Trung tâm Tài chính là nơi tập trung và diễn ra các hoạt động về cung cấp dịch vụ tài chính. Trong nền kinh tế thị trường, các nguồn tài chính luôn vận động từ những người cung cấp tài chính đến những người có nhu cầu tài chính. Nguồn tài chính được vận động theo hai phương thức: Tài trợ trực tiếp và tài trợ gián tiếp.
Tài trợ trực tiếp: Là hình thức vận động của các nguồn tài chính một cách trực tiếp từ người cung tài chính đến người cầu tài chính. Nguồn tài chính này có thể được tài trợ trực tiếp qua người môi giới và tài trợ trực tiếp không qua người môi giới. Biểu hiện cụ thể của loại hình dịch vụ này là dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ tư vấn, dịch vụ đại lý bảo hiểm, dịch vụ vay mượn trên thị trường tự do.
Tài trợ gián tiếp: Là hình thức vận động của nguồn tài chính từ người cung tài chính tới người cầu tài chính thông qua một trung gian tài chính. Các trung gian tài chính huy động nguồn tài chính từ những người cung tài chính và trả cho họ một khoản phí nhất định dưới dạng lãi tiền gửi. Sau đó phân phối lại nguồn tài chính này đến những người có nhu cầu tài chính và thu từ họ một khoản phí nhất định dưới dạng lãi tiền vay. Với hình thức tài trợ gián tiếp này, người cầu về tài chính không trả phí sử dụng nguồn tài chính trực tiếp cho người cung tài chính mà trả cho các trung gian tài chính.
96 trang |
Chia sẻ: DUng Lona | Lượt xem: 1069 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp xây dựng Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - Tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phục vụ cho định hướng phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội và cả nước chủ động hội nhập hiệu quả với thị trường tài chính tiền tệ khu vực.
3.2 Các giải pháp xây dựng Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ
Việc xây dựng và phát triển thị trường tài chính - tiền tệ trở thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ ở Hà Nội cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
1. Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của thị trường tiền tệ và Trung tâm Tài chính - tiền tệ.
Để lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia và xây dựng Trung tâm Tài chính -tiền tệ ở Hà Nội, hệ thống pháp luật tài chính cần phải tiếp tục hoàn thiện đồng bộ. Cần có quy trình nghiêm ngặt, có cơ sở khoa học trong việc soạn thảo và ban hành luật. Khi xây dựng luật, cần có bản thuyết minh đầy dủ các mối quan hệ giữa từng luật được xây dựng với các luật và các vấn đề khác, mối liên hệ giữa luật tài chính nước ta với luật tài chính ở các nước và điều kiện vận dụng ở Việt Nam. Quá trình phê chuẩn luật cần có phản biện của các chuyên gia giỏi đầu ngành nhằm hạn chế tối đa những kẽ hở có thể có. Cùng với hệ thống pháp luật tài chính, cần chuẩn bị kèm theo những điều lệ, chế độ, văn bản hướng dẫn thi hành từng luật nhằm tránh những mâu thuẫn giữa luật với văn bản dưới luật nhằm tạo thuận lợi để thi hành luật nghiêm túc, kịp thời, có hiệu quả.
Trong nền tài chính nhiều thành phần với sự tham gia của các chủ thể tài chính ở những trình độ khác nhau, nên để thực thi luật và các văn bản mang tính pháp luật, Nhà nước cần ban hành những nội quy, quy trình mẫu áp dụng cho các loại đơn vị khác nhau nhằm đưa dần hoạt động tài chính vi mô đi đúng quỹ đạo chung của luật pháp. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập, hệ thống pháp luật tài chính ở nước ta không chỉ tiến tới đồng bộ mà phải từng bước “tương đồng ”phù hợp với luật pháp của các nước trong khu vực, quốc tế nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập. Hệ thống khung pháp lý, nhất là khung pháp lý về tài chính - tiền tệ có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động và sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính, bởi nó là cơ sở quyết định nguyên tắc và hoạt động của Trung tâm. Do đó, trong thời gian tới cần phải tạo điều kiện thuận lợi về hành lang pháp lý cho phát triển thị trường tài chính Việt Nam nói chung và cho phát triển Trung tâm Tài chính - tiền tệ Hà Nội theo hướng:
ã Tiếp tục nâng cao hiệu lực pháp lý của hệ thống khung pháp luật về thị trường dịch vụ tài chính. Nhanh chóng nâng lên thành Luật đối với các loại dịch vụ tài chính hiện nay đang được quy định ở các mức Pháp lệnh, Nghị định như dịch vụ đầu tư chứng khoán...
ã Cần rà soát lại nội dung Luật NHNN VN, Luật các Tổ chức tín dụng và hệ thống các văn bản dưới Luật nhằm bãi bỏ một số hạn chế đang cản trở các NHTM mở rộng các hoạt động dịch vụ tài chính mới. Rà soát, bổ sung, sửa đổi các quy định về an toàn tín dụng về hoạt động ngân hàng, đồng thời nâng cao hiệu quả thể chế bảo hiểm tiền gửi và cho vay, chế độ quản lý tín dụng, quản lý nợ, đảm bảo an toàn cho hệ thống tín dụng.
Tiếp tục sửa đổi Luật ngân hàng nhà nước và luật các tổ chức tín dụng phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, phù hợp với các cam kết của Chính phủ về hội nhập kinh tế và mở cửa thị trường tài chính (Hiệp định AFTA và Hiệp định thương mại Việt-Mỹ, và chuẩn bị gia nhập WTO).
ã Hoàn thiện khung pháp lý cho sự hoạt động của thị trường chứng khoán, xây dựng tiêu chuẩn công khai thông tin trên thị trường chứng khoán, đảm bảo công bằng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư, đưa ra các quy tắc và kỷ luật thị trường trong giao dịch, thanh toán, công bố thông tin, ngăn chặn các hành vi gian lận, lũng đoạn thị trường, đảm bảo khuyến khích các thành viên tham gia thị trường.
Tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy chế pháp lý đối với hoạt động của CTCK nói riêng (quy chế về tự doanh, môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư, lưu ký, thanh toán bù trừ, có hướng dẫn cụ thể về chế độ kế toán, chế độ quản lý tài chính đối với CTCK... ) và với TTCK nói chung cho phù hợp với điều kiện và tiến trình phát triển thực tế của TTCK Việt Nam, phù hợp với các thông lệ quốc tế.
Văn bản cao nhất trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán là Nghị định 144/2003/NĐ-CP và để có thể triển khai hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội theo mô hình đề xuất thì cần có hướng dẫn triển khai Nghị định này đầy đủ, bao quát được các mặt hoạt động giao dịch có tính chất đặc thù riêng tại trung tâm. Đồng thời, cần nhanh chóng soạn thảo và ban hành luật chứng khoán để giải quyết các tồn tại phát sinh từ việc thiếu tính đồng bộ giữa các văn bản pháp luật chung với chuyên ngành chứng khoán.
ã Xây dựng và ban hành các chuẩn mực kiểm toán - kế toán toán theo thông lệ quốc tế và phải được hệ thống kiểm toán - kế toán quốc tế như WB, ADB, IMF công nhận.
ã Văn bản pháp lý quan trọng nhất đối với kinh doanh bảo hiểm là Luật Kinh doanh Bảo hiểm. Qua thời gian thực hiện đã phát hiện ra những quy định chưa phù hợp với tập quán kinh doanh bảo hiểm trên thế giới, làm hạn chế vai trò của luật trong điều tiết hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Vì vậy, cần chỉnh sửa một số nội dung đang bất cập với thực tiễn như sau:
- Vấn đề bất bình đẳng trong kinh doanh giữa các loại hình doanh nghiệp. Tạo sự công bằng giữa các doanh nghiệp Nhà nước với các doanh nghiệp nước ngoài.
