chương trình Mêkông đối với các doanh nghiệp tư nhân quy mô nhỏ có kết quả: 48% doanh nghiệp sử dụng Internet chỉ với mục đích gửi thư, 33% số doanh nghiệp cho biết họ có kết nối vào mạng Internet nhưng chưa có ý tưởng kinh doanh gì qua mạng, chỉ có 19% số doanh nghiệp có ý định sử dụng nghiêm túc. Một điều tra khác của dự án “Cầu nối Thương mại điện tử” cho biết trong số 56.000 doanh nghiệp được khảo sát (trong đó gồm 6000 doanh nghiệp nhà nước) thì có tới 90% doanh nghiệp không có chút khái niệm nào về Thương mại điện tử. Người tiêu dùng Đào tạo tin học ngày càng mở rộng và nhu cầu học tập tin học ngày càng cao khiến mặt bằng chung về hiểu biết về công nghệ thông tin trong cộng đồng dân cư được cải thiện khá nhiều đặc biệt là ở các thành phố và các trung tâm văn hóa, chính trị, thương mại lớn. Tuy nhiên, đánh giá chung nhất, vẫn còn một khoảng cách rất lớn về việc có biết về tin học cụ thể hơn là máy tính và ứng dụng của tin học với khả năng ứng dụng thực các phương tiện đó, đặc biệt là ứng dụng của Internet và Web. Đa số người tiêu dùng chưa có thói quen với Thương mại điện tử, chưa có khái niệm mua bán trên mạng, họ vẫn quen với các hình thức thương mại truyền thống. Riêng về ứng dụng của Internet và Web, tỷ lệ người sử dụng Internet trên 1000 dân đạt 0,02 (theo số liệu năm 2000). Số máy nối mạng cồn thấp so với quy mô dân số và quy mô giao dịch thương mại. Giá truy nhập Internet còn khá cao so với thu nhập bình quân của người dân. Cả nước chỉ có công ty VDC là nhà cung cấp duy nhất đầu vào mạng (IAP) và năm nhà cung cấp dịch vụ (ISP). Xét cả về cơ sở công nghệ cũng như cơ sở nguồn nhân lực, có thể đưa ra nhận định sau:” Mặc dù đã phát triển nhiều lĩnh vực nhưng vì nhiều lý do, Việt Nam vẫn còn là một nước kém phát triển trong lĩnh vực công nghệ thông tin Việc sử dụng máy tính ngày càng phổ biến nhưng vẫn còn mang tính tự phát. Trên thực tế, Việt Nam chưa có một ngành công nghiệp tin học.” II.2.5.Thực trạng hạ tầng cơ sở kinh tế và pháp lý Nhìn một cách tổng quát, nền kinh tế nước ta vẫn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp lạc hậu, sản xuất công nghiệp với quy mô lớn chưa hình thành, năng suất lao động còn thấp so với khu vực và thế giới, tỷ lệ đói nghèo còn cao, tỷ lệ thất nghiệp thực tế cao và chi phí dịch vụ các loại còn ở mức rất cao. Xét về buôn bán hàng hóa và dịch vụ, thương mại còn ở mức phát triển rất thấp. Dân số trên 80 triệu người nhưng tổng doanh số hàng hóa bán lẻ hàng năm chỉ đạt 180-190 nghìn tỷ đồng, tính bình quân mới ở mức 200USD/người/năm. Mặc dù đã tăng với tốc độ cao trong những năm 90 của thế kỷ trước nhưng đến đầu những năm 2000 kim ngạch xuất khẩu tính trên đầu người mới đạt 170USD/nguời/năm- là quy mô tối thiểu của một nền xuất khẩu tương đối phát triển. Hàng xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu thô (dầu mỏ,than đá), nông thủy sản (gạo, lạc, cà phê, thủy sản) và hàng công nghiệp mức độ chế biến thấp (may mặc, giày dép). Cả nước có khoảng 40.000 công ty quốc doanh, còn lại là ngoài quốc doanh, trong số đó có gần 1000 công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Các công ty quốc doanh chiếm khoảng trên 40% GDP và khoảng 70% tống số lượng công nghiệp, nhưng hiệu quả hoạt động thấp. Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước mới ở giai đoạn đầu: tính đến năm 2005 nứớc ta mới chỉ có 2242 doanh nghiệp cổ phần hóa. Một điểm đáng lưu ý của hoạt động buôn bán hàng hóa và dịch vụ của nước ta là mức độ giao dịch còn thấp. Riêng về buôn bán với nước ngoài, tuy có trao đổi hàng hóa và dịch vụ với trên 100 nước nhưng vẫn chủ yếu tập trung ở các bạn hàng truyền thống trong khu vực như Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loan,chiếm tới 70% tổng kim ngạch xuất khẩu. Mạng lưới bạn hàng trong và ngoài nước của các công ty nói chung rất hẹp, đa số các công ty thiếu thông tin về thị trường, hàng hóa, bạn hàng do đó cơ hội kinh doanh bị hạn chế. Trên quan điểm kinh tế số nói chung và Thương mại điện tử nói riêng cần đặt ra hàng loạt các vấn đề sau: Do năng lực kinh tế thấp và cách làm kinh tế còn lạc hậu, hệ thống tiêu chuẩn theo đúng nghĩa vẫn còn chưa hình thành, hệ thống thông tin kinh tế quốc gia cũng không tương thích và chưa thực sự thống nhất, chưa có hệ thống mã quốc gia là điều kiện gây trở ngại lớn cho việc chuyển sang kinh tế số. Năng suất lao động thấp, tổ chức lao động lạc hậu, tỷ lệ thất nghiệp khá cao chưa thực sự tạo ra động lực thúc đẩy tiết kiệm chi phí vật chất và thời gian- là các mục tiêu cơ bản hướng tới Thương mại điện tử. Mức sống còn khá thấp không cho phép đông đảo người dân và các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ dễ dàng tiếp cận các phương tiện của kinh tế số. Chi phí đầu tư cho 1 đơn vị thiết bị cơ bản và chi phí dịch vụ Thương mại điện tử như máy tính PC, phí hòa mạng, phí thuê bao còn ở mức cao so với thu nhập trung bình của số đông người dân. Các chi phí này thậm chí còn cao hơn nhiều so với một số nước trong khu vực. Về cơ bản chúng ta chưa hình thành hệ thống thanh toán tài chính tự động, tức là thiếu hẳn một trong các thành phần căn bản quan trọng nhất của Thương mại điện tử. Nó là thành tố không chỉ đảm bảo tính kinh tế(giảm chi phí giao dịch) mà cả tính khả thi của Thương mại điện tử. Việc xây dựng hệ thống này sẽ là một quá trình, vì một mặt chúng ta phải xây dựng hạ tầng kỹ thuật tương ứng, mặt khác phải tạo thói quen thanh toan gián tiếp thay cho hình thức dùng tiền mặt hiện nay. Chúng ta chưa thực sự thực thi việc tiêu chuẩn hóa toàn bộ nền kinh tế bao gồm các công việc chủ yếu là mã hóa và tiêu chuẩn hóa toàn bộ các doanh nghiệp, đa số hàng hóa vẫn trao đổi theo mẫu và theo quan sát trực tiếp, hàng giả còn phổ biến. Riêng mã số mã vạch hiện mới chỉ được sử dụng trên phạm vi hẹp các sản phẩm bán lẻ lưu thông trên thị trường. Điều này dẫn đến một hệ quả là chúng ta rất khó khăn hòa vào mạng lưới tiêu chuẩn của khu vực và thế giới. Hơn nữa chúng ta còn thiếu một chiến lược mã hóa quốc gia làm giảm cơ sở phát triển công nghệ mã hóa phục vụ cho mục đích đảm bảo an toàn dữ liệu và thông tin. Hệ thống luật pháp hiện đang ở giai đoạn hình thành đầu tiên và thực sự chưa hoàn thiện, đặc biệt là các vấn đề pháp lý liên quan đến Thương mại điện tử. Các bộ luật Thương mại, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, hình sự và nhiều bộ luật liên quan khác chưa bao hàm nội dung về giá trị pháp lý cho các giao dịch điện tử, xác nhận điện tử II.2.6. Thực trạng hạ tầng cơ sở chính trị, xã hội Trong quá trình đổi mới những năm qua, đất nước ta đã chuyển một bước đáng kể sang hướng mở cửa. Song do hoàn cảnh đặc thù, nhiều mặt phải tuân theo các chế định do lịch sử kinh tế-xã hội để lại chúng ta chưa thể tham gia ngay vào nền kinh tế số nói chung và thương mại điện tử nói riêng như mong muốn. Các thế lực thù địch còn tiếp tục hoạt động chống phá mạnh mẽ, và nhìn từ khía cạnh này có thể thấy Internet và Web có thể dễ dàng trở thành phương tiện thuận lợi cho mục đích chống phá đó. Điều này buộc nhà nước phải có biện pháp đối phó thích hợp: tăng cường chỉ đạo, quản lý, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch dùng phương tiện thông tin điện tử làm phương tiện phá hoại. Việc sử dụng Internet phải có sự giám sát nhất định. Hoàn cảnh đặc thù này chưa hoàn toàn phù hợp với thương mại điện tử. Về cách sống và làm việc, đa số người dân vẫn còn thói quen giao dịch trực tiếp trên các văn bản giấy tờ truyền thống và mua bán trao tay, thanh toán bằng tiền mặt Đây là một thói quen khác cơ bản với thói quen có trong thương mại điện tử. Và điều đáng lưu ý ở đây là thói quen trên không dễ gì thay đổi một cách nhanh chóng được. Về mặt xã hội, do lịch sử nghìn năm sống trong nền văn hóa làng xã và sản xuất nông nghiệp, đông đảo người dân Việt chưa xây dựng được tác phong làm việc theo nhóm cũng như chưa có được lối sông pháp luật chặt chẽ, theo kỷ luật lao động công nghiệp tiêu chuẩn hóa, đều là những yếu tố cần thiết đối với nền kinh tế số và thương mại điện tử. Tất cả các cơ sở hạ tầng nói trên đều cho thấy môi trường điển hình cho nền kinh tế số cũng như thương mại điện tử chưa được hình thành một cách rõ nét và đầy đủ ở Việt Nam. Vì vậy đòi hỏi phải có một quá trình chuẩn bị, quá trình đó dài hay ngắn tùy thuộc vào quan điểm chung, cách nhận thức vấn đề và cách triển khai thương mại điện tử. II.3. Những thách thức & nguy cơ mà doanh nghiệp phải đối mặt khi thực hiện TMĐT ở Việt Nam II.3.1.Thách thức & nguy cơ về cơ sở hạ tầng công nghệ Thương mại điện tử