Tăng cường năng lực cho người dân và cộng đồng để phát huy hiệu quả các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu được đầu tư, từng bước phát huy lợi thế về địa lý, khai thác hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tiếp tục phát triển sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá, người dân tiếp cận được các dịch vụ sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm một cách thuận lợi. Phấn đấu đến năm 2015: 100% dân số đô thị và 95% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch; có 9 bác sĩ và 28 giường bệnh/1vạn dân; tỷ lệ che phủ rừng trên 55%. Giải quyết 100% nhu cầu vay vốn tín dụng để phát triển sản xuất kinh doanh cho các hộ nghèo từ Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh.
106 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1218 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp xóa đói giảm nghèo tại tỉnh Phú Thọ đến năm 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
óa đói giảm nghèo mặc dù đã được quan tâm hơn trước nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Nguồn lực dành cho các hoạt động xóa đói giảm nghèo còn hạn chế và chưa cân đối với mục tiêu đề ra.
Việc lồng ghép nguồn lực của các chương trình phát triển kinh tế xã hội với mục tiêu xóa đói giảm nghèo cũng như lồng ghép các chương trình, dự án tham gia thực hiện xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh đã được triển khai nhưng hiệu quả thu được còn hạn chế. Cơ chế huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực đầu tư cho xóa đói giảm nghèo bước đầu đã có sự quan tâm tới điều kiện đặc trưng của từng huyện, xã nhưng nhìn chung tình trạng phân bổ dàn trải mang tính bình quân vẫn còn phổ biến.
Việc rà soát hộ nghèo tuy đã có quy định tiến hành hàng năm nhưng ở một số nơi còn thực hiện chưa nghiêm túc, thiếu khách quan, không công khai và nặng về báo cáo thành tích.
Hệ thống cơ chế, chính sách xóa đói giảm nghèo đã có nhiều đổi mới nhưng một số chính sách vẫn chưa có sự đồng bộ thống nhất thường xuyên trong công tác chỉ đạo thực hiện giữa các ngành và địa phương. Việc xây dựng và điều hành kế hoạch xóa đói giảm nghèo ở một số huyện, xã còn chưa phù hợp với tình hình thực tế, tồn tại tình trạng áp đặt chỉ tiêu từ trên xuống, do đó hiệu quả của các chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo vẫn chưa thực sự như mong đợi.
Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh nhưng khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các dân tộc, giữa thành thị và nông thôn lại có xu hướng gia tăng. Tỷ lệ người dân được tiếp cận với các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục, thông tin liên lạc ở những nhóm người dân tộc thiểu số thường thấp hơn rất nhiều so với người dân tộc Kinh.
Đội ngũ cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo, cán bộ khuyến nông – lâm – ngư tại các địa phương còn chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chuyên môn. Chính sách thu hút cán bộ xóa đói giảm nghèo về làm việc tại các thôn, bản đã được xây dựng và tổ chức thực hiện tuy nhiên chưa thu được kết quả cao do mức hỗ trợ và các chế độ đãi ngộ còn thấp.
- Nguyên nhân của những hạn chế còn tồn tại:
Trước tiên phải kể đến những nguyên nhân khách quan do điều kiện thời tiết không thuận lợi, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp gây ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó những biến động bất thường của thị trường trong nước và quốc tế, lạm phát, chi phí sản xuất tăng cao cũng gây nên nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo của tỉnh.
Nguyên nhân chủ quan là do nhận thức của chính quyền cũng như người dân ở nhiều nơi về tính chất, mục đích và tầm quan trọng của công tác xóa đói giảm nghèo còn chưa đầy đủ và sâu sắc. Việc triển khai chương trình xóa đói giảm nghèo từ cấp tỉnh đến cơ sở còn lúng túng do Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo của tỉnh chưa kịp thời ra các văn bản hướng dẫn thực hiện đối với cấp dưới.
Chính quyền cơ sở ở một số nơi chưa làm hết trách nhiệm, năng lực nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ công chức chưa đáp ứng được yêu cầu. Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá và nhân rộng những mô hình hiệu quả chưa được thực hiện thường xuyên và liên tục.
Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người nghèo mặc dù đã được triển khai rộng rãi tuy nhiên hiện nay một bộ phận người nghèo vẫn có tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng, do đó chưa phát huy được tính chủ động trong xóa đói giảm nghèo. Đa số người nghèo lựa chọn phương án sản xuất tự cung tự cấp, họ vẫn giữ các phương thức sản xuất truyền thống nên năng suất lao động và chất lượng sản phẩm thấp, thiếu tính cạnh tranh trên thị trường.
Chưa có chế tài cụ thể để xử lý những trường hợp không công khai, minh bạch trong xét duyệt hộ nghèo được thụ hưởng chính sách hoặc những trường hợp sử dụng vốn sai mục đích, thiếu hiệu quả gây thất thoát, lãng phí.
Nguồn lực cho xóa đói giảm nghèo còn hạn chế, chủ yếu dựa vào hỗ trợ từ Ngân sách Nhà nước, việc huy động nguồn lực tại chỗ trong dân chưa thể thực hiện sâu rộng do đời sống người dân nhìn chung còn nhiều khó khăn.
Bản thân người nghèo không có đủ khả năng tiếp nhận trợ giúp từ các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo. Trình độ văn hóa thấp, thiếu khả năng tiếp thu những tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất đã hạn chế rất nhiều sự phát huy hiệu quả của các chính sách hỗ trợ kỹ thuật trong xóa đói giảm nghèo. Mặt khác người nghèo cũng thiếu khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng do không có tài sản thế chấp, phải dựa vào tín chấp với những khoản vay nhỏ, những người nghèo lại thường không có kế hoạch sản xuất cụ thể do đó có thể dẫn đến sử dụng nguồn vốn vay không đúng mục đích, làm giảm hiệu quả các khoản vốn vay và giảm khả năng hoàn trả vốn.
Tóm lại, công tác xóa đói giảm nghèo của tỉnh Phú Thọ trong những năm qua mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu to lớn nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại một số mặt hạn chế cần được khắc phục khẩn trương và triệt để nhằm phát huy thành quả xóa đói giảm nghèo bền vững, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế đi đôi với đảm bảo công bằng xã hội cho người dân.
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI TỈNH PHÚ THỌ ĐẾN NĂM 2015
I. Định hướng và mục tiêu xóa đói giảm nghèo của Việt Nam
1. Bối cảnh thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo hiện nay
1.1. Bối cảnh trong nước
Trong 5 năm trở lại đây, Việt Nam luôn được đánh giá là một trong số ít quốc gia đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tương đối ổn định. Tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 2002 – 2007 là 7,8 %. Riêng năm 2008 chỉ đạt 6,23 % nhưng xét trong bối cảnh kinh tế thế giới đang có nhiều biến động bất lợi thì đây vẫn là kết quả ấn tượng so với nhiều quốc gia khác, nhờ đó nguồn lực cho xóa đói giảm nghèo được củng cố và tăng cường. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không ngừng được hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi hơn để huy động mọi nguồn lực cho phát triển sản xuất kinh doanh, qua đó tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
Theo chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2010, tỷ lệ nghèo của nước ta đã giảm từ 22% năm 2005 xuống còn 13,1 % năm 2008, cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các vùng nghèo, vùng đặc biệt khó khăn từng bước được cải thiện, chất lượng cuộc sống người dân ở các vùng nghèo được nâng lên Những kết quả đã đạt được trong công tác xóa đói giảm nghèo tại nhiều địa phương sẽ tạo đà mạnh mẽ cho việc đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo và nâng cao mức sống người dân trong thời gian tới.