- Điều chỉnh thuế thu nhập và mức phí giữa doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và nước ngoài.
- Bổ sung cơ chế chính sách ưu đãi của nhà nước đối với những người tham gia bảo hiểm.
ã Xây dựng và ban hành các văn bản pháp lý liên quan đến các giao dịch diễn ra tại Trung tâm Tài chính - tiền tệ Hà Nội.
2. Phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính - tiền tệ nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế Thủ đô và xây dựng Trung tâm Tài chính - tiền tệ.
Có thể nói phát triển thị trường tài chính Thủ đô chính là đặt nền móng vững chắc cho việc xây dựng Trung tâm Tài chính - tiền tệ ở Hà Nội. Các tổ chức trung gian trên địa bàn Thủ đô cần phải đáp ứng được các yêu cầu cả về quy mô lẫn chất lượng dịch vụ cung cấp nhằm đưa Hà Nội thực sự trở thành một trung tâm thu hút và điều phối vốn cho khu vực phía Bắc và cả nước. Cụ thể:
ã Củng cố và phát triển mạng lưới ngân hàng nhằm góp phần xây dựng Hà Nội văn minh, hiện đại. Hoàn thiện và xây dựng chiến lược kinh doanh mới cho các ngân hàng thương mại. Trong thời gian tới, các ngân hàng thương mại trên địa bàn Thủ đô cần có các biện pháp đẩy mạnh việc huy động vốn trung và dài hạn, đặc biệt chú trọng sử dụng các công cụ của thị trường tài chính nhằm đáp ứng yêu cầu đầu tư phát triển của Thành phố, đồng thời sẽ góp phần làm cho hoạt động tại Trung tâm Tài chính - tiền tệ thêm sôi động. Các dự án đầu tư trung và dài hạn thường là các dự án có quy mô lớn nên nhu cầu về vốn cũng lớn. Bởi vậy, các NHTM Hà Nội nói chung thường gặp khó khăn trong việc cho vay đối với các dự án có quy mô lớn do tiềm lực tài chính hạn chế. Đồng thời, cơ cấu lại tổ chức ngân hàng thương mại theo chiều sâu bằng các biện pháp nâng cao sức mạnh tài chính, nâng cao năng lực cạnh tranh, bảo đảm tỷ lệ an toàn vốn, giảm nợ xấu, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nâng cao năng lực quản lý ngân hàng, phát triển đa dạng các dịch vụ ngân hàng, các hình thức kinh doanh mới, sản phẩm mới như ngân hàng điện tử, thẻ tín dụng, hỗ trợ thương mại điện tử qua dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt... Hiện đại hoá cơ sở hạ tầng kỹ thuật của hệ thống ngân hàng, nâng cao chất lượng, trình độ các dịch vụ tài chính - ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế là điều kiện cần thiết để hệ thống tài chính Thủ đô làm tốt chức năng trung tâm giao dịch và thanh toán quốc tế.
Đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các ngân hàng thương mại quốc doanh nhằm tăng năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Có thể thấy rằng quy mô vốn tự có của các ngân hàng thương mại cỏ phần là rất thấp, chỉ đạt trung bình khoảng 9,7 triệu USD/ một ngân hàng trong khi đó nhiều ngân hàng ở Châu á, vốn tự có phải ở mức hàng chục tỷ USD. Vốn tự có thấp làm hạn chế năng lực tài chính của các ngân hàng, do vậy giải pháp khả thi nhằm tăng nguồn vốn dài hạn cho ngân hàng Hà Nội là phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng.
Phát triển mạng lưới hoạt động của các chi nhánh, văn phòng đại diện của các ngân hàng Hà Nội ra các tỉnh khác để đa dạng hoá các loại hình dịch vụ ngân hàng đồng thời thu hút vốn từ đó về, giống như các các ngân hàng thương mại phía Nam đang thực hiện ở Hà Nội hiện nay. Hà Nội đang xây dựng và triển khai hợp tác phát triển với 7 tỉnh vùng Bắc Bộ và lân cận, trước mắt cần nhanh chóng mở các chi nhánh tại các tỉnh này để khai thác các tiềm năng về vốn do hệ thống ngân hàng và các định chế tài chính nơi đây chưa phát triển.
Hiện đại hoá hệ thống thanh toán, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ của ngân hàng điện tử.
ã Phát triển thị trường chứng khoán ở Hà Nội: song song với việc đẩy mạnh tín dụng trung và dài hạn của các NHTM hoạt động trên địa bàn Hà Nội, cần có hệ thống giải pháp để từng bước phát triển thị trường chứng khoán bởi đây sẽ là một nhân tố quan trọng, một kênh thu hút vốn thúc đẩy sự phát triển kinh tế Thủ đô và cả nước. Do đó, cần:
Đa dạng hoá hơn nữa các loại hàng hoá cho giao dịch trên thị trường chứng khoán Hà Nội. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội cần lên kế hoạch đề án tạo hàng hoá cụ thể cho Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và các địa phương, đơn vị liên quan trên địa bàn Hà Nội và trong khu vực trong việc lựa chọn các doanh nghiệp đã cổ phần hoá nếu có đủ điều kiện sẽ đưa vào niêm yết hoặc các doanh nghiệp chuẩn bị cổ phần hoá sẽ gắn với niêm yết.
Xây dựng hệ thống các nhà đầu tư có tổ chức, các quỹ đầu tư, các tổ chức trung gian, các tổ chức làm dịch vụ cho thị trường. Tăng quy mô và phạm vi hoạt động của các công ty chứng khoán.
Nhằm đưa TTGDCK Hà Nội đi vào hoạt động với chức năng tổ chức vận hành thị trường giao dịch các cổ phiếu doanh nghiệp vừa và nhỏ theo phương thức khớp lệnh tập trung. Muốn vậy, cần tập trung:
Tiếp tục nâng cao các điều kiện về cơ sở vật chất và nguồn lực để đẩy mạnh hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội lập phương án hoạt động của trung tâm trong từng giai đoạn; đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ năng lực và chuyên môn; hoàn thiện các quy trình, thủ tục giao dịch tại trung tâm...
Hoàn thiện khung pháp lý cho sự hoạt động của trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội.
Tăng cường hàng hoá ban đầu cho thị trường: Để trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đi vào hoạt động sôi động thì thị trường này cần có một khối lượng hàng hoá đủ lớn và đa dạng về chủng loại và uy tín về chất lượng bằng cách cải tiến phương thức phát hành tín phiếu chính phủ, gắn cổ phần hoá với niêm yết, tạo niềm tin cho các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường chứng khoán, có các chính sách khuyến khích các công ty niêm yết (chính sách tài chính, chính sách thuế như miễn giảm thuế thu nhập công ty trong một số năm đầu tham gia thị trường chứng khoán...), đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá...
Phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành liên quan trong việc thúc đẩy sự phát triển Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội.
ã Đối với thị trường bảo hiểm, trong thời gian tới cần tổ chức và sắp xếp lại hoạt động kinh doanh theo hướng tập trung chuyên môn hoá, nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường năng lực tài chính dưới nhiều hình thức, đa dạng hoá cơ cấu sở hữu, khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước tham gia góp vốn dưới hình thức công ty cổ phần. Khuyến khích thị trường bảo hiểm tham gia đầu tư một tỷ lệ thích đáng vào đầu tư dài hạn, đặc biệt là vào thị trường chứng khoán. Để đẩy nhanh tiến trình hội nhập quốc tế và nâng cao năng lực cạnh tranh cần thực thi một số giải pháp sau:
Thứ nhất: Đánh giá, tổ chức sắp xếp lại mạng lưới doanh nghiệp bảo hiểm trên địa bàn Thành phố theo hướng: Tập trung hình thành một số doanh nghiệp đủ mạnh để cạnh tranh trong những lĩnh vực quan trọng và chủ yếu kết hợp với mạng lưới các doanh nghiệp bảo hiểm khác để tạo ra môi trường cạnh tranh hoàn hảo. Cụ thể:
+ Sát nhập một số doanh nghiệp bảo hiểm thành tập đoàn tổng hợp với qui mô lớn về vốn và phạm vi kinh doanh rộng.
