Trợ cấp BHXH được kế toán tiền lương thực hiện đầy đủ chính xác kịp thời.
Kế toán tiền lương luôn hướng dẫn các bộ phận, các phân xưỏng thực hiện tốt công tác thông tin để tính tiền lương, BHXH như: Bảng chấm công, bảng kê khối lương công việc, bảng thanh toán lương sản phẩm Việc tính toán trả lương đã phản ánh đúng kết quả lao động của từng người, đồng thời đã điều hoà thu nhập giữa các cán bộ công nhân viên nên đac thực hiện thanh toán lương và các khoản trích theo lương cho người lao động kịp thời, đúng kỳ hạn. Các hình thức chứng từ sổ sách sử dụng đúng mẫu của Bộ tài chính ban hành. Phản ánh tương đối dõ dàng các khoản mục và các nghiệp vụ phát sinh, tổ chức tốt công tác ghi chép ban đầu, tổ chức xử lý và ghi sổ kế toán các nghiệp vụ liên quan đến tiền lương và các khoản trích theo lương của người lao động. Báo cáo và phân tích ghi chép tiền lương, BHXH và thu nhập khác của người lao động đã góp phần quản lý, tiết kiệm chi phí lao động thúc đẩy sự phát triển của công ty.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác này còn có một số
36 trang |
Chia sẻ: DUng Lona | Lượt xem: 1415 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khoản trích theo lương tại Công ty Than Nội Địa.
Chương 1: Cơ sở lý luận của hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương
Khái niệm và các nhân tố ảnh hưởng tới tiền lương của doanh nghiệp.
Khái niệm.
Tiền lương:
Theo quan niệm của Mác: Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động hay là giá cả của sức lao động.
Theo quan niệm của các nhà kinh tế học hiện đại: tiền lương là giá cả của lao động, được xác định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường lao động.
ở Việt Nam, trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tiền lương được hiểu là một bộ phận thu nhập quốc dân dùng để bù đắp hao phí lao động tất yếu, do Nhà nước phân phối cho công nhân viên chức bằng hình thức tiền tệ, phù hợp với quy luật phân phối theo lao động. Hiện nay theo Điều 55 – Bộ Luật lao động Việt Nam quy định tiền lương của người lao động là do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Mức lương của người lao động không thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định (là 210.000đ/ tháng được thực hiện từ ngày 1/1/2001).
Trong điều kiện của nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần hiện nay, bản chất của tiền lương được nhìn nhận từ nhiều khía cạnh của quá trình tái sản xuất. Sức lao động là yếu tố quyết định trong các yếu tố của quả trình sản xuất, nên tiền lương là vốn đầu tư ứng trước quan trọng nhất, là sự đầu tư cho phát triển và là một phạm trù của sản xuất. Nó yêu cầu phải tính đúng, tính đủ trước khi thực hiện quá trình lao động và sản xuất. Sức lao động là hàng hoá nên tiền lương là phạm trù của trao đổi, nó đòi hỏi phải ngang giá với cả các tư liệu sinh hoạt cần thiết nhằm tái sản xuất sức lao động. Sức lao động là yếu tố của quá trình sản xuất, cần phải dựa trên hao phí lao động và hiệu quả lao động của người lao động để trả cho họ, do đó tiền lương là phạm trù của phân phối. Sức lao động cần được tái sản xuất thông qua việc sử dụng các tư liệu sinh hoạt cần thiết, thông qua quỹ tiêu dùng cá nhân, do đó tiền lương là một phạm trù của tiêu dùng. Như vậy, tiền lương là một phạm trù kinh tế tổng hợp quan trọng của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay. Về bản chất của tiền lương có thể nói đó là một đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ, có tác dụng to lớn đến sản xuất, đời sống và các mặt khác của kinh tế xã hội.
Thu nhập của người lao động, ngoài tiền lương lao động còn được hưởng một số khoản khác như Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế và các phúc lợi xã hội khác.
Bảo hiểm xã hội( BHXH):
Quỹ BHXH được hình thành do việc trích lập và tính vào chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo quy định của Nhà nước. Theo quy định hiện hành hàng tháng các đơn vị tiến hành trích lập quỹ BHXH theo tỉ lệ quy định trên tổng số tiền lương thực tế phải trả cho công nhân viên trong tháng và phân bổ cho các đối tượng liên quan đến việc sử dụng lao động.
Người sử dụng lao động phải trích một tỉ lệ nhất định trên tổng số quỹ lương và tính vào phần chi phí kinh doanh, còn một tỉ lệ do người lao động trực tiếp đóng góp và được khấu trừ vào thu nhập trực tiếp của họ.
