- Ví tiền điện tử (e-wallet): là nơi để tiền mặt Internet, cho phép thanh toán những khoản chi trực tuyến hoặc phi trực tuyến rất nhỏ. Mỗi lần mua hàng, tài khoản trực tuyến của khách hàng bị trừ đi một khoản tương ứng. Ví tiền điện tử có thể hoạt động giống kiểu thẻ giữ tiền, cũng có thể bằng cách tự động truy nhập vào một tài khoản ảo mà người dùng tạo ra qua hệ thống máy tính, tài khoản ảo này kết nối với tài khoản tín dụng hoặc ghi nợ của người dùng.
- Ngân hàng điện tử (e-banking): là các nghiệp vụ, sản phẩm truyền thống của ngân hàng trước đây như gửi tiền, thanh toán, cho vay, quản lý tài khoản, quản lý tài chính được thực hiện trên các kênh điện tử, khách hàng không cần phải đến giao dịch trực tiếp tại quầy làm việc của ngân hàng.
c) Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI): là việc trao đổi dữ liệu dưới dạng có cấu trúc (tức là các bên phải thoả thuận từ trước về khuôn dạng cấu trúc của thông tin) từ máy tính này sang máy tính khác giữa các công ty hay tổ chức một cách tự động mà không cần có sự can thiệp của con người. EDI đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới, chủ yếu phục vụ cho mua và phân phối hàng (gửi đơn hàng, xác nhận, hoá đơn ) nhưng cũng dùng cả cho các mục đích khác như thanh toán tiền khám bệnh, trao đổi các kết quả xét nghiệm
86 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1111 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t cho doanh nghiệp. Một số cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương đã bắt đầu cung cấp trực tuyến dịch vụ công ở mức đơn giản như cấp đăng ký kinh doanh điện tử, khai hải quan điện tử, đấu thầu mua sắm công, cấp chứng nhận xuất xứ điện tử.
Ngoài ra, việc ứng dụng TMĐT ở Việt Nam cũng có những thuận lợi khác như: trình độ dân trí đang tăng dần, các doanh nghiệp cũng dần dần nhận thức được xu thế phát triển của thương mại trong tương lai là TMĐT
Thực tế kinh doanh TMĐT tiếp tục mở rộng ra những loại hình mới, trong đó tập trung đến việc cung cấp nội dung cho các phương tiện điện tử. Mặc dù mới hình thành, nhưng các hoạt động trong lĩnh vực này đã được triển khai rộng khắp và đem lại doanh thu đáng kể. Kinh doanh các dịch vụ giá trị gia tăng qua các thiết bị di động tăng nhanh. Số lượng người tiêu dùng mua sắm qua mạng tăng lên nhanh chóng, đặc biệt trong giới trẻ ở khu vực đô thị. Tâm lý và thói quen mua bán bắt đầu thay đổi từ phương thức truyền thống sang phương thức mới của TMĐT.
Mặc dù TMĐT ở Việt nam đang trong giai đoạn đầu của sự phát triển, song đến nay đã có khá nhiều doanh nghiệp ở Việt nam tận dụng được thế mạnh của Internet nhằm khuyếch trương sản phẩm và thúc đẩy quá trình kinh doanh hàng hoá như Hanoi Bookshop, Siêu thị Seiyu...
Mặc dù đưa ra được những thuận lợi cho TMĐT ở Việt Nam nhưng cũng phải thừa nhận rằng khó khăn và thách thức mà Việt Nam gặp phải là lớn hơn rất nhiều.
2.3.2. Hạn chế
ứng dụng TMĐT của các DN Việt Nam vẫn còn ở mức sơ khai. Nếu các DN đánh giá được vai trò của TMĐT, thì con số này sẽ còn phải hơn thế. Doanh nghiệp tìm kiếm đã tìm kiếm được các đối tác từ thị trường tiềm năng như Nhật, Nam Phi, Liên bang Nga thông qua các sàn giao dịch điện tử và các trang web của mình.
Khác với các siêu thị điện tử của nước ngoài hiện nay đều thanh toán bằng thẻ tín dụng ở nước ta phương thức thanh toán này hiện nay chưa phổ biến. Ngoài ra, việc vào siêu thị điện tử vẫn phải mất cước phí truy nhập Internet, khiến nhiều người muốn vào siêu thị điện tử mua hàng nhưng còn e ngại cước phí cao..
Nguồn nhân lực phục vụ ứng dụng TMĐT còn thiếu và chưa đủ trình độ để đáp ứng nhu cầu, mặc dù các trung tâm đào tạo CNTT, các khoa CNTT tại các trường đại học vẫn tiếp tục tăng về số lượng.
Hiệu quả ứng dụng TMĐT chưa cao do doanh nghiệp tham gia TMĐT một cách tự phát. Chính phủ chưa có sự chỉ đạo, hướng dẫn hoặc định hướng chính thức nào và chưa có chính sách khuyến khích, hỗ trợ cần thiết cho DN. Người dân chưa quen với phương thức mua hàng gián tiếp, doanh nghiệp chưa xây dựng được những quan hệ đối tác đủ tin cậy để đưa phương thức giao dịch B2B vào áp dụng cho giao dịch thường xuyên. Nguồn nhân lực hiện nay chủ yếu vẫn là những người dựa trên kinh nghiệm mà không qua đào tạo bài bản. Đó là một hạn chế lớn của chúng ta, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thiều những người có chuyên môn trong lĩnh vực công nghệ thong tin cũng như thương mai điện tử. Nhân lực chủ yếu vẫn là người làm nghiệp vụ xuất nhập khẩu cũ, còn chủ yếu thuê người ngoài thiết kế Website, không chủ động trong các vấn đề của hoạt động TMĐT.
Việc ban hành chậm trễ, không đồng bộ, không đầy đủ các cơ sở pháp lý trong TMĐT sẽ gây ra lúng túng, thiếu tự tin khi giải quyết các vấn đề thương mại kể cả cho DN, người tiêu dùng và sự kiểm soát của Nhà nước. Ngoài ra các hệ thống văn bản hướng dẫn còn chậm khiến các doanh nghiệp e ngại. Đối với các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu còn phải đối mặt với hệ thống pháp lý quốc tế. Đấy cũng là một trong những hạn chế của các doanh nghiệp Việt Nam. Đòi hỏi nhà nước cần có những chính sách, hướng dẫn cụ thể hơn nữa.
Một số quy định bất hợp lý cho TMĐT đã được doanh nghiệp nhắc tới từ những năm trước vẫn chưa được khắc phụcnhư quy định về cấp phép thành lập website hay mua bán tên miền.
Cùng với tiến bộ công nghệ, sự phát triển đa dạng của TMĐT luôn đặt ra những vấn đề mới cho hệ thống pháp luật về TMĐT. Sự bùng nổ của trò chơi trực tuyến dẫn đến nhu cầu xác định tính hợp pháp của tài sản ảo, các vụ tranh chấp về tên miền cho thấy cần có tư duy quản lý thích hợp với loại tài nguyên đặc biệt này, việc gửi thư điện tử quảng cáo số lượng lớn đòi hỏi phải có biện pháp bảo vệ người tiêu dùng.
Vấn đề an toàn, an ninh mạng, tội phạm liên quan đến TMĐT cũng là một vấn đề đáng chú ý trong năm 2006. Sự phát triển của công nghệ cũng kéo theo nhiều hành vi lợi dụng công nghệ để phạm tội, điển hình những là vụ tấn công các website TMĐT www.vietco.com, www.chodientu.com. Bên cạnh đó, tình trạng đột nhập tài khoản, trộm thông tin thẻ thanh toán cũng đã gây ảnh hưởng kh”ng nhỏ đến các hoạt động TMĐT lành mạnh.