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc xóa đói giảm nghèo tuy nhiên những kết quả này chưa thật sự vững chắc, tỷ lệ hộ cận nghèo lớn, nguy cơ tái nghèo cao khi gặp rủ ro, chính vì vậy khi tiếp tục thực hiện công cuộc xoá đói giảm nghèo nhanh và bền vững, Việt Nam sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức to lớn.
Trước hết có thể thấy xuất phát điểm của Việt Nam vẫn thuộc diện nước nghèo so với nhiều quốc gia khác trên thế giới và trong khu vực, thu nhập và mức chi tiêu bình quân đầu người thấp, mức sống của người dân chưa cao. Khả năng và tiềm lực tài chính để đẩy nhanh tốc độ xoá đói giảm nghèo còn bị hạn chế, theo thống kê ngân sách hàng năm dành cho công tác xóa đói giảm nghèo chỉ ở mức khoảng 2%, chưa đáp ứng được yêu cầu thực hiện các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo.
Mặt khác do đặc điểm vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên nước ta thường xuyên phải đối mặt với diễn biến bất thường của thiên tai, dịch bệnh điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo và chống tái nghèo tại nhiều địa phương, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa. Trong thời gian tới cần tăng cường công tác dự báo thiên tai, đồng thời có biện pháp nâng cao khả năng chống đỡ và khắc phục hậu quả nhanh sau khi gặp rủi ro.
Phát triển kinh tế thị trường và cạnh tranh lành mạnh sẽ tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh tuy nhiên nếu không kiểm soát và phân phối thu nhập hợp lý sẽ dẫn đến tình trạng phân hoá giàu nghèo sâu sắc trong xã hội. Mức chênh lệch về thu nhập giữa các vùng, các nhóm dân cư tăng lên sẽ là nguyên nhân dẫn đến không đảm bảo mục tiêu công bằng xã hội.
Bên cạnh đó sự phát triển kinh tế - xã hội không đồng đều giữa các vùng miền, các dân tộc sẽ là nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng phân hoá giàu nghèo trên cả nước, gây khó khăn cho việc đẩy nhanh tốc độ xóa đói giảm nghèo và và thực hiện đồng bộ các chính sách giảm nghèo tại các địa phương.
Người nghèo hiện nay chủ yếu tập trung vào những nhóm dân cư rất đặc thù như những người sống ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, người tàn tật, người dân tộc thiểu số. Xóa đói giảm nghèo với những nhóm người này khó khăn hơn nhiều so với nhóm dân cư thuộc dân tộc Kinh hay những người nghèo sống ở khu vực đồng bằng, gần đô thị. Việc triển khai các biện pháp hỗ trợ để giúp họ xóa đói giảm nghèo đòi hỏi phải rất đa dạng, mang tính đặc thù, phù hợp với đặc trưng văn hóa, tập quán của từng nhóm người.
Kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp đã phải thu hẹp sản xuất, cắt giảm nhân công, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, những người nghèo thường là những người có trình độ văn hóa và kỹ năng nghề nghiệp không cao, do đó cơ hội tìm việc làm với họ càng trở nên khó khăn hơn. Do kinh tế suy thoái, việc kêu gọi doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân hỗ trợ người nghèo cũng khó khăn hơn trước.
Bên cạnh những vùng nghèo tập trung ở khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo nơi có địa hình chia cắt, kinh tế không có điều kiện phát triển, hiện nay xuất hiện một số nhóm đối tượng nghèo mới do chuyển đổi mục đích sử dụng đất, đô thị hoá, di dân ra thành thị, do mất việc làm Vì vậy công tác xóa đói giảm nghèo sẽ khó khăn, phức tạp hơn rất nhiều.
Trong bối cảnh nền kinh tế đang phải gánh chịu những hậu quả ở nhiều mức khác nhau, nhóm người nghèo luôn là đối tượng bị tác động nhiều nhất trong xã hội. Giá cả hàng hoá tăng là một trong những nguyên nhân khiến cho khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng lên, bất bình đẳng xã hội vì thế ngày càng rõ rệt. Đặc biệt khi hiện tượng tăng giá tập trung vào những nhóm hàng tiêu dùng như lương thực, thực phẩm, nhà ở sẽ tác động trực tiếp tới cuộc sống hàng ngày của người dân. Những người giàu sẽ ít bị tác động hơn vì trong tổng thu nhập họ chỉ phải sử dụng một phần cho chi tiêu hàng ngày, ngược lại những người nghèo thường phải sử dụng hầu hết thu nhập để dùng cho chi tiêu hàng ngày, thậm chí không đủ chi. Do đó khi giá cả tăng lên sẽ khiến cuộc sống khó khăn của những người nghèo càng trở nên khó khăn hơn, hay có thể nói khi giá cả tăng sẽ tác động tiêu cực đến những người nghèo và quá trình đó sẽ khiến cho tình trạng phân hoá giàu nghèo trong xã hội diễn ra ngày càng phổ biến hơn, mức độ phân hóa giàu nghèo sâu hơn.
1.2. Bối cảnh quốc tế
Hiện nay, toàn cầu hoá đang trở thành một xu thế phổ biến trên toàn thế giới, Chính phủ Việt Nam đã chủ động thực hiện chính sách đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá, Việt Nam sẵn sàng hợp tác với tất cả các nước trên thế giới vì mục đích hoà bình, ổn định và tiến bộ. Nhờ đó, sự hỗ trợ của Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ, các cá nhân người nước ngoài giúp đỡ người nghèo và cộng đồng nghèo ở vùng sâu, vùng xa của Việt Nam thời gian qua đã phát huy hiệu quả một cách thiết thực nhất. Không thể phủ nhận những đóng góp to lớn của cộng đồng quốc tế với thành công trong công tác xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam thời gian qua.
Sau khi gia nhập WTO và mở rộng các mối quan hệ kinh tế, thương mại quốc tế đã tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp tục thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nói chung và mục tiêu xóa đói giảm nghèo nói riêng. Tuy nhiên toàn cầu hoá và hội nhập cũng đặt ra những thách thức lớn đối với công tác xóa đói giảm nghèo của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Trước hết đó là sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế dẫn đến hình thức rủi ro mới, khó dự báo và có quy mô lớn trên toàn cầu như dịch bệnh, khủng hoảng kinh tế, sự bất ổn của giá cả nguyên nhiên liệu
Những bất ổn của nền kinh tế thế giới trong thời gian gần đây đã ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình kinh tế trong nước, gây biến động giá cả thị trường nguyên liệu cũng như thị trường hàng hoá tiêu dùng, việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của người nghèo do đó cũng bị ảnh hưởng rất lớn.