Quỹ BHXH được thiết lập nhằm tạo ra nguồn tài trợ cho công nhân viên trong trường hợp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, nghỉ hưu. Theo cơ chế hiện hành nguồn quỹ BHXH do cơ quan chuyên trách cấp trên quản lý và chi trả các trường hợp nghỉ hưu, mất sức, tai nạn, tử tuất. ở tại doanh nghiệp được phân cấp trực tiếp chi trả như các trường hợp ốm đau, thai sản và tổng hợp chi tiêu để quyết toán với cơ quan chuyên trách.
Việc hình thành nên quỹ BHXH còn do một số nguồn khác như các doanh nghiệp làm ăn phát đạt ủng hộ theo các chương trình xã hội, thành lập quỹ đền ơn đáp nghĩa. Việc trích quỹ BHXH là một việc làm cần thiết và nhân đạo, đây là một trong những nội dung quan trọng của chính sách xã hội mà Nhà nước đảm bảo trước pháp luật cho mọi người dân nói chung và cho mỗi ngưòi lao động nói riêng.
Bảo hiểm y tế(BHYT):
BHYT theo quy định của chế độ tài chính hiện hành gồm 2 nguồn: Một phần do doanh nghiệp gánh chịu được tính trích vào chi phí sản xuất kinh doanh hàng tháng theo tỉ lệ quy định trên tổng số tiền lương thực tế phải trả công nhân viên trong kỳ, một phần do người lao động gánh chịu được trừ vào lương của công nhân viên. BHYT được nộp lên cơ quan chuyên môn, chuyên trách(dưới hình thức mua BHYT) để bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ công nhân viên.
BHYT thực chất là sự trợ cấp về y tế cho người lao động tham gia BHYT nhằm giúp họ một phần nào tiền khám chữa bệnh, tiền viện phí, thuốc thang. Mục đích của BHYT là lập một mạng lưới bảo vệ sức khoẻ cho toàn cộng đồng không kể địa vị xã hội, thu nhập cao hay thấp.
BHYT hiện nay đang trên con đường thử nghiệm, quỹ do cơ quan BHYT thống nhất quản lý dùng để trợ cấp cho người lao động thông qua mạng lưới y tế. Vì vậy mà các doanh nghiệp phải nộp toàn bộ cho cơ quan BHYT. Hiện nay việc chi trả BHYT là việc làm hết sức cần thiết, hạch toán đúng đủ bảo đảm chế độ cho người lao động đồng thời giúp các nhà quản lý nhìn nhận đúng đắn hướng đi và mức độ phát triển quỹ BHYT để cho người dân thực sự tin tưởng vào sự hoàn thiện, tính nhân đạo của một chính sách xã hội.
Với quy chế mới của Bộ LĐTBXH quy định hiện nay việc BHYT chuyển sang sát nhập với BHXH về cơ bản không có gì thay đổi, song để đảm bảo quyền lợi của mọi người cũng như thể hiện sự quan tâm của nhà nước đang hướng tới tất cả người dân đều có thể mua bảo hiểm xã hội.
Kinh phí công đoàn( KPCĐ):
Công đoàn là một tổ chức đoàn thể đại diện cho nhười lao động nói lên tiếng nói chung của người lao động đứng ra bảo vệ quyền lợi của mình đồng thời công đoàn cũng là người trực tiếp hướng dẫn, điều khiển thái độ của người lao động đối với công việc, với người sử dụng lao động.
KPCĐ được hình thành từ việc trích lập và tính vào chi phí sản xuất kinh doanh hàng tháng của đơn vị theo tỷ lệ nhất định tính trên tổng số tiền lương thực tế phải trả cho công nhân viên trong kỳ. Số KPCĐ được phân cấp quản lý và chi tiêu theo chế độ, một phần nộp lên cơ quan quản lý công đoàn cấp trên và một phần để lại doanh nghiệp để chi tiêu cho hoạt động công đoàn của đơn vị.
Cùng với tiền lương và các khoản bảo hiểm, KPCĐ hợp thành khoản chi phí về lao động sống trong tổng chi phí của doanh nghiệp. Việc xác định chi phí về lao động sống phải dựa trên cơ sở quản lý và sử dụng lao động trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tính đúng thù lao lao động, thanh toán đầy đủ kịp thời tiền lương và các khoản liên quan. Một mặt kích thích người lao động quan tâm đến thời gian, kết quả và chất lượng của lao động; mặt khác góp phần tính đúng, tính đủ chi phí, giá thành sản phẩm hay chi phí của doanh nghiệp.
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng:
Các nhân tố ảnh hưởng bao gồm các nhóm nhân tố sau:
Nhóm nhân tố thuộc thị trường lao động:
Cung – cầu lao động ảnh hưởng trực tiếp đến tiền lương.
