MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Trong kỳ họp Quốc hội vào cuối năm 2004, việc sử dụng vốn đầu tư từ ngân 
sách nhà nước kém hiệu quả là vấn đề bức xúc của cử tri trong cả nước. Vấn đề này 
không mới nhưng nó tồn tại như một ung nhọt lâu ngày, khó chữa, liên tục leo thang 
khi những bằng chứng hiển nhiên của sự lãng phí trong đầu tư ngân sách hiện ra 
nhãn tiền. Công trình hầm chui Văn Thánh, dự án các nhà máy mía đường, nhà máy 
lọc dầu Dung Quất, và nhiều công trình khác nữa là những ví dụ điển hình. 
Có rất nhiều nguyên nhân của việc kém hiệu quả trong đầu tư vốn ngân sách nhà 
nước, nhưng nguyên nhân được xem là cơ bản đó là cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách 
còn thiếu chặt chẽ, chưa đủ tầm để kiểm soát luồng vốn đầu tư của ngân sách nhà 
nước. 
Những kỳ họp quy mô, những cuộc họp nội bộ được tổ chức nhằm mục đích đưa 
ra giải pháp. Nhưng có đến nay, vẫn chưa có sự thay đổi đáng kể nào, trong khi 
luồng vốn đầu tư từ ngân sách vẫn cứ tiếp tục chảy ồ ạt, và tất nhiên, đi kèm với nó 
là sự gia tăng mức độ lãng phí trong sử dụng vốn ngân sách nhà nước, lãng phí công 
sức của toàn dân, xói mòn lòng tin của dân 
Trong bối cảnh đó, việc “Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách 
nhà nước hiện nay tại Việt Nam” là vô cùng cấp thiết. 
2. Mục đích của đề tài 
Đề tài “Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện 
nay tại Việt Nam”, như tên gọi của nó, ra đời với mục đích đưa ra đề xuất đối với 
cơ chế hiện hành về quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà hiện nay tại Việt Nam. 
3. Nhiệm vụ của đề tài 
Với mục đích trên, đề tài phải hoàn thành nhiệm vụ khó khăn là đề xuất một quy 
trình mới, cách nghĩ mới trong việc quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước, qua 
đó, hiệu quả của đồng vốn ngân sách, nhờ áp dụng quy trình mới, có thể sẽ được cải 
thiện hơn. 
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng từ vốn 
ngân sách nhà nước, được giới hạn trong phạm vi các văn bản pháp quy còn hiệu 
lực tính đến tháng 09 năm 2005. 
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 
Đề tài được phát triển dựa trên nền tảng lý thuyết Kinh tế học công cộng, Tài 
chính công, lý thuyết Đầu tư và các kiến thức trong suốt quá trình học ở bậc Cao 
học của Tác giả dưới sự hướng dẫn tận tình của các giảng viên, đặc biệt là PGS-TS 
Nguyễn Ngọc Hùng. 
Dựa trên nền tảng lý luận nêu trên, đề tài tiến hành nghiên cứu theo các phương 
pháp: 
- Tư duy logic, tư duy trừu tượng. 
- Tổng hợp dữ kiện, thống kê và phân tích số liệu. 
- Mô hình hoá, sơ đồ hoá. 
- Biến đổi, chứng minh toán học. 
- Một số phương pháp khác (so sánh, mô tả, v.v ). 
6. Bố cục của Luận văn 
Gồm 3 chương. 
Chương đầu tiên (Chương 1) nêu tổng quan về đầu tư từ vốn ngân sách nhà 
nước, trong đó đề tài đưa ra khái niệm về đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước, sau đó 
là phần nhấn mạnh về mục đích của đầu tư vốn ngân sách nhà nước; phần kết thúc 
chương giúp làm rõ về vai trò của đầu tư vốn ngân sách nhà nước. 
Chương kế tiếp (Chương 2), với mục đích nêu lên thực trạng về cơ chế đầu tư từ 
vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam, đã đưa ra những vấn đề tồn tại của 
cơ chế hiện hành dưới nhiều góc độ khác nhau. Trước đó, trong phần đầu của 
chương này, là phần khái quát tình hình đầu tư vốn ngân sách nhà nước qua lăng 
kính số liệu vĩ mô. 
Chương cuối cùng (Chương 3) khép lại nhiệm vụ của đề tài: Đưa ra các giải pháp 
hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước tại Việt Nam hiện nay. 
Trong đó, các mô hình về quản lý đầu tư, quy trình thầu, quy trình thanh toán vốn 
đầu tư được đề xuất theo một triết lý mới. Đề tài được kết thúc bằng những đề xuất 
đưa đồng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước xuống các tầng sâu kinh tế nhằm mục 
tiêu hướng đến hiệu ứng lan toả, truyền dẫn trong toàn bộ nền kinh tế.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
51 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1861 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dẫn đến việc chọn các dự án đưa vào chương 
trình đầu tư quá nhiều, không phù hợp với khả năng nguồn vốn, thời gian thi công 
kéo dài, kém hiệu quả và còn nhiều rủi ro. Nhiều Bộ, ngành và địa phương không 
Nguyễn Phú Đông Hà 22
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
thực hiện chủ trương tập trung dứt điểm trong quá trình phân bổ vốn kế hoạch hàng 
năm. Tình trạng dàn trải trong đầu tư càng ngày càng thể hiện rõ nét hơn. Năm sau, 
số lượng các dự án, công trình nhiều hơn năm trước. Các dự án nhóm B không thể 
hoàn thành trong 4 năm, các dự án nhóm C không thể hoàn thành trong 2 năm. 
Theo quy định, điều kiện để các dự án được bố trí kế hoạch đầu tư năm kế 
hoạch là phải có đủ thủ tục về đầu tư và xây dựng ở thời điểm tháng 10 trước năm 
kế hoạch. Thực tế, do nhiều nguyên nhân, vẫn còn tình trạng vốn chờ dự án, gây nên 
tình trạng áp lực thiếu vốn giả tạo, nhiều lần trong năm kế hoạch phải điều hoà, điều 
chuyển vốn. Ngoài ra còn có hiện tượng quyết định khống để hợp pháp hoá ở thời 
điểm tháng 10 trước năm kế hoạch. 
Ngoài ra, do có chủ trương phân cấp, chính quyền các địa phương hoặc các 
Bộ quản lý ngành dọc có xu hướng cục bộ, chỉ chăm lo đến lợi ích của địa phương 
mình mà đôi khi tương phản với lợi ích toàn cục dẫn đến đầu tư chồng chéo, xé nát 
môi trường đầu tư 
2.2.2. Về công tác quy hoạch 
Theo các Nghị định 52/CP, 12/CP, 07/CP, quy định về công tác quy hoạch đã 
có sự phân định tương đối rõ ràng trong công tác quản lý các dự án quy hoạch tổng 
thể, quản lý quy hoạch xây dựng, quản lý quy hoạch địa phương, quản lý quy hoạch 
ngành và đầu mối quản lý việc tạm ứng, thanh toán kinh phí lập dự án quy hoạch. 
Các tiêu chuẩn về chất lượng đầu ra của công tác lập, thẩm định dự án quy hoạch đã 
được nêu: 
- Đối với công tác thẩm định các dự án quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội do 
Uỷ ban nhân dân tỉnh lập, quy hoạch ngành do Bộ ngành lập: Phù hợp với chiến 
lược phát triển kinh tế-xã hội; phân bổ các nguồn lực hợp lý; tính thống nhất quy 
hoạch vùng, quy hoạch ngành và quy hoạch xây dựng; tính khả thi của quy hoạch. 
- Đối với công tác thẩm định dự án quy hoạch xây dựng đô thị, nông thôn do 
Ủy ban nhân dân tỉnh lập: Phù hợp chiến lược phát triển kinh tế-xã hội dài hạn, phù 
hợp phân bổ dân cư; thống nhất với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, lãnh thổ 
ngành; tính khả thi và biện pháp quản lý. 
Các tiêu chuẩn trên được nêu trong Nghị định số 07/CP là một bước tiến dài 
đối với việc đảm bảo chất lượng đầu ra của công tác lập, thẩm định các dự án quy 
hoạch. 
Tuy nhiên, những tiêu chuẩn trên so với yêu cầu của công tác quy hoạch là 
chưa đủ đáp ứng đòi hỏi cả về số lượng tiêu chuẩn lẫn cơ chế vận hành để đáp ứng 
tiêu chuẩn. 
Thật vậy, tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng không chỉ đầy đủ mà điều cần thiết 
phải tạo nên cơ chế để tiêu chuẩn đặt ra có điều kiện được thực thi. Và trong thực tế, 
các quy chế đầu tư xây dựng hiện hành không có điều kiện thứ hai – và là điều kiện 
tiên quyết - để đảm bảo chất lượng đầu ra của công tác quy hoạch. 
Hệ quả là chất lượng của công tác quy hoạch hiện nay chưa cao, các qui 
hoạch chưa thực sự là cơ sở vững chắc cho việc hoạch định các kế hoạch phát triển 
Nguyễn Phú Đông Hà 23
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. Các Bộ, ngành, địa phương đều tiến 
hành xây dựng các quy hoạch; nhưng chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa qui hoạch 
ngành và qui hoạch lãnh thổ; chưa có cách tiếp cận tổng thể, toàn diện; kết quả phổ 
biến là tình trạng đầu tư còn chồng chéo, dư thừa công suất chế biến, nhưng lại thiếu 
nghiêm trọng nguồn nguyên liệu, đầu tư thiếu đồng bộ, chắp vá, đầu tư nhiều lần, 
thiết bị cũ nát, lạc hậu, gây lãng phí nguồn vốn đầu tư, hiệu quả kém. 
Nhiều quy hoạch chưa đủ cụ thể để định hướng đầu tư, không phù hợp với 
yêu cầu thực tế không bám sát thực tế phát triển kinh tế - xã hội của địa bàn và của 
từng ngành, lĩnh vực. Các công trình, dự án chưa tính đến các điều kiện và yếu tố 
cần thiết cho khai thác, sử dụng. 
Hậu quả của việc đầu tư ồ ạt vào hệ thống các nhà máy xi măng lò đứng, cũng 
như đầu tư hệ thống các nhà máy sản xuất đường từ mía...cho thấy hơn lúc nào hết 
cần phải nâng cao hơn nữa chất lương các quy hoạch và đặc biệt cần nâng cao hơn 
nữa vai trò, trách nhiệm của các chủ đầu tư, gắn quyền hạn với trách nhiệm cá nhân 
của người có thẩm quyền và trách nhiệm bồi thường thiệt hại cụ thể nếu để xảy ra 
những rủi ro do nguyên nhân chủ quan. 
Vấn đề phân loại các dự án, tổ chức thẩm định và thẩm quyền phê duyệt các 
loại quy hoạch hiện nay cũng chưa được quy định một cách cụ thể: quy hoạch ngành 
đa lĩnh vực; ngành kinh tế kỹ thuật cụ thể; các tỉnh trọng điểm và không trọng điểm; 
các khu công nghiệp tập trung. 
Chất lượng của các quy hoạch còn nhiều hạn chế, cơ sở luận, phương pháp 
lập chưa phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường; mức độ chuẩn xác thấp; vì vậy 
thường xuyên phải điều chỉnh, kém tính ổn định. 
2.2.3. Về quy trình quản lý dự án 
Quy trình quản lý dự án còn rất phức tạp, rườm rà. Theo quy chế hiện hành, 
công tác quản lý đầu tư và xây dựng được thực hiện thông qua nhiều cấp kiểm tra, 
xét duyệt, quyết định. 
Với một quy trình gồm nhiều cấp, sẽ rất dễ dẫn tới hiện tượng dàn trải về 
trách nhiệm, không có cấp nào chịu trách nhiệm toàn diện và đầy đủ. 
Hơn nữa, trong điều kiện cơ chế quản lý còn nhiều điểm chưa rõ ràng, thiếu 
tính minh bạch, thông tin không đầy đủ, việc xác định một dự án đầu tư cụ thể có 
hiệu quả kinh tế và hiệu quả về mặt xã hội là vấn đề không dễ dàng và có đầy đủ 
tính thuyết phục. 
Cần nghiên cứu để giảm đến mức tối thiểu các cấp trung gian liên quan trực 
tiếp tới việc kiểm tra, giám sát, xét duyệt, quyết định đối với các dự án đầu tư; tăng 
cường hơn nữa việc phân cấp trong lĩnh vực quản lý đầu tư và xây dựng. 
2.2.4. Về giám sát thi công và chất lượng công trình 
Chất lượng nhiều công trình rất thấp, đặc biệt đối với các dự án hoàn toàn sử 
dụng nhà thầu trong nước. Các nhà thầu cố đưa giá thầu thấp để thắng thầu rồi sau 
đó tìm mọi cách hạ giá thành bù lại phần chênh lệch. Mặt khác, các nhà thầu cũng 
Nguyễn Phú Đông Hà 24
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
như tư vấn giám sát không tuân thủ nghiêm ngặt đúng quy trình, quy phạm và thiết 
kế kỹ thuật nên công trình không đảm bảo chất lượng. 
 Trong những năm gần đây, tần suất xuất hiện sự cố công trình ngày một 
nhanh; tỷ lệ công trình phải sửa chữa ngay khi đưa vào sử dụng ngày càng tăng; sai 
phạm xảy ra ở hầu hết các công đoạn, bộ phận hình thành kết cấu công trình. Do 
thông tin ban đầu không chính xác nên giải pháp thiết kế thường không phù hợp với 
điều kiện địa hình, địa chất. Công tác giám sát rất hình thức. 
 Đặc biệt, chủ đầu tư có vai trò và quyền lực lớn, nhưng năng lực hạn chế và 
bị môi trường nhiều tiêu cực chi phối nên dễ dàng chấp nhận bàn giao các công trình 
kém chất lượng. 
 Một nguyên nhân quan trọng khác là các nhà thầu thường chấp nhận bỏ thầu 
thấp; nhưng khi triển khai thi công thì đổ lỗi cho khách quan để xin bổ sung vốn, 
hoặc thi công với mức tiết kiệm tối đa, chấp nhận chất lượng các công trình thấp. 
Vai trò giám sát thi công còn rất hạn chế, tác dụng không đáng kể. Tình trạng 
dễ dãi với các nhà thầu của các tư vấn giám sát và của các chủ đầu tư là một trong 
những nguyên nhân rất đáng quan tâm nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng của các 
công trình xây dựng. Với cơ chế giám sát như hiện nay, cơ quan tư vấn giám sát 
không độc lập được, nên gây ra tình trạng không khách quan, gây nên chất lượng 
kém và tạo điều kiện thất thoát vốn đầu tư. 
2.2.5. Về mục tiêu, hiệu quả của vốn đầu tư. 
 Mục tiêu đầu tư đã được xác định trong nhiều thời kỳ kế hoạch 5 năm và hàng 
năm là tập trung đầu tư để chuyển dịch nhanh cơ cấu đầu tư, tăng hiệu quả của nền 
kinh tế, nhanh chóng hình thành các ngành kinh tế mũi nhọn, các vùng kinh tế trọng 
điểm, tạo điều kiện cho một số sản phẩm chính của nền kinh tế có qui mô sản xuất 
lớn, sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên, kết quả của 
nhiều năm đầu tư chưa thực hiện được mục tiêu đề ra. 
Trong nông nghiệp còn nặng đầu tư vào thuỷ lợi (chiếm hơn 70% vốn đầu tư 
của ngành), chủ yếu là thuỷ lợi phục vụ cây lúa, việc xây dựng các công trình thuỷ 
lợi tưới cho các cây công nghiệp còn ít, còn coi nhẹ đầu tư thuỷ lợi cấp nước cho 
công nghiệp và dân sinh, cho nuôi trồng thuỷ sản. Vốn cho công tác nghiên cứu 
khoa học, chuyển giao công nghệ, công tác giống, khuyến nông, khuyến lâm, 
khuyến ngư thời gian đầu chưa được quan tâm thoả đáng (những năm gần đây đã 
được điều chỉnh). 
 Trong công nghiệp, đã quá chú trọng vào việc đầu tư để tăng công suất sản 
xuất mà chưa chú ý đúng mức đến đầu ra của sản phẩm, đầu tư quá mức vào một số 
ngành, làm cho một số sản phẩm cung vượt quá cầu; chưa tập trung đổi mới công 
nghệ theo hướng hiện đại. 
 Nguồn vốn ngân sách Nhà nước đã tập trung chủ yếu cho các công trình hạ 
tầng kinh tế và hạ tầng xã hội, nhằm thu hút nhiều hơn các thành phần kinh tế khác 
tham gia đầu tư. Nhưng tình trạng đua nhau xây dựng các trụ sở làm việc với qui mô 
Nguyễn Phú Đông Hà 25
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
và trang thiết bị đắt tiền vượt quá xa tiêu chuẩn cần thiết, gây lãng phí, kém hiệu 
quả, tạo sự không công bằng. Bệnh hình thức, phô trương trong các công trình trụ sở 
còn rất phổ biến, từ Trung ương đến địa phương. 