+ Cấp phép thành lập thêm một số công ty bảo hiểm dưới dạng cổ phần theo ngành hoặc liên kết ngành, khuyến khích thành lập các liên doanh giữa DNBH trong nước và đối tác nước ngoài.
+ Thành lập mới một số doanh nghiệp tái bảo hiểm để tạo ra sự cạnh tranh trong lĩnh vực này, giúp quá trình phân chia rủi ro hiệu quả, nâng cao vị thế của thị trường bảo hiểm.
Thứ hai: Khẩn trương nghiên cứu và xây dựng một chiến lược phát triển tổng thể thị trường bảo hiểm, trong đó cần xác định rõ lộ trình mở cửa cho từng giai đoạn, từng lĩnh vực, gỡ bỏ dần các hạn chế về giao dịch qua biên giới và sự hiện diện thương mại của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Cụ thể cần qui định lộ trình về xoá bỏ tái bảo hiểm bắt buộc, về không được kinh doanh bảo hiểm bắt buộc đối với các tổ chức bảo hiểm nước ngoài.
Thứ ba: Đẩy nhanh quá trình hợp tác quốc tế và hội nhập về dịch vụ bảo hiểm với khu vực và thế giới.
+ Mở cửa thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường bảo hiểm theo các đinh hướng chung mà Việt nam đã cam kết với các nước khi gia nhập các tổ chức quốc tế
+ Hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm lớn, các tổ chức tài chính lớn trong nước cung cấp dịch vụ qua biên giới và thành lập các chi nhánh hoặc công ty con ở nước ngoài, trước mắt là các nước trong khu vực.
+Tăng cường vai trò của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam.
3. Đa dạng hoá và nâng cao sức cạnh tranh của các dịch vụ tài chính theo hướng giảm thiểu các chi phí và tiếp cận dần với các thông lệ quốc tế
Đặc trưng cơ bản của Trung tâm Tài chính là sự hiệu quả của thị trường, giá cả hàng hoá dịch vụ tài chính và chi phí giao dịch thấp. Chính vì thế, xây dựng Hà Nội thành Trung tâm Tài chính tiền tệ cũng cần có những bước thực hiện để cắt giảm chi phí.
+ Về lãi suất, từng bước tiến tới tự do hoá lãi suất tín dụng. Đối với phí, có thể thấy rằng giá phí dịch vụ bảo hiểm, chứng khoán hiện nay trên thị trường còn tồn tại nhiều bất hợp lý, chủ yếu được định ra bằng sự tham chiếu các biểu giá phí từ bên ngoài và từ sự áp đặt của các công ty nước ngoài. Để khắc phục tình trạng này, làm cho giá cả dịch vụ hợp lý hơn, trước hết các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính phải đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động kỹ thuật, đặc biệt là thống kê tổn thất, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn định phí chi tiết, phù hợp với thống kê và đặc thù kinh tế - xã hội và tự nhiên Việt Nam cho từng dịch vụ và từng loại sản phẩm dịch vụ.
+ Về phía Nhà nước, các cơ quan quản lý phải thể chế hoá các biểu phí của thị trường, hỗ trợ và giám sát về kỹ thuật định phí cho các chủ thể cung cấp dịch vụ trong một số nghiệp vụ bảo hiểm có tính xã hội hoá cao như các nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc: Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới, bảo hiểm hoả hoạn, hoặc một số hoạt động về chứng khoán.
+ Đối với giá cả các loại dịch vụ tài chính như: Phí tư vấn đầu tư chứng khoán, phí môi giới đầu tư chứng khoán, phí thanh toán... Nhà nước hầu như không thể điều chỉnh được cung dịch vụ bằng công cụ gián tiếp như trong chính sách điều chỉnh lãi suất của các tổ chức tín dụng. Do đó phương án tốt nhất để quản lý chính sách giá các loại dịch vụ tài chính này là Nhà nước quản lý mức giá trần.
4. Phát triển đồng bộ các thể chế trong hoạt động của thị trường tài chính
Bên cạnh nỗ lực phát triển các thể chế tài chính truyền thống như Ngân hàng thương mại, Công ty Bảo hiểm, Trung tâm GDCK cần phát huy vai trò của các công ty tài chính, công ty chứng khoán và các quỹ trong việc huy động vốn cho phát triển kinh tế Thủ đô và Trung tâm Tài chính tiền tệ.
Đối với các công ty tài chính
+ Phải xác định đúng đắn vai trò, vị trí của các công ty tài chính trong việc huy động và phân phối các nguồn vốn. Hoạt động tài chính của công ty này cần tập trung hơn nữa vào cung cấp các dịch vụ tài chính, hỗ trợ các hoạt động kinh doanh, quản lý uỷ thác vốn đầu tư, điều hoà nguồn vốn nhàn rỗi, tư vấn hoặc đại lý phát hành trái phiếu của các tổng công ty trên thị trường tài chính.
+ Mở rộng và phát triển các loại hình dịch vụ tài chính: ngoài nguồn vốn huy động trong Tổng công ty, cần cho phép các công ty tài chính huy động vốn từ các tổ chức tín dụng như nâng mức dư nợ tín dụng lên hơn 15% vốn tự có, tăng tính huy động vốn tín dụng dưới hình thức cho vay hợp đồng hoặc tiếp nhận vốn uỷ thác từ các tổ chức kinh tế xã hội và dân cư.
+ Mở rộng diện cho vay đối với các thành viên của Tổng công ty, các công ty liên doanh, các doanh nghiệp trong cùng ngành và các tổ chức kinh tế, các tầng lớp dân cư.
+ Thành lập các công ty tài chính mới và thực hiện việc tăng vốn cho các công ty tài chính thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu...
Đối với các công ty chứng khoán
+ Nâng cấp quy mô vốn và mở rộng hoạt động nghiệp vụ của các công ty chứng khoán.
+ Mở rộng mạng lưới dịch vụ và chi nhánh, văn phòng giao dịch và đại lý nhận lệnh của các công ty chứng khoán. Khuyến khích các ngân hàng thương mại của Thủ đô làm tổ chức lưu ký, đại lý nhận lệnh và mở tài khoản cho khách hàng.
+ Tăng cường chất lượng quản trị công ty và chất lượng môi giới, hành nghề chứng khoán. Khuyến khích cạnh tranh và phát triển số lượng các công ty chứng khoán.
Đối với các tổ chức tài chính khác như kiểm toán, kế toán, tổ chức tư vấn tài chính, tổ chức xếp hạng tín nhiệm... cần phát triển nhanh về số lượng và nâng cao chất lượng hoạt động theo hướng:
+ Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên hành nghề, chất lượng quản trị công ty.
+ Hoàn thiện các hệ thống kế toán, các chuẩn mực kiểm toán, kế toán phù hợp với thông lệ quốc tế và được quốc tế công nhận.