Mặc dù được phấp luật công nhận, nhưng hiệu lực thực tế của các chứng từ điện tử không dễ được chấp nhận. Trường hợp bán vé điện tử của Việt Nam Airlines là một ví dụ. Trước đây, vé máy bay (cuống vé) được coi là một loại hoá đơn, nhưng khi chuyển sang bán vé điện tử thì sẽ không có cuống vé, thay vào đó là những chứng từ điện tử được lưu giữ trong hệ thống thông tin của công ty hàng không. Mặc dù pháp luật coi chứng từ điện tử có giá trị “như văn bản” và “như bản gốc”nhưng thực tế Tổng cục Thuế chưa sẵn sàng chấp nhận các chứng từ điện tử này, chính vì thế mà Vietnam Airlines được yêu cầu khi bán vé điện tử vẫn phải kèm theo phiếu thu bằng giấy. Yêu cầu này làm cho vé điện tử chỉ là một giải pháp nửa vời, vì trái với mục tiêu giảm chi phí quản lý gắn với giấy tờ và gây khó khăn cho việc bán vé hoàn toàn qua mạng. Tuy nhiên, Vietnam Airlines ,mới chỉ là trường hợp đầu tiên. Những khó khăn của doanh nghiệp này cũng chính là những khó khăn mà các doanh nghiệp muốn triển khai TMĐT trong tương lai sẽ gặp phải nếu không được giải quyết ngay từ bây giờ.
CHƯƠNG 3
MộT Số GIảI PHáP thúc đẩy sự PHáT TRIểN THƯƠNG MạI ĐIệN Tử ở VIệT NAM
3.1. Dự BáO Sự PHáT TRIểN CủA TMĐT
3.1.1. Nhu cầu của thế giới
Từ khi WWW ra đời, các doanh nghiệp đã nhanh chóng nhận ra lợi ích của việc sử dụng WWW để quảng bá thông tin, hỗ trợ việc thực hiện giao dịch thông qua mạng Internet và họ đã triệt để khai thác thế mạnh của WWW vào kinh doanh. Cụm từ Thương Mại Điện Tử bao gồm các giao dịch nhờ vào Internet giữa các đối tác trong kinh doanh, ví dụ giữa nhà cung cấp và khách hàng, giữa các đối tác kinh doanh v.v
Theo kết quả điều tra của Công ty Tình báo kinh tế (EIU) thuộc tạp chí The Economist, triển vọng phát triển TMĐT trên thế giới rất tươi sáng.
Đan Mạch hiện là mảnh đất màu mỡ nhất trên thế giới cho TMĐT phát triển, Anh vươn đứng số hai từ vị trí số 3 năm 2003, Mỹ tụt xuống vị trí số 6. Trong số các nước châu á Thái Bình Dương, Hồng K”ng vươn lên đứng tứ 9 và Hàn Quốc thứ 14.
Công ty nghiên cứu này cũng nhận định, triển vọng phát triển TMĐT sáng sủa hơn so với trước đây do người ta sử dụng điện thoại di động, đường truyền internet tốc độ cao ngày càng nhiều hơn, và các sản phẩm phần mềm rẻ, dễ sử dụng hơn.
Tuy nhiên, để TMĐT có thể phát triển mạnh mẽ hơn trong tương lai cần có bàn tay của Chính phủ. Các công ty cần hợp tác với chính quyền địa phương, những DN kinh doanh trong lĩnh vực thông tin liên lạc. Thực tế 4 nước thuộc khu vực bán đảo Scandinavi đã làm rất tốt công tác này, và vượt lên nằm trong top 5 các nước có cơ sở hạ tầng tốt phục vụ phát triển TMĐT.
Chính vì không ngừng nỗ lực phổ biến đường truyền Internet băng rộng, tạo mối liên kết chặt chẽ giữa Chính phủ và các ngành liên quan, mà Singapore đạt được vị trí số 7 trong danh sách xếp hạng của EIU. Một động lực khác thúc đẩy TMĐT là internet đã trở thành một phần trong cuộc sống hàng ngày của người dân.
Vai trò của Chính phủ đặc biệt quan trọng ở các nước đang phát triển do cơ sở hạ tầng còn thiếu. EIU chỉ ra rằng, ở những nước như Mexico, Romania (lần lượt xếp thứ 39 và 50), Chính phủ năng động cùng với các DN nhạy bén đã sử dụng Internet rất hiệu quả, cải thiện chất lượng dịch vụ và tạo ra nhiều cơ hội mới.
Điều bất ngờ là việc tạo ra đường truyền internet tốc độ cao tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nước đang phát triển. Nhìn vào số liệu thống kê của những nước đứng đầu thì tỷ lệ sử dụng đường truyền internet băng rộng vẫn còn hạn chế. 10 nước có TMĐT phát triển nhanh nhất thế giới bao gồm: Đan Mạch, Anh, Thuỵ Điển, Na Uy, Phần Lan, Mỹ, Singapore, Hà Lan. Hồng Kông, Thụy Sĩ.
3.1.2. Nhu cầu của Việt Nam
Việc ý thức được tầm quan trọng của TMĐT và xây dựng những chiến lược phù hợp để phát triển hoạt động TMĐT chính là một trong những giải pháp quan trọng để Việt Nam chúng ta từng bước phát triển kinh tế, từng bước rút ngắn khoảng cách về mọi mặt đối với các nước phát triển.
Song một chiến lược phù hợp không thể không tính đến những diễn biến tương lai. Việc nhìn nhận và dự báo những thuận lợi và khó khăn để phát triển TMĐT là hết sức cần thiết để từ đó đề ra phương hướng ứng dụng thích hợp. Phần này khóa luận sẽ trình bày một số nhận định về thuận lợi và khó khăn có thể có trong điều kiện ở nước ta vào thời gian tới.
Trong tương lai, cùng với tốc độ phát triển rất nhanh của công nghệ thông tin, tin học, khả năng cuộc sống sinh hoạt của con người chuyển sang một giai đoạn mới, CNTT sẽ còn phát triển với một số tốc độ nhanh chóng không thể dự báo trước. Điều này rõ ràng là một thuận lợi lớn nếu như nước ta kịp thời, nhanh nhạy nắm bắt được xu hướng và áp dụng những biện pháp cần thiết nâng đỡ phát triển hình thức thương mại này. Song đó cũng là một thách thức bởi vì rất có thể chúng ta lại gia tăng khoảng cách với các quốc gia khác. Hiện tại chúng ta có thể chứng kiến vấn đề này từ một nước anh em Singapore. Ngay từ giai đoạn đầu, Chính phủ nước này đã nhanh chóng nhìn nhận vấn đề và cho tới nay Singapore đã chuẩn bị tươm tất hành trang để bước vào kỷ nguyên nền kinh tế Internet và TMĐT.
Một trong những thuận lợi mà chúng ta có thể dự báo, cần phải nhận thấy, và nắm bắt đó là: “Xu hướng toàn cầu hóa”. Nếu chúng ta nhìn nhận vấn đề này một cách sâu sắc thì sẽ thấy được tầm quan trọng của phát triển TMĐT. Internet ra đời, cùng với nó là TMĐT, là một trong những công cụ phục vụ đắc lực cho nước ta tham gia một cách mạnh mẽ hơn vào quá trình toàn cầu hoá và phân công lao động quốc tế một cách dễ dàng hơn. Nhờ TMĐT, các nước nhỏ, doanh nghiệp với điều kiện nước ta có thể tham gia vào thương mại quốc tế không còn khó khăn như trước đây.
Sự giúp đỡ và cộng tác từ khu vực, từ các tổ chức quốc tế cũng có thể là một thuận lợi trong tương lai mà chúng ta có thể khai thác. Nếu trong khu vực chúng ta vốn được coi là một khu vực kinh tế năng động nhất thế giới, thì trong giai đoạn bước vào nền kinh tế toàn cầu Internet, ASEAN cũng đã khẳng định được mình. Nhiều nước trong khu vực đã đạt được những kết quả rất đáng khâm phục về TMĐT Singapore đã được cả thế giới biết đến. Vì vậy, chúng ta có thể học tập, dựa vào họ và kêu gọi sự giúp đỡ phát triển TMĐT từ các nước khu vực. Các chương trình về TMĐT mà khu vực đã, đang và sẽ tiến hành, chúng ta có thể tham gia một cách tích cực và cùng với các nước đề ra các phương hướng phát triển TMĐT cho cả khối. Sự hợp tác mạnh mẽ sẽ giúp chúng ta có thể tiết kiệm được cả nhân lực và đầu tư cho TMĐT. Kinh nghiệm này có thể học tập từ các nước EU, toàn khối này đã có những chương trình phát triển TMĐT chung một cách có hiệu quả.