Việc đầu tư vào các công trình không có khả năng cạnh tranh như các công 
trình sản xuất thép, phân đạm, mía đường và một số sản phẩm khác trong thời gian 
vừa qua mà giá thành sản phẩm vượt xa giá thành nhập khẩu sản phẩm cùng loại là 
vấn đề rất đáng rút kinh nghiệm và nên tránh trong quá trình xem xét và triển khai 
đầu tư 
Vốn đầu tư thất thoát diễn ra từ khâu chuẩn bị dự án, thẩm định và phê duyệt 
dự án đầu tư đến khâu thực hiện đầu tư và xây dựng. Tình trạng đầu tư không theo 
quy hoạch được duyệt; khâu khảo sát nghiên cứu thiếu tính đồng bộ, không đầy đủ 
các chỉ tiêu kinh tế, khả năng tài chính, nguồn nguyên liệu, bảo vệ môi trường, điều 
tra thăm dò thị trường không kỹ; chủ trương đầu tư không đúng khi xem xét, phê 
duyệt dự án đầu tư. Việc thẩm định và phê duyệt chỉ quan tâm tới tổng mức vốn đầu 
tư, không quan tâm tới hiệu quả, điều kiện vận hành của dự án, nên nhiều dự án sau 
khi hoàn thành và đưa vào sử dụng không phát huy tác dụng, gây lãng phí rất lớn. 
Lãng phí và thất thoát và tiêu cực trong đầu tư và xây dựng đang là vấn đề 
nhức nhối, cả xã hội quan tâm; kéo dài nhiều năm với mức độ ngày càng trầm trọng 
mà đến nay vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu để hạn chế. 
Một số Bộ, ngành, địa phương khi xác định mức vốn đầu tư ít quan tâm đến 
việc tiết kiệm vốn đầu tư, sử dụng đơn giá, định mức trong tính toán cao hơn quy 
định, làm tăng khối lượng, tăng dự toán công trình. Nhiều dự án không làm đúng 
thiết kế, chủ đầu tư và bên thi công móc nối, thoả thuận khai tăng khối lượng, điều 
chỉnh dự toán để rút tiền và vật tư từ công trình. 
Ngoài ra, do năng lực quản lý điều hành kém của chủ đầu tư, các ban quản lý 
dự án, các tổ chức tư vấn cũng là nguyên nhân gây lãng phí, thất thoát vốn đầu tư. 
Qua kiểm tra một số công trình, đã phát hiện tình trạng lãng phí và thất thoát 
vốn nhà nước diễn ra phổ biến ở nhiều công trình, nhiều dự án, nhiều lĩnh vực, 
Nguyễn Phú Đông Hà 26
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
nhiều cấp; tỷ lệ lãng phí và thất thoát của những công trình có mức lãng phí và thất 
thoát thấp cũng tới 10%, cao thì lên tới 30-40%, thậm chí có công trình lên đến 
80%. Đó là chưa tính đến những công trình đầu tư kém hiệu quả, công nghệ sản 
xuất lạc hậu, sản xuất ra các sản phẩm với chất lượng kém, giá thành cao và không 
tiêu thụ được... 
Nguyên nhân chính, tổng quát của hiện tượng lãng phí và thất thoát nằm ở 
chính những cơ chế kiểm soát hiện có; vừa cồng kềnh, vừa chồng chéo nhau, làm 
cho có quá nhiều người có thẩm quyền can thiệp vào công trình nhưng không thể 
xác định được trách nhiệm chính thuộc về ai, do đó không thể quản lý được hoặc 
quản lý rất kém hiệu quả. 
Đặc biệt, cơ chế không quy định rõ chủ thực sự của các công trình. Nếu như 
có được một cơ chế đơn giản, không chồng chéo nhau, trong đó mỗi khâu chỉ có 
một người chịu trách nhiệm toàn bộ trước pháp luật, thì chắc chắn tình hình sẽ 
không tồi tệ như vậy. 
Hàng năm nguồn vốn Nhà nước chủ yếu tập trung cho đầu tư xây dựng các 
công trình mới, phần vốn cho công tác duy tu bảo dưỡng là rất thấp. Do vậy hiệu 
quả tổng hợp sử dụng 2 nguồn vốn này chưa cao, công trình không được chú ý duy 
tu bảo dưỡng thường xuyên nên mau xuống cấp, hư hỏng. Việc duy tu bảo dưỡng 
chưa theo một kế hoạch và theo quy trình bắt buộc mà mới theo kiểu hỏng đâu sửa 
đấy, việc sửa chữa chắp vá, hiệu quả thấp. 
 Đây là một tồn tại lớn trong công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, mặc 
dù các nhà quản lý đã nhận thấy cần có sự điều chỉnh cho phù hợp hơn, nhưng còn 
gặp nhiều khó khăn. Rất nhiều công trình, sau khi đưa vào sử dụng nhưng do thiếu 
vốn duy tu bảo dưỡng, đã xuống cấp rất nhanh, nên chỉ 4-5 năm đã phải sửa chữa 
nâng cấp, với số vốn chi phí cũng gần bằng khi xây mới, thậm chí phải xây dựng lại 
rất tốn kém. 
2.2.6. Vai trò, năng lực của chủ đầu tư 
Trong quá trình kiểm tra, thanh tra một số dự án lớn, đã phát hiện thấy có tình 
trạng chủ đầu tư giao cho các doanh nghiệp không đủ năng lực chuyên môn và tài 
Nguyễn Phú Đông Hà 27
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
chính thực hiện công trình. Như vậy, dẫn đến những hậu quả tai hại đối với công 
trình. Nguyên nhân là do chưa có quy định rõ ràng về trách nhiệm của chủ đầu tư; 
không có một chủ đầu tư theo đúng nghĩa. 
Trình độ cán bộ thực hiện các dự án đầu tư còn nhiều bất cập. Hiện nay có 
tình trạng phổ biến là giám đốc dự án đầu tư đồng thời lại là người trực tiếp sử dụng 
công trình sau khi hoàn thành. Ví dụ công trình xây dựng bệnh viện thường do giám 
đốc bệnh viện làm chủ dự án; dự án trường học do hiệu trưởng nhà trường làm chủ 
dự án; công trình nhà hát do giám đốc nhà hát làm chủ dự án... Nhưng do những 
người này không có kiến thức chuyên môn về quản lý đầu tư và xây dựng nên sai 
sót, đến khi bị thanh tra phát hiện, thì đổ cho các nguyên nhân khách quan như 
không có nghiệp vụ về lĩnh vực quản lý đầu tư và xây dựng, và nếu như các cơ quan 
quản lý nhà nước đã thẩm định và phê duyệt thì đổ lỗi cho các cơ quan đó... 
Một trong những nguyên nhân rất đáng quan tâm là năng lực của các chủ đầu 
tư, nhất là các chủ đầu tư sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước còn rất hạn chế 
ngay từ khâu lập dự án đến các khâu triển khai tiếp theo. Việc hình thành các PMU 
như hiện nay, thực chất là thêm một khâu trung gian không cần thiết, cần nghiên 
cứu cải tiến, nếu xét thấy không phù hợp với thực tế quản lý thì giải tán. 
Phần trên đây cho chúng ta cái nhìn tổng thể về bức tranh đầu tư từ vốn ngân 
sách từ hai khía cạnh chủ yếu: Hiệu quả vĩ mô và cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách. 
Chương 3 sẽ là chương bàn về việc cải thiện hiệu quả đầu tư từ vốn ngân sách trên 
quan điểm thiết lập một mô hình quản lý đầu tư và các điều kiện phụ trợ nhằm tái 
lập mô hình quản lý đầu tư theo triết lý mới, từ đó, cải thiện hiệu quả đầu tư của 
đồng vốn đầu tư từ ngân sách. 
Nguyễn Phú Đông Hà 28
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
Chương 3:HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐẦU TƯ 
TỪ VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM 
3.1. Xây dựng quy trình đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước 
Những tồn tại về cơ chế đầu tư được nêu trong phần 2.2 của chương trước đặt 
ra một vấn đề là phải đổi mới cơ chế đầu tư để cải thiện hiệu quả của đồng vốn đầu 
tư từ ngân sách. 
Để đổi mới cơ chế đầu tư, đầu tiên, chúng ta cần phải xây dựng quy trình về 
quản lý đầu tư thống nhất và xuyên suốt, nhằm tạo nên luồng chảy thông suốt cho 
đồng vốn ngân sách. 
Một cách nôm na, chúng ta phải xây dựng quy trình đầu tư theo ý tưởng uốn 
thẳng các khúc quanh và bịt kín các kẽ hở để đồng vốn đầu tư chảy đúng hướng, có 
trọng tâm, không dàn trải, đạt hiệu suất cao. 
Cụ thể hơn, quy trình đầu tư phải giải quyết các cặp vấn đề mâu thuẩn đang 
tồn tại như sau: 
- Ý muốn tổng thể với cách làm manh mún trong quy hoạch đầu tư. 
- Quy hoạch chiều dọc (Bộ ngành) và quy hoạch chiều ngang (địa phương). 