Tích cực thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Hà Nội và tăng cường, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Nguồn vốn này là có tiềm lực lớn, lại năng động nhạy bén, nhanh chóng thích nghi với nền kinh tế. Phát huy được nguồn vốn quan trọng này sẽ tạo ra một nhân tố mới thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế ngoài ra còn giúp giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước trong việc giải quyết vấn đề về vốn đầu tư, tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo... Tuy nhiên, cũng như nguồn vốn ngoài quốc doanh, nguồn vốn này Thành phố không thể chủ động trực tiếp điều chỉnh bao nhiêu cho ngành nào và cho vùng nào mà chỉ có thể điều tiết một cách gián tiếp thông qua chính sách chế độ và tạo môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn. Để thực hiện triệt để và hiệu quả việc thu hút vốn FDI và FII trong điều kiện hiện nay, khi các nước đều đã và đang tích cực cải thiện môi trường đầu tư nhằm cạnh tranh thu hút vốn, nhất là Trung Quốc thì cần phải thực hiện các giải pháp sau. Cụ thể:
+ Thành phố phải tạo điều kiện để đơn giản hoá và hợp lý hoá các thủ tục hành chính liên quan tới lĩnh vực đầu tư nước ngoài trong tổng thể chương trình cải cách hành chính chung. Trước hết, hợp lý hoá các thủ tục hành chính cho đối tượng cụ thể là các nhà đầu tư nước ngoài vừa đảm bảo lợi ích của họ, vừa đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước trong tiến trình cải cách hành chính theo hướng thuận lợi hoá, nhất quán và đồng bộ. Cụ thể trước mắt cần đẩy nhanh tiến trình thực hiện quản lý hành chính theo cơ chế "một cửa một dấu", đồng bộ hóa thủ tục hải quan, kiên quyết loại bỏ các thủ tục xuất nhập khẩu rườm rà, phức tạp liên quan đến quá nhiều cơ quan hành chính gắn liền với nâng cao năng lực, trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ hành chính, hải quan, công khai hoá các thông tin liên quan đến thủ tục hành chính hải quan...
+ Nhanh chóng cải thiện cơ sở hạ tầng Thủ đô, ưu tiên các cơ sở hạ tầng kinh tế như hệ thống giao thông vận tải, điện, nước, viễn thông thông qua huy động cao độ các nguồn lực tài chính Nhà nước và tranh thủ khai thác sử dụng nguồn vốn ODA. Chú trọng xây dựng hệ thống giao thông đô thị phù hợp với quy hoạch tổng thể tại thành phố Hà Nội đi đôi với phát triển mạng lưới giao thông cả nước phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và qui hoạch phát triển theo lãnh thổ, đảm bảo tính hấp dẫn của môi trường đầu tư trên cả khía cạnh "diện" và "điểm". Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã từng nói đại ý đường giao thông tới đâu là kinh tế phát triển tới đó. Ngoài ra cần thực hiện các biện pháp quyết liệt cụ thể nhằm giảm ùn tắc, bảo đảm an toàn giao thông. Nâng cấp và xây dựng mạng lưới điện, nước, thông tin liên lạc đảm bảo yêu cầu đầy đủ, ổn định, an toàn, hiện đại, đồng thời có cơ chế chính sách đảm bảo quyền tiếp cận các cơ sở hạ tầng kinh tế đó một cách bình đẳng và thuận lợi nhất. Bên cạnh đó, không thể coi nhẹ việc phát triển cơ sở hạ tầng xã hội quan trọng như y tế, giáo dục, văn hoá... thông qua kết hợp đa dạng các nguồn lực tài chính của Nhà nước, của doanh nghiệp, của dân cư, nguồn vốn trong cũng như ngoài nước, vì đó cũng là những yếu tố không thể thiếu cho một môi trường đầu tư thực sự hấp dẫn.
+ Xây dựng một danh mục dự án đầu tư ổn định lâu dài để kêu gọi FDI đồng thời đưa ra các chính sách ưu đãi để tăng cường FDI vào các ngành mũi nhọn mà cụ thể đối với Hà Nội là các ngành dịch vụ tài chính - tiền tệ và các ngành công nghệ cao.
+ Điều chỉnh giá các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh theo hướng giảm ngang bằng hoặc thấp hơn so với mặt bằng giá ở các nước trong khu vực, ở các quốc gia là đối thủ cạnh tranh với Việt Nam trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài, trước hết là cước phí giao thông vận tải, cảng biển, nước, viễn thông thông qua triệt để tiết kiệm, cắt giảm chi phí giá thành sản phẩm hàng hoá dịch vụ, đặc biệt là chống biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Về lâu dài, Thành phố cần kiến nghị lên Chính phủ triển khai Luật Cạnh tranh và chống độc quyền để giảm chi phí sản xuất, đa dạng hoá nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào thiết yếu cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong cũng như ngoài nước, đi đôi với áp dụng nguyên tắc không phân biệt đối xử về giá theo thành phần kinh tế.
+ Chính sách công nghệ của Thành phố cần có các quy định cụ thể về yêu cầu và chế độ thưởng phạt tài chính hấp dẫn về chuyển giao công nghệ trong các dự án FDI, Hà Nội cần mạnh dạn đầu tư để xây dựng trung tâm dịch vụ tư vấn, thẩm định và chuyển giao công nghệ, hỗ trợ các đơn vị có chức năng tương tự trên địa bàn.
+ Có thể cho phép Thành phố áp dụng mềm dẻo các ưu đãi tài chính riêng của Thành phố cho các doanh nghiệp FDI. Chẳng hạn như nâng mức khởi điểm và hạ thấp thuế suất thuế thu nhập cá nhân đối với lao động Việt Nam đang làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng người Việt Nam giữ vị trí quản lý và chuyên môn chủ chốt.
+ Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được lập công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài, công ty đa mục tiêu, đa dự án tại Hà Nội.
+ Thành phố cần chủ động xây dựng cơ chế riêng về cho thuê đất ở các khu công nghiệp, khu chế xuất theo nguyên tắc giảm thiểu tối đa tiền cho thuê. Đơn giản hoá các thủ tục giao đất, cho thuê đất. Có thể thí điểm việc bãi bỏ cơ chế các doanh nghiệp Việt Nam góp vốn liên doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất, mà chuyển sang cho thuê đất dài hạn để các nhà đầu tư có toàn quyền sử dụng trong thời gian thuê đất...
+ Xem xét cho phép Hà Nội thí điểm các hình thức thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII), giúp các nhà đầu tư nước ngoài tích cực tham gia vào hoạt động của Trung tâm Tài chính - tiền tệ Hà Nội, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của Trung tâm, vừa góp phần giúp Hà Nội nhanh chóng tiếp cận với công nghệ cao và trình độ quản lý hiện đại, vừa tạo áp lực cạnh tranh cho các nhà đầu tư trong nước lại vừa là cầu nối hữu hiệu giúp Trung tâm Tài chính Hà Nội vươn ra thị trường quốc tế.
+ Thực hiện các cam kết của các hiệp định tham gia hội nhập kinh tế và mở cửa hơn nữa ngành dịch vụ. Cho phép đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực như bưu chính viễn thông, điện.... nhằm giảm cước phí các sản phẩm của các ngành này.
Tóm lại, Hà Nội phải đi đầu trong thu hút đầu tư nước ngoài, hội nhập quốc tế trong đó hội nhập Tài chính- tiền tệ quốc tế phải được ưu tiên hàng đầu. Chỉ như vậy mói có thể tạo ra được “động lực” hình thành và phát triển Trung tâm Tài chính - tiền tệ Hà Nội.
Ngày nay, hội nhập quốc tế là tất yếu khách quan trong tiến trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Mỗi nền kinh tế không thể đứng ngoài nền kinh tế thế giới và buộc phải có các quan hệ với nền kinh tế thế giới trên nhiều khía cạnh khác nhau. Trong đó thị trường dịch vụ tài chính là một bộ phận đang rất được thế giới chú trọng và mong muốn đi đầu trong quá trình toàn cầu hoá. Tiến trình tham gia Tổ chức thương mại thế giới và thực hiện các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Mỹ đặt ra một yêu cầu cấp bách đối với Việt Nam trong việc mở cửa, tự do hoá thị trường tài chính. Việc tự do hoá tài chính này được thể hiện trên một số phương diện sau: (1) Loại bỏ việc kiểm soát lãi suất; (2) Giảm yêu cầu dự trữ bắt buộc của các ngân hàng; (3) Giảm thiểu sự can thiệp của chính phủ vào các quyết định cho vay của ngân hàng; (4) Cổ phần hoá các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước; và (6) Dỡ bỏ kiểm soát các luồng vốn vào và ra khỏi nền kinh tế.