Xét về nguồn lực trong nước: Tính cần cù và thông minh của dân tộc Việt Nam bộc lộ rất rõ trong lĩnh vực toán và tin học. Việc phát triển các phần mềm tin học, công nghệ mạng và TMĐT chắc sẽ là sở trường của chúng ta. Khuynh hướng này chắc chắn sẽ bộc lộ rõ hơn trong vài năm tới, khi chúng ta hoà nhập với thế giới mạnh hơn trong lĩnh vực này. Có một cơ sở đội ngũ tin học vững chắc, công nghệ thông tin mạnh sẽ là một lợi thế lớn cho phát triển TMĐT nước ta.
Trước xu thế ứng dụng mạnh mẽ của TMĐT của các nước trong khu vực và trên thế giới, Nhà nước ta chắc chắn sẽ ngày càng cởi mở hơn, hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho khu vực Internet và TMĐT. Các doanh nghiệp có thể nhận được những khuyến khích ưu đãi từ Nhà nước về việc triển khai chiến lược kinh doanh điện tử. Chi phí truy cập Internet, cước điện thoại chắc chắn sẽ còn tiếp tục giảm xuống, điều này sẽ tạo ra lợi nhuận nhiều hơn cho doanh nghiệp. Số người truy cập Internet tăng lên sẽ tạo ra dung lượng thị trường tiêu thụ ảo lớn hơn, các doanh nghiệp có khả năng tăng lượng hàng hoá tiêu thụ qua Internet không chỉ ở nước ngoài mà ngay tại trong nước.
Khung pháp lý về TMĐT rồi sẽ được hình thành, các giao dịch điện tử, chứng từ điện tử, chữ ký điện tử sẽ đựơc thừa nhận giá trị pháp lý. Môi trường hoạt động cho TMĐT sẽ được pháp luật bảo vệ. Điều này chắc chắn sẽ tạo nhiều thuận lợi và làm cho TMĐT ngày càng tăng lên ở nước ta.
Trang bị kỹ thuật ngày càng được hoàn thiện hơn. Ngành công nghệ thông tin nước ta rõ ràng trong những năm gần đây đã đạt được sự tăng trưởng mạnh mẽ. Xu hướng này chắc chắn sẽ còn tiếp tục trong nhứng năm tới, trong xu thế hợp tác, hội nhập, đầu tư quốc tế như hiện nay. Hành trang kỹ thuật hoàn thiện hơn trong tương lai sẽ tạo dễ dàng hơn cho thương mại diện tử.
Ngoài những khó khăn mà TMĐT Việt Nam đã gặp phải, đã bộc lộ trong thực tiễn ứng dụng của các doanh nghiệp, trong những năm tới để đề ra những kiến nghị vừa khắc phục được những khó khăn hiện tại lại vừa tránh được những rào cản tương lai. Phần này khoá luận sẽ phân tích những khía cạnh khó khăn mà TMĐT Việt Nam có thể phải có biện pháp khắc phục để vượt qua như: Thiếu nguồn nhân lực, rất có thể, đây sẽ là một trở ngại lớn cho việc phát triển TMĐT của chúng ta trong giai đoạn tới. Thiếu phương thức thanh toán thuận lợi, thiếu hiểu biết.
3.2. ĐịNH HƯớNG CủA VIệT NAM Về PHáT TRIểN TMĐT
3.2.1. Kế hoạch phát triển TMĐT giai đoạn 2006 – 2010
Ngày 15/9/2005, thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 222/2005/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT giai đoạn 2006-2010. Với quan điểm phát triển TMĐT góp phần thúc đẩy thương mại và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, Nhà nước đóng vai trò tạo lập môi trường pháp lý và cơ chế chính sách thuận lợi, đồng thời cung cấp các dịch vụ công hỗ trợ hoạt động TMĐT, phát triển TMĐT cần đc gắn kết chặt chẽ với việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin và truyền thông, Kế hoạch tổng thể đề ra 4 mục tiêu chủ yếu cho TMĐT vào năm 2010:
Khoảng 60% doanh nghiệp có quy mô lớn tiến hành giao dịch TMĐT loại hình B2B.
Khoảng 80% doanh nghiệp có quy mô nhở biết tới tiện ích của TMĐT và tiến hành giao dịch TMĐT loại hình B2C hoặc B2B.
Khoảng 10% hộ gia đình tiến hành giao dịch TMĐT loại hình B2C hoặc C2C.
Các chào thầu mua sắm Chính phủ được công bố trên trang tin điện tử của các cơ quan Chính phủ và ứng dụng giao dịch TMĐT trong mua sắm Chính phủ.
Để đạt được các mục tiêu trên, Kế hoạch tổng thể đề ra 6 nhóm chính sách và giải pháp lớn với nội dung tóm tắt như sau:
Đào tạo và tuyên truyền, phổ cập về TMĐT
Hoàn thiện hệ thống pháp luật
Yêu cầu đối với các cơ quan Chính phủ về cung cấp các dịch vụ hỗ trợ TMĐT và thực hiện giao dịch điện tử trong mua sắm Chính phủ
Phát triển các công nghệ hỗ trợ TMĐT trên cơ sở khuyến khích chuyển giao công nghệ từ nước ngoài
Tổ chức thực thi các quy định pháp luật liên quan tới TMĐT
Hợp tác quốc tề về TMĐT
3.2.2. Chiến lược phát triển công nghệ thông tin, thông tin và truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020
Xác định công nghệ thông tin và truyền thông là ngành kinh tế mũi nhọn, được ưu tiên hỗ trợ và khuyến khích phát triển, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, Nhà nước đã cso nhiều văn bản chính sách định hướng phát triển công nghệ thông tin và truyền thông cho từng thời kỳ. Năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 246/2005/QĐ-TTg ngày 6/10/2005 phê duyệt Chiến lược phát triển công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Xây dựng và phát triển doanh nghiệp điện tử được đề cập như một tiểu mục trong nội dung thứ nhất: “ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin và truyền thông trong các ngành, lĩnh vực trọng điểm của nền kinh tế. Hình thành, xây dựng và phát triển Việt Nam điện tử với công dân điện tử, Chính phủ điện tử, doanh nghiệp điện tử, giao dịch và TMĐT để Việt Nam đạt trình độ trung bình khá trong khu vực ASEANô. Theo đó, công nghệ thông tin và truyền thông được ứng dụng mạnh mẽ trong những ngành dịch vụ kinh tế có tính hội nhập cao như viễn thông, ngân hàng, hải quan, hàng không, du lịch, thuế, v.v.., 50-70% doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào các hoạt động quản lý, điều hành, quảng bá thương hiệu, tiếp thị, mở rộng thị trường, giám sát, tự động hoá các quy trình sản xuất, thiết kế, kiểm tra, đánh giá chất lượng sản phẩm, v.v
3.2.3. Đề án hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hội nhập và phát triển giai đoạn 2005 – 2010
Ngày 29/7/2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 191/2005/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hội nhập và phát triển giai đoạn 2005-2010. Với mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ ứng dụng công nghệ thông tin để tăng hiệu quả sản xuất, kinh doanh, góp phần đào tạo nguồn nhân lực và phát triển thị trường công nghiệp công nghệ thông tin, Đề án đặt ra 5 nhiệm vụ:
- Nâng cao nhận thức về ứng dụng công nghệ thông tin; khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin.
-Tư vấn cho doanh nghiệp lựa chọn giải pháp, triển khai ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
- Triển khai các chương trình đào tạo kỹ năng cần thiết về ứng dụng công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp
- Phối hợp với các cơ quan chức năng nghiên cứu, kiến nghị chính phủ về các chính sách, chế độ tạo môi trường pháp lý thuận lợi phát triển ứng dụng công nghệ thông tin trong doanh nghiệp.
- Xây dựng Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp từ xa.
3.2.4. Các chính sách khác
+ Kế hoạch tổng thể phát triển Chính phủ điện tử Việt Nam đến năm 2010: nâng cao năng lực điều hành, quản lý của các cơ quan chính phủ, phục vụ người dân và doanh nghiệp, xây dựng hạ tầng truyền thông và hoàn thiện môi trường pháp lý.