Bản thân những người nghèo là những người có rất ít khả năng chống đỡ trước những biến động của thời tiết hay biến động thị trường, vì vậy khi gặp những rủi ro bất ngờ sẽ dẫn đến tình trạng tái nghèo hoặc đã nghèo lại nghèo hơn, nợ nần kéo dài không thể chi trả
Công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng nhưng trong thời gian tới để tiếp tục thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo nhanh và bền vững cần tập trung khai thác tối đa nội lực đồng thời chủ động nắm bắt những cơ hội và hạn chế tác động rủi ro từ những khó khăn trong nước cũng như quốc tế. Yêu cầu đặt ra là phải xây dựng những giải pháp mang tính đồng bộ và toàn diện hơn, quá trình thực hiện phải bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, song song với tăng trưởng kinh tế phải đẩy mạnh giảm nghèo, nhấn mạnh đến yếu tố bền vững trong xóa đói giảm nghèo, bảo đảm công bằng và ổn định xã hội.
2. Quan điểm xóa đói giảm nghèo của Việt Nam
2.1. Chủ trương xóa đói giảm nghèo trong các văn kiện của Đảng
Chủ trương xóa đói giảm nghèo được hình thành ngay từ những ngày đầu khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, cho đến nay mặc dù công cuộc xóa đói giảm nghèo đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể nhưng việc giải quyết vấn đề đói nghèo vẫn được xác định là nhiệm vụ trọng tâm và xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nó không những đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân Việt Nam mà còn phù hợp với xu hướng chung của thời đại, phù hợp với các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ mà Liên Hợp Quốc đã đề ra.
- Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VII) nêu rõ: “Tăng thêm diện giàu và đủ ăn, xóa đói, giảm nghèo, nhất là ở vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng trước đây là căn cứ cách mạng”.
- Nghị Quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) đề ra mục tiêu “giảm tỷ lệ hộ nghèo trong tổng số hộ của cả nước từ 20 – 25% hiện nay xuống còn khoảng 10% vào năm, bình quân mỗi năm giảm 300.000 hộ/năm. Trong 2 – 3 năm đầu kế hoạch 5 năm, tập trung xóa cơ bản hộ đói kinh niên”.
- Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (năm 2000) của Đảng xác định “thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo thông qua những biện pháp cụ thể sát với tình hình từng địa phương, sớm đạt mục tiêu không còn các hộ đói, giảm mạnh các hộ nghèo. Tiếp tục tăng tổng nguồn vốn xóa đói giảm nghèo, mở rộng các tình thức tín dụng trợ giúp người nghèo sản xuất kinh doanh phấn đấu đến năm 2005 về cơ bản không còn hộ đói và chỉ còn khoảng 10% hộ thuộc diện nghèo”.
- Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (năm 2006) của Đảng đã xác định một trong nhiệm vụ chủ yếu giai đoạn 2006 – 2010 là “khuyến khích làm giàu hợp pháp, xóa đói giảm nghèo, giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) xuống còn 10 – 11% vào năm 2010”.
2.2. Quan điểm về xóa đói giảm nghèo hiện nay
- Xóa đói giảm nghèo phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, đồng thời chủ động tạo nguồn lực cho các hoạt động trợ giúp người nghèo đói. Quan điểm này dựa trên logic biện chứng là muốn giúp đỡ, hỗ trợ có hiệu quả cho người nghèo thì Nhà nước phải có đủ nguồn lực vật chất và là chủ thể có đầy đủ khả năng điều hòa thu nhập giữa các nhóm dân cư. Các nguồn lực vật chất để thực hiện điều hòa thu nhập chỉ có thể có được khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững. Thực tế cho thấy nhờ kinh tế phát triển mà Nhà nước có đủ nguồn lực tài chính để triển khai hoặc mở rộng hoạt động của các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ hàng ngàn xã khó khăn phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, trên cơ sở đó người nghèo ở vùng sâu, vùng xa có thêm cơ hội vươn lên thoát nghèo. Kinh tế phát triển, cơ cấu ngành nghề và hoạt động kinh tế đa dạng, giải quyết việc làm đầy đủ, nâng cao thu nhập cho người dân là điều kiện thuận lợi để giảm nhanh số hộ nghèo, tăng số hộ giàu tại địa phương và thay đổi nhanh chóng bộ mặt xã hội của cộng đồng.
- Phối hợp đồng bộ và chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, qui định rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước các cấp. Về cơ bản, Nhà nước cần xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phù hợp, hướng vào mục tiêu xóa đói giảm nghèo, đồng thời xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích các tổ chức, đơn vị kinh tế, doanh nghiệp, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia vào công cuộc xóa đói giảm nghèo tại địa phương.
- Xóa đói giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, của toàn xã hội mà trước hết là bổn phận của chính những người nghèo, kết quả xóa đói giảm nghèo thành công phụ thuộc nhiều vào sự vận động tự giác của bản thân người nghèo. Xóa đói giảm nghèo phải được coi là sự nghiệp của bản thân người nghèo, bởi vì sự tự nỗ lực vươn lên thoát nghèo chính là động lực, là điều kiện cần cho sự thành công của mục tiêu chống đói nghèo ở các quốc gia. Nhà nước sẽ trợ giúp người nghèo biết cách tự thoát nghèo và tránh nguy cơ tái nghèo khi gặp rủi ro. Bên cạnh sự hỗ trợ trực tiếp bằng vật chất thì việc tạo việc làm cho người nghèo bằng cách hướng dẫn phương thức sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế theo điều kiện cụ thể của chính họ là nhân tố quan trọng góp phần xóa đói giảm nghèo thành công và bền vững.
- Xóa đói giảm nghèo phải đảm bảo tính bền vững, chống tái nghèo kể cả khi có rủi ro ở cấp hộ gia đình như khi có người ốm đau, bệnh tật hay rủi ro ở cấp cộng đồng như bão lụt, hạn hán, mất mùa, biến động giá cả Yêu cầu đó đặt ra nhiệm vụ bảo đảm an ninh lương thực tại chỗ và tăng cường khả năng thích ứng, phục hồi nhanh sau rủi ro đối với những vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa nơi thường xuyên xảy ra thiên tai bất thường.
- Xóa đói giảm nghèo vừa là vấn đề cơ bản mang tính chiến lược lâu dài, vừa là vấn đề cấp bách trước mắt. Trong những năm tới cần xây dựng chiến lược, kế hoạch lâu dài để giải quyết vấn đề xóa đói giảm nghèo trên phạm vi cả nước, đồng thời tập trung huy động nguồn lực đầu tư, tiến hành công tác xóa đói giảm nghèo có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các huyện có tỷ lệ nghèo cao trên 50%, phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện này xuống ngang bằng mức trung bình của khu vực.
- Khẩn trương khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong quá trình thực hiện và nghiên cứu đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm đảm bảo chất lượng của các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo.
3. Mục tiêu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Tiếp tục thực hiện, giữ vững và nâng cao hiệu quả các chương trình, dự án xoá đói giảm nghèo như Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010, Chương trình 135giai đoạn II
Đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo, hạn chế tái nghèo, củng cố thành quả giảm nghèo, tạo cơ hội cho hộ đã thoát nghèo vươn lên khá, cải thiện một bước điều kiện sống và sản xuất ở các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn.
Đảm bảo công trình hạ tầng thiết yếu cho các vùng nghèo, phát triển mạng lưới an sinh xã hội trợ giúp cho người nghèo và các đối tượng yếu thế.