Mục tiêu hội nhập là khai thác các lợi thế phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước nói chung và thị trường dịch vụ tài chính nói riêng, hạn chế các tác động tiêu cực từ quá trình này. Bên cạnh đó quá trình hội nhập cũng có một số tác động tiêu cực mà chúng ta cần có giải pháp ngăn chặn để bảo vệ thị trường nội địa: Do các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính nước ngoài là các doanh nghiệp có nguồn lực tài chính lớn, có trình độ quản lý và kỹ thuật hiện đại, nói cách khác là khả năng cạnh tranh cao hơn so với các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính trong nước, do đó cần bảo vệ các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính trong nước nhằm đảm bảo cho thị trường phát triển vững mạnh, ngặn chặn nguy cơ lũng đoạn của nước ngoài.
Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Hà Nội
Để đáp ứng các yêu cầu của hội nhập và phát triển, vấn đề đổi mới để tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên địa bàn Thủ đô càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết xuất phát từ thực trạng nội lực và hiệu quả sản xuất còn thấp. Những cải cách quan trọng về chính sách tài chính, tín dụng theo các nguyên tắc thị trường góp phần tạo động lực tài chính và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các điều kiện về tín dụng đang có xu hướng nới lỏng và bình đẳng đối với các thành phần kinh tế, pháp luật thuế được hoàn thiện dần theo xu hướng ngày càng phù hợp hơn đối với các yêu cầu của một nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, các cơ chế về chính sách tài chính doanh nghiệp chưa đủ mạnh để tạo ra động lực phát triển cho doanh nghiệp, chưa tạo được hướng cho doanh nghiệp phát huy tốt nguồn lực trong và ngoài nước để đầu tư sản xuất. Để đảm bảo cho các doanh nghiệp có điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng cường khả năng cạnh tranh, góp phần cho công cuộc xây dựng và phát triển ổn định, lành mạnh của Thủ đô trong tương lai cần:
+ Hoàn thiện môi trường pháp lý thúc đẩy quá trình đổi mới doanh nghiệp và tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, Thành phố cần tạo môi trường cạnh tranh để thúc đẩy doanh nghiệp phát triển bằng cách giảm dần và tiến tới xoá bỏ các rào cản phi thuế quan, thực hiện minh bạch hoá chính sách trong lĩnh vực thuế, cải cách các thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực như đăng ký kinh doanh, thủ tục vay vốn... nhằm tạo sự linh hoạt, chủ động cho các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, hạn chế sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào quá trình sản xuất kinh doanh. Sớm tiến hành thực hiện một luật Doanh nghiệp duy nhất điều chỉnh các loại hình doanh nghiệp để tạo sự bình đẳng trong kinh doanh.
+ Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn Hà Nội. Trên thực tế, hầu hết các doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp nhà nước đều không muốn tự giác tiến hành cổ phần hoá vì các lý do khác nhau liên quan đến đặc quyền của doanh nghiệp, quyền chức và lợi ích của một số đối tượng, hay sợ phải bộc lộ những vướng mắc liên quan tới tài sản doanh nghiệp... do đó cần quán triệt về nhận thức sự cần thiết và lợi ích của cổ phần hoá và đổi mới doanh nghiệp đồng thời cần xây dựng danh sách các doanh nghiệp nhà nước cần phải tiến hành cổ phần hoá trong đó quy định rõ thời hạn, phương thức tiến hành, trách nhiệm của các cấp, cá nhân để tránh tình trạng trì hoãn, gây tổn thất cho tập thể, cộng đồng và xã hội.
+ Thành phố phải kiên quyết thực hiện các giải pháp về bán, giải thể, phá sản các doanh nghiệp mà Nhà nước không thực sự cần thiết phải nắm giữ lại đang trong tình trạng nợ nần quá nhiều, không có khả năng trả nợ. Có thể cho phép Thành lập các công ty mua bán nợ và các công ty tài chính để xử lý các khoản nợ cũng như để tổ chức, quản lý, kinh doanh số vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp.
+ Thí điểm việc xoá bỏ phân cấp quản lý doanh nghiệp Nhà nước Trung ương và địa phương, ngoại trừ những doanh nghiệp đặc biệt, còn lại giao cho Thành phố quản lý thống nhất toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước hiện có trên địa bàn và Thành phố sẽ chịu trách nhiệm thực hiện các khoản thu ngân sách nhà nước nộp Trung ương theo phân cấp mới. Có như vậy Thành phố mới có thực lực và điều kiện để triển khai thực hiện chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung và chương trình xây dựng Trung tâm Tài chính - tiền tệ nói riêng.
+ Ưu đãi về tín dụng để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tập trung vốn cho các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng trọng điểm có tỷ trọng xuất khẩu lớn, sử dụng công nghệ cao, nhiều hàm lượng chất xám mà Thành phố khuyến khích, tránh để xảy ra tình trạng bao cấp vốn một cách tràn lan thông qua ưu đãi tín dụng, xoá bỏ cơ chế “xin- cho” trong tín dụng đầu tư ưu đãi nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
+ Chuyển từ phương thức hỗ trợ ưu đãi trực tiếp sang hỗ trợ gián tiếp, thay vì dùng vốn ưu đãi cấp thẳng cho doanh nghiệp và dự án thì nên chăng khuyến khích việc Thành phố chủ động tăng chi ngân sách Nhà nước theo hướng chuyển nguồn vốn này sang phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tư vấn hỗ trợ kinh doanh, thông tin và xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường và quảng bá sản phẩm.
+ Khuyến khích và áp dụng các ưu đãi về thuế, tín dụng đối với các doanh nghiệp nhập khẩu công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, chuyển giao công nghệ cao.
+ Mở rộng quyền của doanh nghiệp trong việc sử dụng, chuyển nhượng đất, xây dựng biểu định giá thuê đất hợp lý, sát với giá trị thực tế của thị trường, cho phép doanh nghiệp được thuê hoặc bán nhà xưởng gắn liền với đất. Đẩy nhanh quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hình thành các trung tâm đăng ký bất động sản để tạo điều kiện xác lập quyền sở hữu cho các tổ chức doanh nghiệp.
+ Mở rộng quyền của doanh nghiệp trong việc thuê và tuyển lao động. Thành lập các quỹ hỗ trợ cung cấp thông tin và đào tạo cho các cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và nhân viên của doanh nghiệp với sự tham gia của các cơ quan chức năng tương ứng như các tổ chức kinh doanh, các trường đào tạo, cung cấp cấp thông tin và đào tạo cho các doanh nghiệp về công nghệ mới...
7. Thúc đẩy áp dụng các công nghệ mới, công nghệ hiện đại và quy mô phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh.
Đi tắt đón đầu bằng các ngành công nghệ mới, hiện đại sẽ là hướng đi giúp Hà Nội nhanh chóng hội đủ đầy đủ các yêu cầu về công nghệ để xây dựng Trung tâm Tài chính tiền tệ, vì vậy:
+ Khuyến khích đầu tư cho việc nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ sinh học, các phương thức sản xuất mới nhằm tạo được sự đột phá trong sản xuất để sản phẩm hàng hoá có giá trị gia tăng cao, có giá trị kinh tế lớn. Tránh đầu tư, nhập khẩu các công nghệ lạc hậu, quy mô không thích hợp. Bài học kinh nghiệm đi thẳng vào công nghệ tiên tiến của ngành bưu điện- viễn thông nên được áp dụng cho ngành tài chính- tiền tệ Hà Nội nhằm đảm bảo cho các dịch vụ Tài chính- tiền tệ mà Hà nội cung cấp có ưu thế vượt trội, có sức cạnh tranh trong nước và quốc tế.