Khi cung về lao động lớn hơn cầu về lao động thì tiền lương có xu hướng giảm, khi cung về lao động nhỏ hơn cầu về lao động thì tiền lương có xu hướng tăng, còn khi cung lao động bằng với cầu lao động thì thị trường lao động đạt tới sự công bằng. Tiền lương lúc này là tiền lương cân bằng, mức tiền lương này bị phá vỡ khi các nhân tố ảnh hưởng tới cung cầu về lao động thay đổi như: năng suất biên của lao động, giá cả của hàng hoá, dịch vụ
Khi chi phí sinh hoạt thay đổi do giá cả hàng hoá, dịch vụ thay đổi sẽ kéo theo tiền lương thực tế thay đổi. Cụ thể khi chi phí sinh hoạt tăng thì tiền lương thực tế sẽ giảm. Như vậy buộc các đơn vị, các doanh nghiệp phải tăng tiền lương danh nghĩa cho công nhân để đảm bảo ổn định đời sống cho người lao động, đảm bảo tiền lương thực tế không bị giảm.
Trên thị trường luôn tồn tại sự chênh lệch tiền lương giữa các khu vực tư nhân, nhà nước, liên doanh chênh lệch giữa các ngành, giữa các công việc có mức độ hấp dẫn khác nhau, yêu cầu về trình độ lao động cũng khác nhau. Do vậy Nhà nước cần có những biện pháp để điều tiết tiền lương cho hợp lý.
Nhóm nhân tố thuộc môi trường doanh nghiệp :
Các chính sách của doanh nghiệp: Các chính sách lương, phụ cấp, giá thành được áp dụng triệt để, phù hợp sẽ thúc đẩy lao động nâng cao chất lượng hiệu quả, trực tiếp tăng thu nhập cho bản thân.
Khả năng tài chính của doanh nghiệp ảnh hưởng mạnh đến tiền lương: Với doanh nghiệp có khối lượng vốn lớn thì khả năng chi trả lương cho người lao động sẽ thuận tiện, dễ dàng. Còn ngược lại nếu khả năng tài chính không vững thì tiền lương của người lao động sẽ rất bấp bênh.
Cơ cấu tổ chức hợp lý hay bất hợp lý cũng ảnh hưởng ít nhiều đến tiền lương. Việc quản lý được thực hiện như thế nào, sắp xếp đội ngũ lao động ra sao để giám sát và đề ra những biện pháp kích thích sự sáng tạo trong sản xuất của người lao động để tăng hiệu quả, năng suất lao động góp phần tăng tiền lương.
Nhóm nhân tố thuộc bản thân người lao động:
Trình độ người lao động: với lao động có trình độ cao sẽ có được thu nhập cao hơn so với lao động có trình độ thấp hơn bởi để đạt được trình độ đó người lao động phải bỏ ra một khoản chi phí tương đối cho việc đào tạo đó. Có thể đào tạo dài hạn ở trường lớp cũng có thể đào tạo tại doanh nghiệp. Để làm được những công việc đòi hỏi phải có hàm lượng kiến thức, trình độ cao mới thực hiện được đem lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp thì việc hưởng lương cao là tất yếu.
Thâm niên công tác và kinh nghiệm làm việc thường đi đôi với nhau. Một người qua nhiều năm công tác sẽ đúc rút được nhiều kinh nghiệm hạn chế được những rủi do có thể xảy ra trong công việc, nâng cao bản lĩnh trách nhiệm của người mình trước công việc đạt năng suất, chất lượng cao vì thế mà thu nhập của họ sẽ ngày càng tăng lên.
Mức độ hoàn thành nhiệm vụ nhanh hay chậm, đảm bảo chất lượng hay không đều ảnh hưởng ngay đến tiền lương của người lao động.
Nhóm nhân tố thuộc giá trị công việc:
Mức hấp dẫn của công việc: công việc có mức hấp dẫn cao thu hút được nhiều lao động, khi đó doanh nghiệp sẽ không bị sức ép tăng lương, ngược lại với công việc kém hấp dẫn để thu hút được lao động doanh nghiệp phải có biện pháp đạt mức lương cao hơn.
Mức độ phức tạp của công việc: với độ phức tạp của công việc càng cao thì định mức cho công việc đó càng cao. Độ phức tạp của công việc đó có thể là những khó khăn về trình độ kỹ thuật, khó khăn về điều kiện làm việc, mức độ nguy hiểm cho người thực hiện do đó mà tiền lương sẽ cao hơn so với công việc giản đơn.
Điều kiện thực hiện công việc: tức là để thực hiện công việc cần xác định phần việc phải làm, tiêu chuẩn cụ thể để thực hiện công việc, cách thức làm việc với máy móc, môi trường thực hiện khó khăn hay dễ dàng đều quyết định đến tiền lương.
Yêu cầu của công việc đối với người thực hiện là cần thiết, rất cần thiết hay chỉ là mong muốn mà doanh nghiệp có quy định mức lương phù hợp.