là đỉnh cao của quá trình tự động hóa quy trình thương mại truyền thống vừa là hệ qủ tất yếu của kỹ thuật số nói chung và công nghệ thông tin nói riêng. Do vậy để có thể triển khai thương mại điện tử và triển khai thành công các doanh nghiệp cần thiết phải có được một hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin vững chắc. Tuy nhiên điều này là hết sức khó khăn với các doanh nghiệp bởi để đảm bảo các yêu cầu đó hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin phải đảm bảo các điều kiện như: Tính tuân theo chuẩn: Hệ thống các chuẩn cần thiết phải được xem như một phân hệ trong hệ thống công nghệ thông tin và đạt tới mục tiêu chung là mọi thành viên tham gia thương mại điên tử kể cả người tiêu dùng cá thể. Là một nước đang phát triển Việt Nam chưa thể tuân theo chuẩn này. Đạt tới một độ ổn định cao: Cho dù các sản phẩm công nghệ thông tin được sản xuất trong nước hay mua của nước ngoài, yếu tố phải tính đến là ổn định quá trình nâng cấp phát triển sản phẩm, sự ổn định về mức chi phí phù hợp với người tiêu dùng. Hạ tầng công nghệ thông tin liên quan chặt chẽ với an toàn thông tin do vậy một số vấn đề công nghệ vừa là cốt lõi vừa là thách thức khó vượt qua của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. II..3.2.Thách thức & nguy cơ về hạ tầng cơ sở nhân lực Thương mại điện tử liên qua đến tất cả mọi người bởi chính đặc điểm thương mại và đặc điểm nền tảng công nghệ của nó. Thương mại điện tử là một hình thái mới có nền tảng là công nghệ cao do đó để triển khai và thực thi nó yêu cầu mọi người tham gia phải có ý thức dần hình thành thói quen sử dụng nó. Yêu cầu đầu tiên là mọi người phải có thói quen sử dụng mạng Internet và mua hàng trên mạng. Yêu cầu này ở Việt Nam tính khả thi chưa cao bởi thói quen này chưa hình thành ở nước ta. Tiếp đó cần thiết phải có một đội ngũ các nhà tin học có đủ khả năng vận hành đồng thời nắm bắt, phát triển các công nghệ phục vụ chung. Do đó các doanh nghiệp trong nước cần hết sức chú trọng phát triển nguồn nhân lực. II.3.3.Thách thức & nguy cơ về bảo mật và an toàn Giao dịch thương mại trên các phương tiện điện tử đặt ra các đòi hỏi rất cao về bảo mật và an toàn, đặc biệt là trên Internet. Bản chất của giao dịch thương mại điện tử là gián tiếp, bên mua và bên bán ít biết thậm chí không biết về nhau. Giao dịch hoàn toàn thông qua các kênh truyền thông. Điều này dẫn đến lo ngại riêng của cả người mua và người bán. Người mua: lo sợ thẻ tín dụng của họ khi truyền đi trên mạng có thể bị kẻ xấu hoặc bên bán lợi dụng và sử dụng bất hợp pháp Người bán: lo ngại về khả năng thanh toán và quá trình thanh toán của bên mua Tất cả các giao dịch đó đều liên quan đến các thông tin dưới dạng dữ liệu tồn tại và di chuyển trên mạng. Về mặt công nghệ, kỹ thuật mã hoá là nền tảng cơ bản giải quyết vấn đề này. Kỹ thuật mã hoá cơ bản bao gồm một thuật toán mã hoá- giải mã và một khoá được dùng để mã hóa- giải mã. Thách thức đặt ra là kỹ thuật này chỉ có hiệu lực trong một thời gian nhất định, việc dò và giải mã là hoàn toàn có thể nếu loại bỏ yếu tố thời gian. Hơn nữa với một nước đang phát triển như nước ta hiện nay công nghệ thông tin và năng lực tạo ra các sản phẩm riêng chưa có nên hoàn toàn phụ thuộc công nghệ vào các nước phát triển- đây là điều không hề mong muốn. II.3.4.Thách thức & nguy cơ về thanh toán tự động Để thương mại điện tử có thể hoạt động cần phải có hệ thống thanh toán tự động. Khi chưa có hệ thống thanh toán điện tử thì thương mại điện tử chỉ sử dụng được phần trao đổi thông tin, quảng cáo và tiếp thịcác hoạt động thương mại vẫn chỉ kết thúc bằng hình thức thanh toán trực tiếp. Ở nước ta hiện nay vẫn chưa có hệ thống thanh toán điện tử. Đây là một thách thức lớn mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt. II.3.5.Thách thức & nguy cơ về bảo vệ sở hữu trí tuệ Đây là vấn đề mà các doanh nghiệp ở nước ta hay mắc phải. Chất lượng sản phẩm càng cao thì hàm lượng chất xám càng nhiều. Khi tham gia vào thương mại điện tử thông tin trở thành tài sản và bảo vệ tài sản cuối cùng sẽ là bảo vệ thông tin. Do đó vấn đề đặt ra là bảo vệ sở hữu trí tuệ và bản quyền của các thông tin trên Web (các hình thức quảng cáo, các nhãn hiệu thương mại, các cơ sở dữ liệu, các dung liệu truyền gửi qua