+ Dự án Phát triển công nghệ thông tin và truyền thông tại Việt Nam. Mục đích: thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp, đào tạo, điều chỉnh một số vấn đề về chính sách viễn thông và công nghệ thông tin cho phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu hội nhập dựa trên vốn vay Ngân hàng Thế giới.
3.3. MộT Số KIếN NGHị Và GIảI PHáP PHáT TRIểN TMĐT ở VIệT NAM
3.3.1. Vấn đề nâng cao nhận thức về TMĐT ở Việt Nam
* Khối chủ thể Chính phủ
Để nâng cao nhận thức về TMĐT ở Việt Nam thì khối đi tiên phong là khối chủ thể chính phủ. Hiện nay nhà nước chưa có một kế hoạch tổng thể mang tính chiến lược cho việc phát triển TMĐT ở Việt Nam, kể cả chiến lược nâng cao nhận thức về TMĐT cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Công cụ sử dụng trong TMĐT là máy tính lại phải chịu mức thuế 4% coi như đó là thiết bị điện tử dân dụng. Như vậy, máy tính chưa được xem như một phương tiện nâng cao dân trí, trong đó có nâng cao nhận thức về TMĐT và là cơ sở hạ tàng cho các dịch vụ giá trị gia tăng. Trong khi các doanh nghiệp ở các vùng sâu, vùng xa luôn ở trong tình trạng thiếu thông tin, kinh doanh kém hiệu quả nhưng hầu như chưa có điều kiện nối mạng Internet có thông tin nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Vì vậy, để nâng cao nhận thức về TMĐT ở Việt Nam, trước hết cần hoạch định chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp thử nghiêm, khai thác Internet- điểm mở đầu của phương thức kinh doanh mới. Nhất là có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vùng sâu, vùng xa trong việc khai thác thông tin trên các mạng diện rộng và mạng quốc gia tiến tới khai thác Internet. Qua những viêc thử nghiệm này, các doanh nghiệp mới có điều kiện so sánh giữa phương thức cũ và phương thức mới. Thực tiễn chính là môi trường tốt nhất cho việc nâng cao nhận thức về TMĐT.
Ngoài ra, theo kinh nghiệm tổng kết của nước ngoài, Chính phủ khuyến khích mọi biện pháp nhằm nâng cao nhận thức về TMĐT cho mọi thành phần trong xã hội như: in và phổ biến sách báo nói về TMĐT, cung cấp các chương trình giáo dục và đào tạo về TMĐT phù hợp với từng lứa tuổi, từng loại đối tượng; tổ chức các cuộc hội thảo về TMĐT để các doanh nghiệp đã đi trước, có kinh nghiệm về TMĐT hướng dẫn, phổ biến kinh nghiệm cho các doanh nghiệp đi sau triển khai áp dụng TMĐT có hiệu quả hơn. Cần có chủ trương giảm đáng kể các chi phí trong quá trình thực hiện như: khai thác thông tin trên Internet, chi phí truyền thông, chi phí mở những Website chuyên đề về TMĐT. Qua đó tạo ra nhu cầu, mong muốn và hứng thú để các doanh nghiệp áp dụng TMĐT trong công việc kinh doanh.
Như vậy với khối chủ thể chính phủ, bên cạnh việc cần chuẩn hoá lại kiến thức về TMĐT thì nhà nước còn cần cập nhật và nâng cao nhận thức về lĩnh vực này.
* Khối chủ thể doanh nghiệp
Con đường chung để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào TMĐT là con đường các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện mình, tự nâng cao trình độ nhân lực, tự trang bị vật lực đáp ứng nhu cầu của TMĐT dưới sự trợ giúp tích cực của nhà nước. Đó là con đường phát triển từ thấp đến cao qua 4 mức độ khác nhau và nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ được nâng lên theo 4 bậc của qua trình phát triển đó.
*Với các doanh nghiệp mức 1 :
Không có cơ sở vật chất cho TMĐT như máy tính, máy điện thoại, máy fax thì cần cho họ làm quen với các thiết bị này, nhận thức thấy tác dụng của chúng và từ đó đầu tư mua sắm. Bên cạnh đó cần tiến hành các biện pháp trang bị các kiến thức về TMĐTcũng như tạo cho họ sự hiện diện trên Webside trên Internet để môi tr]ường kinh doanh bên ngoài tác động vào họ, không để họ bị đóng kín trong sự cô lập. Hiện có tới 60% doanh nghiệp Việt Nam đang ở mức này.
*Với các doanh nghiệp mức 2 :
Đã có cơ sở vật chât cần thiết (như đã nói ở trên) nhưng chưa kết nối truy cập mạng Internet thì cần đưa họ sớm hiện diện trên Internet, khai thác Internet để đáp ứng nhu cầu thông tin của mình nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, đồng thời cũng mở ra khả năng cung cấp cho họ các cơ hội để làm quen với cách buôn bán hiện đại trên mạng. Với các doanh nghiệp loại này tham gia TMĐT chủ yếulà để trao đổi tin tức. Qua khảo sát số doanh nghiệp loại này chiếm khoảng 30%. [17] Nguồn: VCCI
*Với các doanh nghiệp mức 3 (chiếm 10%) :
Đã có sự hiện diện trên Webside ở Internet nhưng họ chưa biết sử dụng Webside đó để tiến hành TMĐT, cần có sự hỗ trợ, thúc đẩy để nhanh chóng lôi cuốn họ tham gia vào TMĐT bằng cách cung cấp cho họ những cơ hội kinh doanh, giúp họ gỡ bỏ các cản trở, tạo các công cụ và biện pháp hỗ trợ.
*Với các doanh nghiệp ở mức 4 (0%):
Doanh nghiệp đang tiến hành TMĐT, đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt về tính bảo mật, an toàn, môi trường pháp lí, phòng rủi ro...
* Khối chủ thể người tiêu dùng
Người tiêu dùng tham gia vào TMĐT trong quan hệ với doanh nghiệp có bán lẻ hàng hóa, thông tin sản phẩm, dịch vụ online, mở rộng phát triển thị trường, trong quan hệ với Chính phủ gồm có các quan hệ về thuế, giấy phép, thông tin, phúc lợi và giữa những người tiêu dùng với nhau như các vấn đề về thanh toán tiền mặt, bán đấu giá online, mua bán đồ đã qua sử dụng.
Bảo vệ người tiêu dùng là mục tiêu ngày càng cao trong thương mại. Quy cách, phẩm chất hàng hoá và các thông tin có liên quan trong TMĐT đều ở dạng số hoá, nên người mua có thể chịu rủi ro lớn hơn so với giao dịch thương mại vật thể. Để bổ trợ, phải có cơ chế trung gian bảo đảm chất lượng. Đây là một khía cạnh đang nổi lên trước nhiều rủi ro ngày càng gia tăng trong giao dịch TMĐT, gây thiệt hại đến quyền lợi của ngưới tiêu dùng.
Theo khảo sát của Trung tâm thông tin - Bộ Thương mại, con đường nâng cao nhận thức của khối chủ thể người tiêu dùng chủ yếu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như : TV, đài, báo, sách, các chương trình quốc gia về TMĐT hay có liên quan đến TMĐT. Mặt khác, việc đưa các kiến thức TMĐT vào giảng dạy với tư cách môn học độc lập hoặc một nội dung nằm trong những môn học đã có sẵn trong các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề... là hết sức cần thiết.
3.3.2. Xây dựng hạ tầng cơ sở pháp lý
Một trong những thách thức cần phải được giải quyết ngay là xây dựng một khung pháp luật cho các hoạt động thương mại và mua bán nói riêng tiến hành thông qua các phương tiện điện tử và đặc biệt là các giao dịch thông qua mạng Internet. Khung pháp luật cần có tính thống nhất để có thể điều chỉnh không phân biệt mục đích tiêu dùng hay kinh doanh, không phụ thuộc vào công nghệ được sử dụng cho giao dịch. Mặt khác, tính thống nhất của khung phấp luật về TMĐT còn phải được thể hiện sự thống nhất cả ở trong nước lẫn phạm vi toàn cầu. Bên cạnh đó, khung pháp lí đặt ra phải là một môi trường pháp lí linh hoạt và rõ ràng, tránh xơ cứng, không phát huy được những ưu thế vốn có của các giao dịch các giao dịch, tránh việc người sử dụng phải tuân thủ quá nhiều thủ tục phiền hà. Việc cân bằng giữa lợi ích của Nhà nước và lợi ích phát triển của TMĐT cũng cần được đặt ra. Chúng ta không có những ưu thế về cơ sở hạ tầng công nghệ, vì vậy, pháp luật cũng phải tiên liệu những thách thức, rủi ro, gặp phải khi tham gia môi trường. Lợi ích của nhà nước thể hiện ở việc quy định những chính sách về thuế, hải quan -nhưng đây là vấn đề rất nan giải trong điều kiện hoạt động TMĐT không biên giới.