- Mong muốn phân cấp đầu tư với cách làm cục bộ của các ngành, địa 
phương. 
- Mong muốn tập trung với cách làm dàn trải trong bố trí vốn đầu tư. 
- Mục đích vì lợi ích tổng thể với cách làm chạy theo lợi ích cá nhân. 
- Quyền hạn với trách nhiệm của các chủ thể tham gia quy trình quản lý đầu 
tư. 
- Quy định mang tính pháp lý với cách làm tuỳ tiện. 
Để giải quyết các cặp vấn đề mâu thuẩn trên đây, quy trình quản lý đầu tư 
phải hướng đến các mục tiêu cụ thể là: 
- Bám sát với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội theo từng thời kỳ để có các 
tiêu chí đánh giá cụ thể về chất lượng của toàn bộ hoạt động đầu tư từ vốn 
ngân sách. 
- Hướng đến việc thiết lập quy hoạch tổng thể mang tính chất khung cho toàn 
bộ nền kinh tế. 
- Thiết lập hệ thống phân cấp đầu tư từ vốn ngân sách hợp lý, dung hoà lợi 
ích tổng thể với lợi ích cục bộ. Triệt tiêu yếu tố mặc cả giữa chính quyền địa 
phương với Trung ương. 
- Tạo nên hệ thống giám sát hiệu quả, phù hợp với quy trình. 
- Quy định về quyền hạn và nghĩa vụ một cách rạch ròi. 
- Chế tài nghiêm minh. 
- Tạo cơ chế cho việc thiết lập hệ thống tiêu chuẩn mở về chất lượng của tất 
cả các khâu trong quá trình đầu tư. 
Với các yêu cầu trên , ta xây dựng mô hình thực hiện quy hoạch và tiến hành 
dự án đầu tư từ vốn ngân sách như hình 3.1; hình 3.2 và hình 3.3. 
Nguyễn Phú Đông Hà 29
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
Hình (3.1) mô tả tổng quát quá trình lập quy hoạch đầu tư tổng thể và thực 
hiện quy hoạch; trong đó: 
(1) Nhà nước với vai trò đại diện quyền lợi toàn dân vạch ra mục tiêu kinh tế - xã 
hội theo từng giai đoạn (ngắn hạn, dài hạn) của mỗi thời kỳ. Mục tiêu này sẽ 
là kim chỉ nam cho hoạt động đầu tư; và việc đánh giá sự thành công hay thất 
bại của dự án đầu tư, hoặc sự thành công hay thất bại của đề án quy hoạch 
đầu tư tổng thể phải được căn cứ vào mục tiêu đã hoạch định. Cơ quan hoạch 
định mục tiêu kinh tế - xã hội từng thời kỳ là Quốc hội. Điều cần thiết là phải 
biến những mục tiêu kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô thành các chỉ tiêu cụ thể. 
Hình 3.1: Mô hình tổng quát quy trình quản lý đầu tư 
Nguyễn Phú Đông Hà 30
Các ban quản 
lý dự án 
MỤC 
TIÊU 
Từng 
thời kỳ 
NỀN 
KINH 
TẾ 
NHÀ 
NƯỚC 
Quy hoạch 
đầu tư 
Quản lý 
Thực hiện dự án 
(4)
Giám sát 
(5)
Hoạch định 
(1)
(2) 
(3) 
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
Hình 3.2: Quan hệ giữa Nhà nước với Ban quản lý dự án 
BAN QUẢN LÝ 
DỰ ÁN 
NHÀ NƯỚC 
THÀNH LẬP 
(1) 
BÁO CÁO NGHIÊN 
CỨU KHẢ THI. 
RA QUYẾT ĐỊNH 
(3) 
BÁO CÁO DỰ 
ÁN HOÀN 
THÀNH 
(4) 
NGHIỆM THU 
DỰ ÁN 
(5) 
GIẢI THỂ 
(6) 
(2) 
Hình 3.3: Quan hệ giữa Ban quản lý dự án với dự án 
Nguyễn Phú Đông Hà 31
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
DỰ ÁN NHÀ THẦU 
(3) 
(1) 
Giám sát 
(2) 
Thực hiện 
BAN QUẢN LÝ 
DỰ ÁN 
Nguyễn Phú Đông Hà 32
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
(2) Căn cứ vào mục tiêu kinh tế xã hội đã được hoạch định ở bước (1), 
cấp Nhà nước tiến hành quy hoạch đầu tư tổng thể. Mục đích của 
việc quy hoạch đầu tư tổng thể là đưa đưa nền kinh tế đi đến mục 
tiêu đã đề ra. Vì vậy, quy hoạch đầu tư tổng thể phải bám theo các 
tiêu chí đã được cụ thể hoá của mục tiêu vĩ mô. Ở bước này, chúng 
ta cần phải cụ thể hoá thêm một mức nữa đối với các tiêu chí đã nêu 
ra. Sự cụ thể hoá này cần phải được thể hiện qua tính minh bạch của 
quy hoạch tổng thể đầu tư. Như vậy, không còn những quy hoạch 
tổng thể mang tính chung chung nữa, thay vào đó là những quy 
hoạch cụ thể từng ngành, từng địa phương, có trọng điểm vì mục 
tiêu phát triển chung. Vấn đề đặt ra là phải xác định ranh giới mức 
độ cụ thể của quy hoạch tổng thể nhằm đạt được các yêu cầu: Thứ 
nhất, bảo đảm tính cụ thể để có thể triển khai các dự án đầu tư cấp 
Nhà nước theo ý đồ của quy hoạch; thứ hai, bảo đảm tính tổng thể, 
thiết lập khung cho quy hoạch đầu tư ở cấp thấp hơn (Cấp địa 
phương). Ở phần này, đề tài đề xuất là tiến hành quy hoạch tổng thể 
theo phương pháp: Cụ thể hoá thành các dự án lớn ở cấp Nhà nước, 
có vai trò nền móng trong từng lĩnh vực, từng khu vực nhằm bổ trợ, 
thu hút đầu tư của địa phương, đầu tư của dân chúng và đầu tư từ 
nước ngoài. Chính các dự án đó sẽ là khung cho quy hoạch ở cấp 
thấp hơn. 
Cơ quan Nhà nước nào sẽ trực tiếp vạch ra quy hoạch đầu tư tổng 
thể? 
(3) Căn cứ vào quy hoạch tổng thể đầu tư đã được nêu trong bước (2) 
với các yêu cầu của nó, cấp Nhà nước tiến hành chương trình hành 
động để vạch ra các dự án đầu tư phải thực hiện nhằm mục đích 
triển khai ý đồ của quy hoạch nhằm đạt được mục tiêu đã hoạch 
định. Tiếp theo, cấp Nhà nước ra quyết định thành lập các ban quản 
lý theo từng dự án. Bước thứ (3) này nhằm mục tiêu xoá bỏ cách 
Nguyễn Phú Đông Hà 33
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
làm trước đây: Một Bộ ngành có thể quản lý rất nhiều dự án, từ dự 
án nhóm A cho đến dự án nhóm C, đưa đến tình trạng dàn hàng 
ngang trong quản lý, không bảo đảm hiệu quả, không gắn với trách 
nhiệm rõ ràng. Thế thì, vấn đề đặt ra là: Ban quản lý dự án gồm 
những thành viên nào? Đề tài đề xuất các thành viên tham gia Ban 
quản lý dự án như sau: Đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đại diện 
Bộ xây dựng, đại diện Bộ ngành quản lý lĩnh vực đầu tư của dự án, 
đại diện Chính quyền địa phương (cấp tỉnh, thành phố trực thuộc 
trung ương) tại khu vực dự án tiến hành đầu tư. Như vậy, ban quản 
lý dự án gồm các thành viên quản lý ngành dọc và quản lý địa 
phương, nhờ đó, có được sự tương hợp giữa chiều dọc và chiều 
ngang của nền kinh tế; môi trường đầu tư không bị cắt vụn, giải 
quyết mâu thuẫn quy hoạch chiều dọc với quy hoạch chiều ngang. 
Ban quản lý dự án cần phải bầu ra trưởng ban, trưởng ban là người 
đại diện pháp lý, có quyền hạn và trách nhiệm cao nhất trước pháp 
luật về dự án đảm trách. 
(4) Ban quản lý dự án sau khi được thành lập ở bước thứ (3), sẽ tiến 
hành thực hiện dự án như đã giao, chịu sự quản lý trực tiếp của cấp 
Nhà nước. Ban quản lý dự án là cơ quan duy nhất có quyền thực 
hiện dự án đầu tư và cũng là cơ quan duy nhất chịu trách nhiệm 
trước pháp luật nếu có vi phạm xãy ra. Để thực hiện dự án, Ban 
quản lý dự án phải tiến hành qua nhiều khâu, được lý giải theo mô 
hình 3.3. 