mạng). Riêng đối với dung liệu, vấn đề đặt ra là bản thân việc số hoá nhị phân các dữ liệu văn bản, hình ảnh, âm thanh để thành dung liệu truyền gửi đã là hành động sao chép, phiên dịch và phải được tác giả đồng ý. Nhưng vì đưa lên mạng nên số bản Internet không thể biết là bao nhiêu nên việc thoả thuận và xử lý trở nên khó khăn. Ở mức cao hơn người ta còn tính đến khía cạnh phức tạp hơn nữa của vấn đề phân chia tài sản trí tuệ mua bán qua mạng. Điều này đòi hỏi cần sửa đổi hệ thống pháp luật về các mối quan hệ sở hữu trí tuệ. Trong điều kiện hiện nay chúng ta khó có thể thực hiện được điều này trong một sớm một chiều. II.3.6.Thực trạng & nguy cơ về bảo vệ người tiêu dùng Nhìn nhận trên cơ sở lý luận thương mại và lý thuyết thông tin, một thị trường bị sụp đổ bao giờ cũng bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa là thông tin không tương xứng. Nghĩa là người bán biết khác với cái người mua. Trong thương mại điện tử thông tin về hàng hoá đều là thông tin số. Người mua không có điều kiện “xem thử”, “nếm thử” hàng trước khi mua, khả năng mua phải những sản phẩm chất lượng thấp là rất lớn. Thậm chí còn có khả năng bị nhầm lẫn cơ sở dữ liệu, bị lừa gạt bởi các thông tin và các tổ chức phi pháp có mặt trên mạng. Vì vậy cần phải có một trung gian bảo đảm chất lượng hoạt động hữu hiệu và ít tốn kém. Những trung gian này chưa được hình thành ở Việt Nam do đó các doanh nghiệp khó lòng thay đổi thói quen tiếp xúc trực tiếp với hàng hoá trước khi mua của người tiêu dùng. II.3.7.Thách thức & nguy cơ về vấn đề lệ thuộc công nghệ Hiện nay nước Mỹ đang khống chế toàn bộ công nghệ thông tin quốc tế cả về phần cứng và phần mềm. Chuẩn công nghệ Internet chủ yếu là chuẩn của Mỹ, các phần mềm duyệt Web hầu hết cũng là của Mỹ. Vì vậy Mỹ là quốc gia đi đầu trong kinh tế số và thương mại điện tử. Trong khi nước ta còn đang vất vả trong nền kinh tế vật thể thì Mỹ đã tiến nhanh trong nền kinh tế ảo, lấy kinh tế tri thức, sỏ hữu trí tuệ, giá trị chất xám làm nền móng. Là một nước đang phát triển đã chậm chân rất có thể chúng ta mãi mãi ở tầm thấp và phụ thuộc hoàn toàn về công nghệ vì điều kiện thực tiễn không cho phép chúng ta đuổi kịp. Sự phụ thuộc ấy không chỉ thể hiện sự thiệt thòi về kinh tế mà ở tầm cao hơn Mỹ và các nước tiên tiến gần Mỹ có thể biết hết toàn bộ thông tin của nước ta cũng như các nước đang phát triển khác. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải có một chiến lược thích hợp để không trở thành một quốc gia thứ cấp về công nghệ. Phần III: Giải pháp và định hướng phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam III.1. Các định hướng và giải pháp cụ thể III.1.1. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin Chính phủ cần phải đánh giá hạ tầng thông tin quốc gia cả về phần cứng và phần mềm để xem xét mọi mặt góp phần vào việc tăng cường sử dụng thương mại điện tử bao gồm các chiính sách, việc kết nối Internet và kiến thức máy tính. Từ đó mở rộng, hiện đại hoá mạng lưới viễn thông. Xây dựng và phát triển nhiều dịch vụ ứng dụng trên Internet, tạo điều kiện truy cập Internet được dễ dàng với chất lượng tốt giá cả phù hợp. Đồng thời khai thác sử dụng tối đa năng lực và dịch vụ của các thể chế liên quan đến thu thập và phổ biến thông tin, dữ liệu và các chương trình mục tiêu để tăng cường sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Ví dụ như các nghiên cứu đánh giá sự tham gia của các doanh nghiệp có quy mô quốc gia và địa phương vào các chương trình phát triển đầu tư và thương mại. Ngoài ra, việc xây dựng hạ tầng công nghệ bao gồm việc hình thành hệ chuẩn hoá công nghệ và thương mại điện tử trên cơ sở những nguyên tắc pháp lý được công nhận tiến tới hình thành bộ mã chuẩn quốc gia phù hợp với giao dịch thương mại điện tử trong phạm vi quốc tế. Thiết lập các giải pháp kỹ thuật đảm bảo an ninh, an toàn trên đường truyền mạng ngăn ngừa việc truy cập trái phép. III.1.2. Môi trường pháp lý Xây dựng các chính sách về an toàn và bảo mật thông tin, luật bảo vệ người tiêu dùng, luật sở hữu trí tuệ nhằm đảm bảo tính thực tế cho các hoạt động thương mại điện tử từ đó tạo dựng niềm tin cho người tiêu dùng. Cụ thể, xây dựng và cải cách các điều luật, thể chế và đièu tiết lợi ích của các tổ chức đầu mối hay môi giới giữa