Nội dung những vấn đề cần pháp luật điều chỉnh là :
+ Giá trị pháp lí của các hình thức thông tin điện tử: Ghi nhận văn bản điện tử có giá trị như văn bản viết.
+ Giá trị pháp lí của chữ kí điện tử: Hai đặc trưng cơ bản của chữ kí được đề cập đến là :-Chữ kí nhằm xác định tác giả văn bản;- Chữ kí thể hiện sự chấp thuận của tác giả đối với nội dung thông tin chứa trong văn bản. Trong các giao dịch thương mại thông qua phương tiện điện tử, các yêu cầu về chữ kí tay có thể đáp ứng bằng hình thức chữ kí điện tử. Luật điều chỉnh trong lĩnh vực này cần tập trung vào việc đặt ra các yêu cầu về nhận dạng chữ kí điện tử, cho phép các bên không liên quan hoặc ít các thông tin về nhau có thể xác địng được chính xác chữ kí điện tử của bên đối tác. Việc hình thành một cơ quan trung gian nhằm chứng thực tính xác thực và bảo đảm độ tin cậy của chữ kí điện tử là cần thiết (mặc dù QĐ 44 của Chính phủ đã thừa nhận tính pháp lí của chữ kí điện tử trong thanh toán điện tử nhưng khả năng áp dụng còn hạn chế do mới chỉ được đưa vào một văn bản dưới luật).
+ Vấn đề bản gốc : Gắn liền với việc sử dụng chữ kí điện tử, thể hiện tính toàn vẹn của thông tin chứa trong văn bản, đưa lại cho văn bản nhứng tính chất tương ứng như văn bản truyền thống, khẳng định giá trị vè mặt pháp lí của văn bản điên tử. Do đó, khi xây dựng cơ cở pháp lí cần hết sức chú ý đến vấn đề này.
+ Giá trị chứng cứ của văn bản điện tử : Đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của TMĐT. Cần nghiêm túc quan tâm đến vấn đề này vì khi giá trị của văn bản điện tử không đặt ngang bằng với văn bản truyền thống trong quan hệ tố tụng, thì các doanh nghiệp và người tiêu dùng có xu hướng lựa chọn văn bản viết khi kí kết hợp đồng.
+ Vấn đề pháp luật về hợp đồng : Đây là vấn đề quan trọng, đặt ra hàng loạt khó khăn cho những nhà làm luật, gây ra nhiều tranh cãi:
Về hình thức giao kết hợp đồng, xét từ kinh nghiệm các nước đi trước và điều kiện cụ thể của Việt nam, điều quan trọng là pháp luật phải quy định linh hoạt về hình thức giao kết để không phụ thuộc vào loại công nghệ được ứng dụng.
+ Chính sách thuế : Cần tìm ra giải pháp hợp lí để tránh bỏ ngỏ, làm mất đi nguồn thu lớn cho ngân sách quốc gia nhưng nếu áp dụng một hệ thống thuế quá chặt chẽ sẽ dẫn tới những rào cản cho các hoạt động thương mại qua mạng. Hơn nữa, khi các giao được tiến hành qua biên giới xuất hiện thêm nguy cơ các quy chế về thuế có thể xung đột nhau dẫn tới tình huống một mặt hàng có thể bị đánh thuế nhiều lần.
Các chính sách thuế liên quan đến TMĐT phải phù hợp với các nguyên tắc tính thuế mang tính quốc tế như:
- Không bóp méo cũng như không gây trở ngại cho hoạt động thương mại . Hệ thống thuế không được phân biệt đối xử giữa các phương thức giao dịch thương mại.
- Hệ thống thuế phải đơn giản dễ thực hiện .
- Phải phù hợp với hệ thống thuế quốc gia và của các nước bạn hàng.
+ Bảo vệ người tiêu dùng : Người tiêu dùng nhận được khá nhiều lợi ích khi tham gia các hoạt động mua bán bằng phương thức TMĐT. Nhưng phương thức giao dịch này làm họ e ngại vì họ không thể tự mình quan sát và kiểm tra hàng hoá. Họ cũng không thể lường trước những rắc rối về mặt pháp lí có thể xảy ra... Khung pháp luật điều chỉnh quan hệ này phải đáp ứng những vấn đề bảo vệ người tiêu dùng, cũng như trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp hàng hoá, dịch vụ.
+ Bảo vệ quyền sở hữu trí tụê: Với việc bùng nổ Internet, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đã trở thành một vấn đề nóng bỏng vì việc đánh cắp bản quuyền của các sản phẩm như phần mềm máy tính, sách, phim ảnh... có thể dễ dàng được thực hiện thông qua sao chép và truyền bá trên Internet. Do đó hoàn thiện pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ trong bối cảnh của nề công nghệ thông tin là hết sức cần thiết. Phần này cũng sê tiếp tục được đề cập sâu hơn.
+ Vấn đề giải quyết tranh chấp liên quan đến TMĐT : Cũng như trong thương mại truyền thống, những tranh chấp, bất đồng giữa các bên trong giao dịch TMĐT tất yếu sẽ nảy sinh. Do đó, pháp luật phải có những quy định liên quan đến vấn đề này, trong đó quan trọng nhất là việc sử dụng các văn bản điện tử hay chữ kí điện tử với tư cách chứng cứ trong các hoạt động tố tụng.
Song song với các quy định về giải quyết tranh chấp nói trên, cũng cần có cả các quy định về tội phạm trong lĩnh vực giao dịch điện tử để góp phần phòng ngừa, ngăn trặn và xử lí các loại tội phạm sẽ xuất hiện cùng với quá trình áp dụng rộng rãi TMĐT.
3.3.3. Xây dựng hạ tầng cơ sở công nghệ
Hiện nay, CNTT đã trở thành một lĩnh vực thiết yếu của đời sống kinh tế - xã hội Việt nam. Nhưng khi CNTT trở nên phổ biến đất nước ta lại đứng trước những thách thức mới của TMĐT nhiều vấn đề khác có liên quan đến nền kinh tế số. Vậy làm thế nào để ứng dụng CNTT - một lĩnh vực đang tiến bộ hết sức nhanh chóng - một cách hiệu quả vào hoạt động của các doanh nghiệp trên một môi trường kinh doanh cũng luôn thay đổi, luôn xuất hiện những nhu cầu mới...?
* Đối với Chính phủ
Trước hết, các nhà quản lý cần thấy rõ môi trường pháp lý của chúng ta chưa thực sự khuyến khích cho việc ứng dụng và phát triển CNTT. Thiếu những chính sách hoặc luật mới cho các giao dịch trên mạng. Hạ tầng viễn thông cho việc ứng dụng và phát triển CNTT còn nhiều bất cập... Để giải quyết những vấn đề trên có hiệu quả Nhà nước cần ban hành những chính sách, qui định cụ thể để tạo môi trường và các điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng CNTT vào hoạt động của các doanh nghiệp . Cần chú ý thích đáng các vấn đề như: thuế đối với CNTT (như thuế nhập khẩu phần cứng và phần mềm...), giảm phí dịch vụ (như phí truyền dữ liệu, phí truy cập Internet...), chính sách khuyến khích, ưu tiên việc phát triển các phần mềm tin học trong nước (chẳng hạn khuyến khích việc xây dựng các phần mềm ứng dụng trong nước dành cho các doanh nghiệp, không áp dụng bất kỳ loại thuế nào đối với các sản phẩm phần mềm tin học trong nước ...), qui định rõ các chế độ khấu hao tài sản thiết bị tin học và viễn thông (bởi trước sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật và công nghệ các máy móc thiết bị này rất nhanh chóng bị lạc hậu và giảm giá trên thị trường ...), nghiên cứu và đưa ra các chuẩn mực kỹ thuật về thông tin và nghiệp vụ ( như chuẩn tiếng Việt dùng cho tin học, chuẩn kế toán , chứng từ ....). Ngoài ra cần chú trọng xây dựng và hoàn thiện mạng thông tin Quốc gia vững mạnh, tạo điều kiện cho ngành CNTT nói riêng và các ngành khác phát triển nhanh chóng. Hoạt động của các doanh nghiệp, các liên kết kinh tế, liên kết cộng đồng sẽ được cải thiện thông qua một hạ tầng cơ sở viễn thông hiện đại. Những giải pháp đó đang được Nhà nước tiến hành có hiệu quả.