+ Thành phố nên có những chính sách để gắn kết nghiên cứu với ứng dụng vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh: ưu tiên cho vay vốn ưu đãi đối với các cơ sở nghiên cứu tự mình tổ chức hoặc liên kết với doanh nghiệp ứng dụng công nghệ nghiên cứu; cơ sở sản xuất, kinh doanh được trích tỷ lệ % từ hiệu quả sinh lợi do áp dụng thành quả nghiên cứu khoa học để thưởng cho người có công. Trung tâm Tài chính - tiền tệ là một môi trường lý tưởng cho những hoạt động năng động và sáng tạo, trong đó những kết quả nghiên cứu về tài chính - tiền tệ đi thẳng vào thực tế, được áp dụng vào các hoạt động kinh doanh nên cần có cơ chế khuyến khích, kích thích tính sáng tạo đồng thời bảo hộ và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân dám đi tiên phong trong đổi mới công nghệ, áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại mở ra những hướng phát triển dịch vụ tài chính tiền tệ mới.
+ Nghiên cứu xây dựng các luận cứ khoa học cho đổi mới và áp dụng các cơ chế và công nghệ quản lý mới nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý và phát triển kinh tế -xã hội Thủ đô. Chú trọng hiện đại hoá trong ngành tài chính tiền tệ cả về công nghệ cũng như trình độ quản lý, đảm bảo đi trước một bước so với các ngành khác, nhanh chóng tiếp cận với trình độ cong nghệ và quản lý hiện đại của các nước trong khu vực
+ Thu hút, đãi ngộ xứng đáng các nhà khoa học, các chuyên gia trong nước và nước ngoài làm việc tại khu công nghệ cao, phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia và các trung tâm ươm tạo công nghệ cao. Củng cố, hình thành và phát triển mạng lưới các viện, trung tâm nghiên cứu Tài chính - tiền tệ, trung tâm Phân tích dự báo trên cơ sở phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực tạo ra những cơ sở khoa học vững chắc cho sự phát triển của Trung tâm Tài chính - tiền tệ.
+ Có chính sách hỗ trợ và khuyến khích nghiên cứu chuyển giao ứng dụng khoa học công nghệ mới, huy động mọi nguồn lực của các tổ chức và cá nhân tham gia nghiên cứu khoa học, đưa khoa học kỹ thuật trở thành lượng lượng sản xuất trực tiếp thì phát triển Trung tâm Tài chính mới thành công và phát triển kinh tế bền vững.
8. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Việc tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức, cán bộ khoa học và công nghệ là chìa khoá để Hà Nội có thể phát triển bền vững. Hình thành và phát triển Trung tâm Tài chính - tiền tệ cũng cần có một đội ngũ chuyên gia tài chính - tiền tệ lành nghề, chuyên nghiệp đi đôi với đội ngũ quản lý có trình độ cao, thích ứng với nền kinh tế thị trường, với mức độ phát triển ngày càng tinh vi, phức tạp của các dịch vụ tài chính - tiền tệ và yêu cầu hội nhập quốc tế. Tăng cường đầu tư cho giáo dục là hướng đầu tư dài hạn mà Thủ đô cần hướng tới, một mặt không ngừng nâng cao mặt bằng dân trí và chất lượng giáo dục toàn diện nguồn nhân lực. Mặt khác, cải thiện cơ cấu đào tạo theo nhu cầu của thị trường, đẩy mạnh đào tạo kỹ năng tay nghề và đảm bảo việc làm phù hợp chuyên môn cho người lao động. Trong thời gian vừa qua, các Bộ, ngành đã thực hiện chương trình đạo tạo cán bộ, nâng cao năng lực quản lý và năng lực kinh doanh nhưng vẫn còn chưa tương xứng với yêu cầu phát triển. Vì vậy cần:
+ Xây dựng, triển khai chiến lược đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Cải cách hệ thống giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo và chất lượng nguồn nhân lực.
+ Bố trí và sử dụng lao động đã được đào tạo cũng là một vấn đề cần tính đến, Cần có một chiến lược đào tạo dài hạn gắn liền với các chiến lược phát triển kinh tế, đảm bảo đào tạo thoả mãn những nhu cầu lao động của nền kinh tế cả về số lượng và chất lượng. Thu hút, đào tạo các chuyên gia Tài chính tiền tệ và phát triển Trung tâm Tài chính - tiền tệ có mối quan hệ biện chứng với nhau. Sự phát triển Trung tâm Tài chính - tiền tệ kéo theo nhu cầu về lực lượng lao động có trình độ cao trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, ngược lại sử dụng có hiệu quả đội ngũ chuyên gia tài chính tiền tệ là yếu tố quyết định thành bại của Trung tâm Tài chính - tiền tệ Hà Nội.
+ Đào tạo, nâng cao trình độ hiểu biết của người lao động về chính sách, luật pháp về kinh doanh, kiến thức về thị trường, về tài chính, về kỹ năng nghiệp vụ, nâng cao khả năng ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh, tin học. Việc đào tạo có thể thực hiện qua những hình thức đa dạng như thông qua công việc, tổ chức đào tạo tại chỗ, đào tạo ngắn hạn, bổ túc kiến thức, đào tạo dài hạn trong và ngoài nước, mời chuyên gia nước ngoài giảng dạy kèm cặp hay thực tập ở các Trung tâm Tài chính quốc tế... với mục đích là tạo được đội ngũ chuyên gia có đủ khả năng vận hành thông suốt các hoạt động tại Trung tâm Tài chính - tiền tệ Hà Nội.
+ Định kỳ tổ chức tiếp xúc và có cơ chế thích hợp nhằm tập hợp tiềm năng trí tuệ trong và ngoài Hà Nội để giải quyết các vấn đề về khoa học-công nghệ, kinh tế-xã hội đặt ra trong quá trình phát triển của Thủ đô để Hà Nội không chỉ là nơi hội tụ các tài năng mà còn là nơi hội tụ trí tuệ, hội tụ “chất xám” của cả nước.
+ Có chính sách thu hút nhân tài, người lao động có nghiệp vụ chuyên môn kinh tế, chuyên gia giỏi, sinh viên giỏi, trí thức và các nhà doanh nghiệp có trình độ cao ở những chuyên ngành phù hợp về công tác tại Thủ đô thông qua các đãi ngộ về đời sống, thu nhập, việc làm, chế độ hộ khẩu và các đãi ngộ khác...
+ Xây dựng và xúc tiến thực hiện các cơ chế khuyến khích cán bộ, lao động Thủ đô học tập, nâng cao trình độ. Hỗ trợ kinh phí từ NSNN thích đáng cho những tài năng đặc biệt trong các lĩnh vực có lợi cho sự phát triển kinh tế của Thủ đô, trong đó chú trọng phát triển tài chính tiền tệ và hệ thống pháp luật. Bên cạnh các trường đại học, các trung tâm đạo tạo tài chính tiền tệ, pháp luật cần thiết lập hệ thống đào tạo bồi dưỡng thường xuyên để có nguồn nhân lực ổn định, tiếp cận trình độ quốc tế trong lĩnh vực tài chính tiền tệ.