công nghệ và người sử dụng. Vấn đề cốt yếu là phải có những định hướng mới sửa đổi các luật lệ quy tắc nhằm xoá bỏ các rào cản cho phát triển thương mại điện tử. Việc xây dựng các tiêu chuẩn để tạo điều kiện và thúc đẩy thương mại là một quá trình khó khăn. Các tiêu chuẩn này phải đủ linh hoạt để cho phép đổi mới và đáp ứng những yêu cầu trong tương lai. Một điều không thể thiếu là phải đề ra các quy định về bảo mật nhằm bảo vệ các quyền lợi của mọi đối tượng cũng như kiểm soát việc thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của họ trong điều kiện giao dịch không giấy tờ, người với người không giáp mặt nhau. Vấn đề về thuế qua giao dịch trên Internet hiện đang làm đau đầu các nhà chức trách của nhiều quốc gia trên thế giới. Vì vậy ngay từ bây giờ chúng ta cũng nên có một cơ chế tính thuế phù hợp để khuyến khích các hoạt động của doanh nghiệp trên Internet và tăng cường thêm ngân sách cho nhà nước. III.1.3. Cơ sở nhân lực Tập trung giáo dục những kiến thức cơ bản về sử dụng máy tính và Internet là điều rất cần thiết hiện nay. Đó là đào tạo đội ngũ chuyên gia, kỹ thuật viên điều khiển mạng lưới kỹ thuật đồng thời phổ cập kiến thức và kỹ năng thực hành cho cộng đồng dân cư để truy cập mạng. Ngoài ra, việc tuyên truyền đào tạo kỹ năng về thương mại điện tử cũng như năng lực thực hành cần thiết cho nhà quản lý, các doanh nghiệp, cá nhân người mua người bán cũng cần được triển khai nhanh chóng. Muốn làm tốt công tác chuẩn bị nguồn nhân lực chúng ta phải có kế hoạch nghiên cứu thị trường, chiến lược đào tạo dài hạn và đặc biệt phải có kế hoạch đầu tư cụ thể và lâu dài từ đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất kỹ thuật đến thị trường. Chúng ta cũng cần có những cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam tích cực triển khai thương mại điện tử. Trên cơ sở đó học hỏi thêm kinh nghiệm, hệ thống pháp lý của các quốc gia khác trên thế giới để tránh tụt hậu so với các nước trong khu vực. Để có thể gia tăng và phát triển mạnh thương mại điện tử ở Việt Nam cần có sự chuyển biến tích cực của cả các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như các doanh nghiệp. Trong khi các cơ quan chức năng cần bảo đảm ban hành các chính sách thích hợp kịp thời thì doanh nghiệp cũng cần xác định rõ mục đích của mình trong việc thiết kế và xây dựng trang web, đăng ký địa chỉ trên Internet, quảng cáo trang web và đánh giá hiệu quả trên trang web. Doanh nghiệp cũng cần tích cực hơn trong việc lôi cuốn sự chú ý của khách hàng, làm tăng số lượng người xem qua đó thúc đẩy bán hàng và quảng cáo qua mạng. III.2. Định hướng đối với Chính phủ Điều quan trọng đối với Chính phủ hiện nay là ban hành một luật thống nhất về thương mại điện tử. Việc xây dựng và từng bước hoàn thiện cơ sở pháp lý cho các hình thức thương mại truyền thống đã khó nhưng khó khăn và phức tạp hơn nhiều vẫn là việc tạo dựng một khung pháp lý cho thương mại điện tử. Phát triển thương mại điện tử mà trước mắt là xây dựng TradePoint phải được đẩy mạnh ngay từ bây giờ. Một TradePoint sẽ có ba yếu tố chính. Thứ nhất, nó là một trung tâm xúc tiến thương mại trong đó gồm các thành viên tham gia có liên quan đến giao dịch thương mại quốc tế như Bộ thương mại, Hải quan, Ngân hàng tập hợp nhau tại một địa điểm hay liên kết với nhau thông qua hệ thống máy tính. Thứ hai, nó là nơi có khả năng thực sự cung cấp các thông tin liên quan đến thương mại như các số liệu thống kê, giá cả, thị trường Cuối cùng TradePoint là một cổng kết nối các doanh nghiệp với mạng máy tính toàn cầu. Để bắt đầu thương mại điện tử mỗi nước sẽ phải xây dựng hệ thống TradePoint của mình với nhiều TradePoint thành viên đặt tại các thị trường trọng điểm, các cửa khẩu lớn và được nối mạng với nhau. Ông Nguyễn Chí Cương, Phó giám đốc Sở thương mại TP. Hồ Chí Minh đã đề nghị một tiến trình gồm hai bước cho xây dựng TradePoint ở Việt Nam như sau: Bước 1: Phối hợp các đơn vị được phép đưa thông tin lên mạng Internet và qua các đơn vị này có thể giúp các doanh nghiệp tiếp thị, quảng cáo sản phẩm. Các doanh nghiệp tham gia sẽ được huấn luyện đào tạo về đưa, lấy tin và trao đổi thương mại. Giai đoạn này có thể miễn phí để thu hút nhiều doanh nghiệp và tạo thói quen cho các doanh nghiệp trong thương mại điện tử. Đây