(5) Trong quá trình thực hiện dự án đầu tư từ vốn ngân sách, Ban quản 
lý chịu sự giám sát của hội đồng giám sát cấp Nhà nước. Theo đó, 
hội đồng giám sát sẽ giám sát quá trình thực hiện đầu tư của ban 
quản lý. Việc giám sát sẽ thực hiện theo hệ thống tiêu chí sau: Thứ 
nhất, các tiêu chí cụ thể của mục tiêu kinh tế xã hội theo từng thời 
kỳ; thứ hai, các tiêu chí của quy hoạch tổng thể đầu tư; thứ ba, các 
Nguyễn Phú Đông Hà 34
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
tiêu chí từ báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và khả thi của ban quản 
lý đã trình. Khi thực hiện giám sát, hội đồng giám sát không được 
có hành vi cản trở tiến độ dự án hoặc cưỡng ép dự án đình chỉ thi 
công để kiểm tra. Nếu phát hiện có sai phạm, phải báo cáo ngay với 
cấp Nhà nước để có biện pháp xử lý kịp thời. Hội đồng giám sát 
phải chịu trách nhiệm trực tiếp nếu có sai sót nhưng không được 
báo cáo hoặc hạng mục công trình đã được giám định nhưng không 
đảm bảo đúng yêu cầu như trong biên bản giám định. 
Như vậy, triết lý mô hình này chính là quản lý theo từng dự án, quyền hạn và 
trách nhiệm gắn với một dự án đầu tư cụ thể, người thực hiện dự án phải là người 
tường tận nhất các thông tin về dự án mình đảm trách. Triết lý này khắc phục một 
tồn tại rất lớn của quy trình đầu tư hiện hành là không quản theo từng dự án và quản 
theo từng khâu (thẩm định, báo cáo khả thi, thi công, v.v…) dẫn đến tình trạng 
không tường tận thông tin về dự án mà mình đảm trách, dẫn đến nhũng nhiễu, tiêu 
cực, chồng chéo về quyền hạn, dàn trải về trách nhiệm, làm cho đồng vốn đầu tư 
không đạt hiệu quả cao. 
Để làm rõ mô hình 3.1, các mô hình 3.2 và mô hình 3.3 sẽ triển khai các mối 
quan hệ chưa được mô tả thật sự rõ nét giữa cấp Nhà nước với Ban quản lý dự án và 
giữa ban quản lý dự án với dự án. 
Trước tiên, mô hình 3.2 cho chúng ta thấy giữa cấp Nhà nước và Ban quản lý 
dự án có sáu mối quan hệ sau đây: 
(1) Cấp Nhà nước ra quyết định thành lập Ban quản lý dự án với chức 
năng thực hiện dự án đầu tư. 
(2) Ban quản lý dự án có trách nhiệm khảo sát, nghiên cứu, lập báo cáo 
nghiên cứu tiền khả thi và báo cáo nghiên cứu khả thi trình cho cấp 
Nhà nước để cấp Nhà nước xem xét. 
(3) Sau khi xem xét, nếu xét thấy không đạt, cấp Nhà nước yêu cầu 
tiến hành lại bước thứ 2 hoặc tiến hành bước thứ (6); nếu đạt, cấp 
Nguyễn Phú Đông Hà 35
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
Nhà nước ra quyết định thực hiện dự án để Ban quản lý dự án tiến 
hành khởi công dự án. 
(4) Sau khi cấp Nhà nước ra quyết định, Ban quản lý dự án tiến hành 
thực hiện dự án, sau khi hoàn thành, Ban quản lý dự án có trách 
nhiệm gửi báo cáo hoàn tất để cấp Nhà nước xem xét. 
(5) Khi nhận được báo cáo hoàn tất, cấp Nhà nước tiến hành nghiệm 
thu dự án. 
(6) Nếu nghiệm thu không đạt, cấp Nhà nước yêu cầu giải trình, nếu có 
sai phạm, tuỳ theo mức độ sẽ bị xử lý theo khung chế tài, và mối 
quan hệ bị đình chỉ ngay tại bước này để xử lý. Ngược tại, nếu khi 
nghiệm thu thành công, Nhà nước ra quyết định giải thể ban quản lý 
dự án. 
Với mô hình này, Ban quản lý dự án chịu trách nhiệm trước cấp Nhà nước về 
chất lượng hoàn thành dự án được giao, cấp Nhà nước sẽ chịu trách nhiệm về cơ sở 
để dự án được tiến hành và chất lượng của công tác nghiệm thu. 
Nếu mô hình 3.2 là sự cụ thể hoá mối quan hệ giữa cấp Nhà nước với ban 
quản lý dự án thì mô hình 3.3 lại là sự cụ thể hoá mối quan hệ nối tiếp giữa ban 
quản lý dự án với dự án. 
(1) Sau khi được phép thực hiện dự án, Ban quản lý dự án tiến hành gọi 
thầu để chọn ra nhà thầu có năng lực và giá cả cạnh tranh để thực 
hiện dự án. 
(2) Trong quá trình thực hiện, Ban quản lý dự án, với tư cách là tổ chức 
chịu trách nhiệm cao nhất và duy nhất của dự án, giám sát quá trình 
thực hiện dự án. 
(3) Sau khi hoàn tất, Ban quản lý dự án tiến hành nghiệm thu theo các 
tiêu chuẩn đã đặt ra ban đầu, chịu trách nhiệm với quyết định 
nghiệm thu của mình 
Với mô hình 3.1, việc thực hiện dự án sẽ được giao khoán cho Ban quản lý dự 
án, cấp Nhà nước chỉ quan tâm đến đầu ra của dự án. Do đó, về nguyên tắc, sẽ 
Nguyễn Phú Đông Hà 36
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
không có mô hình chuẩn cho mối quan hệ giữa ban quản lý dự án và dự án. Nhưng 
một cách chung nhất, có thể xem Ban quản lý dự án đóng vai trò chủ đầu tư, thực 
hiện thuê mướn nhà thầu hoặc đấu thầu, sau đó, Ban quản lý dự án sẽ giám sát hoạt 
động của nhà thầu theo những nguyên tắc riêng của mình. Và như vậy, mô hình 3.3 
biểu diễn mối quan hệ chung nhất giữa Ban quản lý dự án và dự án nhưng chỉ có 
tính tham khảo, không bắt buộc. 
Quy trình quản lý đầu tư mô tả trên đây là quy trình quản lý đầu tư cấp Trung 
ương. Còn đối với việc quản lý đầu tư của cấp địa phương cũng được tuân theo mô 
hình tương tự với các chủ thể tham gia quy trình được giảm xuống theo cấp bập 
tương ứng. 
Chẳng hạn, quy trình quản lý đầu tư của cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung 
ương có quy trình tương tự như mô hình 3.1 với những điều chỉnh như sau: 
- “Mục tiêu kinh tế” được thay bằng “mục tiêu của các dự án cấp trung ương 
đầu tư trên địa bàn”. 
- “Nhà nước” được thay bằng “Chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung 
ương”. 
- “Nền kinh tế” được thay bằng “kinh tế địa phương”. 
- ”Quy hoạch đầu tư” được thay bằng “Quy hoạch đầu tư cấp tỉnh, thành phố 
trực thuộc Trung ương”. 
- “Ban quản lý dự án” trực thuộc được lập ra từ đại diện các Sở ngành, Quận 
huyện. 
Quy trình được tiến hành theo các bước như sau: 
(1) Đầu tiên, chính quyền địa phương dựa vào mục tiêu của các dự án 
được thực hiện trên địa bàn để làm căn cứ cho việc lập quy hoạch 
đầu tư, và cũng dựa vào các mục tiêu đó để cụ thể hoá thành các 
thước đo cho tiêu chuẩn thực hiện quy hoạch. 
(2) Căn cứ vào mục tiêu trên, Chính quyền địa phương lập quy hoạch 
đầu tư tổng thể đầu tư địa phương. Quy hoạch đầu tư tổng thể phải 
bám theo các tiêu chí đã được cụ thể hoá của mục tiêu chung. 
Nguyễn Phú Đông Hà 37
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
(3) Căn cứ vào quy hoạch tổng thể đầu tư của địa phương, với các yêu 
cầu của nó, Chính quyền địa phương vạch ra các dự án đầu tư phải 
thực hiện nhằm mục đích triển khai ý đồ của quy hoạch nhằm đạt 
được mục tiêu chung. Sau đó, thành lập các ban quản lý theo từng 
dự án. 
(4) Ban quản lý dự án sẽ tiến hành thực hiện dự án như đã giao, chịu sự 
quản lý trực tiếp của chính quyền cấp địa phương. Ban quản lý dự 
án là cơ quan duy nhất có quyền thực hiện dự án đầu tư và cũng là 
cơ quan duy nhất chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu có vi phạm 
xãy ra. 
