Đề tài Giải pháp về Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Đề tài “ Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng với các NHTM Việt Nam ” là một đề tài rất bổ ích đối với em. Qua quá trình nghiên cứu em đã tích luỹ được nhiều kiến thức về các kỹ thuật đánh giá rủi ro tín dụng cũng như các nghiệp vụ phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. Để trở thành một nhà quản lý ngân hàng giỏi thì nhất thiết chúng ta phải biết phân tích và đánh giá các loại rủi ro, nắm vững các nghiệp vụ phòng ngừa và hạn chế rủi ro, nhất là đối với rủi ro tín dụng.

doc41 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp về Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng với các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sẽ khắc phục được nhược điểm này bằng cách giới hạm phạm vi dự tính trong khoảng từ 0 đến 1. Mô hình logit Mô hình logit giới hạn xác suất luỹ kế của rủi ro mất vốn đối với một khoản tín dụng nằm trong khoảng từ 0 đến 1 và giả sử xác suất này được phân bổ theo dạng hàm số: Trong đó e là cơ số tự nhiên, F(Zi) là xác suất lũy kế của mức rủi ro đối với một khoản vay, và Zi được tính toán theo mô hình đường thẳng tuyến tính tương tự như mô hình trên. Như vậy chúng ta có thể xác định giá trị dự tính của Zi theo hàm số tuyến tính cho một người vay mới, sau đó thay Zi vào giá trị bên phải của hàm số logit để xác định giá trị của F(Zi) - xác suất luỹ kế của rủi ro tín dụng. Hạn chế chủ yếu của phương pháp này là giả thiết rằng xác suất luỹ kế của rủi ro mất vốn được phân bổ theo một dạng hàm số logit cụ thể. Đồ thị 1.1: Mô hình logit Xác suất rủi ro tích luỹ hàm số logistic E(Zi) 0 Zi Mô hình probit Mô hình probit cũng hạn chế xác suất rủi ro tín dụng dự tính trong khoảng từ 0 đến 1, nhưng nó khác với mô hình trên khi giả thiết răng xác suất của rủi ro có dạng phân bổ chuẩn chứ không phân bổ theo hàm số logit như đồ thị 4.3. tuy nhiên, khi được nhân với một yếu tố cố định thì giá trị logit có thể trở thành giá trị probit gần đúng. Mô hình phân biệt tuyến tính Trong khi các mô hình xác suất tuyến tính, logit và probit đều dự tính mức xác suất của rủi ro tín dụng đối với một khoản tín dụng được cấp thì mô hình này có tác dụng phân loại những người vay căn cứ vào mức độ rủi ro các mức độ liên quan đến chỉ tiêu (Xj) phản ánh đặc điểm tài chính và kinh doanh của họ. Thí dụ sau đây xem xét mô hình phân biệt được xây dựng bởi E.I.Altman (Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng-NXB thống kê Hà Nội-1999) giành cho các công ty sản xuất của Mỹ. Chỉ số biến động Z đo lường toàn bộ mức độ rủi ro của người vay. Chỉ số này phụ thuộc vào giá trị của các chỉ số tài chính phản ánh tình trạng tài chính của người vayvà mức độ quan trọng của các chỉ số này trong việc quyết định mức độ rủi ro của người vay. Các giá trị này, đến lượt nó được xác định thông qua kinh nghiệm phân tích và so sánh giữu hai nhóm người vay có rủi ro và không có rủi ro được rút ra từ mô hình phân biệt. Hàm số phân biệt của Altman có dạng sau: Trong đó: = Tỷ lệ giữa vốn lưu động và tổng tài sản có. = Tỷ lệ giữa lợi nhuận tích luỹ và tổng tài sản có. = Tỷ lệ giữa lợi nhuận trước thuế và lãi suất trên tổng tài sản có. = Tỷ lệ giữa giá thị trường của cổ phiếu và giá kế toán của các khoản nợ giài hạn. = Tỷ lệ giữa doanh thu và tổng tài sản có. Gía trị của Z càng lớn thì mức độ rủi ro dự tính của người vay càng nhỏ. Giá trị của Z là nhỏ hoặc là âm có thể là căn cứ để xếp loại người vay vào nhóm có rủi ro cao. Giả sử các chỉ số tài chính của một khách hàng tiềm năng có các giá trị sau: Chỉ số và Chỉ số cho thấy khách hàng đang bị lỗ trong giai đoạn hiện tại; chỉ số % chứng tỏ tỷ lệ vốn nợ cao. Tuy nhiên, chỉ số phản ánh mức thanh khoảnvà tỷ lệ doanh thu lại tương đối khả quan. Tổng hợp lại sẽ cho thấy một chỉ số chung phản ánh mức độ rủi ro tín dụng dự tính của một khách hàng trên cơ sở kết hợp cả 5 chỉ số, có tính đến mức độ quan trọng của từng chỉ số trong việc giải thích quá khứ trả nợ của khách hàng. Giá trị cụ thể của Z là: Z = 1,2(0,2)+1,4(0)+ 3,3(-0,2) + 0,6(0,1) + 1,0(2,0) =1,64 Theo mô hình của Altman, bất kỳ khách hàng nào có điểm số Z nhỏ hơn 1,84 sẽ bị xếp vào khu vực có rủi ro cao. Trong trường hợp cụ thể này các NHTM không nên cấp tín dụng cho đến khi khách hàng cải thiện được chỉ số thu nhập của họ. Việc sử dụng phương pháp phân tích này tương đối đơn giản tuy nhiên nó chứa đựng một số nhược điểm: Thứ nhất, mô hình này chỉ cho phép phân loại hai nhóm người vay có rủi ro và không có rủi ro . Trong thực tế mức độ rủi ro tín dụng tiềm năng của mỗi khách hàng khác nhau từ mức thấp như chậm trả lãi tới, không trả được lãi cho đến mức mất hoàn toàn cả vốn lẫn lãi của khoản vay . Điều này chỉ ra rằng việc phân loại các khách hàng có rủi ro nên chi tiết hơn để kĩ thuật này trở nên chính xác hơn. Thứ hai, không có lý do thuyết phục để chứng minh rằng các thông số phản ánh tầm quan trọng của các chỉ số trong công thức Altman là bất biến, dù trong thời gian ngắn. Tương tự như vậy các chỉ số được lựa chọn trong công thức cũng không phải là không thể không bất biến, đặc biệt là khi các điều kiện kinh doanh cũng như điều kiện thị trường tài chính đang thay đổi liên tục. Các chỉ số tài chính khác phản ánh đặc điểm cụ thể của người vay có thể trở nên hiệu quả trong việc giải thích các hành vi trả nợ của khách hàng. Mặt khác, mô hình này phân biệt cũng giả thiết rằng các chỉ số trong mô hình là hoàn toàn độc lập với nhau. Thứ ba, mô hình phân biệt cũng đã không tính đến một số nhân tố khó định lượng nhưng có thể đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng đến mức độ rủi ro của các khoản vay. Chẳng hạn danh tiếng của khách hàng hoặc mối quan hệ lâu dài dữa ngân hàng và khách hàng hay các yếu tố vĩ mô như sự biến động của chu kì kinh tế, trong nhiều trường hợp, có ý nghĩa quyết định đến mức rủi ro tín dụng. Mặt khác mô hình cũng hiếm khi sử dụng các thông tin thị trường như giá cả các tài sản tài chính; giá các khoản nợ hoặc giá cổ phiếu của công ty khách hàng. Tóm lại, các mô hình vừa nghiên cứu được sử dụng thích hợp nhất trong trường hợp đánh giá an toàn của các khoản tín dụng cấp cho các khách hàng lớn thuộc khu vực công ty. Để khắc phục các nhược điểm của các mô hình trên. Mô hình đánh giá rủi ro tín dụng sau đây sẽ sử dụng lý thuyết tài chính và các dữ liệu thị trường tài chính để xác định xác suất mất vốn. Mô hình quyền chọn trong rủi ro tín dụng mô hình lý thuyết Khi một công ty tăng