là bước có thể thực hiện ngay trong khi chờ đợi Chính phủ ban hành các văn bản pháp quy về vấn đề này. Bước 2: Sau khi xây dựng xong hành lang pháp lý đồng thời chuẩn bị đầy đủ các yếu tố cần thiết như con người, cơ sở hạ tầng và thông tin Việt Nam sẽ chính thức gia nhập TradePoint. Chính phủ cần có chủ trương cho phép triển khai TradePoint tại hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh. Để phát triển hệ thống TradePoint ở Việt Nam có thể tiến hành theo phương châm đi từ dễ tới khó, từ đơn giản đến phức tạp. Trong điều kiện hiện nay chúng ta có đủ cơ sở để bắt tay vào xây dựng hệ thống TradePoint. Bởi chúng ta đã có đủ hạ tầng cơ sỏ kỹ thuật và thông tin cần thiết, các điều kiện vật chất và nhân lực cho triển khai, nhu cầu tìm kiếm bạn hàng, cơ hội buôn bán của các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu đang đặt ra gay gắt. Trước mắt cần phải nhanh chóng thiết lập hệ thống TradePoint sơ khởi để giúp các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tìm kiếm đối tác, bạn hàng; trong giao dịch xuất nhập khẩu nhằm mở rộng và thúc đẩy kinh doanh ở Việt Nam. TradePoint sơ khởi sẽ cung cấp phần lớn các dịch vụ thông tin và giao dịch thương mại trừ việc ký kết hợp đồng và thanh toán thủ công. III.3. Phương hướng phát triển Thương mại điện tử cho các doanh nghiệp Việt Nam Trước hết các doanh nghiệp cần nhận thức đúng về bản chất, tầm quan trọng của kinh doanh điện tử cũng như các hình thức triển khai thương mại điện tử. Có nhiều hình thức và mức độ thực hiện kinh doanh điện tử mà doanh nghiệp có thể lựa chọn và áp dụng phù hợp với đặc điểm và trình độ của mình như: đơn giản nhất là việc tìm kiếm thông tin về thị trường, đối tác trên mạng Internet. Sau đó giao dịch với các đối tác mà mình tìm qua mạng qua con đường thương mại thông thường. Ở mức cao hơn doanh nghiệp có thể chủ động đưa hình ảnh, địa chỉ liên hệ của mình lên trang Web. Rất nhiều công ty đã tạo trang Web riêng cho mình, tự giới thiệu hình ảnh của mình trên mạng. Hiện nay có nhiều doanh nghiệp nhỏ, nhiều hộ kinh doanh ở Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh cũng độc lập hoặc kết hợp với nhau để tạo ra các trang web giới thiệu sản phẩm và chào hàng trên mạng. Từ đó các doanh nghiệp cần nhận thức rõ ràng đây là lĩnh vực có sức phát triển nhanh chóng và doanh nghiệp cũng cần cạnh tranh trên cả phạm vi quốc gia và quốc tế. Việc đăng ký tên miền, tự lập trang web giới thiệu doanh nghiệp của mình trên mạng là điều cần thiết phải làm sớm. Các doanh nghiệp cần có chiến lược thích hợp để triển khai thương mại điện tử và kinh doanh điện tử. Trong chiến lược này doanh nghiệp phải xác định rõ đối tượng mà muốn nhằm tới là gì? Các bước phải làm như thế nào? Việc chọn nhà cung cấp dịch vụ mạng cho doanh nghiệp cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Tiếp theo cần triển khai hoạt động đào tạo và bồi dưỡng về kinh doanh nói chung và kinh doanh điện tử nói riêng, cập nhật các kiến thức và kỹ năng hiện đại về kinh doanh và khai thác khả năng của công nghệ thông tin phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Cần nhận thức rõ ràng rằng kinh doanh điện tử không phải là hình thức kinh doanh đặc biệt hoàn toàn khác với kinh doanh truyền thống mà chỉ là việc kinh doanh với sự giúp đỡ của công nghệ thông tin. Do đó năng lực kinh doanh phải được đặt lên hàng đầu. Ngoài ra các doanh nghiệp cần tổ chức lại hệ thống kinh doanh và công tác quản lý cho phù hợp với phương thức kinh doanh điện tử. Đặc biệt, việc tổ chức mạng lưới phân phối sản phẩm, hệ thống thông tin cần được quan tâm và tổ chức sao cho có thể cung cấp cả hàng hoá lẫn thông tin một cách nhanh chóng, đúng đối tượng và có hiệu quả. Đây không phải là hoạt động có thể triển khai ồ ạt theo ý muốn chủ quan mà đòi hỏi phải thực hiện từng bước nhưng dứt khoát cần triển khai sớm. Các sản phẩm và dịch vụ cần được thiết kế, mã hoá một cách thích hợp để có thể giới thiệu và thực hiện giao dịch một cách nhất quán, rõ ràng, không bị nhầm lẫn. Trên cơ sở có một cơ sở dữ liệu và năng lực cung cấp hàng hoá, dịch vụ thích hợp doanh nghiệp cần xây dựng một kế hoạch tham gia kinh doanh điện tử và triển khai kế hoạch đó một cách có cân nhắc. Với những doanh nghiệp có năng lực hạn chế trước hết nên tự giới