+ Đối với việc đào tạo đội ngũ nhân lực cho Trung tâm Tài chính - tiền tệ mà chủ yếu là đào tạo đội ngũ quản lý, nhân viên các ngành tài chính ngân hàng, bảo hiểm, kế toán, kiểm toán, tư vấn tài chính trước mắt cần tập trung đào đạo các cán bộ quản lý cao cấp về các nghiệp vụ chủ yếu, các kỹ năng thực hiện, các dịch vụ gắn với công nghệ thông tin. Đối với thị trường chứng khoán, tiếp tục đào tạo cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ vận hành thị trường, cán bộ kinh doanh chứng khoán... Xây dựng hệ thống các chuẩn mực trình độ, tiến tới nhanh chóng đáp ứng các chuẩn mực đó theo nguyên tắc chỉ có những người có đủ trình độ mới được hành nghề tại Trung tâm Tài chính - tiền tệ, đồng thời có kế hoạch đưa các chuẩn mực tiêu chuẩn đó tiến gần với chuẩn mực quốc tế.
+ Nhanh chóng hình thành, phát triển thị trường lao động trình độ cao và có tổ chức. Cùng với thị trường khoa học - công nghệ, thị trường thông tin và các định chế thị trường đồng bộ khác, việc hình thành và phát triển thị trường lao động, đặc biệt là thị trường nhân lực trình độ cao, có tổ chức là giải pháp quan trọng trong quá trình hoàn thiện cơ chế thị trường nói chung và thúc đẩy ứng dụng khoa học vào phát triển Trung tâm Tài chính - tiền tệ ở Hà Nội nhanh hơn và có hiệu quả hơn.
Cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Quy mô và chất lượng cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật của Thủ đô có ý nghĩa đặc biệt quan trong trong việc xây dựng và phát triển Trung tâm Tài chính - tiền tệ. Để khắc phục những bất cập và nhanh chóng hiện đại hoá cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Thủ đô cần:
+ Sớm công bố danh mục tự do hoá đầu tư vào kinh doanh các dịch vụ công ích và phát triển hạ tầng Thành phố.
+ Cải thiện và nâng cấp, hiện đại hoá, đồng bộ hoá hệ thống cơ sở hạ tầng nhằm nhanh chóng khắc phục tình trạng quá tải, bất cập như hiện nay. Phát triển theo quy hoạch dài hạn ngang tầm với trình độ của các đô thị văn minh, tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.
+ Đầu tư mở rộng, nâng cấp, hoàn thiện, mở các tuyến đường hướng tâm nối với các quốc lộ xuất phát từ Thủ đô, xây dựng hoàn chỉnh, xử lý triệt để các nút giao thông nội thành, cửa ô, hệ thống giao thông tĩnh, cải tạo cầu Long Biên.
+ Tập trung đầu tư phát triển giao thông công cộng và giải quyết tình trạng ách tắc giao thông, ô nhiễm môi trường. Đảm bảo giao thông thuận lợi cho Hà Nội, giữa Hà Nội và cả nước và giao thông xuyên á.
+ Xây dựng thêm các trạm truyền tải 500KV, 200KV, 110KV, ngầm hoá mạng lưới trung thế, bỏ dần cáp điện áp 35KV, 10KV, 6KV, chỉ còn một cáp 22KV/0,4KV. Xây dựng trung tâm điều độ lưới điện Thành phố, tổng đài báo sửa chữa điện.
+ Đầu tư phát triển mạng viễn thông hiện đại ngang tầm quốc tế, sử dụng công nghệ hiện đại, tăng dung lượng các tổng đài hiện có. Cải tạo, xây mới hệ thống cống bể, cáp đồng và cáp quang hóa mạng truyền dẫn nội thành; đầu tư cơ giới hoá, tự động hoá mạng lưới bưu chính.
+ Kết hợp chặt chẽ các nguồn vốn, đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Thành phố.
+ Việc bố trí các nguồn vốn đầu tư NS của thành phố cho phát triển hạ tầng trên địa bàn cần tập trung vào những khâu, những công trình then chốt mà các thành phần kinh tế khác không có khả năng đầu tư hoặc không muốn đầu tư vì đòi hỏi vốn lớn, lợi nhuận thấp, thời gian hoàn vốn dài. Bên cạnh đó, tập trung vào công tác khảo sát, thiết kế, lập kế hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết các công trình, bố trí vốn đối ứng cho những công trình đã cam kết với phía nước ngoài để đảm bảo tốc độ giải ngân, vốn cho giải phóng mặt bằng...
+ Phân cấp mạnh mẽ hơn cho Thành phố về trách nhiệm và nguồn lực ngân sách nhà nước chi cho xây dựng, quản lý, khai thác và phát triển cơ sở hạ tầng của Thủ đô. Có thể giao cho Thành phố trực tiếp quản lý toàn bộ hệ thống đường giao thông trên địa bàn và chuyển kinh phí ngân sách nhà nước tương ứng cho ngân sách thành phố để xây dựng và bảo dưỡng. Nâng mức vốn dự án mà Thành phố có thể uỷ quyền cho Sở kế hoạch và Đầu tư thành phố quyết định theo nghị định 52/1999/NĐ-CP lên trên 5 tỷ đồng.
+ Huy động vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng Thủ đô qua phát hành trái phiếu đô thị.
+ Cho phép các nhà đầu tư tư nhân phát triển các dự án, công trình giao thông công chính và thu phí dịch vụ trong một thời gian nhất định. Có thể mở cửa các dịch vụ công ích của Thành phố như vệ sinh môi trường, điện nước, vận tải hành khách công cộng... hoặc mở rộng hình thức liên doanh với các nhà đầu tư tư nhân.
+ Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tư nhân đầu tư kinh doanh xây dựng, quản lý và khai thác cơ sở hạ tầng đô thị, các dịch vụ mà họ có khả năng đầu tư 100% vốn, đặc biệt là dịch vụ vui chơi giải trí, y tế, thể dục thể thao, giáo dục...
Kết luận
Trung tâm Tài chính - tiền tệ là sản phẩm tất yếu của sự phát triển thị trường tài chính và quá trình phát triển kinh tế đến một mức độ nhất định. Để hình thành một Trung tâm Tài chính - tiền tệ có khả năng tập trung, hình thànhvà điều phối các quan hệ giao dịch tài chính tiền tệ ngày càng tinh vi, phức tạp với tầm ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội ngày càng lớn thì cần thiết phải có một số điều kiện cơ bản về kinh tế - tài chính, về nguồn nhân lực về khoa học công nghệ, về cơ sở hạ tầng... Với tư cách là một trung tâm chính trị, văn hoá, kinh tế và thương mại của cả nước Hà Nội về cơ bản đã hội đủ các điều kiện tiền đề để trở thành Trung tâm Tài chính của cả khu vực. Thực tế cho thấy xây dựng Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ khu vực là một định hướng, chủ trương đúng đắn và phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong điều kiện hội nhập. Với bất kỳ một chủ trương nào, để việc triển khai thực hiện đạt kết quả thì việc sớm ban hành các cơ chế, chính sách và xây dựng mô hình tổ chức thực hiện luôn có ý nghĩa quyết định. Đánh giá chính xác khả năng xây dựng Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ là một công việc rất cần thiết để làm căn cứ cho đề án xây dựng Trung tâm Tài chính - tiền tệ tại Hà Nội, nhưng cũng rất công phu, phức tạp với yêu cầu đánh giá toàn diện, chi tiết, sát thực, cụ thể và có hệ thống, đặc biệt là những điều kiện tài chính - tiền tệ. Việc xây dựng Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ là một việc đòi hỏi rất nhiều nỗ lực của cả nước nói chung và của Hà Nội nói riêng đồng thời là một quá trình từng bước vững chắc, đồng bộ với quá trình cải cách, phát triển hệ thống tài chính-tiền tệ quốc gia. Chính vì vậy, sau khi nghiên cứu, đánh giá về khả năng, điều kiện để xây dựng Trung tâm Tài chính - tiền tệ, luận văn đã đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm thực hiện mục tiêu, quyết tâm xây dựng Trung tâm Tài chính - tiền tệ ở Hà Nội. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể trong đó những giải pháp trước mắt và giải pháp lâu dài song đều phải đặt trong một lộ trình thực hiện hợp lý, khả thi. Hy vọng những đánh giá sơ bộ trên đây và các kiến nghị giải pháp có thể giúp chúng ta có cái nhìn khái lược về khả năng, đồng thời góp phần thực hiện mục tiêu rất hấp dẫn là đưa Thủ đô Hà Nội thật sự trở thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ của khu vực trong 10 - 15 năm tới. Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian và trình độ nên luận văn không tránh khỏi những hạn chế khiếm khuyết, rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô và sự đóng góp ý kiến của người đọc để tác giả tiếp tục nâng cao, hoàn thiện khả năng nghiên cứu trong thời gian tới./.
danh mục tài liệu tham khảo
Giải pháp tài chính thúc đẩy phát triển kinh tế ThàFnh phố Hà Nội. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2004.