* Đối với doanh nghiệp
ở nước ta việc ứng dụng CNTT trong các ngành kinh tế không còn là một điều mới mẻ. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật máy tính và môi trường truyền thông cũng như thị trường tin học trong nước, việc ứng dụng CNTT vào hoạt động doanh nghiệp ngày càng sôi động. Nhưng tồn tại một tình trạng khá phổ biến là các doanh nghiệp Việt nam chưa chú ý đầu tư thích đáng cho phần mềm nhất là các phần mềm ứng dụng, dẫn đến việc mặc dù đã trang bị hệ thống máy tính, thậm chí cả hệ thống mạng nhưng cũng không cải thiện được hoạt động của doanh nghiệp. Phần lớn các ứng dụng CNTT mới chỉ tập trung vào lĩnh vực kế toán và văn phòng.
Một thực tế khác là mặc dù hầu hết các nhà doanh nghiệp đều hiểu lợi ích của việc ứng dụng CNTT nhưng không ít doanh nghiệp còn lúng túng trong triển khai. Có lẽ một phần là do nhà nước chưa có đủ các chính sách, qui định để hướng dẫn, khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Một lý do cũng rất quan trọng là các doanh nghiệp chưa chủ động nghiên cứu áp dụng tin học, chưa có thói quen quản lý điều hành bằng thông tin, chưa có kế hoạch đầu tư vốn và đào tạo cán bộ, nhân viên tương xứng.
Trong thời gian tới các doanh nghiệp cần đổi mới phong cách hoạt động kinh doanh, quản lý điều hành phù hợp với xu thế của thời đại CNTT. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu để đưa ra chiến lược, kế hoạch triển khai thích hợp, vận dụng hài hoà chiến lược về CNTT trong chiến lược hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh việc đầu tư thích đáng vào trang bị hợp lý hệ thống tin học (phần cứng, phần mềm, truyền thông...) cần chú trọng vấn đề đào tạo để có được đội ngũ cán bộ nhân viên có đủ trình độ để sử dụng, khai khác hiệu quả hệ thống tin học của doanh nghiệp.
Để thành công công ty phải có những chuyên gia về mạng (để giải quyết được mọi yêu cầu phát sinh từ khách hàng và đối tác) và chọn các ứng dụng Internet cho hiệu quả cao nhất vào đúng thời điểm.
Tiếp theo là việc doanh nghiệp cần phải để hết tâm trí cho Web site sẽ được dựng lên. Sự thành công của TMĐT vào thời điểm hiện nay không còn nằm ở trong yếu tố công nghệ mà ở khả năng ứng dụng công nghệ để vượt qua các trở ngại trong việc mua sắm trên mạng. Đó chính là cách thức để đem lại tỷ lệ cao cho những người đến thăm trang Web trở thành những người mua sắm, và giữ vững sự trung thành của khách hàng đó. Hãy cố gắng làm nổi bật địa chỉ của công ty hơn một chút so với các trang khác (thông qua chế độ màu sắc, phông chữ hiển thị, hay một số kỹ thuật tạo hiệu ứng chữ ẩn hiện chẳng hạn). Nhiều công ty Việt nam đã sai lầm khi đơn giản chỉ lập các trang Web theo kiểu tờ giới thiệu sản phẩm, mà không tích hợp các khả năng bán hàng với thư điện tử tự động hoá, các loại công nghệ gây ấn tượng (wow-technology).
Trước khi tham gia TMĐT doanh nghiệp rất nên xây dựng mạng nội bộ của doanh nghiệp mình (mạng Intranet). Thay vì cung cấp thông tin cho hết thảy mọi người, Intranet chỉ mang thông tin đến với những người trong phạm vi công ty bạn, bất kể nó nằm trong cùng một toà nhà hay rải rác trên một vài thành phố khác nhau. Mạng Intranet có chi phí không cao, nó cung cấp nhiều ứng dụng tiết kiệm có thể ảnh hưởng tích cực tới kết quả kinh doanh cuối cùng. Đặc biệt hơn nó giúp cho doanh nghiệp làm quen với cách thức điều hành hoạt động kinh doanh qua mạng. Nó giúp các nhân viên làm quen với các ứng dụng cơ bản của Web và thư điện tử. Nếu vận hành mạng Intranet có hiệu quả, công ty sẽ nhận thấy thư điện tử (E-mail) không chỉ cung cấp giải pháp truyền thông tin rẻ tiền giữa các nhân viên, điều hành viên, khách hàng và người mua mà nó còn cung cấp hệ thống sắp xếp hồ sơ tự động và giảm ghê gớm việc phải đánh máy lại và tăng khả năng tái sử dụng các tài liệu của công ty. E-mail có thể tiết kiệm tiền đáng kể cho công ty so với Fax dùng giấy và có người điều khiển.
Một điều nên làm là doanh nghiệp hãy dành thời gian để làm quen với Internet và World Wide Web. Hãy chú ý thăm càng nhiều Web site TMĐT càng tốt . Khi có điều kiện hãy tham gia vào các diễn đàn thảo luận về TMĐT và đăng ký các tạp chí E-mail về lĩnh vực TMĐT. Khi mọi người trong công ty đã trở nên thật thoải mái với Internet và học hỏi được kinh nghiệm sử dụng Internet của các doanh nghiệp khác, thì các quản trị gia sẽ có thể bắt đầu suy ngẫm nhiều lý do hơn nữa tại sao công ty của mình cần phải tham gia mạng. Một khi các quản trị gia có thể xác định được điều này và chuẩn bị kế hoạch chiến lược có cấu trúc tốt, công ty hãy bắt đầu lên đường.
3.3.4. Tiêu chuẩn hoá công nghiệp và thương mại
Các loại tiêu chuẩn (TC) chủ yếu áp dụng trong TMĐT là: các loại tiêu chuẩn công nghệ thông tin liên quan đến các hoạt động ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, tiền tệ, bán hàng; các loại tiêu chuẩn công nghệ thông tin áp dụng trong thương mại và vận tải; các tiêu chuẩn về mã số hàng hoá và địa điểm, các tiêu chuẩn về vật mang dữ liệu (data camier)
Thực trạng tiêu chuẩn hoá (TCH) công nghiệp và thương mại Việt nam còn nhiều hạn chế nên để phát triển TMĐT, nước ta cần phải tiếp tục xây dựng, công nhận sự phù hợp quốc tế và hoàn thiện các loại tiêu chuẩn (TC) hàng hoá và dịch vụ: TC về quy cách; TC về yêu cầu kĩ thuật; TC về phương pháp thử (là cơ sở pháp lí để tiến hành kiểm tra chất lượng sản phẩm); TC ghi nhãn, bao gói, vận chuyển và bảo quản; TCH công nghệ thực hiện : Tiến hành xây dựng các TC về công nghệ thực hiện TMĐT và đồng thời áp dụng các tiêu chuẩn này vào trong thực tế. TC về công nghệ thực hiện TMĐT (bao gồm TC về những vấn đề chung cho các ngành khoa học và kĩ thuật liên quan đến lĩnh vực hoạt động khác nhau của TMĐT : TC về thuật ngữ, TC về kí hiệu, TC về phân loại và mã hoá, TC về đơn vị đo lường, TC về kĩ thuật an toàn, TC về các hệ thống tài liệu; TC về nguyên tắc và thủ tục : quy định những nguyên tắc, phương pháp thủ tục, những yêu cầu cần thiết về kinh tế kĩ thuật đảm bảo cho quá trình hoạt động TMĐT được thống nhất hợp lí và mang lại hiệu quả cao); mô hình quản trị chất lượng sản phẩm :
Để giải pháp TCH công nghiệp và thương mại thực sự thúc đẩy sự phát triển của TMĐT vầ hoạt động bán hàng bằng hình thức TMĐT cần :
- Nghiên cứu xây dựng một chiến lược tạo lập cơ sở hạ tầng TCH trong TMĐT để thực hiện trong thời gian 5- 10 năm tới.