Nâng cao chất lượng cuộc sống của nhóm hộ nghèo, hạn chế tốc độ gia tăng khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa nhóm hộ giàu với nhóm hộ nghèo.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Từ nay đến năm 2010 phải tạo sự chuyển biến nhanh về cơ sở hạ tầng, từ 2010 – 2015 chuyển biến nhanh về đời sống vật chất tinh thần cho người nghèo và từ 2015 – 2020 các huyện có tỷ lệ nghèo trên 50% hiện nay phải tiến kịp với các huyện khác.
Phấn đấu đến năm 2010 giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn từ 10 – 11%, thu nhập của nhóm hộ nghèo tăng 1,45 lần, đưa 50% số xã ven biển và hải đảo ra khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn, giảm tỷ lệ nghèo tại 61 huyện nghèo nhất xuống dưới 40%, đảm bảo 100% xã nghèo có các cơ sở hạ tầng thiết yếu, 85 % dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh.
Phấn đấu hoàn thành 8 Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ vào năm 2015, giảm tỷ lệ nghèo ở các huyện nghèo nhất xuống còn 30%, thu nhập nhóm hộ nghèo, hộ dân tộc thiểu số tăng ít nhất 1,5 lần, các huyện có đầy đủ các công trình thiết yếu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Giai đoạn 2015 – 2020 phấn đấu nâng mức thu nhập của người nghèo lên gấp 5 – 6 lần hiện nay.
II. Định hướng và mục tiêu xoá đói giảm nghèo của tỉnh Phú Thọ đến năm 2015
1. Chủ trương xóa đói giảm nghèo của tỉnh
Xoá đói giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên hàng đầu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy các chính sách phát triển kinh tế - xã hội phải quan tâm hướng vào các huyện, xã nghèo và người nghèo.
Người nghèo phải được tiếp cận và thụ hưởng đầy đủ các chính sách, nguồn lực đầu tư của Nhà nước, của tỉnh và địa phương cũng như viện trợ của các tổ chức quốc tế. Ưu tiên đầu tư cho các huyện có tỷ lệ nghèo cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thực hiện chủ trương của Đảng về phát triển đồng bộ nông nghiệp, nông thôn và nông dân, lấy người nghèo làm chủ thể tiếp cận và thụ hưởng để xây dựng các chính sách hỗ trợ, mở rộng phạm vi áp dụng khoa học kỹ thuật để thúc đẩy phát triển sản xuất phù hợp với đặc điểm tự nhiên của từng vùng.
Xóa đói giảm nghèo được xác định là sự nghiệp của toàn dân. Cơ chế, chính sách và giải pháp giảm nghèo phải được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp uỷ Đảng, sự chỉ đạo sát cơ sở của các cấp chính quyền, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tại địa phương, đặc biệt là ý thức nỗ lực tự vươn lên của người nghèo.
Tập trung hỗ trợ phát triển sản xuất, tăng thu nhập, cải thiện đời sống người dân trên địa bàn tỉnh trên cơ sở hỗ trợ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đầu tư kết cấu hạ tầng để phát triển kinh tế - xã hội.
Tăng cường phân cấp, đề cao tính chủ động, trách nhiệm của chính quyền các cấp trong việc quán triệt chủ trương của Đảng, Nhà nước và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách giảm nghèo trên cơ sở tôn trọng, phát huy vai trò, sự tham gia tích cực của người dân với tư cách là người thụ hưởng chính sách hỗ trợ giảm nghèo của Nhà nước, từ khâu xác định nhu cầu, lựa chọn nội dung ưu tiên, xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện, theo dõi, giám sát và đánh giá.
2. Mục tiêu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Phát huy tiềm năng và lợi thế so sánh về nguồn lực tự nhiên, tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống, tạo sức hấp dẫn, thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế.
Đảm bảo vững chắc an ninh lương thực trước mắt và lâu dài thông qua phát triển sản xuất nông lâm nghiệp bền vững theo hướng sản xuất hàng hoá.
Phát huy thế mạnh về du lịch, ưu tiên phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng để có bước phát triển nhanh về kinh tế, sớm thoát khỏi tình trạng nghèo nàn và lạc hậu, đạt mức ngang bằng với các tỉnh khác trong vùng và so với cả nước.
Tạo sự chuyển biến nhanh về đời sống vật chất, tinh thần của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn, nâng mức sống của người dân tại các huyện nghèo lên mức ngang bằng với các huyện khác trong tỉnh.
Cơ bản hoàn thành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, phù hợp với đặc thù của từng huyện, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý theo quy hoạch, xây dựng xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc, dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ, đảm bảo vững chắc an ninh quốc phòng.
2.2. Mục tiêu cụ thể đến năm 2010
Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân trên cơ sở đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp, bảo vệ và phát triển rừng, tỷ lệ che phủ rừng đạt 50%.
Phát triển sản xuất với cơ cấu nông nghiệp phù hợp, nâng cao năng suất cây trồng vật nuôi, nâng cao giá trị kinh tế nông phẩm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho người nghèo.
Rà soát quy hoạch lại sản xuất và dân cư ở những nơi cần thiết, ưu tiên đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các huyện, xã có tỷ lệ nghèo cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số để người nghèo được tiếp cận đầy đủ các chính sách trợ giúp của nhà nước. Phấn đấu đến hết năm 2010, 100% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế, khám chữa bệnh cho người nghèo, cho trẻ em dưới 6 tuổi; có 7 bác sĩ và 22,3 giường bệnh/1vạn dân.
Cơ bản hoàn thành Chương trình xóa nhà tạm, làm nhà “Đại đoàn kết” cho các hộ nghèo. Tiếp tục đổi mới các hình thức vận động xây dựng quỹ “Vì người nghèo”, phấn đấu mỗi năm vận động được trên 2,5 tỷ đồng.
Tăng cường nghiên cứu và chuyển giao khoa học – công nghệ tiên tiến, tạo bước đột phá trong đào tạo nhân lực, phấn đấu đến năm 2010 tỷ lệ lao động trong độ tuổi được đào tạo đạt 40%.
Giảm khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống dân cư giữa các vùng trong tỉnh. Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 4 – 5%/năm, mỗi năm có từ 12.000 – 13.000 hộ thoát nghèo. Giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới xuống còn 10%, đưa Phú Thọ cơ bản thoát khỏi tình trạng nghèo vào năm 2010.
2.3. Mục tiêu cụ thể đến năm 2015
Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 5% vào năm 2015, bình quân mỗi năm giảm từ 2 – 3%.
Tăng cường năng lực cho người dân và cộng đồng để phát huy hiệu quả các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu được đầu tư, từng bước phát huy lợi thế về địa lý, khai thác hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tiếp tục phát triển sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá, người dân tiếp cận được các dịch vụ sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm một cách thuận lợi. Phấn đấu đến năm 2015: 100% dân số đô thị và 95% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch; có 9 bác sĩ và 28 giường bệnh/1vạn dân; tỷ lệ che phủ rừng trên 55%. Giải quyết 100% nhu cầu vay vốn tín dụng để phát triển sản xuất kinh doanh cho các hộ nghèo từ Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh.