vốn kinh doanh bằng cách phát hành trái phiếu hoặc vay ngân hàng có nghĩa là nó đang sở hữu một quyền lựu chọn trả nợ hoặc không trả được nợ. Có nghĩa là nếu một dự án đầu tư của người vay bị thất bại và họ không có khả năng thực hiện nghĩa vụ nợ đối với người sở hữu trái phiếu và ngân hàng thì những người vay này có quyền lựa chọn không thực hiện nghĩa vụ nợ một cách đầy đủ và thay vào đó họ chỉ có thể chi trả toàn bộ phần tài sản còn lại của công ty (nếu có) cho các chủ nợ. Bởi các cổ đông chỉ có trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số cổ phần mà họ đóng góp nên sự thiệt hại về tài chính mà người vay gánh chịu trong trường hợp này cũng có giới hạn. Nhưng ngược lại, nếu dự án đầu tư có hiệu quả, người vay sẽ hưởng phần lớn thu nhập từ đầu tư sau khi trả nợ gốc và lãi cho chủ nợ. thu nhập của các cổ đông (người vay) đối với một khoản vay: Theo đồ thị 1.2 S là quy mô vốn cổ phần đầu tư ban đầu vào công ty, B là tổng dư nợ từ phát hành trái phiếu hoặc vay ngân hàng (với mục đích đơn giản hoá, giả sử đây là các trái phiếu chiết khấu) và A là giá trị thị trường của tài sản công ty. Nếu dự án đầu tư trong đồ thị 1.2 không có hiệu quả, các cổ đông của công ty sẽ không thể hoàn trả đầy đủ các khoản nợ ngoài giá trị tài sản còn lại (A1) của công ty. Mức độ thiệt hại mà các cổ đông phải gánh chịu với tư cách người đi vay chỉ giới hạn trong phạm vi số cổ phần ban đầu đóng góp. Ngược lại, nếu dự án đầu tư thành công, giá trị tài sản của công ty được đánh giá cao thì công ty vay vốn sẽ chi trả đầy đủ số nợ (OB) và hưởng phần chênh lệch A2-B . Rõ ràng nếu A2 (phụ thuộc vào tính hiệu quả của dự án) càng lớn so với B thì các cổ đông càng được lợi. Với điều kiện người đi vay chỉ phải chịu một mức rủi ro giới hạn trong phạm vi số cổ phần đóng góp trong khi có khả năng hưởng khoản thu nhập không có giới hạn cố định nếu dự án đầu tư thành công, việc góp vốn cổ phần tương tự như việc mua quyền chọn mua tài sản công ty Đồ thị 1.2: Quyền lợi và nghĩa vụ của người vay (cổ đông ) Thu nhập của các cổ đông 0 A1 B(nợ) A2 Tài sản có(A) -S Thu nhập của các chủ nợ từ các khoản nợ: nếu nhìn từ góc độ người cho vay, mức thu nhập tối đa các chủ nợ có thể nhận được từ việc đầu tư vào dự án là B. Tuy nhiên, những người vay (người sở hữu quyền lựa chọn trả nợ hoặc không trả được nợ) sẽ chỉ trả được nợ đầy đủ khi A>B, nghĩa là khi giá thị trường của tài sản công ty cao hơn giá trị các khoản nợ phải trả. Nếu giá thị trường tài sản công ty giảm thấp hơn giá trị các khoản nợ thì nó chỉ có thể hoàn thành một phần nghĩa vụ nợ phụ thuộc vào giá trị còn lại của công ty. Đồ thị 1.3: Quyền lợi tài chính của các chủ nợ từ một khoản vay Thu nhập của chủ nợ 0 B(nợ) A2 Tài sản có Sau khi thực hiện quá trình đầu tư, nếu giá trị tài sản của người vay đạt đến các điểm bên phải B(giá trị danh nghĩa của khoản nợ) thí dụ A2, thì các chủ nợ sẽ được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi khả năng(B). ngược lại, nếu giá thị trường tài sản của người vay giảm tới khu vực bên trái điểm B thì các chủ nợ chỉ có thể nhận được giá trị còn lại của tài sản thế chấp, mức rủi ro tiềm năng là B - A1. Như vậy giá trị khoản vay, nếu nhìn từ góc độ những người cho vay luôn bị đe doạ ở mức tối thiểu của giá trị B hoặc A hoặc min(A,B). Có nghĩa là khả năng thu nợ của một khoản cho vay, nhìn từ góc độ các chủ nợ tương tự như trường hợp bán một quyền chọn bán giá trị tài sản của người vay. Trong đó B là giá trị thực hiện hợp đồng. Nếu A > B khả năng được thanh toán và người cho vay nhận được một khoản lãi nhỏ và cố định (tương tự như giá bán quyền lựa chọn). Nếu A < B người vay không trả được nợ, và người cho vay có khả năng mất cả gốc lẫn lãi vốn đầu tư. Nếu tính đến giá của sự phá sản và nhũng ảnh hưởng dây chuyền của nó thì những cho vay thậm chí còn mất nhiều hơn thế. áp dụng mô hình quyền chọn để tính mức phần thưởng rủi ro Căn cứ vào mô hình quyền chọn trên đây Merton(quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng NXB thống kê hà nội 1999) đã thể hiện giá trị thị trường của một khoản vay có rủi ro đối với một người vay cụ thể như sau: Trong đó: = thời hạn còn lại của khoản nợ d= cơ cấu vốn của người vay, giá thị trường của các khoản nợ được tính tại mức lãi suất i, lãi suất không có rủi ro. N(h) = giá trị được tính từ bảng thống kê của dạng phân bổ chuẩn, nó phản ánh xác suất của sự biến động giá trị của h = Đo lường mức rủi ro kinh doanh của người vay Về mặt kỹ thuật nó phản ánh sự biến động giá trị tài sản của người vay. Quan trọng hơn, nếu được viết dưới dạng so sánh với mức lãi suất của các công cụ đầu tư không có rủi ro, đẳng thức này cho biết mức phần thưởng rủi ro tối thiểu mà người đi vay phải trả: Trong đó : thu nhập dự tính đối với các khoản nợ có rủi ro i = lãi suất của các công cụ nợ không có rủi ro và có thời hạn tương đương Công thức này cũng chỉ ra rằng những người đầu tư nên điều chỉnh mức phần thưởng rủi ro cần thiết khi d(chỉ số biểu thị rủi ro tài chính ) và (chỉ số biểu thị rủi ro kinh doanh) thay đổi. Khi d và tăng lên thì mức phần thưởng rủi ro cần được điều chỉnh tăng lên và người vay có thể bị xếp vào nhóm những người vay có rủi ro cao. Mô hình quyền chọn có thể được coi là một công cụ chính xác để xác định xác suất của rủi ro và mức phần thưởng rủi ro. Nó cũng có ý nghĩa thực tiễn quan trọng khi chỉ ra những yếu tố chủ yếu quyết định đến khả năng rủi ro của một khoản vay. mô hình đa dạng hoá danh mục đầu tư: Các mô hình đo lường rủi ro tín dụng trên đây dã chỉ ra các cách khác nhau để đánh giá mức mức rủi ro tín dụng cho từng công cụ nợ như trái phiếu hoặc các khoản vay. Trong phần này chúng ta nghiên cứu khả năng của một NHTM để đo lường và kiểm soát tổng mức rủi ro tín dụng tiềm năng cho cả danh mục đầu tư với các công cụ nợ đa dạng (Anthony Saunders và Helen lange Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng-NXB thống kê Hà Nội-1999). Khi các ngân hàng sở hữu các khoản tín dụng và các trái phiếu có tính thị trường cao thì mô hình đa dạng hoá danh mục đầu tư được sử dụng để đo lường và kiểm soát tổng mức rủi ro tín dụng cho cả danh mục đầu tư. Giả sử các nhà quản lý có thể tính mức thu nhập định kỳ từ mỗi khoản mục đầu tư trong danh mục đầu tư; các tài sản có thí dụ như các cổ phiếu thường được trao đổi một cách rộng rãi nên thu nhập của nó có thể được tính toán dễ dàng căn cứ vào các số liệu được thông báo trên thị trường cổ phiếu. Đối với trái phiếu và các khoản vay, các số liệu về thu