thiệu những thông tin cơ bản về mình, lĩnh vực kinh doanh cũng như sản phẩm dịch vụ mà mình cung cấp lên mạng. Hình thức ban đầu có thể là giới thiệu định kỳ, quảng cáo từng đợt. Cần chú ý là những giới thiệu không được vượt quá năng lực thực tế của mình. Chỉ khi có đủ năng lực để đáp ứng những yêu cầu của người tiêu dùng khi họ đặt hàng thì mới tuyên bố cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng. Những thông tin về doanh nghiệp trên mạng cần được cập nhật thường xuyên. Dưới đây là một ví dụ về mô hình kinh doanh điện tử trên mạng: Chodientu.vn là một trang web của công ty PeaceSoft. Tại trang web này tất cả các mặt hàng đều được rao bán trên mạng Internet và nó là một trong những trang web kinh doanh điện tử đầu tiên của Việt Nam. Trong bối cảnh người tiêu dùng nước ta còn khá lạ lẫm với thương mại điện tử thì việc thu hút được khá nhiều sự quan tâm là một thành công rất lớn của trang web này. Từ việc thiết kế trang web của PeaceSoft các doanh nghiệp Việt Nam nên rút ra các bài học kinh nghiệm cho mình. Thứ nhất, là việc lập một cửa hàng ảo. Tất cả các loại hàng từ sản phẩm thông dụng đến các sản phẩm quý hiếm, các sản phẩm công nghiệp đều có thể được bán trên mạng Internet. Các doanh nghiệp cần đăng ký lĩnh vực buôn bán và địa chỉ. Cửa hàng cần ở vị trí đặc biệt để thu hút sự chú ý và vị trí bày hàng cũng cần phải hấp dẫn. Để tìm được thị trường cần chọn ngôn ngữ có sức thu hút với khách hàng, tránh dùng những từ chung chung dễ lẫn trong hàng nghìn sự quy chiếu. Và điều quan trọng là phải biết mình tiếp xúc với đối tượng khách hàng nào. Một công ty nhỏ thì khó có thể tìm ra nhà phân phối hàng ở nước ngoài nhưng trên Internet họ có thể tìm thấy bạn hàng. Cần phải đặc biệt quan tâm bảo đảm thời gian trả lời có thể chấp nhận được, nhất thiết không được để đối tác phải chờ đợi quá lâu trên mạng. Bởi tính đơn giản và nhanh chóng gắn liền với sự hoạt động trên mạng. Ngoài ra các doanh nghiệp không nên coi việc lập một vị trí bán hàng trên Internet là một dự án tin học, trước hết đó vẫn là một dự án tiếp thị, một dự án kinh doanh. Thứ hai, là tự tổ chức để xử lý các đơn đặt hàng. Hiện nay các cataloge điện tử chuyên xử lý tự động cập nhật từ hệ thống xuất bản của doanh nghiệp. Tuy không đạt đến trình độ tự động hoá như vậy nhưng những người mới buôn bán trên Internet phải quan tâm làm sao đừng quên rằng thương mại điện tử là bán hàng từ xa. Khi chuyển qua buôn bán trên mạng Internet người tacòn buộc phải xem xét lại các phương thức vận hành, các doanh nghiệp nhỏ cần phải nhạy cảm với điều đó. Trên web cần phải giới thiệu với khách hàng một mức giá cả hợp lý tránh không làm cho họ e ngại với mức chi phí vận tải quá lớn. Đó là điều cốt yếu để thuyết phục khách hàng nhưng cũng là điều làm đau đầu các nhà quản lý doanh nghiệp. Thứ ba, là quảng bá sản phẩm trên mạng. Một website không sống động là một vị trí chết. Điếu đó có nghĩa là trên web, nếu cataloge của bạn không thường xuyên được cập nhật thì website bán hàng của bạn mở ra trên “xa lộ thông tin” sẽ nhanh chóng trở thành một website tĩnh của những ngành nghề chết. Khác với xuất bản trên giấy, sự xuất bản trên Internet cho phép có thể sửa đổi. Đổi mới và cập nhật web thường xuyên là một cách để giữ khách hàng mỗi khi họ tình cờ hoặc vì hiếu kỳ nối kết với cửa hàng điện tử của bạn. III.4. Một số khuyến nghị đối với các doanh nghiệp tham gia Thương mại điện tử Dưới đây là một số khuyến nghị của những doanh nghiệp đi trước đúc kết lại dành cho các doanh nghiệp bắt đầu muốn quảng bá sản phẩm của mình trực tuyến theo hình thức B2B(Business to Business) và B2C(Business to Customer) Đừng bao giờ chủ quan trong bảo mật: Doanh nghiệp phải có một server (máy chủ) tuyệt đối an toàn. Nếu chưa có thì hãy hỏi nhà phân phối Web server để sử dụng dịch vụ server của họ. Mặt khác, bạn sẽ phải có được giấy chứng nhận về độ an toàn của server. Tạo cảm giác an toàn: Website của bạn phải tạo được lòng tin của những khách hàng có tiềm năng. Do vậy, cần phải đặc biệt quan tâm đến việc bảo mật thông tin cho khách hàng. Hãy nhớ rằng cụm từ “secure server- máy chủ an toàn” có hiệu quả tác động kỳ diệu đối với khách hàng. Hãy tạo một đường dẫn (hyperlink) tới trang giới thiệu về khả năng bảo mật của hệ thống thanh