Các nhân tố khác:
ở đâu có sự phân biệt đối xử về màu da, giới tính, độ tuổi, giữ thành thị và nông thôn, ở đó có sự chênh lệch về tiền lương rất lớn không phản ánh được sức lao động thực tế của người lao động đã bỏ ra, không đảm bảo nguyên tắc trả lương nào cả nhưng trên thực tế vẫn tồn tại.
Sự khác nhau về mức độ cạnh tranh trên thị trường cũng ảnh hưởng tới tiền lương của lao động.
1.2.Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương.
1.2.1.Khái niệm.
Hạch toán:
Hạch toán là những hoạt động quan sát, đo lường, tính toán và ghi chép của con người đối với các hoạt động kinh tế xảy ra trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm thu nhận cung cấp thông tin về quá trình đó phục vụ cho công tác kiểm tra, công tác chỉ đạo các hoạt động kinh tế, đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội đem lại hiệu quả cao đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống xã hội.
Hạch toán kế toán:
Hạch toán kế toán là khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp toàn bộ thông tin về tài sản và sự vận động của tài sản trong các đơn vị nhằm kiểm tra, giám sát toàn bộ hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị đó. Như vậy hạch toán kế toán nghiên cứu
về tài sản, sự vận động của tài sản trong các đơn vị, nghiên cứu về hoạt động kinh tế tài chính, đảm bảo cho hoạt động đó đem lại lợi ích cho con người.
Để thực hiện hạch toán kế toán doanh nghiệp sử dụng một số phương pháp khoa học gồm: Phương pháp chứng từ kế toán, phương pháp tài khoản kế toán, phương pháp tính giá và phương pháp tổng hợp – cân đối kế toán. Sử dụng thước đo tiền tệ để đo lường phạm vi quy mô hoạt động kinh tế tài chính, bên cạnh đó còn sử dụng thước đo lao động và thước đo hiện vật.
Hạch toán tiền lương: là quá trình tính toán, ghi chép thời gian lao động hao phí và kết quả đạt được trong hoạt động sản xuất , hoạt động tổ chức và quản lý theo nguyên tắc và phương pháp nhất định nhằm phục vụ công tác kiểm tra tình hình sử dụng quỹ lương, công tác chỉ đạo các hoạt động kinh tế đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội.
Quỹ tiền lương tăng lên phải tương ứng với khối lượng tăng giá trị tiêu dùng. Nhiệm vụ của hạch toán tiền lương là phải xác định mức độ, cơ cấu tiền lương, các yếu tố làm tăng giảm quỹ lương, hạch toán tỷ trọng các hình thức và chế độ tiền lương nhằm tìm ra những hướng kích thích mạnh mẽ và thoả đáng đối với người lao động. Hạch toán tiền lương cấp bậc, tiền thưởng từ quỹ khuyến khích vật chất nhằm chỉ ra hướng đi đúng đắn trong tổ chức tiền lương, tạo ra sự kích thích sự quan tâm đúng đắn của người lao động đến kết quả cuối cùng của doanh nghiệp.
Hạch toán tiền lương phải cân đối phù hợp với các chỉ tiêu kế hoạch khác, không cho phép vựơt chi quỹ tiền lương mà không có căn cứ xác đáng vì điều đó dẫn đến làm tăng giá thành sản phẩm, làm giảm tỷ số tích luỹ. Vượt chi quỹ tiền lương trả cho nhân viên không sản xuất theo quỹ lương kế hoạch và thực tế là phạm vi kỹ thuật tài chính. Hạch toán thực tế kế hoạch quỹ lương của công nhân sản xuất cần tính đến mức độ hoàn thành kế hoạch khối lượng sản phẩm để tính thực hiện tiết kiệm hay vượt chi tuyệt đối quỹ lương kế hoạch.
Hạch toán quỹ lương để so sánh giá trị nguồn nhân lực trên thị trường lao động. Hạch toán tiến độ tăng tiền lương so sánh với tiến độ tăng năng suất lao động có nghĩa là tăng tỷ trọng tiền lương trong tổng sản phẩm cũng như trong chi phí chung cho sản phẩm giảm xuống và ngược lại. Tiến độ tăng tiền lương và tăng năng suất lao động có ảnh hưởng đến cơ cấu giá thành sản phẩm.
1.2.2.Nội dung và phương pháp hạch toán:
Hạch toán lao động: bao gồm hạch toán về số lượng, thời gian lao động và kết quả lao động.
+ Hạch toán số lượng lao động: là việc theo dõi kịp thời, chính xác tình hình tăng, giảm số lượng lao động theo từng loại lao động trên cơ sở đó làm căn cứ cho việc trả lương và các chế độ khác cho người lao động được kịp thời. Số lượng lao động của doanh nghiệp được phản ánh trên sổ sách thường do phòng lao động tiền lương lập nhằm lắm chắc tình hình phân bổ, sử dụng lao động hiện có.