nhập của chúng có thể có được thông qua việc quan sát trực tiếp sự biến động giá trái phiếu trên thị trường hoặc qua các số liệu giá của các trái phiếu hoặc các khoản vay trên tương tự được giao dịch trên thị trường trái phiếu thứ cấp. Các số liệu về giá được thu thập sẽ là căn cứ để tính mức thu nhập bình quân cho từng công cụ nợ và sau là mức thu nhập dự tính cho cả danh mục đầu tư theo công thức sau: Và sự biến động của thu nhập hay rủi ro của bộ danh mục đầu tư được tính như sau: Trong đó : =Thu nhập bình quân của cả bộ đầu tư =Thu nhập bình quân của danh mục đầu tư thứ i trong bộ đầu tư =Tỷ trọng khoản mục đầu tư ichiếm trong tổng vốn đầu tư =Mức độ biến động của thu nhập từ khoản mục đầu tư i =Mức độ lên quan của sự biến động thu nhập giữa khoản mục đầu tư i và j Điểm mấu chốt của lý thuyết đầu tư hiện đại là: lợi dụng lợi thế về quy mô hoạt động, các NHTM có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư và do đó giảm đáng kể mức rủi ro tín dụng khi sự biến động thu nhập từ mỗi khoản mục đầu tư không hoàn toàn liên quan với nhau. Nếu nhiều khoản vay có mối tương quan ngược chiều về thu nhập nghĩa là khi khoản đầu tư i có rủi ro thì khoản đầu tư j lại thành công-thì việc tính tổng số các mức rủi ro một cách độc lập sẽ cho một kết quả cao hơn mức rủi ro thực tế của cả bộ đầu tư. Đây chính là lợi thế của quy luật số lớn mà các NHTM với tư cách là người tập hợp vốn có thể lợi dụng để giảm thiểu rủi ro trong các quyết định đầu tư. Lợi thế của việc đa dạng hoá danh mục đầu tư được thể hiện trong đồ thị 1.4. Chú ý rằng A là danh mục đầu tư không thực hiện đa dạng hoá mà chỉ tập trung vào một số công ty. Bằng việc khai thác triệt để khả năng đa dạng hoá các khoản mục đầu tư thông qua các trái phiếu và các khoản tín dụng có mức thu nhập biến động trái chiều với nhau hoặc biến động cùng chiều ở mức thấp kết hợp với các khoản mục đã được đầu tư trong danh mục đầu tư hiện tại, các NHTM có thể làm giảm tỷ lệ rủi ro tín dụng của cả bộ đầu tư từ đến trong khi tỷ lệ thu nhập không thay đổi. Đồ thị 1.4: Đa dạng hoá danh mục đầu tư của các NHTM Rp C (Thu nhập) Rp B A 0 Danh mục đầu tư sau khi thực hiện đa dạng hoá B là một danh mục đầu tư hiệu quả (mức rủi ro thấp) với tỷ lệ thu nhập Rp. Bằng việc thay đổi mức sinh lời Rp, Tăng lên hoặc giảm xuống và tương ứng với chúng là các mức rủi ro nhất định, chúng ta có thể hình thành một đường cong của các danh mục đầu tư hiệu quả, là những kết hợp khác nhau giữa các kkhoản tín dụng, các trái phiếu và các cổ phiếu. Mỗi kết hợp được coi là hiệu quả vì: tại mức sinh lời nhất định, mức rủi ro tín dụng của danh mục đầu tư là thấp nhất. Tuy nhiên, nếu nhìn vào đồ thị, trong tất cả khả năng kết cấu một danh mục đầu tư hiệu quả, danh mục B có mức rủi ro thấp nhất. Điều này có nghĩa là kết cấu các khoản mục đầu tư trong bộ đầu tư B đã khai thác ở mức độ tối đa lợi thế của việc đa dạng hoá và không thể có một kết cấu nào tạo nên mức rủi ro thấp hơn. Vì thế B được coi là danh mục đầu tư có mức rủi ro tối thiểu. Như thế không có nghĩa là B tạo ra mức thu nhập cao nhất. Cách kết cấu này thường hấp dẫn các nhà đầu tư không ưa thích sự mạo hiểm, mục tiêu duy nhất của họ là giảm thiểu rủi ro mà ít tính đến mức sinh lời của các khoản đầu tư. Tuy nhiên phần lớn các nhà đầu tư đều chấp nhận, ở các mức độ khác nhau, mâu thuẫn giữa rủi ro và tỷ lệ sinh lời. Họ sẵn sàng kết cấu cả một bộ đầu tư có tính rủi ro cao hơn nếu nó được bù đắp bằng tỷ lệ sinh lời thoả đáng. Trường hợp này được thể hiện bằng danh mục đầu tư C trên đồ thị. Đây là một danh mục đầu tư hiệu quả, trong đó người đầu tư đã kết hợp các khoản vay, trái phiếu và các công cụ đầu tư khác để đảm bảo một mức rủi ro tối thiểu tương ứng với tỷ lệ sinh lời cao hơn. Lý thuyết danh mục đầu tư là một công cụ hấp dẫn để đo lường rủi ro tín dụng của cả bộ đầu tư, đặc biệt là đối với các NHTM và các TCTD chuyên nghiệp. Tuy nhiên, đối với các tổ chức tài chính không sở hữu các tài sản có tính thị trường cao, thí dụ các ngân hàng nhỏ, các tổ chức tiết kiệm, việc áp dụng công cụ này để đo lường rủi ro tín dụng sẽ gặp khó khăn. 3. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng 3.1. Nguyên nhân khách quan Điều kiện tự nhiên: Khi tự nhiên có một sự biến động bất thường như động đất, núi lửa, bão lũ, lụt lội, hạn hán ... gây thiệt hại cho các ngành sản xuất và dịch vụ, dẫn tới khách hàng của ngân hàng mất vốn, gặp rủi ro trong sản xuất kinh doanh, do vậy dẫn tới nguy cơ rủi ro tín dụng, các ngân hàng không thu hồi được vốn. Cơ chế chính sách của chính phủ: Khi chính phủ có sự thay đổi cơ chế chính sách như chính sách đầu tư , chính sách xuất nhập khẩu, chính sách ngoại hối... làm cho một bộ phận các doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính không thể cứu vãn nổi, dẫn tới không có khả năng thanh toán cho ngân hàng theo đúng hợp đồng tín dụng . Nguyên nhân từ phía khách hàng: Trình độ quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng cũng là nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng, bởi vì nếu khách hàng kinh doanh thua lỗ sẽ dẫn đến chỗ phá sản, không có khả năng thanh toán nợ đầy đủ và đúng hạn cho ngân hàng . Các khách hàng còn phải gặp vô số rủi ro trong kinh doanh thì đương nhiên các ngân hàng, người phó thác đồng vốn cho doanh nghiệp không thể tránh được toàn bộ rủi ro trong kinh doanh tín dụng của mình. Do ảnh hưởng của thị trường -chu kì kinh tế : Trong thời kỳ suy thoái kinh tế, các doanh nghiệp trong sản xuất hàng hoá và dịch vụ thường rơi vào tình trạng bất lợi bởi vì người tiêu dùng thường cắt giảm chi tiêu, ảnh hưởng đến thu nhập của doanh nghiệp . Bên cạnh đó sự sụt giá bất động sản và chứng khoán trên quy mô lớn sẽ làm tình hình trở nên nghiêm trọng vì sự sụt giá tài sản sẽ ép giá tài sản thế chấp, ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn của ngân hàng thông qua thanh lý tài sản thế chấp. Điển hình trong thời kì khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á vừa qua giá cả bất động sản đã giảm xuống tới 30% đến 40% dẫn đến 1 loạt các NHTM ở Indonexia, Thái lan và Malaixia xụp đổ. -lãi suất thị trường: Một sự tăng lên của lãi suất thị trường cũng làm tăng nguy cơ rủi ro tín dụng bởi những cá nhân và công ty với nhũng dự án đầu tư rủi ro nhất chắc chắn là những người sẵn sàng chịu vay với mức lãi suất cao nhất. Nếu lãi suất trên thị trường được nâng lên một cách đầy đủ vì nhu cầu tín dụng tăng lên hoặc vì sự sụt giảm lượng tiền cung ứng, những vụ mạo hiểm