toán của bạn. Hãy thẳng thắn: Hãy trình bày một cách rõ ràng các thông tin chi tiết về công ty của bạn như số điện thoại, fax, địa chỉ trụ sở làm việc, email, thông tin giới thiệu về một số nhân vật chủ chốt trong công ty. Đó là những thông tin tối thiểu mà đối tác làm ăn của bạn muốn biết. Bạn cũng đừng quên trình bày với khách hàng một cách thẳng thắn về chất lượng sản phẩm, phương thức vận chuyển hàng, vấn đề hoàn trả và bảo mật hàng hoá. Tiến hành kiểm tra từng bước: Không nên cố gắng thực hiện toàn bộ kế hoạch kinh doanh trực tuyến trước khi phát hiện ra những trở ngại gây khó khăn cho doanh nghiêp. Hãy xin lời khuyên của các chuyên gia để có thể tránh được những sai lầm đáng tiếc. Kiểm tra từng bước trong kế hoạch kinh doanh trước khi thực hiện. Tiến hành cùng lúc hai hệ thống thương mại: Trong khi thực hiện thương mại điện tử, doanh nghiệp nên tiếp tục duy trì mô hình kinh doanh hiện tại. Trong trường hợp có bất kỳ điều gì bất trắc xảy ra với hệ thống thương mại điện tử thì bạn vẫn có thể lập hoá đơn, vận chuyển hàng theo lối thông thường. Tạo tốc độ truy cập Website nhanh hơn: Nên giữ kích thước homepage dưói 20kb. Loại bỏ tất cả các đoạn không cần thiết. Sử dụng “Alt Text” đối với các hình ảnh để đảm bảo rằng khách hàng của bạn có thể đọc gì đó trong khi chờ website của bạn được tải xuống hoàn toàn. Thiết kế một hệ thống định hướng cho phép khách hàng chọn sản phẩm dễ dàng và nhanh hơn. Tập trung vào việc bán hàng: Doanh nghiệp nên theo dõi tỷ lệ phần trăm khách mua hàng chứ không nên tập trung vào tổng số người truy nhập vì điều đó không có ý nghĩa gì. Chú ý đến sự chuyển đổi từ người xem sang người mua hàng, tìm hiểu thái độ của khách hàng xem tại sao họ mua hàng và tại sao không mua. Có khả năng in nội dung ra giấy: Hãy chắc chắn rằng website của bạn có thể in ra được một khi người xem muốn in chúng ra. Nội dung sản phẩm và ảnh là hay được in nhất. Cá nhân hoá từng khách hàng: Khi một khách hàng trở lại với website của bạn thì server phải nhận ra khách hàng đó và chỉ cho họ những chỉ dẫn tương tự. Đây có thẻ là bí quyết chính dẫn đến thành công trong thương mại điện tử. Hãy bàn với các chuyên gia công nghệ thông tin để tìm ra giải pháp tốt nhất. Thiết kế mẫu đặt hàng ngắn gọn: Luôn luôn đưa mẫu đơn ngắn gọn sau khi đã tiến hành uỷ thác mua hàng. Hệ thống cung nên gửi xác nhận ngay sau khi mua, có thể làm việc này bằng cách gửi thư ở chế độ trả lời tự động rrất đơn giản. Bước này giúp tạo niềm tin cho khách hàng cũng như có thể giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian gửi fax, gọi điện thoại hay gửi email chỉ để hỏi::”Bạn đã nhận được đơn đặt hàng của chúng tôi chưa?” KẾT LUẬN Như vậy, việc áp dụng thương mại điện tử là mục tiêu cần hướng đến của các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Chúng ta đang sống trong thời đại của khoa học công nghệ, nền kinh tế tri thức đang phát huy những vai trò tối đa của nó. Và nếu như các doanh nghiệp nước ta không theo kịp xu thế đó thì có thể mãi mãi không theo kịp nền kinh tế thế giới. Muốn tối đa hóa lợi nhuận, muốn trở thành những công ty đa quốc gia, những tập đoàn hùng mạnh trên thế giới thì ngay từ bây giờ trong việc xác định chiến lược phát triển của mình các doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng đến áp dụng thương mại điện tử. Đó là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp có thể mở rộng thị trường, vươn tầm ra thế giới. Với tiềm lực sản xuất kinh doanh như nhau thì tất nhiên doanh nghiệp nào biết áp dụng thương mại điện tử, doanh nghiệp đó sẽ chiếm lĩnh thị phần lớn hơn. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện thương mại điện tử các doanh nghiệp cần dựa vào năng lực nội tại của mình để có những hình thức áp dụng hợp lý. Trong đề án môn học lần này, em xin mạo muội đưa ra một vài khuyến nghị nhỏ trong việc thực hiện thương mại điện tử ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Em cũng hy vọng những giải pháp đó có thể đóng góp một phần nhỏ bé vào sự phát triển chung của đất nước. Em xin chân thành cảm ơn ThS Trịnh Hoài Sơn – Thầy đã hướng dẫn, định hướng cho em trong quá trình thực hiện đề án này. Hà Nội, tháng 12 năm 2008 MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6048.doc
Tài liệu liên quan