Bên cạnh đó doanh nghiệp còn căn cứ vào sổ lao động được mở cho từng người để quản lý nhân lực cả về số lượng và chất lượng lao động, về biến động và chấp hành chế độ đối với người lao động.
Số lượng lao động tăng lên khi doanh nghiệp tuyển dụng thêm lao động. Chứng từ là các hợp đồng lao động.
Số lượng lao động giảm khi lao động chuyển công tác khác, thôi việc, về hưu, nghỉ mất sức, nghỉ mất sức Chứng từ là quyết định của Giám đốc doanh nghiệp.
+ Hạch toán thời gian lao động: là việc ghi chép kịp thời, chính xác thời gian lao động của từng người trên cơ sở đó tính lương phải trả cho chính xác. Hạch toán thời gian lao động phản ánh số ngày, giờ làm việc thực tế hoặc ngừng sản xuất, nghỉ việc của người lao động, từng bộ phận, phòng ban trong doanh nghiệp.
Chứng từ hạch toán là bảng chấm công được lập riêng cho từng bộ phận trong đó ghi dõ ngày làm việc, ngày nghỉ việc của từng người. Bảng do tổ trưởng trực tiếp ghi và để nơi công khai để mọi người giám sát thời gian lao động của từng người. Cuối tháng bảng chấm công được dùng để tổng hợp thời gian lao động và tính lương, thưởng cho từng bộ phận.
+Hạch toán kết quả lao động: là ghi chép kịp thời, chính xác số lượng, chất lượng sản phẩm hoàn thành của từng người để từ đó tính lương, thưởng và kiểm tra sự phù hợp của tiền lương phải trả với kết quả hoạt động thực tế, tính toán định mức lao động từng người, từng bộ phận và cả doanh nghiệp.
Để hạch toán kết quả lao động, kế toán sử dụng những loại chứng từ ban đầu khác nhau tuỳ theo loại hình, đặc điểm sản xuất của từng doanh nghiệp nhưng những chứng từ này đều bao gồm những nội dung cần thiết như tên công nhân, tên công việc, thời gian lao động, số lượng sản phẩm hoàn thành nghiệm thu.
Chứng từ hạch toán lao động phải do người lập ký, cán bộ kiểm tra kỹ thuật xác nhận, lãnh đạo duyệt y. Sau đó chuyển cho nhân viên hạch toán phân xưởng để tổng hợp kết quả lao động toàn đơn vị sau đó chuyển về phòng lao động tiền lương xác nhận. Cuối cùng chuyển về phòng kế toán của doanh nghiệp để làm căn cứ tính lương, tính thưởng. Để tổng hợp kết quả lao động thì tại mỗi phân xưởng, bộ phận nhân viên hạch toán phân xưởng phải mở sổ tổng hợp kết quả lao động. Trên cơ sở các chứng từ hạch toán kết quả lao động do các bộ phận gửi đến hàng ngày ( hoặc định kỳ) để ghi kết quả lao động từng người, từng bộ phận vào sổ và cộng sổ, lập báo cáo kết quả lao động gửi cho bộ phận quản lý liên quan. Phòng kế toán doanh nghiệp cũng phải mở sổ tổng hợp kết quả lao động để tổng hợp kết quả chung toàn doanh nghiệp.
Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương:
Để hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương Doanh nghiệp sử dụng các chứng từ sau:
- Bảng thanh toán tiền lương: là chứng từ làm căn cứ để thanh toán tiền lương, phụ cấp cho công nhân viên đồng thời để kiểm tra việc thanh toán lương cho công nhân viên trong đơn vị. Bảng thanh toán lương được lập hàng tháng, tương ứng với bảng chấm công, phiếu nghỉ hưởng bảo hiểm xã hộiCơ sở để lập bảng thanh toán lương là các chứng từ liên quan như: Bảng chấm công, Bảng tính phụ cấp, trợ cấp, Phiếu nghỉ hưởng BHXH. Cuối mỗi tháng căn cứ vào các chứng từ liên quan, kế toán tiền lương lập Bảng thanh toán tiền lương chuyển cho kế toán trưởng hay phụ trách kế toán và Giám đốc đơn vị duyệt. Trên cơ sở đó lập phiếu chi và phát lương cho công nhân viên. Bảng thanh toán lương được lưu tại phòng kế toán đơn vị.