vay vay tín dụng có triển vong xấu vẫn nhiều khả năng xảy ra, trong khi những vụ đầu tư ít rủi ro lại giảm đi. Do hậu quả của việc này làm tăng quy mô lựa chọn đối nghịch, người cho vay sẽ phải đối mặt với nhiều khoản vay có rủi ro cao. -Do thị trường nước ngoài: do yêu cầu cạnh tranh, hoặc do sự biến động của tỷ giá hối đoái làm cho những nhà sản xuất gặp khó khăn trong việc xuất khẩu, cũng như việc bán hàng hoá của họ ngay trên thị trường nước mình (do tính cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài tăng), làm phá sản hàng loạt các doanh nghiệp, gây nên khó khăn trong việc đòi nợ của ngân hàng. Nguyên nhân chủ quan Thông tin không cân xứng Trong các thập kỷ qua, lý thuyết về các thị trường với thông tin không cân xứng, đã và đang trở thành một lĩnh vực quan trọng và sống động trong nghiên cứu kinh tế, các mô hình với thông tin không cân hoàn hảo là những công cụ không thể thiếu được của các nhà kinh tế. Ba nhà kinh tế học George Akerlof, Michael Spence và Joseph Stiglitz đã nhận được giải nobel kinh tế 2001 nhờ “những phân tích về các thị trường với thông tin không cân xứng ”(tạp chí kinh tế và phát triển số 53 tháng 11/2001). Trong các tác phẩm của mình ba ông đã lý giải thông tin không cân xứng, tức là tình huống một số người trên thị trường thường có nhiều thị trường tốt hơn so với nhũng người khác. Trên thị trường tín dụng người đi vay thường biết rõ về khả năng trả nợ của mình hơn người cho vay, người cho vay thường không biết tất cả những gì mà anh ta cần biết về dự án đầu tư của người đi vay. Frederic S.Mishkin đã chỉ ra rằng tính không cân xứng về thông tin như vậy đã dẫn đến chọn lựa đối nghịch và rủi ro đạo đức. Chọn lựa đối nghịch: Chọn lựa đối nghịch là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra trước khi diễn ra cuộc giao dịch. Chọn lựa đối nghịch xảy ra với các NHTM khi người đi vay có khả năng tạo ra một kết cục không mong muốn(đối nghịch)-tức là những rủi ro không trả được nợ-là những người tích cực tìm vay nhất và do vậy có nhiều khả năng được lựa chọn nhất. Do việc chọn lựa đối nghịch khiến dễ có thể các món vay được thực hiện cho những trường hợp rủi ro không trả được nợ. Một ví dụ về chọn lựa đối nghịch là thị trường tín dụng ở ấ n Độ vào những năm 1960, tại đây những người cho vay địa phương đã áp đặt mức lãi suất cao gấp 2 lần mức lãi suất ở các thành phố lớn, tuy nhiên nếu một người nào đó vay tiền ở thành phố và sau đó cho vay lại nông thôn, trong khi người này không biết rõ về khả năng trả nợ kém và rủi ro thường đi liền với những người đi vay anh ta có thể thua lỗ lớn. Rủi ro đạo đức: Rủi ro đạo đức là một vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra sau khi cuộc giao dịch diễn ra. Rủi ro đạo đức trong các hoạt động tín dụng xảy ra khi người cho vay phải chịu một rủi ro là người vay có những ý muốn thực hiện những hoạt động không tốt (thiếu đạo đức) xét theo quan điểm của người cho vay, bởi vì những hoạt động này khiến ít có khả năng để món vay này sẽ được hoàn trả. Do rủi ro đạo đức giảm bớt xác suất hoàn vốn (làm rủi ro tín dụng tăng lên) nên người cho vay có thể gặp phải rủi ro tín dụng khi quyết định cho vay. Sự yếu kém từ phía ngân hàng thương mại Trình độ chuyên môn của các cán bộ tín dụng Quy trình cho vay, chính sách và thủ tục cho vay cần bao quát các bước: Điều tra, phân tích, thủ tục phê duyệt, hồ sơ khách hàng, tài sản thế chấp, thời hạn và phát tiền vay do vậy đòi hỏi các cán bộ tín dụng phải có các nghiệp vụ về tiếp cận khách hàng và phân tích tín dụng, phân tích tài sản thế chấp, kiểm tra tín dụng, thẩm định các dự án đầu tư tín dụng, xây dựng hợp đồng tín dụng, giải quyết vấn đề nợ khó đòi, nợ quá hạn. Do vậy các cán bộ tín dụng phải có các kiến thức tổng hợp về kinh tế, về tài chính ngân hàng, nếu cán bộ tín dụng trình độ chuyên môn không đáp ứng được yêu cầu kể trên thì khi cho vay rất dễ phạm phải sai lầm, dẫn đến rủi ro. Đạo đức kinh doanh của các cán bộ tín dụng Đạo đức kinh doanh của các cán bộ tín dụng cũng là một nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro tín dụng, bởi vì nếu cán bộ tín dụng bị khách hàng mua chuộc cố tình làm sai các chính sách và thủ tục về quy trình cho vay lập tức sẽ đặt các khoản vay vào tình trạng rủi ro hoặc nếu cán bộ tín dụng không tôn trọng đầy đủ quy trình cho vay làm việc thiếu trách nhiệm, thiếu chính xác cũng sẽ dẫn đến chất lượng tín dụng thấp, nợ đến hạn khó thu hồi vốn. .Vấn đề rủi ro tín dụng với các ngân hàng thương mại Việt Nam Thực trạng rủi ro tín dụng ở các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay Hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam trong thời gian gần đây đã thu được rất nhiều thành tựu đáng khích lệ, song bên cạnh đó vẫn còn có nhiều vấn đề bất cập thể hiện ở chất lượng tín dụng thấp, chứa đựng nhiều rủi ro. Nổi lên tất cả là tình trạng cho vay không thu hồi được nợ, mà biểu hiện cụ thể là tình trạng nợ quá hạn và nợ khó đòi đang ở mức rất cao so với thông lệ quốc tế . Tình hình đặc biệt nghiêm trọng hơn đối với các NHTM cổ phần đô thị, sau đó là các NHTM quốc doanh, các NHTM cổ phần nông thôn. Thực tế dã cho thấy đến ngày 31/ 08 /1998 tổng dư nợ của toàn bộ hệ thống ngân hàng lên đến 100 ngàn tỷ đồng, trong đó số nợ quá hạn chiếm khoảng 10%, và tính riêng nợ khó đòi khoảng 6,8% . Nếu xét riêng từng loại hình NHTM thì: Với các NHTM cổ phần đô thị có dư nợ quá hạn chiếm khoảng 20% và nợ khó đòi vào khoảng 10% so với tổng dư nợ. Đây là một tỷ lệ đáng báo động gây mất an toàn trong hoạt động kinh doanh của toàn bộ hệ thống NHTM nước ta, cần phải có biện pháp khắc phục. Với các NHTM quốc doanh có mức dư nợ quá hạn khoảng 11% và nợ khó đòi vào khoảng 8% so với tổng dư nợ . Với các NHTM cổ phần nông thôn có mức dư nợ quá hạn vào khoảng 5,6% và nợ khó đòi vào khoản 0,7% so với tổng dư nợ . Tình hình khá khả quan hơn đối với các chi nhánh NHTM nước ngoài ở Việt Nam, các tỷ lệ trên thấp hơn, tỷ lệ nợ quá hạn là 2,3%, nợ khó đòi là 1,2% so với tổng dư nợ. Để xem xét một cách có hệ thống, qua bảng số liệu tạm thời phản ánh mức độ diễn biến nợ quá hạn cũng như chất lượng tín dụng của toàn bộ hệ thống NHTM qua một số năm gần đây: Năm 1993 1994 1995 1996 1997 8/1998 Tổng nợ quá hạn /vốn tự có Tổng nợ quá hạn / tổng nợ Tổng nợ quá hạn/tổng tài sản có Tổng nợ quá hạn / tổng tài sản 95,5 11,1 6,6 6,9 85,0 6.0 5,5 6,9 61,9 7,8 4,4 7,1 75,7 9,3 5,5 7,3 62,3 9,5 5,4 7,9 (Nguồn báo cáo của ngân hàng thế gới số 17031VN đăng trên tạp chí ngân