Hà Nội mới 23.7.2004
Hà Nội mới 29.7.2004
Nghị định 123/2004/NĐ-CP ngày 18.5.2004 của Chính phủ
Nghị quyết 20 của Bộ Chính trị.
Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Thành phố Hà nội
Niên giám thống kê Hà Nội năm 2003.
Pháp lệnh Thủ đô ngày 28 tháng 12 năm 2000. Uỷ ban thường vụ Quốc hội
Phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội. Chính trị quốc gia năm 2004.
Phát triển thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Nhà xuất bản Tài chính năm 2004.
Tạp chí đầu tư chứng khoán 20.12.2004
Tạp chí Lao độngvà xã hội 7.2004
Thị trường tài chính Việt Nam, thực trạng và giải pháp. Nhà xuất bản tài chính 2004.
Thông tư 51/2004/TT-BTC ngày 9.6.2004 của Bộ Tài chính
www.mas.gov.sg
www.hochiminhcity.gov.vn
www.hanoi.gov.vn
The Economist 9-5-1998
Financial Centres Survey
Phụ lục 1
Cơ cấu vốn và hình thức sở hữu của các doanh nghiệp
bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm tại Việt Nam
Thứ tự
Tên doanh nghiệp
Năm cấp giấy phép
Hình thức sở hữu
Vốn điều lệ
Lĩnh vực hoạt động
1,
Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam (BaoViet)
1964
Nhà nước
586 tỷ VND
Nhân thọ
Phi nhân thọ
2,
Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (Vinare)
1994
Nhà nước
40 Tỷ VND
Tái bảo hiểm
3,
Công ty bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh (Baominh)
1994
Nhà nước
40 tỷ VND
Phi nhân thọ
4,
Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (Pjico)
1995
Cổ phần
55 tỷ VND
Phi nhân thọ
5,
Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long)
1995
Cổ phần
24 tỷ VND
Phi nhân thọ
6,
Công ty bảo hiểm Dầu khí (PVIC)
1996
Nhà nước
20 tỷ VND
Phi nhân thọ
7,
Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế Việt Nam (VIA)
1996
Liên doanh
6 triệu USD
Phi nhân thọ
8,
Công ty môi giới bảo hiểm INCHINBROK
1993
Liên doanh
250,000 USD
Môi giới bảo hiểm
9,
Công ty bảo hiểm Liên hiệp (UIC)
1997
Liên doanh
6 triệu USD
Phi nhân thọ
10,
Công ty Cổ phần bảo hiểm bưu điện (PTI)
1998
Cổ phần
70 tỷ VND
Phi nhân thọ
11,
Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Chinfon-Manulife
1999
100% vốn nước ngoài
10 triệu USD
Nhân thọ
12,
Công ty TNHH bảo hiểm Allianz/AGF (ViệtNam)
1999
100% vốn nước ngoài
5 triệu USD
Phi nhân thọ
13,
Công ty liên doanh bảo hiểm Việt - úc
1999
Liên doanh
4 triệu USD
Phi nhân thọ
14,
Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ BaoMinh- CMG
1999
Liên doanh
10 triệu USD
Nhân thọ
15,
Công ty bảo hiểm nhân thọ Prudential UK
1999
100% vốn nước ngoài
40 triệu USD
Nhân thọ
16,
Công ty bảo hiểm quốc tế Mỹ (AIA)
2000
100% vốn nước ngoài
25 triệu USD
Nhân thọ
17,
Công ty TNHH bảo hiểm tổng hợp GROUPAMA Việt Nam
2001
100% vốn nước ngoài
5 triệu USD
Phi nhân thọ
18,
Công ty Cổ phần Môi giới bảo hiểm Việt Quốc
2001
Cổ phần
6 tỷ VND
Môi giới bảo hiểm
Phụ lục 2:
Lộ trình xây dựng Trung tâm Tài chính - tiền tệ.
Dựa vào nhận định về tính khả thi nêu trên, Trung tâm Tài chính - tiền tệ ở Hà Nội cần được hình thành từng bước theo lộ trình nhất định căn cứ vào thực tế tài chính - tiền tệ hiện nay, vào định hướng chiến lược phát triển trong tương lai, đồng thời có sự điều chỉnh mức độ trong quá trình thực hiện cho phù hợp với thực tế và những diễn biến mới phát sinh. Về cơ bản, lộ trình xây dựng Trung tâm Tài chính - tiền tệ ở Hà Nội sẽ tiến hành qua giai đoạn sau:
Giai đoạn khởi động: Chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất, đặc biệt là hạ tầng giao thông, liên lạc, thanh toán qua ngân hàng và các định chế tài chính phi ngân hàng. Thành lập Trung tâm giao dịch chứng khoán và Trung tâm giao dịch tiền tệ. Tạo dựng quan hệ với các Trung tâm Tài chính - tiền tệ khu vực và thế giới. Chức năng Trung tâm Tài chính - tiền tệ được thực hiện ở mức độ thấp dựa trên những quan hệ tài chính - tiền tệ sẵn có.
Giai đoạn đẩy mạnh: áp dụng hàng loạt cơ chế chính sách đặc biệt để thu hút và phát triển các định chế tài chính - tiền tệ có đủ sức mạnh chi phối, giữ vai trò trung tâm trong các giao dịch tài chính - tiền tệ. Thiết lập và vận hành các định chế tài chính mới, hiện đại. Tạo điều kiện cho các công ty, tập đoàn lớn có mặt và phát triển kinh doanh tại Hà Nội. Thiết kế hệ thống ưu đãi tài chính nhất định đối với các công ty tập đoàn lớn. Phát triển quan hệ với các Trung tâm Tài chính - tiền tệ khu vực và thế giới. Phần lớn các chức năng của Trung tâm Tài chính - tiền tệ đã được hình thành.
Giai đoạn hoàn thiện: Kích thích các định chế tài chính - tiền tệ phát triển mạng lưới, vươn ra mở rộng hoạt động trên toàn địa bàn khu vực ảnh hưởng trên cơ sở nâng cao khả năng cạnh tranh có sự trợ giúp của các cơ chế chính sách tài chính - tiền tệ đặc biệt ưu đãi các định chế hoạt động có hiệu quả, khuyến khích áp dụng công nghệ tài chính - tiền tệ hiện đại đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Bắt đầu cạnh tranh với các trung tâm Tài chính - tiền tệ khu vực. Tạo điều kiện cho các định chế tài chính và phi tài chính thiết lập mạng lưới hoạt động ở các địa phương trong khu vực ảnh hưởng. Hà Nội thực hiện được toàn bộ chức năng của Trung tâm Tài chính - tiền tệ khu vực.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2303.doc