(5) Ban quản lý chịu sự giám sát của hội đồng giám sát cấp Chính 
quyền địa phương. Theo đó, hội đồng giám sát sẽ giám sát quá trình 
thực hiện đầu tư của ban quản lý dự án. 
Từ đây, khi chúng ta chỉ tập trung vào quy trinh quản lý đầu tư cấp Trung 
ương và xem như quy trình quản lý cấp địa phương sẽ được giải quyết tương tự. Và 
đề tài này cũng giới hạn phạm vi trong việc không đề cập đến những đặc thù của địa 
phương so với Trung ương. 
3.2. Quy trình thanh toán vốn đầu tư 
Một vấn đề nữa là thanh toán vốn đầu tư, hiện nay, việc thanh toán vốn đầu tư 
được tiến hành theo quy trình gồm rất nhiều bước theo phương thức thanh toán theo 
tiến độ thực hiện. Mỗi lần muốn thanh toán khối lượng, Chủ đầu tư phải gửi công 
văn đến cơ quan tài chính cùng cấp xin thanh toán khối lượng kèm theo đầy đủ hồ 
sơ, chứng từ liên quan. Cơ quan Tài chính thẩm tra hồ sơ và thực địa tại địa bàn,nếu 
đồng ý sẽ cấp bằng chuyển khoản thông qua Kho bạc nhà nước cùng cấp. Kho bạc 
nhà nước, sau khi thẩm tra toàn bộ hồ sơ cấp phát, tiến hành cấp cho đơn vị. 
Tiến trình thanh toán vốn đầu tư phải trải qua 2 lần thẩm tra, chưa kể quá 
trình thẩm tra, thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi, thẩm định thiết kế xây dựng 
(nếu có), thẩm tra trước khi ra quyết định đầu tư. 
Nguyễn Phú Đông Hà 38
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
Mặc dù vậy, hiệu quả trong việc thẩm tra, cấp phát vốn đầu tư không cao, 
luôn dẫn đến hai trạng thái tiêu cực: Một là cơ quan tài chính sau khi thẩm tra 
thường cắt bớt khối lượng thực tế phát sinh của nhà thầu đã thực hiện để bảo đảm 
tính an toàn của việc cấp phát ngân sách; hai là cơ quan tài chính cấp vượt khối 
lượng thực tế phát sinh do không đủ năng lực chuyên môn để thẩm tra khối lượng 
khai khống của đơn vị (Cũng không loại trừ có các hành vi tiêu cực) 
Như vậy, với quy trình thanh toán vốn đầu tư có nhiều bước lặp đi lặp lại sẽ 
làm chậm trễ tiến độ thực hiện đầu tư, thiếu hiệu quả kể cả về chất lượng khâu thanh 
toán lẫn chất lượng thực hiện dự án. Do đó, cần phải rút ngắn thời gian bằng một 
quy trình đơn giản hơn và mang lại hiệu quả cao hơn. 
Với triết lý của mô hình 3.1, thay vì để cho các cơ quan chức năng quản lý 
dàn trải theo từng khâu, đưa ra quy trình quản lý theo từng dự án. Quy trình thanh 
toán sẽ bám theo quy trình tổng thể 3.1 nhằm mục đích đơn giản hoá và hướng đến 
hiệu quả cao hơn. 
Hình 3.4 sau đây mô tả về quy trình thanh toán vốn đầu tư theo nguyên tắc 
sau: 
- Phù hợp với mô hình 3.1. 
- Bảo đảm tính an toàn của ngân sách. 
- Đảm bảo tính chủ động cho chủ đầu tư. 
- Đảm bảo tính linh hoạt của vốn đầu tư từ ngân sách 
Trình tự các bước thanh toán như sau: 
(1) Cấp Nhà nước giao dự án cho Ban quản lý dự án thực hiện kèm 
theo kế hoạch vốn thực hiện dự án. 
(2) Ban quản lý dự án sau khi nghiên cứu, khảo sát, lập báo cáo nghiên 
cứu tiền khả thi và báo cáo nghiên cứu khả thi trình cấp Nhà nước, 
kèm theo bảng ngân sách dự trù. 
(3) Căn cứ vào kết quả thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi, cấp Nhà 
nước ra quyết định thực hiện dự án và vốn đầu tư dự trù; đồng thời, 
Nguyễn Phú Đông Hà 39
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
cấp Nhà nước giao hạn mức ngân sách cho Kho bạc hoặc hạn mức 
tín dụng cho Quỹ Hỗ trợ phát triển về cấp vốn cho dự án. 
BAN 
QUẢN LÝ 
DỰ ÁN 
NHÀ 
NƯỚC 
Thực 
hiện
01
02
03
04
06
05
Hình 3.4: Mô hình thanh toán vốn đầu tư 
KHO BẠC, 
Quỹ HTPT
DỰ ÁN 
Nguyễn Phú Đông Hà 40
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
(4) Trong quá trình thực hiện dự án được giao, Ban quản lý dự án căn 
cứ khối lượng thực hiện, yêu cầu Kho bạc nhà nước hoặc Quỹ Hỗ 
trợ phát triển thanh toán khối lượng cho nhà thầu theo tiến độ thực 
hiện và các quy định trong hợp đồng giao thầu. 
(5) Dựa trên yêu cầu thanh toán của đơn vị, Kho bạc nhà nước hoặc 
Quỹ Hỗ trợ phát triển thẩm tra khối lượng thực hiện và hợp đồng. 
(6) Sau khi thẩm tra, Kho bạc nhà nước hoặc Quỹ Hỗ trợ phát triển cấp 
thanh toán vốn đầu tư theo yêu cầu thực tế. 
Quy trình thanh toán trên bảo đảm bốn nguyên tắc đã nêu trên.Thứ nhất, có 
thể kết hợp với mô hình tổng thể 3.1 thông qua việc cố định các mối quan hệ sẵn có; 
thứ hai, việc cấp phát qua tổ chức tín dụng của Nhà nước giúp đồng vốn ngân sách 
được sử dụng an toàn; thứ ba, bất cứ khi nào khối lượng thực tế phát sinh đủ điều 
kiện thanh toán cho nhà thầu, chủ đầu tư có thể đề nghị Kho bạc nhà nước hoặc Quỹ 
hỗ trợ phát triển thanh toán khối lượng theo hợp đồng; thứ tư, do cấp vốn trọn gói 
dưới hình thức hạn mức ngân sách hoặc hạn mức tín dụng, do đó, đồng vốn ngân 
sách có thể điều chuyển linh hoạt, điều hoà giữa nơi thừa vốn với nơi thiếu vốn, 
hoặc có thể giao vốn khi chưa có vốn thực tế (thông qua hình thức hạn mức tín 
dụng). 
Mô hình 3.1 kết hợp với các quy trình 3.2, quy trình 3.3 và quy trình thanh 
toán vốn đầu tư 3.4 cho chúng ta một bức tranh tổng thể về quy trình quản lý đầu tư 
từ vốn ngân sách và đã giải quyết các mâu thuẫn cơ bản của quy chế đầu tư hiện 
hành. 
3.3. Khắc phục các rào cản trong việc thực hiện quyền hạn và trách 
nhiệm 
Quy trình trên không thể vận hành thông suốt nếu các chủ thể tham gia quy 
trình không thực hiện quyền hạn và gánh chịu trách nhiệm một cách đầy đủ, rõ ràng. 
Đó là các rào cản quan trọng mà quy chế đầu tư hiện hành không thể vượt qua. Các 
rào cản được mô tả như trong hình 3.5 gồm ba loại rào cản chủ yếu sau đây: 
Nguyễn Phú Đông Hà 41
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
- Thứ nhất, rào cản về năng lực pháp lý: Các chủ thể tham qua quy trình đầu 
tư không có năng lực pháp lý thích hợp để thực thi đầy đủ quyền hạn của 
mình cũng như không có chế tài rõ ràng để gánh trách nhiệm một cách đầy 
đủ nhất. 
- Thứ hai, rào cản về năng lực chuyên môn: Nếu rào cản năng lực pháp lý đã 
vượt qua (đã được phép làm) nhưng nếu năng lực chuyên môn kém sẽ dẫn 
đến các chủ thể tham gia không thể thực thi quyền hạn và nghĩa vụ của 
mình (được làm mà không thể làm). 
- Thứ ba, rào cản về mối quan hệ cá nhân: Sau khi vượt qua hai rào cản trên, 
các chủ thể lại vướng phải vấn đề mối quan hệ cá nhân, nể nang lẫn nhau. 
Do đó, không thể thẳng tay thực hiện quyền hạn của mình. dẫn đến tiêu cực, 
che đậy các khuyết tật của quá trình thực hiện đầu tư. Đây là vấn đề vô cùng 
nan giải (mối quan hệ cá nhân là vấn đề xã hội). 