hàng số chuyên đề tháng 12/1998) Đến 31/12/1998 tổng dư nợ quá hạn chiếm 12,5% tổng dư nợ cho vay. Bên cạnh một số khoản dư nợ tiền vay tuy chưa quá hạn nhưng đã xác định được là mất do người vay chết, mất tích, phá sản, giải thể, thì đa số các khoản nợ tồi là do bị khách hàng lừa đảo. Điển hình trong vụ án Minh Phụng-Epco (với 77 bị cáo trong đó có 18 cán bộ ngân hàng). Tăng Minh Phụng cùng Liên Khui Thìn đã thành lập ra hàng loạt công ty con, và mượn tư cách pháp nhân của các công ty khác như công ty Thái Tuế, công ty Huỳnh Gia, công ty Tuấn Nghi... để lập hồ sơ vay vốn ngân hàng. Bằng các hình thức ký 217 hợp đồng tín dụng, 99 hợp đồng bảo lãnh và 9 L/C, các bị cáo đã rút lấy, chiếm đoạt của ngân hàng công thương thành phố Hồ Chí Minh và ngân hàng ngoại thương thành phố Hồ Chí Minh tổng số tiền là 5.223 tỷ đồng ( tạp chí ngân hàng số 15/1999 trang59) gây thiệt hại cho hệ thống ngân hàng hơn 4.300 tỷ đồng ( tạp chí ngân hàng số 15/1999 trang51). Tất cả số tiền ở 325 hợp đồng tín dụng và bảo lãnh nói trên đến thời hạn thanh toán đều quá hạn không thu hồi được vốn hoặc tuy còn trong hạn thanh toán nhưng không có khả năng thanh toán. Mặc dù đến nay NHNN và chính phủ đã có nhiều biện pháp để hạn chế và xử lý nợ quá hạn giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống dưới 5% nâng cao chất lượng tín dụng tuy nhiên tỷ lệ nợ quá hạn năm 99 giảm so với năm 2000 không đáng kể, Năm 200 tỷ lệ nợ quá hạn của toàn bộ hệ thống ngân hàng đã giảm 1,1% so với năm 1999 nhưng số lượng tuyệt đối vẫn không ngừng tăng lên số lượng nợ quá hạn cũng như tổng nợ xấu đang rất lớn và vẫn tiếp tục tăng. So với tỷ lệ bình quân các khoản vay khó đòi ở một số nước đông nam á như Thái Lan, Hàn quốc, Trung Quốc thì tỷ lệ bình quân các khoản vay khó đòi ở Việt Nam vẫn còn tương đối thấp. Nhưng điều đáng lo ngại là các khoản vay ở đây gần như không có khả năng thu hồi được lại chiếm trên 40% tổng dư nợ tín dụng quá hạn. Đặc biệt đáng báo động là tinh hình cho vay quá hạn, mất khả năng thu hồi vốn ở các NHTM cổ phần trên dưới 50% gây mất an toàn cho toàn bộ hệ thống ngân hàng. Do đó đòi hỏi chúng ta phải có giải pháp kịp thời để khắc phục. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro tín dụng cho các ngân hàng thương mại Việt Nam Chúng ta đã nghiên cứu về các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng ở các NHTM (phần I.3). Song ở mỗi nước khác nhau thì thực trạng rủi ro tín dụng lại diễn ra với quy mô khác nhau, đặc điểm khác nhau, và có những nguyên nhân đặc thù khác nhau gây nên, căn cứ vào đặc thù riêng của Việt Nam hiện nay và sự phân tích tổng hợp(phần I.3). Chúng ta có thể khái quát một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro tín dụng cho các NHTM Việt Nam như sau: nguyên nhân khách quan Điều kiện tự nhiên Việt Nam là nước nhiệt đới gió mùa, có nhiều thiên tai như: bão, lũ, lụt lội, hạn hán, dịch bệnh. Những thiên tai gây thiệt hại cho các ngành sản xuất, dịch vụ, gây thiệt hại cho người dân lao động. Làm họ gặp rủi ro mất vốn, mất khả năng chi trả, ảnh hưởng đến chiến lược sản xuất kinh doanh tín dụng của các NHTM. Do môi trường kinh tế,môi trường pháp luật Môi trường pháp lý, cơ chế chính sách kinh tế của Việt Nam chưa đồng bộ hoàn chỉnh, nhiều khi còn chồng chéo, thường xuyên thay đổi, bổ xung dẫn đến môi trường kinh doanh không ổn định. Còn thiếu những cơ sở để bảo vệ an toàn trong hoạt động kinh doanh tín dụng ngân hàng, kẻ xấu dễ lừa đảo chiếm đoạt. ảnh hưởng đến chiến lược, đến hoạt động kinh doanh của các NHTM. Bên cạnh đó môi trường kinh tế, môi trường kinh doanh chưa thật sự ổn định làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước gặp nhiều khó khăn như hàng hoá sản xuất ra đã không cạnh tranh nổi với thị trường hàng ngoại nhập tràn lan...Hàng Việt Nam không thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á, hàng loạt khách hàng của các NHTM phải đối đầu với các khó khăn về thị trường, về đầu tư, tài chính... Điều đó dẫn tới một số doanh nghiệp trong nước thua lỗ trong sản xuất kinh doanh và phá sản. Vốn tín dụng đầu tư vào khu vực kinh tế quốc doanh còn rất lớn Trong cả nước, phân tích xu hướng diễn biến tỷ trọng cho vay doanh nghiệp nhà nước trong 10 năm qua (1990 - 2000) có thể thấy như sau: Năm 1991 dư nợ cho vay các doanh nghiệp nhà nước chiến tỷ trọng 90 % năm 1995 là 55,2%, năm 1997 là 50,7%, năm 1999 là 49,2% và năm 2000 là 48,5% (Tạp chí ngân hàng số 6 năm 2001 trang 14). Tỷ trọng cho vay khu vực kinh tế nhà nước tuy có giảm, tuy nhiên tỷ trọng này vẫn còn rất lớn so với số lượng và chất lượng, cũng như quy mô hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. điều này ảnh hưởng đến nguyên tắc đa dạng hoá danh mục đầu tư tín dụng của các NHTM. Hơn nũa khu vực kinh tế của nhà nước vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro rất cao. Nguyên nhân chủ quan Môi trường thông tin không hoản hảo Hệ thống thông tin tín dụng hoạt động góp phần rất quan trọng trong việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. Hệ thống thông tin tín dụng giúp các NHTM đối phó với vấn đề thông tin không cân xứng, chọn lựa đối nghịch, rủi ro đạo đức. Tuy nhiên thông tin tín dụng ở nước ta hiện nay chưa đầy đủ, chưa cập nhật, chưa chính xác. Còn thiếu những trung tâm sản xuất và bán thông tin. Điều này gây khó khăn cho các cán bộ tín dụng trong việc thu thập và xử lý thông tin tín dụng về khách hàng. Nguyên nhân về phía khách hàng Hiện nay trình độ quản lý kinh doanh trong các doanh nghiệp nước ta còn yếu kém do vậy sử dụng vốn không hiệu quả, đến hạn không trả được nợ cho ngân hàng. Một số khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, chây ì, cố tình dây dưa chiếm đoạt vốn của ngân hàng. ở nước ta hiện nay phần lớn rủi ro tín dụng xảy ra là do bị khách hàng lừa đảo, một số vụ án có mức độ rất nghiêm trọng, trong vụ án Minh Phụng-ép Cô các bị cáo đã cố tình lách luật để vay vốn, Mua chuộc một số cán bộ tín dụng và cán bộ nhà nước, cũng trong vụ án này ông Huỳnh Văn Thành (chủ tịch UBND quận 3 thành phố Hồ Chí Minh) đã xác nhận vốn điều lệ của công ty ép Cô là 15 triệu USD, trong khi thực tế chỉ là 5 tỷ đồng, chúng đã cố tình nâng giá tài sản thế chấp, hoặc một tài sản thế chấp đem thế chấp ở nhiều ngân hàng. Tình trạng vay vốn của doanh nghiệp cao nhiều gấp nhiều lần điều lệ cũng là nguyên nhân quan trọng dẫn đến khó khăn cho ngân hàng. Chính vì vậy mà ngân hàng gặp khó khăn trong việc giám sát khách hàng về việc họ có sử dụng khoản vay