- Từng bước xây dựng một bộ TC quốc gia dùng choTMĐT
- Sớm thành lập một hội đồng TCH
- Nhà nước cần ưu tiên dành một lượng kinh phí hợp lí cho hoạt động TC trong TMĐT
- Xây dựng một trung tâm thông tin, tư vấn về TC trong TMĐT.
- Hỗ trợ cho các hoạt động của EAN Việt Nam
- Chủ động tham gia tổ chức TC quốc tế và khu vực.
3.3.5. Đẩy mạnh hoạt động thanh toán điện tử trong TMĐT
Đẩy mạnh hoạt động TTĐT là đòi hỏi tất yếu với việc xây dựng một hệ thống tài chính với cơ sở hạ tầng thanh toán cho phép thực hiện các giao dịch tự động. Cơ sở hạ tầng thanh toán bao gồm: cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, cơ sở hạ tầng pháp lí/ an ninh an toàn (bảo mật)/chính sách để đảm bảo an toàn và bảo hộ đối với những doanh nghiệp/ người tiêu dùng tham gia. Bên cạnh đó, luật chứng cứ với các hồ sơ chứng từ điện tử cũng đóng một vâi trò quyết định trong việc thực hiện thanh toán hay giao dịch. Hiện nay, hầu hết các chứng từ, hồ sơ điện tử đang được chấp nhận vẫn có tranh chấp tại toà án vì chưa thống nhất được với các điều luật về chứng cứ. Vì vậy, cần nhìn nhận rõ điều đó để tiến hành sửa đổi các đạo luật để thống nhất với các đạo luật điện tử. Đi đôi với các chứng từ và hồ sơ điện tử thì chữ kí điện tử là phần không thể tách rời. Do đó đề nghị rằng chữ kí điện tử phải được khởi tạo bằng các công nghệ đáng tin cậy. Ngoài ra, chữ kí điện tử phải được các tổ chức chứng nhận đáng tin cậy do chính phủ chỉ định hoặc một số tổ chức của chính phủ chịu trách nhiệm về cơ sở hạ tầng công cộng có quyền kiểm tra chéo. Đồng thời để thực hiện được vai trò kết nối và kết thúc các giao dịch TMĐT thì việc quan trọng nhất là phaỉ xoá bỏ các rào cản cho việc sử dụng TMĐT bằng cách làm rõ những luật này khi đưa ra áp dụng vào nền kinh tế số và nâng cấp cần thiết với mục đích đảm bảo sự đối xử bình đẳng giữa các giao dịch kĩ thuật số và các giao dịch phi kĩ thuật số theo một cách thống nhất - ổn định.
Các điểm căn bản về mặt công nghệ cần được thực hiện nhằm thúc đẩy môi trường TTĐT ở Việt nam là:_ Tạo dựng nền tảng hệ thống công nghệ thông tin bao gồm cả phần mềm và phần cứng đảm bảo được các nghiệp vụ do TTĐT đòi hỏi. _ Các tiêu chuẩn công nghệ xây dựng phải đảm bảo an toàn, bí mật và thuận lợi cho khách hàng, tiến tới theo đúng tiêu chuẩn quốc tế nhằm mục đích tạo dựng được các tiêu chuẩn giao diện tương thích giữa các ngân hàng hay tổ chức tín dụng, tăng cường khả năng quản lí và khai thác vốn trong ngành tài chính ngân hàng._ Hệ thống viễn thông phải được cải tiến với băng thông truyền lớn nhưng giá phải rẻ để tạo cho các ngân hàng khả năng cạnh tranh thông qua các dịch vụ và các kênh phân phối của mình._ Hệ thống bảo mật mã hoá cũng phải đưa ra các tiêu chuẩn cùng với chữ kí điện tử và các mẫu chứng từ ( form ) TTĐT tạo ra tiếng nói chung cho ngành ngân hàng để đảm bảo tính toàn vẹn dữ liêụ của mình. Hệ thống lưu trữ thông minh ( lưu trữ bằng thư viện ) đảm bảo một phần trong việc chống gian lận tại chỗ và các kẻ đột nhập từ bên ngoài vào hệ thống đồng thời ngăn chặn được sự phá hoại của Virus._ Hệ thống ngăn chặn sự truy cập trái phép phải được áp dụng như hệ thông Fire Wall đảm bảo được sự an toàn cho thông tin khách hàng và loại bỏ được những hành vi và ý đồ xấu của những kẻ phá hoại.
3.3.6. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và bảo vệ người tiêu dùng
* Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Những vấn đề nảy sinh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ trong TMĐT là : quyền tác giả và các quyền liên quan (quyền tái bản, quyền công bố, xác định sở hữu quyền tác giả, quyền tác giả đối với chương trình máy tính và cơ sở dữ liệu); nhãn hiệu hàng hóa; sáng chế; kiểu dáng công nghệ; chỉ dẫn địa lí; bí mật thương mại.
Xuất phát từ bản chất, đặc điểm của TMĐT và thực tiễn đặt ra, vấn đề thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong TMĐT bao gồm: _Thu thập bằng chứng trong TMĐT_ Xác định hành vi vi phạm trong TMĐT_ Xác định thẩm quyền của các cơ quan xét xử._ Xác định luật áp dụng để xử lí vi phạm trong môi trường TMĐT_ Xác định trách nhiệm của các bên trung gian trong giao dịch._ Xác định thiệt hại và mức độ bồi thường_gặp rất nhiều khó khăn và cực kì phức tạp, cần phải nhanh chóng tiếp cận, chủ động tháo gỡ, tăng cường hiệu quả của hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, góp phần phát huy tối đa những cơ mới mà sự bùng nổ của hoạt động TMĐT đưa lại, phát triển TMĐT, khuyến khích hoạt đọng bán hàng bằng hình thức TMĐT.
Vì vậy, các vấn đề cần giải quyết là :
*Điều chỉnh hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ
- Vấn đề quyền tác giả và các quyền có liên quan trong môi trường Internet.
- Quy định cơ chế đăng kí tên miền nhằm trành vi phạm nhãn hiệu hàng hoá, quy định chống đầu cơ tên miền nhằm gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá.
- Vấn đề bảo hộ tên gọi xuất xứ hàng hoá trên Internet.
- Các quy định nhằm thực thi quyền sở hữu hàng hoá: Thu thập bằng chứng, xác định hành vi vi phạm, xác định thẩm quyền của các cơ quan xét xử, xác định luật áp dụng để xử lí vi phạm trong môi trường, xác định trách nhiệm của các bên trung gian trong giao dịch, xác định thiệt hại và mức độ bồi thường.
*Điều chỉnh cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ cho phù hợp với sự phát triển của TMĐT.
*Vấn đề kĩ thuật phục vụ công tác bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
*Vấn đề nghiên cứu, đào tạo, phổ biến kiến thức về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
*Hợp tác quốc tế : phối hợp chặt chẽ với các quốc gia.
* Bảo vệ người tiêu dùng.