Hình 3.5: Các rào cản đối với việc thực thi quyền hạn và trách nhiệm của các 
chủ thể tham gia quy trình đầu tư 
Chủ thể tham 
gia quy trình 
đầu tư 
Quyền hạn & 
Trách nhiệm 
Pháp 
lý 
Chuyên 
môn 
Quan 
hệ 
Nguyễn Phú Đông Hà 42
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
Nếu một trong ba rào cản trên không vượt qua được, quyền hạn và trách 
nhiệm không được các chủ thể tham gia thực thi một cách đầy đủ. Khi đó, quy trình 
đầu tư chỉ có thể tồn tại trên giấy; và như vậy, quy chế đầu tư bị phá sản, hoạt động 
đầu tư từ vốn ngân sách không đi đúng hướng. 
Ba loại rào cản trên được xếp theo thứ tự ưu tiên như hình 3.4, theo đó, rào 
cản pháp lý được đặt lên đầu tiên, vì đó là điều kiện tiên quyết, nếu quyền hạn 
không được công nhận và trách nhiệm không bị ràng buộc về mặt pháp lý thì không 
có cơ hội cho các chủ thể tham gia tiếp cận với các rào cản khác. Tương tự như vậy, 
nếu rào cản pháp lý đã vượt qua, chủ thể tham gia phải tự xét xem bản thân đã đủ 
năng lực chuyên môn để thực thi quyền hạn và gành lấy trách nhiệm pháp lý trao 
phó hay chưa (?) trước khi nghĩ đến tình cảm mối quan hệ cá nhân chi phối. Đến 
lượt nó, rào cản về mối quan hệ cá nhân, nể nang tình cảm lẫn nhau rất khó khắc 
phục xét về phương diện pháp lý. 
Để có giải pháp giúp các chủ thể vượt qua các rào cản trên, cần phải xác định 
rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng chủ thể tham gia như sau: 
Cấp Nhà nước: 
- Quyền hạn: Hoạch định đầu tư; thành lập các ban quản lý dự án; thẩm định 
báo cáo nghiên cứu khả thi; ra quyết định đầu tư; nghiệm thu công trình; 
giám sát các việc thực hiện đầu tư. 
- Trách nhiệm: Chịu trách nhiệm trước Pháp luật về quy hoạch đầu tư tổng 
thể; về việc thành lập các ban quản lý dự án; về tính đúng đắn của quyết 
định tiến hành dự án đầu tư trên cơ sở báo cáo nghiên cứu khả thi của ban 
quản lý dự án; về việc phát hiện sai phạm trong quá trình thực hiện đầu tư 
của các ban quản lý dự án. 
Các Ban quản lý dự án: 
- Quyền hạn: Sau khi có quyết định thực hiện dự án của Nhà nước, Ban quản 
lý dự án có toàn quyền trong việc thực hiện dự án từ đấu thầu cho đến thanh 
toán vốn đầu tư, v.v… . 
Nguyễn Phú Đông Hà 43
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
- Trách nhiệm: Chịu trách nhiệm trước Nhà nước, trước pháp luật về chất 
lượng của việc thực hiện dự án đầu tư. 
Hội đồng giám sát của Nhà nước: 
- Quyền hạn: Có quyền giám sát Quá trình thực hiện đầu tư của Ban quản lý 
dự án; kiến nghị ý kiến lên Nhà nước và đề xuất phương án xử lý sai phạm 
nếu có trong khung chế tài theo quy định. 
- Trách nhiệm: Có trách nhiệm kịp thời phát hiện sai phạm; thực hiện giám 
sát theo phương thức đã quy định. 
Để hỗ trợ cho các chủ thể thực hiện các quyền hạn và gánh lấy trách nhiệm 
của mình, về mặt pháp lý, phải đưa ra các cơ chế, tạo điều kiện để các chủ thể thực 
hiện quyền hạn và có các biện pháp chế tài nghiêm minh ràng buộc trách nhiệm 
tương ứng với quyền hạn. 
Theo đó, với quy trình như hình 3.1, các chủ thể tham gia quy trình được phân 
định trách nhiệm và quyền hạn. Vấn đề còn lại, quy chế đầu tư phải có quy định chế 
tài rõ ràng, chặt chẽ để các chủ thể tham gia gánh lấy trách nhiệm một cách đầy đủ 
nhất. Nhờ đó, vượt qua rào cản thứ nhất: Pháp lý. 
Khi về mặt pháp lý, quyền lợi và trách nhiệm được quy định rạch ròi, các cá 
nhân thực hiện phải có kiến thức chuyên môn và kỹ năng để cụ thể hoá quyền hạn 
và trách nhiệm thành hành động, tuy nhiên, với yêu cầu của thời đại, quy chế phải 
tạo cơ chế để bồi dưỡng kiến thức chuyên môn trong dài hạn và thuê mướn chuyên 
gia trong ngắn hạn, nhân sự trong bộ máy thực hiện quy trình chỉ đóng vai trò điều 
phối viên. 
Rào cản về tình cảm có thể được giảm thiểu nhờ tính rõ ràng trong quy định 
về quyền hạn cũng như chế tài trách nhiệm. 
3.4. Tăng cường độ sâu cho vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước 
Một vấn đề nữa, việc thiết lập quy trình quản lý đầu tư nhằm cải thiện hiệu quả 
của đồng vốn đầu tư từ ngân sách. Nhưng khi xét trên bình diện tổng thể, vốn đầu tư 
cần phải tạo động lực, kích thích đầu tư toàn xã hội, tạo hiệu ứng truyền dẫn lên 
Nguyễn Phú Đông Hà 44
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
toàn bộ nền kinh tế. Khi đồng vốn đầu tư đảm bảo được yêu cầu này được gọi là vốn 
đầu tư có độ sâu kinh tế. 
Một đồng vốn được gọi là có độ sâu đầu tư khi đồng vốn đó được đầu tư vào 
dự án có độ sâu. (Xem hộp 3.1) 
Hộp 3.1: Độ sâu của dự án đầu tư. 
Khi đồng vốn có độ sâu, tác động lên nền kinh tế sẽ có sự khác biệt lớn so 
với đồng vốn đầu tư thông thường như mô tả trong hình 3.6 và 3.7. 
Như hình 3.6 và 3.7 mô tả, vốn đầu tư nếu được đầu tư có độ sâu, sức 
truyền dẫn của nó sẽ rất mạnh 
 Đầu ra của dự án A tác động đến đầu vào của ngành kinh tế 
khác và đầu ra của dự án B không tồn tại tác động này; hoặc: 
 Đầu ra của cả 2 dự án đều tồn tại tác động lên ngành kinh tế 
khác nhưng ngành kinh tế chịu tác động bởi dự án A có chiều 
sâu hơn ngành kinh tế chịu tác động bởi dự án B. 
 Đầu ra của dự án A tác động đến đầu vào của dự án B; hoặc: 
. Dự án đầu tư A được gọi là có độ sâu kinh tế sâu hơn dự án 
đầu tư B nếu: 
. Đầu ra của dự án A được gọi là tác động đến đầu vào của dự 
án B nếu đầu ra của dự án A được dụng làm đầu vào chủ yếu cho dự 
án B (Tài sản cố định; nguyên, nhiên vật liệu chủ yếu; v.v…). 
. Một dự án đầu tư được gọi là có độ sâu khi đầu ra (sản phẩm) 
của dự án đó được dùng làm đầu vào cho dự án đầu tư khác. 
. Độ sâu của một hoạt động đầu tư bất kỳ là tác động của sản 
phẩm dự án đầu tư (đầu ra) lên đầu vào của ngành khác, lĩnh vực khác 
trong nền kinh tế. 
Nguyễn Phú Đông Hà 45
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
Hình 3.6: Đầu tư thông thường 
Hình 3.7: Đầu tư có độ sâu: 
Tài trợ 
TSCĐ 
Sản xuất Thành phẩm 
TSLĐ 
Doanh số 
Hiệu quả 
Tài trợ 
Thiết bị 
Sản xuất Thành phẩm Doanh số 
Hiệu quả 
Nhân công 
TSCĐ 
Tài trợ 
TSLĐ 
Hiệu quả 
Sản xuất Thành phẩm Doanh số 
Nguyễn Phú Đông Hà 46
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
Định lượng độ sâu kinh tế: 
Theo quan hệ thuận giữa vốn đầu tư và tăng trưởng kinh tế như đã trình 
bày xuyên suốt đề tài: 
 Tăng trưởng = f(Vốn đầu tư) 
Với độ sâu kinh tế khác nhau, tác động của vốn đầu tư đến tăng trưởng 
kinh tế khác nhau, theo đó, vốn đầu tư càng sâu, gây hiệu ứng lên tăng trưởng 
càng lớn; hay nói cách khác hàm số của tăng trưởng theo đầu tư sẽ có thêm 
tham số về độ sâu của vốn đầu tư: 
 Tăng trưởng = f1(d, Vốn đầu tư) 
Với d: độ sâu của vốn đầu tư. 