- Bảng thanh toán BHXH: là chứng từ làm căn cứ tổng hợp và thanh toán trợ cấp BHXH trả thay lương cho người lao động, lập báo cáo quyết toán BHXH với cơ quan quản lý BHXH. Tuỳ thuộc vào số người phải thanh toán trợ cấp BHXH trả thay lương trong tháng của đơn vị, kế toán có thể lập bảng này cho từng phòng ban, bộ phận hay cho toàn đơn vị. Cơ sở để lập bảng này là “Phiếu nghỉ hưởng BHXH”, khi lập bảng phải ghi chi tiết từng trường hợp nghỉ và trong mỗi trường hợp phải nhân ra số ngày, số tiền trợ cấp BHXH trả thay lương. Cuối tháng kế toán tính tổng số ngày nghỉ và số tiền được trợ cấp trong tháng và luỹ kế từ đầu năm đến tháng báo cáo cho từng người và cho từng đơn vị. Bảng này được chuyển cho trưởng ban BHXH xác nhận và chuyển cho kế toán trưởng duyệt chi.
Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương trong các Doanh nghiệp sản xuất khác với các đơn vị hành chính sự nghiệp là các đơn vị hành chính sự nghiệp được trang trải các chi phí hoạt động để thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao bằng nguồn kinh phí từ Ngân sách hoặc từ công quỹ theo nguyên tắc không bồi hoàn trực tiếp. Cho nên tài khoản sử dụng và phương pháp hạch toán cũng khác nhau.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh.Để hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương kế toán sử dụng các tài khoản sau:
TK 334 “Phải trả công nhân viên”: Dùng để theo dõi các khoản phải trả công nhân viên của doanh nghiệp về tiền lương, phụ cấp, BHXH, tiền thưởng và các khoản phải trả khác thuộc về thu nhập của người lao động.
Nội dung kết cấu như sau:
Bên nợ:
Các khoản đã trả công nhân viên
Các khoản khấu trừ vào lương
Các khoản ứng trước
Kết chuyển lương chưa lĩnh
Bên có:
Tất cả các khoản phải trả công nhân viên
Dư có:
Các khoản khác còn phải trả công nhân viên
Dư nợ:
Số trả thừa cho công nhân viên
Trong hệ thống tài khoản không có tài khoản cấp 2 nhưng chế độ kế toán thường mở hai tài khoản cấp 2 là:
TK3341: Chuyên theo dõi tiền lương
TK3342:Theo dõi các khoản ngoài lương
TK 338 “Phải trả và phải nộp khác”: Phản ánh các tài khoản phải trả, phải nộp cho cơ quan pháp luật, cho các tổ chức đoàn thể xã hội, cho cấp trên về KPCĐ, BHXH, BHYT...
Nội dung kết cấu như sau:
Bên nợ:
Các khoản đã nộp cho cơ quan quản lý các quỹ
Các khoản đã chi về KPCĐ tại đơn vị
Xử lý giá trị tài sản thừa
Bên có:
Các khoản phải trả, phải nộp hay thu hộ
Trích các khoản theo lương vào chi phí hàng kỳ
Dư nợ:
Số chi vượt mức được cấp bù
Dư có:
Số chi không hết phải nộp tiếp
TK 338 có 5 tài khoản cấp 2, trong đó có 3 tài khoản liên quan trực tiếp đến công nhân viên là:
TK 3382: “Kinh phí công đoàn”
TK 3383: “Bảo hiểm xã hội”
TK 3384: “ Bảo hiểm y tế ”
+ Phương pháp hạch toán :
- Hàng tháng trên cở sở tính toán tiền lương, tiền công phải trả công nhân viên kế toán ghi sổ.
Nợ TK 622, 627, 641, 642, 241
Có TK 334
- Hàng tháng trích BHXH, BHYT, KPCĐ tính vào chi phí kế toán ghi
Nợ TK 622, 627, 641, 642, 241
Có TK 338 ( 3382, 3383, 3384)
- Phản ánh các khoản BHXH phải trả trực tiếp cho công nhân viên như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động ...