Trong quá trình phát triển TMĐT, chúng ta phải tính đến đặc thù của hình thức giao dịch mới này, khả năng hội nhập, mở rộng không giới hạn của nó để người tiêu dùng tham gia TMĐT được hưởng sự bảo vệ như trong các hình thức thương mại truyền thống khác. Để bảo vệ người tiêu dùng, một mặt Nhà nước cần tổ chức quản lí các hoạt động kinh doanh trên mạng, kiểm tra chất lượng phù hợp tiêu chuẩn, giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng; mặt khác cần tuyên truyền giáo dục cho người tiêu dùng thấy được những ích lợi của TMĐT cũng như những mặt trái của nó: khả năng bị lừa dối, khó khăn trong khiếu nại và bồi thường
Một số biện pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong TMĐT là:
- Đưa ra điều kiện và quy định đối với doanh nghiệp được bán hàng trên mạng:
Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phải đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật, phải có hệ thống quản lí chất lượng được công nhận phù hợp với tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn ngành hoặc tiêu chuẩn nước ngoài, tiêu chuẩn quốc tế áp dụng tại Việt Nam. Trước khi tham gia TMĐT, doanh nghiệp cần tham gia Hiệp hội mã số vật phẩm Việt Nam (EAN_VN) để được cấp mã số doanh nghiệp (mã M) (đây không phải là quy chế pháp lí bắt buộc).
Các doanh nghiệp bán, khuyến mại hoặc tiếp thị hàng hoá và dịch vụ cho người tiêu dùng không được có hành vi lừa đảo, gian lận, thông tin sai lệch, thanh toán không công bằng không được ký kết hợp đồng.Thông tin về doanh nghiệp hoặc về hàng hoá, dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp phải rõ ràng, chính xác, dễ thấy và dễ truy nhập. Doanh nghiệp phải làm đúng theo mọi tuyên bố đã đưa ra về chất lượng hàng hoá, dịch vụ, về giao dịch, thanh toán với người tiêu dùng.
- Điều kiện hàng hoá, dịch vụ buôn bán trên mạng
Doanh nghiệp phải cung cấp các thông tin dễ truy cập và mô tả chính xác các hàng hoá, dịch vụ đủ để tạo điều kiện cho người tiêu dùngđưa ra quyết địng có mua hay là không mua. Hàng hoá đảm bảo chất lượng, phù hợp với tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn ngành hoặc tiêu chuẩn nước ngoài, tiêu chuẩn quốc tế áp dụng tại Việt Nam. Hàng hoá nên có mã số mã vạch trên hàng hoá theo đúng tiêu chuẩn quốc tế.
- Yêu cầu về giao dịch thương mại giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Doanh nghiệp phải cung cấp thong tin đầy đủ, rõ ràng, chính xác, dễ truy cập về giá cả, các điều khoản, điều kiện và chi phí liên quan tới mõi hàng hoá, dịch vụ để giúp người tiêu dùng có cơ hội xem xét, có căn cứ trước khi đưa ra quyết định là có mua hàng hoá hay sử dụng dịch vụ đó không. Doanh nghiệp phải cung cấp cho người tiêu dùng hợp đồng hoặc văn bản giao dịch ghi đầy đủ và rõ ràng về các điều khoản và điều kiện liên quan trong giao dịch theo phương thức có thể giúp người tiêu dùng truy cập và lưu giữ thành một hồ sơ có thể xem lại sau này.
- Nội dung các thông tin doanh nghiệp cung cấp cho người tiêu dùng:
Giá cả bao gồm tất cả các chi phí người tiêu dùng phải trả. Các điều kiện và phương thức thanh toán, gồm cả các quy định tín dụng cho người mua hàng hoặc người sử dụng dịch vụ. Thời gian giao hàng, phương thức giao hàng hoặc thực hiện dịch vụ. Hướng dẫn sử dụng, gồm cả thông tin cần chú ý về an toàn và bảo vệ sức khoẻ. Chế độ bảo hành (nếu có), dịch vụ sau bán hàng khác, những chi phí trong thời gian bảo hành. Các điều khoản có liên quan tới việc rút lại cam kết, kết thúc, huỷ bỏ, trả lại hàng, đổi hàng hoặc hoàn tiền. Các khiếu nại sẽ được xử lí thế nào, ở đâu, tên người giải quyết. Thông báo các biện pháp (kể cả biện pháp điện tử) để người tiêu dùng có thể kiểm tra những thông tin mà doanh nghiệp công bố.
KếT LUậN
TMĐT - một hiện thực và hình thức trường kinh doanh mới đã và đang làm thay đổi sâu sắc các hoạt động kinh tế và môi trường xã hội. Thực tế nó đã ảnh hưởng tới các lĩnh vực như truyền thông, tài chính, buôn bán lẻ. Nó đem lại triển vọng trong các lĩnh vực như giáo dục, y tế và quản lí. Và dưới tác động của công nghệ thông tin đi vào giai đoạn phát triển với tốc độ cao trên phạm vi toàn thế giới TMĐT trở thành một công cụ kinh doanh đầy quyền lực khi chúng ta đang bước vào thiên niên kỷ thứ ba trong xu thế toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ.
ở Việt Nam, mặc dù giao dịch TMĐT đã bắt đầu được áp dụng thử nghiệm ở một số doanh nghiệp nhưng thực tế là, hạ tầng cơ sở cho TMĐT hầu như là còn chưa có nhiều, tất cả còn đang trong giai đoạn xây dựng nền móng ban đầu, chuẩn bị tạo lập những môi trường kinh doanh mới, đặc biệt là đang trong quá trình nhận thức vấn đề. Chính vì thế để phát triển nhanh chóng TMĐT, song song với việc xây dựng cơ chế chính sách nhằm thu hút đầu tư, cần thực hiện việc mở cửa thị trường tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư cung cấp dịch vụ về bưu chính viễn thông, CNTT và TMĐT. Tăng cường hợp tác liên kết với các tổ chức chuyên trách về TMĐT, các trường đại học, các doanh nghiệp trong và ngoài nước về tri thức, kinh nghiệm trong nghiên cứu, quản lý điều hành, triển khai ứng dụng CNTT và TMĐT vào hoạt động kinh doanh. Để thúc đẩy TMĐT Việt Nam phát triển hơn nữa sau khi gia nhập WTO đòi hỏi cần phải hoàn thành đồng bộ 3 nhóm giải pháp cả về phía nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng.
TàI LIệU THAM KHảO
Bùi Đỗ Bích ( 2002), TMĐT, Nhà xuất bản bưu điện, Hà Nội
Lê Thế Bình, (2001-2002), Phương hướng sử dụng TMĐT trong kinh doanh từ doanh nghiệp tới người tiêu dùng (B2C) của các doanh nghiệp Việt Nam để phù hợp với điều kiện Việt Nam, Hội nghị khoa học Khoa Kinh tế ngoại thương, năm học 2001-2002.
Nguyễn Minh Dân, Vụ trưởng Vụ KHCN – Bộ Bưu chính viễn thông, tại khóa đào tạo, Nâng cao năng lực hoạch định và thực thi chính sách, pháp luật cho TMĐT, từ 4-7/4/2005
Vương Liêm (2003), Kinh tế học Internet – từ TMĐT tới chính phủ điện tử, NXB Trẻ.
Đặng Thị Loan (2006), Kinh tế Việt Nam 20 năm đổi mới (1986-2006) thành tựu và những vấn đề đặt ra, NXB Đại học KTQD, Tr 33-34, Hà Nội.
Vũ Hữu Tửu (2000), TMĐT và thực tiễn triển khai ở Việt Nam, Kỷ yếu hội nghị khoa học , Trường Đại học Ngoại thương.
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2000),Bàn về cơ sở pháp lý của TMĐT ở Việt Nam, Chuyên đề.
Học viện Công nghệ Bưu chính viễn thông (2001), Kinh tế mạng và TMĐT, NXB Bưu điện, Hà Nội 6/2001
Hội Tin học TP. Hồ Chí Minh và Tạp chí Thế giới Vi tính (2005),
Nghị định Thương mại điện tử.
Sách “Future of E-Commerce” _ Tác giả: Sayling Wen.
Báo cáo TMĐT Việt Nam năm 2003 _ Bộ Công thương.
Báo cáo TMĐT Việt Nam năm 2004 _ Bộ Công thương.
Báo cáo TMĐT Việt Nam năm 2005 _ Bộ Công thương.
Báo cáo TMĐT Việt Nam năm 2006 _ Bộ Công thương.
Báo cáo TMĐT Việt Nam năm 2007 _ Bộ Công thương.
Một số các website :
Nam/i-today
Báo Bưu điện Việt Nam (www.vnpost.dgpt.gov.vn)
Website Bộ Bưu chính viễn thông www.mpt.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7322.doc