Tăng hỗ trợ và giảm bớt các khoản đóng góp xã hội cho người nghèo, cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí, trợ giúp pháp lý miễn phí cho 100% người nghèo và người dân tộc thiểu số trong tỉnh. Miễn, giảm học phí, các khoản đóng góp đồng thời tăng mức học bổng khuyến khích cho con em các hộ nghèo, đảm bảo trên địa bàn không có trẻ em bỏ học hoặc không được nhập học đúng tuổi do hoàn cảnh gia đình khó khăn.
Thực hiện giảm nghèo bền vững, hạn chế tối đa tình trạng tái nghèo, đặc biệt là ở các xã có tỷ lệ nghèo cao và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Tập trung nghiên cứu giải pháp cụ thể nhằm hoàn thành những mục tiêu trên, nâng cao chất lượng xóa đói giảm nghèo, đẩy nhanh công cuộc xóa đói giảm nghèo bền vững theo chủ trương xóa đói giảm nghèo của tỉnh.
III. Một số giải pháp tăng cường hiệu quả công tác xoá đói giảm nghèo tại tỉnh Phú Thọ đến năm 2015
1. Hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm cho người nghèo
Tiếp tục nhân rộng các mô hình giảm nghèo ở từng huyện, xã cho phù hợp với điều kiện địa lý, tự nhiên, phong tục tập quán và trình độ phát triển sản xuất của địa phương, trên cơ sở đó phát huy được lợi thế so sánh về nguồn lực, chi phí sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
1.1. Phát triển sản xuất nông nghiệp, hỗ trợ dịch vụ sản xuất cho hộ nông dân nghèo
- Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn theo hướng nông – công nghiệp – dịch vụ, đa dạng hóa ngành nghề ở khu vực nông thôn, gắn sản xuất hàng hóa với thị trường tiêu thụ.
- Quy hoạch lại cơ cấu sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá quy mô vừa và nhỏ, xác định các loại cây trồng, vật nuôi phù hợp với đặc điểm khí hậu, thời tiết và thổ nhưỡng, nhất là đối với các huyện có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt (giá rét, khô hạn, diện tích đất canh tác nhỏ lẻ và phân tán).
- Thiếu đất hoặc không có đất sản xuất là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến đói nghèo, do đó cần khẩn trương hoàn thành việc giao đất nông nghiệp cho nông dân quản lý và sử dụng lâu dài, hỗ trợ cải tạo đất bạc màu ở những địa bàn không có khả năng mở rộng diện tích đất sản xuất.
- Đầu tư hệ thống thuỷ lợi đảm bảo tưới tiêu nước ở những diện tích đất sản xuất nông nghiệp, bao gồm: kiên cố hoá kênh mương nội đồng để phát huy hiệu quả các công trình thuỷ lợi quy mô xã, liên xã, huyện; đầu tư các công trình thuỷ lợi nhỏ ở các thôn, bản.
- Đầu tư đường giao thông liên thôn, liên bản tạo điều kiện tổ chức sản xuất, vận chuyển cây giống, phân bón, góp phần nâng cao giá trị nông phẩm. Mặt khác khi hệ thống đường giao thông được đầu tư xây dựng hoàn chỉnh sẽ thúc đẩy lưu thông hàng hoá, đưa sản phẩm tới thị trường tiêu thụ một cách nhanh chóng và thuận lợi hơn, giảm chi phí sản xuất và chi phí vận chuyển, tăng thu nhập cho người sản xuất.
- Tổ chức các dịch vụ khuyến nông, lâm, thú y, bảo vệ thực vật, chuyển giao kỹ thuật cho người nghèo. Triển khai hiệu quả các dự án khuyến nông – lâm – ngư trên địa bàn tỉnh, tranh thủ sự hỗ trợ của chương trình khuyến nông, khuyến lâm của các Bộ, ngành Trung ương và chính sách khuyến nông, khuyến lâm của tỉnh để phát triển hệ thống khuyến nông, khuyến lâm phù hợp với huyện nghèo, xã nghèo, hộ nghèo.
Tăng cường hỗ trợ kỹ thuật cho các huyện nghèo: bổ sung lực lượng cán bộ khuyến nông, khuyến lâm cho các xã, thôn bản và mở rộng hình thức “cộng tác viên khuyến nông”, hướng dẫn người dân thay đổi phương thức sản xuất theo hướng đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học vào quá trình sản xuất. Cung cấp và hướng dẫn sử dụng các loại giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, khả năng thích ứng với điều kiện thời tiết khắc nghiệt tốt, hiệu quả kinh tế cao trong 3 năm để người dân có thói quen và kinh nghiệm sử dụng giống mới trong sản xuất nông nghiệp.
- Hỗ trợ và hướng dẫn cách thức bảo quản, chế biến nông sản sau thu hoạch để tăng giá trị sản phẩm hàng hoá cho người nông dân. Tìm hiểu và dự báo nhu cầu thị trường để có kế hoạch sản xuất phù hợp, tránh tình trạng nông sản sản xuất ra không bán được gây thiệt hại kinh tế cho người nông dân.
- Hướng dẫn và hỗ trợ cho người nông dân xây dựng thương hiệu cho các loại nông phẩm đặc sản của tỉnh như bưởi Đoan Hùng, bưởi Lã Hoàng, hồng Hạc Trì, cá Anh Vũ, cá lăng sông Lô, sông Thao, cá cháy Thanh Ba, rau sắng Tân Sơn, rêu đá Thanh Sơn Xây dựng thương hiệu cho các loại đặc sản với những tiêu chuẩn chất lượng sẽ nâng cao giá trị cho sản phẩm, bảo vệ lợi ích kinh tế lâu dài cho người sản xuất khi cạnh tranh trên thị trường.
1.2. Gắn xóa đói giảm nghèo với phát triển kinh tế lâm nghệp, tạo việc làm cho người nghèo
- Nâng mức hỗ trợ giao khoán, bảo vệ rừng phòng hộ để người dân có thu nhập đảm bảo cuộc sống. Gắn lợi ích kinh tế với trách nhiệm nhằm nâng cao ý thức trồng và bảo vệ rừng cho người dân tại các huyện, xã có diện tích rừng lớn.
- Xây dựng chính sách khuyến khích các hộ gia đình nhận chăm sóc, bảo vệ rừng như: hỗ trợ cây giống, phân bón và một phần công chăm sóc, được hưởng toàn bộ sản phẩm khi khai thác rừng trồng nhưng sau khai thác hưởng lợi phải trồng lại rừng ngay trong năm tiếp theo.
- Phát triển mạnh các chính sách khuyến lâm, đưa trồng rừng trở thành một nghề kinh doanh có hiệu quả kinh tế cao, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người dân.
- Liên kết với một số đơn vị mở xưởng chế biến gỗ, sử dụng nguồn nguyên liệu từ rừng trồng, tạo nguồn thu nhập cho người dân địa phương.
- Chuyển đổi một phần diện tích đất rừng nghèo kiệt sang đất sản xuất để hỗ trợ hộ nghèo không có hoặc thiếu đất sản xuất, hỗ trợ kinh phí khai hoang, tạo ruộng bậc thang để sản xuất nông nghiệp.