Nợ TK 338 (3383)
Có TK 334
- Cuối kỳ tính trả số tiền thưởng phải trả cho công nhân viên từ quỹ khen thưởng
Nợ TK 431 (4311)
Có TK 334
- Tính BHXH, BHYT trừ vào lương của người lao động
Nợ TK 334
Có TK 338 (3382)
- Các khoản khấu trừ vào thu nhập của công nhân viên
Nợ TK 334
Có TK 333 (3338), 141, 138
- Thanh toán lương và các khoản trích theo lương cho công nhân viên
Nợ TK 334
Có TK 111, 112
- Nếu thanh toán bằng vật tư, hàng hoá
+ Nợ TK 632
Có TK 152, 153, 154, 155
+ Nợ TK 334
Có TK 333 (33311)
- Nộp BHXH, BHYT, KPCĐ cho cơ quan quản lý quỹ
Nợ TK 338 (3382, 3383, 3384)
Có TK 111, 112
- Chi tiêu KPCĐ, BHXH tại doanh nghiệp
Nợ TK 338 (3382, 3383)
Có TK 111,112
- Phản ánh BHXH, KPCĐ chi vượt được cấp bù
Nợ TK 111, 112
Có TK 338 (3382, 3383)
- Số chi không hết phải nộp tiếp cho cơ quan quản lý quỹ
Nợ TK 338 (3382, 3383)
Có TK 111, 112
- Cuối kỳ kết chuyển số tiền công nhân viên đi vắng chưa lĩnh
Nợ TK 334
Có TK 338 (3388)
Trình tự hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở doanh nghiệp sản xuất được thể hiện qua sơ đồ sau:
TK 111
TK 334
TK 335
Thanh toán lương
và các khoản khác
TK 333
Thuế thu nhập phải
nộp (nếu có)
TK 336
Khấu trừ các khoản
phải trả nội bộ
TK 338
Trích BHXH, BHYT
trên tiền lương CNV
TK 138
Chênh lệch số đã trả và số trừ lớn hơn số phải trả
TK 622
TK 627, 641, 642
TK 431
TK 338
Tính lương
phải trả cho công nhân viên
Tính thưởng cho
công nhân viên
BHXH phải trả
cho công nhân viên
Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp: Tài khoản sử dụng để hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương như sau:
TK 334 “ Phải trả viên chức”: dùng để phản ánh tình hình thanh toán với công chức, viên chức trong đơn vị hành chính sự nghiệp về tiền lương, phụ cấp và các khoản phải trả theo chế độ nhà nước quy định.
Nội dung kết cấu như sau:
Bên nợ:
Các khoản đã trả cho công chức, viên chức và các đối tượng khác
Các khoản đã khấu trừ vào lương
Bên có:
Tiền lương và các khoản phải trả cho công chức, viên chức và các đối tượng khác trong đơn vị
Dư có:
Các khoản còn phải trả cho công chức, viên chức, cán bộ hợp đồng và các đối tượng khác trong đơn vị
TK 334 có 2 tài khoản cấp 2 là:
TK 3341: Phải trả viên chức nhà nước
TK 3348: Phải trả các đối tượng khác
TK 332 “ Các khoản phải nộp theo lương”: phản ánh tình hình trích nộp và thanh toán BHXH, BHYT của đơn vị.
Nội dung kết cấu như sau:
Bên nợ:
Số BHXH, BHYT đã nộp cơ quan quản lý
Số BHXH đã thanh toán cho người được hưởng
Bên có:
Trích BHXH, BHYT tính vào chi phí của đơn vị
Số BHXH được cấp để chi trả cho công nhân viên
Số BHXH, BHYT mà công chức, viên chức phải nộp được khấu trừ vào lương
Số tiền phạt do nộp chậm BHXH
Dư có:
BHXH, BHYT còn phải nộp cho cơ quan quản lý
Số BHXH được cấp nhưng chưa chi trả hết
Dư nợ:
Phản ánh số BHXH đã chi chưa được cơ quan BHXH cấp bù
TK 332 có 2 tài khoản cấp 2 là:
TK 3321: Bảo hiểm xã hội
TK 3322: Bảo hiểm y tế
+Phương pháp hạch toán:
- Hàng tháng tính tiền lương, phụ cấp, sinh hoạt phí, học bổng phải trả cho viên chức và các đối tượng khác.
Nợ TK 661,662, 631
Có TK 334 (3341, 3348)
- Trích BHXH, BHYT theo quy định
Nợ TK 661, 662, 631
Có TK 334
Có TK 332 (3321, 3322)
- Tính ra số BHXH phải trả trực tiếp cho người được hưởng
Nợ TK 332 (3321)
Có TK 334
- Trích quỹ cơ quan để thưởng cho công chức, viên chức
Nợ TK 431 (4311)
Có TK 334
- Thanh toán tiền lương, thưởng, phụ cấp, BHXH và các khoản khác
Nợ TK 334
Có TK 111, 112
- Nộp BHXH, mua thẻ BHYT
Nợ TK 332
Có TK 111, 112, 461
- Các khoản tạm ứng, bồi thường được trừ vào lương
Nợ TK 334
Có TK 312, 311
- Số BHXH được cấp để chi trả cho các đối tượng được hưởng
Nợ TK 111, 112
Có TK 332 (3321)
- Nhận được giấy phạt do nộp chậm BHXH
Nợ TK 661, 311
Có TK 332 (3321)
ý nghĩa của hạch toán tiền lương trong doanh nghiệp.
Tiền lương là yếu tố cơ bản để quyết định thu nhập tăng hay giảm của người lao động, như quyết định mức sống vật chất của người lao động làm công ăn lương trong doanh nghiệp. Vì vậy để có thể trả lương một cách công bằng, chính xác, đảm bảo quyền lợi cho người lao động thì mới tạo ra sự kích thích, sự quan tâm đúng đắn của người lao động đến kết quả cuối cùng của doanh nghiệp. Có thể nói hạch toán chính xác, đúng đắn tiền lương là đòn bẩy kinh tế quan trọng để kích thích các nhân tố tích cực trong mỗi con người, phát huy tài năng, sáng kiến, tinh thần trách nhiệm và nhiệt tình của người lao động tạo thành động lực quan trọng của sự phát triển kinh tế.