đúng mục đích hay không. Trong thực tế các doanh nghiệp có xu hướng sử dụng vốn sai mục đích các khoản vay để đắp chỗ này, bù chỗ kia. Một số trường hợp khi doanh nghiệp sử dụng khoản vay không hiệu quả, kinh doanh thua lỗ lại tiếp tục vay đảo nợ. Đây là một điều đáng lưu ý với các NHTM khi cho vay. Nguyên nhân về phía ngân hàng Trình độ của cán bộ tín dụng nước ta còn thấp, thực tế nhiều cán bộ tín dụng của NHTM thiếu kinh nghiệm, thiếu năng lực phân tích và xử lý các thông tin tín dụng để bảo vệ và giám sát các khoản vay, thậm chí có trường hợp cán bộ tín dụng còn làm sai quy trình tín dụng. Bên cạnh đó các cán bộ tín dụng còn chưa am hiểu về pháp luật, kiến thức tổng hợp về kinh tế thị trường, tài sản thế chấp còn non kém do vậy thẩm định, tính toán mức cho vay, nguồn trả nợ không chính xác. Công tác thu thập và xử lý thông tin chưa được coi trọng, do vậy đã xảy ra tình trạng ngân hàng cho vay vốn tín dụng nhưng lại thiếu những thông tin chính xác về hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp và thiện chí trả nợ của doanh nghiệp. Bên cạnh đó công tác thẩm định điều kiện vay vốn cũng chưa được coi trọng. Có một số doanh nghiệp do quen thuộc nên không cần giám sát chặt chẽ và giải quyết cho vay chỉ dựa vào thông tin do doanh nghiệp cung cấp, thay cho những số liệu đáng tin cậy. Hoặc trong quan hệ tín dụng có mối liên kết “ đen ” giữa cán bộ ngân hàng và doanh nghiệp, do vậy trong việc giải quyết cho vay đã hạ thấp các têu chuẩn cho vay, nâng cao giá trị tài sản thế chấp để tham ô, trục lợi. Hệ thống kiểm soát của các NHTM chưa phát huy đúng tác dụng của nó . Do đó thường thì sau khi giải quyết cho vay, các NHTM yên tâm với tài sản thế chấp, cầm cố, bão lãnh và thiếu sự giám sát chặt chẽ đối với các khoản cho vay trong khi tài sản thế chấp, cầm cố, bão lãnh còn bị đánh giá sai lệch về mặt giá trị. Nguyên nhân về phía ngân hàng nhà nước Vai trò quản lý của NHNN còn hạn chế. Việc giám sát, thanh tra, xử lý hiệu lực còn thấp, thiếu kiên quyết, không dứt điểm, do vậy chưa phát huy được tác dụng. Chưa ban hành được hệ thống luật, cần thiết liên quan đến hoạt động ngân hàng. Quy chế hướng dẫn còn chưa đồng bộ, chậm trễ bổ xung sửa đổi cho phù hợp với điều kiện thực tế. Quản lý rủi ro tín dụng với các NHTM Việt Nam hiện nay và những hạn chế cần khắc phục Mục đích của quản lý rủi ro tín dụng là tối đa hoá tỷ lệ thu hồi vốn thông qua việc duy trì một mức độ rủi ro có thể chấp nhận được. Các ngân hàng cần quản lý rủi ro tín dụng phát sinh trong toàn bộ danh mục đầu tư tín dụng cũng như trong từng giao dịch tín dụng cụ thể. Đồng thời, các ngân hàng cũng phải xem xét tới mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và các loại rủi ro khác. Quản lý rủi ro tín dụng có hiệu quả sẽ giúp ngân hàng đạt được hiệu quả trong quản lý rủi ro nói chung và không thể thiếu được cho sự ổn định lâu dài của bất kì ngân hàng nào. Do rủi ro tín dụng vẫn tiếp tục là nguyên nhân hàng đầu gây khó khăn cho các NHTM Việt Nam, trước tình hình rủi ro phức tạp, nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống mức an toàn cho phép. Chính phủ, NHNN và các NHTM nước ta đã có nhiều biện pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng. Hạn chế tín dụng Một phương pháp để giúp những ngân hàng đối phó với chọn lựa đối nghịch và rủi ro đạo đức là việc hạn chế tín dụng. Những NHTM từ chối cho vay mặc dù những người vay sẵn lòng thanh toán lãi suất đã được công bố thậm chí một lãi suất cao hơn. Việc hạn chế tín dụng có hai dạng: Dạng thứ nhất diễn ra khi một ngân hàng từ chối một món cho vay với số lương bất kỳ nào đối với người vay, ngay cả khi người vay sẵn lòng thanh toán một lãi suất cao hơn. Dạng thứ hai diễn ra khi một NHTM sẵn lòng cho vay nhưng hạn chế mức vay đó dưới mức mà người vay muốn ( Frederic S.Mishkin tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính). Theo pháp luật Việt Nam thì TCTD không được cho vay chấp nhận bảo lãnh đối với: thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc(giám đốc) phó tổng giám đốc(phó giám đốc), người thẩm định xét duyệt cho vay; Bố, mẹ vợ, chồng, con( những ngươi có liên quan) của những người kể trên( Điều 77.1 luật TCTD ). Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của TCTD, trừ trưòng hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức ,cá nhân hoặc trường hợp khách hàng vay là TCTD khác; trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của TCTD hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì TCTD được cho vay hợp vốn theo quy định của pháp luật; trong trường hợp đặc biệt, để thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội mà khả năng hợp vốn của các TCTD chưa đáp ứng được yêu cầu vay vốn của một khách hàng thì Thủ tướng Chính phủ có thể quyết định mức cho vay tối đa đối với từng trường hợp cụ thể ( Điều 79.1 luật TCTD ). Mức bảo lãnh đối với một khách hàng và tổng mức bảo lãnh không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của TCTD do thống đốc NHNN quy định (Điều 79.2 luật TCTD). Bên cạnh đó TCTD không được cấp tín dụng không có đảm bảo, cấp tín dụng với những điều kiện ưu đãi cho: Tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên đang kiểm toán tại TCTD; Kế toán trưởng, thanh tra viên; các cổ đông lớn của TCTD ; Doanh nghiệp có một trong những đối tượng tại điều 77.1 luật TCTD ; sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó; Trong trường hợp có cho vay thì tổng dư nợ cho vay không được vượt quá 5% vốn tự có của TCTD. Nhiệm vụ của Hệ thống thông tin tín dụng Thu thập thông tin Tổ chức và tiến hành thu thập thông tin về doanh nghiệp, các thông tin khác có liên quan đến kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng từ các TCTD, các cơ quan hữu quan, các doanh nghiệp, các cơ quan thông tin trong và ngoài nước. Các thông tin về khách hàng gồm 2 loại: thông tin tài chính và thông tin phi tài chính. Thông tin phi tài chính phản ánh mục đích sử dụng vốn và việc khách hàng có thiện chí hoàn trả khoản tín dụng hay không, còn thông tin tài chính phản ánh tình hình tài chính và do đó giúp xác định cụ thể khả năng hoàn trả của khách hàng. Hai loại thông tin này vì thế bổ sung chặt chẽ cho nhau. Thông tin tài chính Các thông tin tài chính giúp phân tích tính lỏng của tài sản như: khả năng thanh toán, khả năng sinh lời, điểm hoà vốn, dự đoán thu chi tiền mặt...Tuỳ thuộc vào loại hình tín dụng mà cần quan tâm đến các chỉ số phân tích khác nhau. Nếu cho vay ngắn hạn thì ngân hàng thường