1.3. Phát triển các làng nghề tiểu thủ công nghiệp
- Rà soát, bổ sung một số chính sách phát triển ngành nghề nông thôn, khôi phục các nghề tiểu thủ công truyền thống như: nghề may nón lá từ lá cọ tại xã Sai Nga, huyện Cẩm Khê; nghề mộc tại Thanh Sơn, đồ gỗ mỹ nghệ tại Lam Thao, mây tre đan, gốm sứ, may mặc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân, nhu cầu của khách du lịch và xuất khẩu.
- Phát triển các ngành nghề truyền thống theo hướng giữ gìn những nét truyền thống trong sản phẩm, ứng dụng công nghệ mới nhằm tăng năng suất, nâng cao chất lượng, đa dạng hoá các loại hình sản phẩm và hạ giá thành.
- Khuyến khích đầu tư các cơ sở tiểu thủ công nghiệp quy mô vừa và nhỏ, cơ sở chế biến nông, lâm sản, tạo việc làm cho người nghèo đồng thời nâng cao giá trị kinh tế cho các mặt hàng nông sản của địa phương.
- Tham khảo nhu cầu thị trường và phát triển những ngành sản xuất tiểu thủ công mới, sử dụng nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương.
- Hỗ trợ người dân trong việc tìm kiếm thông tin thị trường xuất khẩu. Tổ chức học tập, trao đổi kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, tổ chức và khuyến khích các doanh nghiệp tham gia Hội chợ triển lãm hàng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nhằm nâng cao uy tín thương hiệu sản phẩm và xúc tiến cơ hội quảng bá sản phẩm truyền thống ra thị trường.
1.4. Xuất khẩu lao động:
- Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền về hoạt động xuất khẩu lao động thông qua tổ chức Đoàn thanh niên ở các cấp cơ sở và có chế độ khuyến khích đối với các cộng tác viên trong tư vấn cho lao động nghèo.
- Nâng cao chất lượng lao động thông qua các hình thức hỗ trợ kinh phí bổ túc văn hoá bao gồm học phí, tài liệu học tập. Hỗ trợ học nghề, học ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động đối với từng thị trường cụ thể. Hỗ trợ chi phí đào tạo và làm thủ tục để lao động nghèo có điều kiện tham gia xuất khẩu lao động.
- Cho vay ưu đãi đối với các cơ sở đào tạo người đi xuất khẩu lao động để đầu tư nâng cấp, xây dựng mới phòng học, trang bị máy móc thiết bị phục vụ cho nhu cầu đào tạo lao động.
- Bảo vệ quyền lợi hợp pháp đối với người đi xuất khẩu lao động, quy định chặt chẽ về kỷ luật với những trường hợp vi phạm hợp đồng, nâng cao ý thức của người lao động đi làm việc tại thị trường nước ngoài, đảm bảo chất lượng lao động xuất khẩu giữ uy tín với các nhà tuyển dụng.
- Tiến hành tìm kiếm những thị trường mới có nhu cầu sử dụng lao động lớn, tập trung đào tạo những ngành nghề phù hợp với nhu cầu của người sử dụng lao động. Thực hiện việc đào tạo nghiêm túc, đảm bảo chất lượng lao động về cả kỹ năng tay nghề, trình độ ngoại ngữ và ý thức tổ chức kỷ luật.
1.5. Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng cho các vùng nghèo
- Tăng mức vốn đầu tư hàng năm cho các xã thuộc chương trình 135 để đẩy nhanh tiến độ, hoàn thành đúng thời hạn hoặc sớm mục tiêu chương trình 135 giai đoạn II. Bố trí kinh phí đầu tư cơ sở hạ tầng tại các xã nghèo không thuộc chương trình 135, đảm bảo công bằng giữa các xã nghèo trong tỉnh.
- Cải tạo, sữa chữa, nâng cấp hoặc xây mới các công trình hạ tầng thiết yếu tại các xã nghèo để đảm bảo nhu cầu của người dân. Tăng cường công tác giám sát trong thi công cũng như trong quá trình sử dụng sau xây dựng.
- Sử dụng nguồn vốn đầu tư phát triển trong cân đối ngân sách hàng năm (bao gồm vốn cấn đối ngân sách địa phương và hỗ trợ từ ngân sách Trung ương), vốn trái phiếu Chính phủ, vốn từ các chương trình, dự án, vốn ODA để ưu tiên đầu tư cho xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội.
Cấp huyện: xây dựng trường Trung học phổ thông, trung tâm dạy nghề, bệnh viện huyện, trung tâm y tế dự phòng huyện, các công trình thủy lợi quy mô cấp huyện, đường giao thông từ tỉnh đến huyện, từ trung tâm huyện tới các xã, liên xã, xây dựng các trung tâm cụm xã.
Cấp xã và dưới xã: đầu tư các công trình hạ tầng cơ sở thiết yếu, trong đó bao gồm cả kinh phí xây dựng mới, sửa chữa, nâng cấp, bảo dưỡng các công trình đã đi vào sử dụng như trường học; trạm y tế xã đạt tiêu chuẩn; đường giao thông liên thôn, bản; các công trình thủy lợi phục vụ tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp, kênh mương nội đồng và thủy lợi nhỏ; hệ thống điện phục vụ sản xuất và dân sinh; công trình nước sinh hoạt; chợ trung tâm xã; trạm phát thanh xã; nhà văn hóa thôn, bản.
2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo bền vững
- Xác định đầu tư cho nguồn nhân lực là đầu tư lâu dài, quyết định thành công của xóa đói giảm nghèo bền vững.
- Nâng cao trình độ dân trí: đầu tư hệ thống cơ sở vật chất trường, lớp học từ bậc mầm non tại các thôn, bản; trường tiểu học tại xã; trường trung học phổ thông cơ sở xã; trường trung học phổ thông huyện để đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh nghèo, học sinh dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh.
- Tổ chức dạy nghề gắn với tạo việc làm cho người lao động nông thôn, hình thành trung tâm dạy nghề tổng hợp cấp huyện để tổ chức dạy nghề tại chỗ cho lao động nông thôn về sản xuất nông, lâm nghiệp, một số ngành nghề phi nông nghiệp, chế biến nhỏ để tăng năng suất và giá trị cây trồng vật nuôi, dạy nghề tập trung tại các cơ sở dạy nghề của tỉnh để sử dụng lao động nông thôn vào làm việc tại các khu công nghiệp hoặc đi xuất khẩu lao động.
- Đào tạo cán bộ tại chỗ: đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn, cán bộ y tế, khuyến nông, lâm ngư, chăm sóc sức khỏe cộng đồng cho con em các hộ gia đình nghèo, người dân tộc thiểu số, quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự là người của địa phương nhằm bổ sung lực lượng cán bộ địa phương.
- Duy trì phát triển đào tạo nghề theo hình thức truyền nghề tại gia đình, tại cơ sở sản xuất hoặc các làng nghề, nhất là trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp vốn là nghề truyền thống của địa phương, đây là cách đào tạo nghề trực tiếp, vừa đỡ tốn kém về chi phí đào tạo, học nghề.
- Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ cơ sở: Tổ chức tập huấn, đào tạo ngắn hạn, dài hạn cho đội ngũ cán bộ cơ sở từ thôn, bản, xã đến huyện, tỉnh về kiến thức quản lý nhà nước và quản lý kinh tế; nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo và bồi dưỡng kiến thức quản lý, chỉ đạo xây dựng thực hiện các chương trình, dự án có sự tham gia của người dân và cộng đồng.
3. Kiện toàn đội ngũ cán bộ tại các huyện, xã nghèo của tỉnh
- Bố trí và tăng cường cán bộ chuyên môn cho các huyện nghèo, triển khai các dự án giảm nghèo hiệu quả, chuyển đổi nhận thức cho người nghèo.
- Thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ chuyên môn từ tỉnh về công tác tại các huyện, xã nghèo trong thời hạn từ 3 – 5 năm với các chế độ ưu tiên:
Giữ nguyên biên chế tại cơ quan, sau khi hoàn thành nhiệm vụ công tác tại huyện, xã sẽ được xem xét, bố trí, đề bạt vào các vị trí công tác thích hợp.
Được hỗ trợ kinh phí ban đầu, được hưởng lương, trợ cấp trong thời gian công tác tại huyện, xã nghèo; được tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn nâng cao năng lực chuyên môn.
- Bố trí cán bộ giảm nghèo và thành lập các tổ công tác của tỉnh giúp các huyện triển khai thực hiện đề án giảm nghèo trên địa bàn.
Bố trí từ cấp xã trở lên mỗi xã 01 cán bộ chuyên trách làm công tác giảm nghèo, được hưởng lương, phụ cấp, chế độ bảo hiểm theo quy định.
Thành lập các tổ công tác thuộc biên chế của huyện và tăng cường của tỉnh (mỗi tổ từ 3 – 5 người) để giúp các xã tổ chức, triển khai các hoạt động giảm nghèo, hướng dẫn người dân thay đổi phương thức sản xuất, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, áp dụng giống mới và hoạt động khuyến nông, lâm, thay đổi các tập quán sinh sống, tổ chức đời sống vật chất, tinh thần, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
- Thu hút, khuyến khích lực lượng tri thức trẻ tình nguyện về tham gia tổ công tác tại các huyện, xã nghèo, đặc biệt chú trọng vào những thanh niên là con em các hộ nghèo, hộ dân tộc thiểu số của.
Hỗ trợ kinh phí ban đầu, được hưởng lương theo cấp bậc đào tạo, các khoản phụ cấp theo quy định hiện hành; được ưu tiên tuyển dụng và các cơ quan nhà nước tại tỉnh, huyện sau khi hoàn thành tốt nhiệm vụ.
4. Thực hiện các chính sách tín dụng ưu đãi cho người nghèo
- Các hộ nghèo đang sinh sống trên địa bàn các xã, thôn bản nghèo khi vay vốn tại các Ngân hàng thương mại nhà nước sẽ được hỗ trợ lãi suất. Ngoài ra các hộ nghèo này còn được hưởng ưu đãi khi vay vốn tại các Ngân hàng Chính sách xã hội, mức lãi suất có thể giảm tới 0% để mua giống gia súc, gia cầm, thủy sản hoặc đầu tư nhà xưởng, máy móc phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp.
- Thực hiện vay vốn tín dụng ưu đãi đối với các học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, là con em các hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số.
- Xây dựng phương thức giao dịch hợp lý đối với những hộ nghèo vay vốn tại các Ngân hàng Chính sách xã hội để không gây nên tình trạng quá tải. Những người nghèo thường là những người có trình độ học vấn thấp, do đó việc hướng dẫn thủ tục vay vốn cần được thực hiện cụ thể, chi tiết, dễ hiểu, tránh gây khó khăn cho những người vay vốn.
- Triển khai hình thức cho vay uỷ thác qua các tổ chức chính trị - xã hội của địa phương như Hội phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên, thành lập các tổ Tiết kiệm và vay vốn tại các địa bàn dân cư làm cầu nối giữa người vay và Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện cho vay nhanh, an toàn, hiệu quả.
- Việc hỗ trợ vay vốn cho các hộ nghèo phải gắn liền với công tác tư vấn, hướng dẫn sử dụng vốn vay có hiệu quả căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng hộ gia đình. Nguồn vốn vay cho người nghèo sẽ phát huy hiệu quả hơn nếu có sự hướng dẫn sản xuất, tư vấn sử dụng vốn vay cho người nghèo. Chính vì vậy cần tổ chức các buổi tư vấn tại địa phương nhằm giải đáp thắc mắc về thủ tục vay vốn, hướng dẫn cho người dân cách sử dụng vốn vay đúng mục đích và đạt hiệu quả cao trong sản xuất, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng, bảo toàn và phát triển nguồn vốn.
5. Huy động và sử dụng nguồn lực cho công tác xóa đói giảm nghèo
- Xây dựng cơ chế, chính sách nhằm huy động, khai thác tối đa mọi nguồn lực có thể, hướng vào mục tiêu giảm nghèo bền vững, bao gồm: Ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương, từ cộng đồng, từ các doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế. Trước hết cần tập trung khai thác mọi tiềm năng của tỉnh trên cơ sở phát triển sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, hình thức sản xuất kinh doanh đa dạng, đan xen và hỗ trợ nhau, hình thành thị trường thống nhất và linh hoạt. Bên cạnh đó tìm kiếm sự ủng hộ, giúp đỡ về tài chính, kỹ thuật từ Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ
- Phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cũng như các nguồn viện trợ khác vào các công trình phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân, nâng cao mức sống cho người nghèo. Đảm bảo tính công khai, minh bạch trong vấn đề phân bổ vốn đúng đối tượng, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm gây thất thoát, lãng phí.
- Tập trung đẩy nhanh tiến độ các dự án đang thực hiện, đảm bảo bố trí đủ và kịp thời vốn đối ứng để giải ngân các nguồn vốn nước ngoài, đồng thời có kế hoạch cụ thể cho việc vận động các nhà tài trợ như Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á, Nhật Bản, CHLB Đức, Quỹ dân số Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác.
- Lồng ghép và thực hiện có hiệu quả nguồn lực từ các chương trình, dự án cùng thực hiện trên địa bàn tỉnh nhằm đạt được kết quả cao nhất trong thời gian ngắn nhất, tránh tình trạng trùng lắp gây lãng phí tiền bạc và thời gian.
6. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào công tác XĐGN
- Thông tin đầy đủ tới người dân về chủ trương, chính sách của Nhà nước về giảm nghèo, đảm bảo tính công khai, minh bạch và dân chủ. Quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của từng cấp, ban ngành, cá nhân phụ trách các triển khai công tác xóa đói giảm nghèo.
- Tăng cường sự tham gia của người dân vào các chương trình, dự án từ việc xác định đúng đối tượng thụ hưởng đến việc lập kế hoạch, triển khai thực hiện, giám sát và đánh giá kết quả đạt được sau khi đưa vào sử dụng theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
- Thiết lập hệ thống chỉ tiêu theo dõi, giám sát, đánh giá phù hợp với từng cấp và từng địa phương. Đa dạng hoá các hình thức giám sát, đánh giá như: tự giám sát, giám sát của cộng đồng, giám sát của các cơ quan chức năng, tập trung coi trọng sự giám sát và đánh giá của người dân, những người trực tiếp thụ hưởng lợi ích của những chương trình, dự án giảm nghèo.