Hàm số tăng trưởng theo đầu tư được thể hiện dưới nhiều hình thức khác 
nhau, tùy theo quan điểm của từng tác giả. Tuy nhiên, hàm số với hệ số ICOR 
được sử dụng tương đối rộng rãi cho việc đo lường hiệu suất đầu tư tác động 
đến tăng trưởng kinh tế; được biểu diễn theo công thức: 
 Tăng trưởng = (1/k) x Vốn đầu tư. 
Với k: hệ số ICOR. 
Hệ số ICOR thể hiện mối quan hệ giữa vốn đầu tư và tăng trưởng kinh tế. 
Nó cho biết đầu tư bao nhiêu đồng thì tạo ra một đồng tăng trưởng. Hay: 
ICOR = Vốn đầu tư / Tăng trưởng 
Nếu hệ số ICOR càng lớn, hiệu suất đầu tư càng thấp và ngược lại, hệ số 
ICOR càng bé, hiệu suất đầu tư càng cao. 
Ta xét ví dụ tổng quát sau: 
Có 2 dự án, dự án A và dự án B. Trong đó: 
- Dự án A nhận được số vốn đầu tư là I. 
- Tạo nên giá trị gia tăng là h%. 
- Đầu ra của dự án A được chiếm d% trong tổng giá trị đầu vào của dự án 
B. 
Nếu không xét đến tham số d%, hàm số tăng trưởng theo đầu tư như sau: 
 Tăng trưởng = h% x I 
Nói cách khác, h% = 1/k. 
Nếu dự án A được đầu tư theo chiều sâu, hiệu quả của dự án B có được từ 
tác động chiều sâu của dự án A sẽ là: 
h% x d% x I. 
Khi đó, hiệu suất tổng cộng của nền kinh tế có được do sự tác động của 
vốn đầu tư vào dự án A sẽ là: 
h%(1+d%)I. 
Do h% = 1/k nên: 
Hiệu suất tổng cộng = Tăng trưởng = [(1+d%)/k]I. 
Nếu giả định, nền kinh tế đầu tư sản xuất theo chiều sâu, hàm số tăng 
trưởng theo đầu tư sẽ có dạng: 
Tăng trưởng = [(1+d%)/k)] x Đầu tư. 
Vì vậy, kinh tế tăng trưởng bằng ba phương pháp như sau: 
Phương pháp 1: Tăng vốn đầu tư (tăng I). 
Phương pháp 2: Tăng hiệu suất đầu tư (tăng 1/k hoặc giảm k). 
Nguyễn Phú Đông Hà 47
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
Phương pháp 3: Tăng độ sâu kinh tế của vốn đầu tư (tăng d) 
Theo các phương pháp trên, ngoài các biện pháp tăng cường vốn đầu tư (giải 
pháp về lượng), tăng hiệu quả vốn đầu tư (giải pháp về chất); biện pháp tăng cường 
độ sâu kinh tế là giải pháp truyền dẫn hiệu quả của đồng vốn đầu tư sang các lĩnh 
vực khác, các dự án khác. 
Do quy trình đầu tư được thiết kế để áp dụng chung cho hoạt động đầu tư từ 
vốn ngân sách, bất kể độ sâu kinh tế như thế nào. Do đó, lời giải bài toán tăng độ 
sâu kinh tế không nằm ở cấu trúc quy trình quản lý đầu tư mà nằm ở yếu tố nội tại 
của quy trình như: Việc xác định mục tiêu chung cho toàn bộ nền kinh tế, việc xây 
dựng quy hoạch đầu tư tổng thể, việc xác định các dự án, thẩm định dự án, v.v… . 
Vì vậy, để đưa đồng vốn đầu tư xuống các tầng sâu kinh tế thì không cách gì 
khác hơn là khi thiết lập các điểm mốc của quy trình đầu tư ta phải chú ý đến nó. 
Theo đó, khi xác lập sau khi xác lập mục tiêu kinh tế, chúng ta phải xây dựng quy 
hoạch đầu tư theo hướng nhắm đến các ngành, các lĩnh vực tạo động lực kích thích 
đầu tư toàn xã hội để hướng đến hoàn thành mục tiêu đề ra. 
Nói cách khác, Mục tiêu kinh tế đề ra không thể được thực hiện toàn bộ bởi 
các dự án đầu tư theo quy hoạch đầu tư. Thay vào đó, các dự án đầu tư là những 
điểm nhấn tạo động lực, kích thích đầu tư nhằm tiến đến hoàn thành mục tiêu đặt ra. 
Tác động tích cực của cách làm trên sẽ giúp đạt được các mục tiêu rộng hơn, 
xa hơn trong phạm vi nguồn lực ngân sách là hữu hạn. 
Nguyễn Phú Đông Hà 48
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
KẾT LUẬN. 
 Trải qua ba chương, đề tài đã hoàn thành nhiệm vụ đặt ra. Trong đó, mục 
đích và vai trò của việc đầu tư từ ngân sách được nêu bật lên; và được xem xét qua 
lăng kính quy chế đầu tư từ ngân sách hiện hành kết hợp với nét nhìn tổng quát về 
hiệu quả đầu tư; Từ đó, đưa ra những đề xuất góp hoàn thiện cơ chế đầu tư từ ngân 
sách hiện nay tại Việt Nam; và kết thúc đề tài là sự phân tích định lượng về độ sâu 
kinh tế trong đầu tư ngân sách. 
Thành quả của đề tài được tóm lược như sau: 
- Nêu được khái niệm về đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước. 
- Xác định mục đích và vai trò của đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước. 
- Định lượng hiệu quả đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt 
Nam. 
- Đánh giá mặt tích cực và tiêu cực của quy chế đầu tư và xây dựng từ vốn 
ngân sách nhà nước hiện hành. 
- Đề xuất quy trình quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước. 
- Đề xuất các quy trình phụ trợ (quy trình thầu, quy trình thanh toán vốn đầu 
tư, v.v…). 
- Nêu và định lượng độ sâu kinh tế của vốn đầu tư từ ngân sách. 
Với những thành quả trên, đề tài mong muốn nhân được sự đồng tình và góp 
ý của quý Thầy, quý bạn hữu, quý đồng nghiệp và những người có quan tâm. 
Trân trọng! 
Nguyễn Phú Đông Hà 49
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Kim Thản (2005), Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa Sài 
Gòn, Tp Hồ Chí Minh. 
2. Luật Ngân sách nhà nước ngày 16 tháng 12 năm 2002 của Quốc hội 
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 
3. Nghị định số 07/2003/NĐ-CP ngày 30 tháng 01 năm 2003 của Chính 
phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về sửa đổi, bổ sung 
một số điều của quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm 
theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 07 năm 1999 và 
Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 05 tháng 05 năm 2000 của Chính 
phủ. 
4. Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 05 tháng 05 năm 2000 của Chính 
phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về sửa đổi bổ sung 
một số điều của quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm 
theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 07 năm 1999của 
Chính phủ. 
5. Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 07 năm 1999 của Chính 
phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về ban hành quy chế 
quản lý đầu tư và xây dựng. 
6. Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 06 tháng 06 năm 2003 của Chính 
phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về quy định chi tiết 
và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước. 
7. Thông tư số 44/2003/TT-BTC ngày 15 tháng 05 năm2003 của Bộ 
Tài chính nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về hướng dẫn 
quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư 
và xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước. 
8. Thông tư số 59/2003/TT-BTC ngày 23 tháng 06 năm 2003 của Bộ 
Tài chính nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về hướng dẫn 
Nguyễn Phú Đông Hà 50
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam 
thực hiện Nghị định số 60/2003/NĐCP ngày 06 tháng 06 năm 2003 
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân 
sách nhà nước. 
9. Gareth D.Myles (2003), Public Economics, McGraw-hill/Irwin, 
USA. 
10. Harvey S. Rosen (2001), Public Finance, McGraw-hill/Irwin, USA. 
11. Robert A. Haugen (2000), Modern Investment Theory, Prentice Hall, 
USA. 
12. International Monetary Fund (2005), Vietnam: Article IV 
Consultaion-Staff Report; Public Information Notice on the 
Executive Board Discussion; and Statement by the Executive 
Director for Vietnam,  
13. International Monetary Fund (2005), Vietnam: Statement by the Hon. 
Le Duc Thuy, Governer of the Fund for Vietnam, at the Joint Annual 
Disussion,  
Nguyễn Phú Đông Hà 51
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
43376.pdf