quan tâm đến chỉ số phân tích vốn lưu động trên tổng tài sản, các chỉ số về tình trạng nợ nần của khách hàng ... Khi cho vay dài hạn ngân hàng lại thường chú trọng hơn đến các chỉ số phân tích thu nhập của doanh nghiệp, điểm hoà vốn... Các báo cáo tài chính: Thông tin tài chính chủ yếu được cung cấp từ các báo cáo tài chính của khách hàng, các báo cáo tài chính của tối thiểu là 3 năm gần nhất và báo cáo tài chính hiện tại, bao gồm bảng tổng kết tài sản và thu nhập, phải được khách hàng cung cấp ít nhất mỗi năm một lần. Việc đánh giá chính xác thông tin phản ánh trong báo cáo tài chính là rất quan trọng trong việc cho vay và thu nợ của NHTM, nếu những báo cáo này đảm bảo được tính thời sự, chính xác... Danh mục tài sản có thể làm đảm bảo tín dụng: gồm hàng tồn kho, các khoản phải thu, nhà xưởng và thiết bị sản xuất. Các bản kế hoạch dự toán: bao gồm dự án luồng tiền, dự toán nhu cầu vốn, các kế hoạch sản xuất kinh doanh và dự toán thu nhập. Ngoài ra thông tin tài chính cũng có thể thu thập từ các ngân hàng đã có quan hệ với khách hàng, các doanh nghiệp khác có liên quan, từ các cơ quan quản lý, và từ các phương tiện thông tin đại chúng. Khi cho vay có bảo đảm thì cũng cần chu ý đến khả năng thương mại của tài sản bảo đảm trên thị trường . Thông tin phi tài chính Thông tin phi tài chính là những thông tin mang tính chất định tính về khách hàng như danh tiếng của khách hàng, mối quan hệ lâu dài với khách hàng...Trong những thông tin về khách hàng, có những thông tin không được lưu dữ thành văn bản hay một phương tiện lưu tin nào khác và thường bị bỏ qua. Trong đó những thông tin mang tính trực giác trong quá trình tiếp xúc, phỏng vấn khách hàng có vai trò rất quan trọng. Đặc biệt việc cán bộ tín dụng đi khảo sát, nghiên cứu tại cơ sở của người vay sẽ giúp ích rất nhiều trong việc thu thập thông tin có tính chất định tính về khách hàng, không thể hiện được thành những con số cụ thể nhưng lại giúp hình dung khá rõ ràng về tình trạng hiện thời của khách hàng. Có những mẹo nhỏ tương chừng đơn giản nhưng hiệu quả mang lại rất lớn như quan sát tình hình hoạt động ở văn phòng, kho bãi, chú ý tới chõ làm việc của nhân viên kế toán, quan sát thật kỹ văn phòng làm việc của người chủ doanh nghiệp, tiếp xúc với những cán bộ thuộc lớp lãnh đạo kế cận, đánh giá khả năng kế thừa trong quản trị điêu hành doanh nghiệp như thế nào... Rất nhiều cán bộ tín dụng chỉ đến thăm qua loa nơi làm việc của khách hàng và do vậy, đã bỏ lỡ những cơ hội ngàn vàng để nắm bắt những thông tin về doanh nghiệp mà hoàn toàn không thể thấy trong các báo cáo tài chính và nghiên cứu thị trường: từ những thông tin này có thể đánh giá được tư cách người vay, khả năng lãnh đạo tình hình kinh doanh hiện tại cũng như tương lai. Xử lý thông tin Sau khi thu thập được thông tin thì cần có quá trinh xử lý để làm rõ những điểm mạnh, điểm yếu của khách hàng và quyết định có cấp tín dụng hay không, nếu cấp rồi thì xem có nên tiếp tục hợp đồng hay tiến hành thu hồi khoản tín dụng trước khi quá muộn. Cách xử lý thông tin đơn giản nhất là tiến hành xếp loại từng doanh nghiệp theo tiêu thức đánh giá và lập bảng theo dõi từng khách hàng. Điều quan trọng là cán bộ tín dụng phải đưa ra được các nhận xét liên quan đến điểm mạnh yếu của khách hàng theo từng tiêu thức và xác định được mức độ an toàn của mỗi khoản tín dụng. Các tiêu thức Mạnh Khá Trung bình Yếu Quá yếu Tư cách đạo đức ٧ Khả năng quản lý ٧ Năng lực hoàn trả ٧ Sức mạnh tài chính ٧ Biện pháp bảo đảm ٧ Mục đích sử dụng ٧ Tuy nhiên, các cán bộ tín dụng thường băn khoăn trong việc xác định mức độ bù trừ giữa các điểm mạnh điểm mạnh yếu: Ví Dụ, Biện pháp bảo đảm tốt liệu có bù đắp được cho tình hình tài chính tương đối yếu hay không? Câu trả lời chung nhất là phải quan tâm nhiều đến tư cách đạo đức, khả năng lãnh đạo và năng lực hoàn trả của doanh nghiệp, Vì điểm yếu về những mặt này thường không thể bù đắp bởi các điểm mạnh khác; ngoài ra, nếu doanh nghiệp bị đánh giá là quá yếu về bất kỳ một tiêu thức nào thì ngân hàng cũng không nên cấp tín dụng cho họ. Đối với những dự án cấp tín dụng dài hạn, quy mô lớn thì phải thu thập nhiều thông tin hơn và áp dụng mô hình toán học để có thể đo lường rủi ro tín dụng chính xác hơn. Một số mô hình có thể sử dụng là mô hình xác suất tuyến tính, phân biệt tuyến tính, logit, probit, mô hình quyền chọn... Mô hình đa dạng hoá danh mục đầu tư để lượng hoá rủi ro cho toàn bộ danh mục đầu tư ... Tuy nhiên, hoạt động của hệ thống thông tin tín dụng hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, lượng thông tin vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cho hoạt động tín dụng cả về chất lượng cũng như số lượng. Thứ nhất, Tổng dư nợ mà trung tâm thông tin tín dụng quản lý hiện nay vẫn còn thấp so với mức dư nợ thực tế. Nguyên nhân chủ yếu là do các NHTM nước ngoài và một số NHTM cổ phần đang trong diện giám sát đặc biệt hoặc chuẩn bị sát nhập nên chưa cung cấp thông tin đầy đủ. Thứ hai, Tính cập nhật của thông tin, như ta đã biết dư nợ khách hàng, tổng dư nợ vay tại NHTM là số lượng biến động do quan hệ vay trả diễn ra thường xuyên. Trong khi đó, việc cung cấp thông tin của các TCTD thành viên lại không thường xuyên, đó là nguyên nhân dẫn đến đến thông tin thiếu tính cập nhật hiện nay, Thứ ba, Tính đầy đủ và đa dạng của thông tin bị hạn chế, tiêu chí hoạt động của trung tâm là ngăn ngừa, phân tán rủi ro, đảm bảo an toàn trong hệ thống với các chỉ tiêu cung cấp là tình hình dư nợ (tiền gưởi, tiền vay); tình hình tài chính (khả năng tài chính doanh nghiệp), tài sản thế chấp, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, quan hệ hoạch toán của... khách hàng. Để khắc phục điểm yếu trên phải không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống thông tin tín dụng, phù hợp với yêu cầu thực tế đòi hỏi, phù hợp với nhịp độ phát triển ngày càng cao của công nghệ thông tin. Dự phòng rủi ro Một trong những điểm mới nhất, rất tiến bộ trong việc điều hành hoạt động kinh doanh tín dụng là việc các NHTM nói riêng và TCTD nói chung đã được phép trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro. Việc cho phép các TCTD trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro trong kinh doanh chứng tỏ sự chấp nhận của các nhà làm luật với những rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng, và việc khẳng định sự cần thiết của việc nhà nước cùng chia sẻ những rủi ro trong hoạt động kinh doanh với các TCTD thông qua việc chấp nhận khoản dự chi