- Xây dựng chính sách hỗ trợ khuyến khích các doanh nghiệp, các hợp tác xã, các trang trại đầu tư sản xuất, kinh doanh trên địa bàn các huyện nghèo, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp này hoạt động với những chính sách ưu đãi nhất theo quy định của Nhà nước. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khi thu hút lao động là người nghèo, người dân tộc thiểu số vào làm việc sẽ được hưởng những chính sách ưu đãi như đối với các doanh nghiệp nhà nước.
- Khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, các nhà khoa học nghiên cứu, thử nghiệm những giống cây trồng, vật nuôi, kỹ thuật canh tác đạt hiệu quả năng suất cao và phù hợp với điều kiện của những huyện nghèo.
- Thực hiện xã hội hoá các hoạt động xóa đói giảm nghèo nhằm huy động tối đa các nguồn lực trong tỉnh, đặc biệt là sự chia sẻ trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Xây dựng và phát triển các Quỹ vì người nghèo, Quỹ tình thương, phong trào “Nhà đại đoàn kết” thu hút các doanh nghiệp và cá nhân tham gia đóng góp hỗ trợ người nghèo.
- Củng cố và nâng cao vai trò của các tổ chức đoàn thể như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên trong công tác giám sát, đánh giá việc triển khai các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo.
7. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến về xóa đói giảm nghèo.
- Tăng cường công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng như đài truyền hình, truyền thanh tỉnh, huyện, các trạm phát thanh xã, đội ngũ tuyên truyền viên tới từng thôn bản nhằm nâng cao nhận thức của mọi người dân về chủ trương, chính sách, ý nghĩa và mục đích của công tác xóa đói giảm nghèo.
- Nâng cao nhận thức, ý chí quyết tâm phấn đấu vươn lên thoát nghèo cho những hộ gia đình nghèo, chống tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự giúp đỡ của Nhà nước và cộng đồng. Đây là yếu tố đóng vai trò quan trọng quyết định sự thành công của công tác xóa đói giảm nghèo.
- Nhân rộng các mô hình, kinh nghiệm giảm nghèo hiệu quả tới từng xã nghèo, hộ nghèo thông qua các tổ chức đoàn thể, ứng dụng phù hợp với điều kiện địa lý, phong tục tập quán và trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương; tổ chức các buổi hướng dẫn, trao đổi kinh nghiệm về phương thức sản xuất kinh doanh, cách sử dụng vốn vay hiệu quả
8. Tổ chức thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án XĐGN
- Rà soát và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách hỗ trợ các hộ nghèo, xã nghèo theo hướng đồng bộ, hiệu quả, thiết thực và kịp thời.
- Tăng cường phân cấp và xác định rõ trách nhiệm các cấp, các ngành và từng cá nhân, bên cạnh đó vẫn phải đảm bảo sự phối hợp đồng bộ giữa các bên liên quan trong quá trình thực hiện chính sách, dự án xóa đói giảm nghèo. Cơ chế phân bổ nguồn lực công bằng và có tính khuyến khích cao, tạo điều kiện cho các địa phương chủ động trong việc huy động, lồng ghép các nguồn lực, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện các chương trình, dự án.
- Cấp Trung ương tập trung xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách, tiêu chí, kế hoạch phân bổ nguồn lực, thiết kế cụ thể các khung chính sách hỗ trợ, giám sát, đánh giá quá trình triển khai thực hiện chương trình.
- Cấp tỉnh, huyện lập kế hoạch giảm nghèo của địa phương, huy động bổ sung nguồn lực và chủ động phân bổ hợp lý cho cấp xã; tổ chức các đoàn công tác hướng dẫn và giám sát việc thực hiện của cấp xã; điều tra và lập báo cáo về thực trạng đói nghèo và công tác xóa đói giảm nghèo ở địa phương.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách ưu tiên nhằm tạo điều kiện cho các đối tượng là người nghèo được tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản, mở rộng hệ thống an sinh xã hội (Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm xã hội, trợ cấp giáo dục, trợ cấp y tế, lương hưu, phúc lợi xã hội) cho người nghèo.
- Xây dựng hệ thống chế tài xử lý chặt chẽ và nghiêm minh những vi phạm trong quá trình thực hiện các hoạt động xóa đói giảm nghèo.
Để hoàn thành mục tiêu đưa Phú Thọ ra khỏi tình trạng nghèo vào năm 2010, yêu cầu đặt ra là phải xây dựng các nhóm giải pháp đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh của từng địa phương. Trong quá trình thực hiện cần lưu ý phối hợp linh hoạt các giải pháp, tận dụng những cơ hội và vượt qua những khó khăn thách thức nhằm đạt được thành công trong công cuộc xóa đói giảm nghèo của tỉnh.
PHẦN KẾT LUẬN
Xoá đói giảm nghèo là một chủ trương, quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội những năm qua. Nhận thức đúng đắn chủ trương của Đảng và Nhà nước về công tác xoá đói giảm nghèo, trong nhiều năm trở lại đây, chương trình xóa đói giảm nghèo của tỉnh Phú Thọ đã được triển khai sâu rộng và thực sự mang lại hiệu quả to lớn đối với đời sống của người dân nghèo đặc biệt là người dân ở những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Những chính sách xã hội về y tế, giáo dục, các dự án đầu tư về phát triển kinh tế được triển khai thực hiện đồng bộ tới từng thôn, bản, từng hộ nghèo đã góp phần quan trọng vào thay đổi diện mạo của nhiều vùng nghèo trong tỉnh.
Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm trung bình từ 2 – 3 % mỗi năm, đời sống của những hộ gia đình nghèo được cải thiện đáng kể, nhiều hộ đã sử dụng hiệu quả sự hỗ trợ từ các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo để phát triển sản xuất kinh doanh vươn lên thoát nghèo. Trong những năm gần đây, trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đã cơ bản không còn hộ đói, phần lớn người nghèo đang dần được tiếp cận đầy đủ với những dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục, văn hoá, phát thanh truyền hình, viễn thông liên lạc, vị thế của người nghèo trong xã hội đã được nâng lên đáng kể so với trước đây.
Tuy nhiên vấn đề đặt ra hiện nay là không chỉ chú trọng tới giảm nghèo về mặt số lượng mà mục tiêu quan trọng và lâu dài hơn là cần tập trung mọi nguồn lực nhằm nâng cao chất lượng công tác xóa đói giảm nghèo, tiến tới xóa đói giảm nghèo bền vững.
Tiếp tục phát huy những thành quả xóa đói giảm nghèo đã đạt được, công tác xóa đói giảm nghèo trong thời gian tới được nhận định là sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, để vượt qua những khó khăn đó và hoàn thành mục tiêu giảm nghèo bền vững, trước hết cần nâng cao nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác xóa đói giảm nghèo cho mọi người dân; các cấp, các ngành và toàn xã hội phải có sự phối hợp đồng bộ và tập trung sử dụng mọi nguồn lực có thể huy động trong và ngoài tỉnh nhằm ổn định và từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống cho người nghèo, giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn tỉnh, đảm bảo hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh đi đôi với công bằng xã hội.
i
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TH2638.doc