cho những rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là một khoản chi phí hợp lý của các TCTD. Theo quyết định số 48/1999/quyết định-NHNN5 thì các TCTD phải thực hiện việc phân loại tài sản “có” và trích lập dự phòng để bù đắp rủi ro mỗi năm một lần trong vòng 25 ngày làm việc đầu tiên của mỗi năm. Quy định này đồng nghĩa với việc quỹ dự phòng rủi ro được trích lập ngay từ đầu năm hiện hành căn cứ vào số dư nợ quá hạn của mỗi năm trước đó. Khoản dự phòng rủi ro phải được hoạch toán vào chi phí hoạt động, trong trường hợp TCTD thu hồi được vốn đã được xử lý bằng khoản dự phòng rủi ro, số tiền thu hồi đuợc nay coi là doanh thu của TCTD. NHNN cũng đã đưa ra những tỷ lệ trích lập khác nhau đối với những khoản tín dụng có nguy cơ rủi ro khác nhau. Nếu khoản tín dụng nào có khả năng thu hồi càng kém thì tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro càng lớn, chẳng hạn: Đối với những tài sản gồm khoản cho vay có bảo đảm, cho thuê tài chính, thời gian quá hạn là 360 ngày trở lên, cho vay không có bảo đảm thời gian quá hạn là 180 ngày trở lên, và những khoản chiết khấu, tái chiết khấu và trả thay bảo lãnh từ 90 ngày trở lên thì tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro sẽ là 100% Nếu nợ quá hạn trên 180 ngày nhưng dưới 360 ngày thì tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro là 50%. Đối với nợ quá hạn dưới 180 ngày nhưng có bảo đảm thì tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro là 20%. Việc quỹ dự phòng rủi ro được đưa vào các NHTM là rất cần thiết vì qua đó các NHTM có thể tiến hành xử lý rủi ro tín dụng, tạo điều kiện thu hồi vốn nhanh chóng Tuy nhiên hoạt động của quỹ dự phòng rủi ro còn có một số hạn chế nhất định: Thứ nhất, Thời điểm trích lập dự phòng rủi ro chưa phù hợp cho hoạt động của các NHTM, việc trích lập dự phòng rủi ro ngay một lần đầu năm sẽ ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuân hàng tháng và có thể dẫn đến một vài NHTM sẽ thường xuyên “bị lỗ”. Tình trạng này gây nên hiện tượng “Lỗ giả - lãi thật” không phản ánh đúng sự thật về kết qủa kinh doanh theo tháng, quý của các NHTM. Mặt khác trích lập 1 lần vào đầu năm sẽ gây nên đột biến lớn trong thu nhập và chi phí của từng NHTM. Thứ hai, Quy định về tỷ lệ trích lập dự phòng cho tài sản có mặc dù đã gần với thông lệ quốc tế, song vẫn chưa phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay. Bởi lẽ theo thống kê cho thấy, tình hình nợ quá hạn tại một số NHTM hiện nay còn khá cao thì mức dự phòng rủi ro có thể lên đến hàng trăm tỷ đồng (đối với những ngân hàng lớn) và hàng chục tỷ đồng đối với những ngân hàng nhỏ. Trong khi đó lợi nhuân hàng năm của các NHTM khó có thể thể đạt bằng con số mà quỹ dự phòng đã trích lập đầu năm. giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng với các NHTM Việt Nam Trong thời gian gần đây, hoạt động kinh doanh tín dụng của các NHTM Việt Nam đã thu được những thành tựu nhất định, nhìn lại năm 2000 có thể thấy tín dụng tăng trưởng cả về quy mô lẫn tốc độ trong khi nợ quá hạn được kiềm chế. Đến năm 2000 tỷ lệ nợ quá hạn của toàn bộ hệ thống ngân hàng đã giảm hơn 1,1% so với năm 1999. Điều đó cho thấy sau hàng loạt biện pháp nhằm tăng cường quản lý rủi ro tín dụng, xử lý nợ quá hạn đã mang lại những hiệu quả khả quan. Tuy nhiên cơ chế quản lý rủi ro tín dụng trong thời gian gần đây vẫn còn nhiều hạn chế. Cụ thể là hệ thống thông tin tín dụng làm việc với hiệu quả chưa cao, việc sàng lọc và giám sát của NHTM đối với khách hàng chưa được xem trọng, lượng thông tin thu thập được vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về số lượng, chất lượng, tính cập nhật ... Điều này tạo nên một môi trường thông tin không hoàn hảo cho hoạt động kinh doanh tín dụng. Bên cạnh đó việc trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro chưa phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay của Việt Nam. Đa dạng hoá danh mục đầu tư chưa được thực hiện. Trình độ và đạo đức kinh doanh của các cán bộ ngân hàng đang là vấn đề nhức nhối, vai trò quản lý của NHNN còn hạn chế... Chính những hạn chế trên đã dẫn đến thực trạng nợ quá hạn như hiện nay, điều này đòi hỏi chúng ta phải có những giải pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất. Sau đây là một số giải pháp chủ yếu: Phần III kết luận Hoạt động cho vay gắn liền với rủi ro liên quan đến người vay mà các ngân hàng không thể kiểm soát được một cách hoàn hảo. Nhưng mặt khác lợi nhuận lại gắn liền với mức rủi ro. Một nhà quản lý đầu tư giỏi không thể là một người sợ rủi ro mà phải là người biết đánh giá, kiểm soát mức rủi ro và hạn chế nó ở mức độ tối thiểu tương ứng với mục tiêu lợi nhuận của mình. Sự phát triển của công nghệ thông tin và tài chính đã thực sự làm phong phú thêm kỹ thuật quản lý rủi ro. Tuy nhiên hiệu quả của nó lại phụ thuộc vào kỹ năng của các nhà quản lý đầu tư trong việc sử dụng các kỹ thuật đánh giá và phòng ngừa rủi ro. Đề tài “ Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng với các NHTM Việt Nam ” là một đề tài rất bổ ích đối với em. Qua quá trình nghiên cứu em đã tích luỹ được nhiều kiến thức về các kỹ thuật đánh giá rủi ro tín dụng cũng như các nghiệp vụ phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. Để trở thành một nhà quản lý ngân hàng giỏi thì nhất thiết chúng ta phải biết phân tích và đánh giá các loại rủi ro, nắm vững các nghiệp vụ phòng ngừa và hạn chế rủi ro, nhất là đối với rủi ro tín dụng. Đề án này chắc chắn không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định rất mong được sự góp ý của các thầy cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn Th.s Lê Thanh Tâm đã giúp em hoàn thành đề án này. Danh mục tài liệu tham khảo Anthony Saunders và Helen lange Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng-NXB thống kê Hà Nội-1999. Frederic S.Mishkin tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính NXB khoa học kỹ thuật Quản lý và kinh doanh tiền tệ NXB tài chính thị trường tài chính và thị trường chứng khoán NXB mũi cà mau giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ trường đại học kinh tế quốc dân Tạp chí ngân hàng các số 1+2,11,12, năm 1998 số chuyên đề 12/1998 Số 7,9/ 1999 số 11,5 /2000 số 6 năm 2001. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 18,24 năm 2000 số 8 năm 2001 Tạp chí kinh tế và phát triển Luật các TCTD được quốc hội thông qua ngày 22/12/1997 NXB chính trị quốc gia

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0936.doc
Tài liệu liên quan