Mặt khác, tiền lương là một trong những chi phí của doanh nghiệp hơn nữa lại là chi phí chiếm tỷ lệ đáng kể. Mục tiêu của doanh nghiệp là tối thiếu hoá chi phí, tối đa hoá lợi nhuận, nhưng bên cạnh đó phải chú ý đến quyền lợi của người lao động. Do đó làm sao và làm cách nào vừa đảm bảo quyền lợi của người lao động vừa đảm bảo quyền lợi của doanh nghiệp. Đó là vấn đề nan giải của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương không những có ý nghĩa phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người lao động mà còn có ý nghĩa giúp các nhà quản lý sử dụng quỹ tiền lương có hiệu nhất tức là hợp lý hoá chi phí giúp doanh nghiệp làm ăn có lãi. Cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác về tiền lương của doanh nghiệp, để từ đó doanh nghiệp có những điều chỉnh kịp thời, hợp lý cho các kỳ kinh doanh tiếp theo.
Tiền lương và các khoản trích theo lương sẽ là nguồn thu nhập chính và thường xuyên của người lao động, đảm bảo tái sản xuất và mở rộng sức lao động, khích thích lao động làm việc hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh khi công tác tiền lương và các khoản trích theo lương được hạch toán hợp lý, công bằng, chính xác.
tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty Than Nội Địa.
3.1. Đánh giá chung công tác hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty Than Nội Địa.
Để đánh giá tình hình chung ta cần xem xét một số chỉ tiêu ở Công ty Than Nội Địa.
Bảng số 19: Một số chỉ tiêu về việc sử dụng quỹ lương tại Công ty.
Chỉ tiêu
ĐVT
1997
1998
1999
1.Doanh số
đồng
3.560.800.360
14.035.007.025
16.160.004.000
2.Lợi nhuận
đồng
31.561.417.501
31.561.197.324
31.617.000.721
3.S quỹ lương
đồng
55.356.516.142
55.543.827.774
60.427.850.000
4.S số LĐ
Người
4709
4750
4780
Nguồn: Báo cáo tổng kết của phòng TCNS năm 1999.
Để đánh giá mối quan hệ giữa tiền lương và năng suất lao động ta phải dựa trên hai nguyên tắc trong công tác lao động tiền lương đó là “ đảm bảo tốc độ tăng năng suất lao động luôn lớn hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân”.
Bảng số 20: Thu nhập theo ngành nghề chủ yếu của
người lao động trong Công ty.
Ngành nghề chủ yếu
LĐ bình quân kỳ BC
Tổng ngày công kỳ BC
Tổng thu nhập(đồng)
Ngày công bình quân
Thu nhập
Thực tế làm việc
Ngày công khác
Tổng cộng
Trong đó
Thu nhập b/q 1 người-tháng
Tiền lương một ngày công
TLSP.TG
Thưởng cộng ạ
Khoan
70
15..641
1. 975
17. 616
968..277. 365
868. 546. 165
99. 731. 200
68. 9
4. 417. 940
189. 694
Xúc
118
29..270
3. 912
33. 182
208. 009. 358
1. 934. 976. 458
143. 041. 900
50. 6
3. 752. 677
155. 332
Gạt
86
19..808
3. 332
23. 140
1. 242. 757. 479
1. 131. 516. 979
111. 240. 500
72. 8
4. 095. 513
168. 885
Ô tô
260
58. 805
12. 184
71. 189
4. 259. 235. 129
3. 994. 917. 029
264. 318. 100
84. 2
5. 078. 331
138. 798
Đào lò
73
16. 206
4. 268
20. 474
950. 628. 000
861. 035. 000
89. 593. 000
Xi măng
111
27. 464
2. 755
30. 219
1. 577. 065. 000
1. 495. 337. 000
81. 728. 000
22
1. 149
54, 07
22, 78
1. 225
54, 88
Nguồn: Báo cáo thu nhập ngành nghề chủ yếu – 2001.
Qua biểu trên ta thấy tốc độ tăng năng suất lao động cao dẫn đến tiền lương của người lao động vì thế mà cũng được tăng cao đó là do kỹ thuật của công nhân lành nghề ngày càng cao, Công ty áp dụng các hình thức khuyến khích phát huy sáng kiến kỹ thuật và thường xuyên bồi dưỡng tay nghề cho công nhân viên.
Trong công tác tổ chức kế toán, công ty Than Nội Địa đã không ngừng từng bước hoàn thiện bộ máy kế toán của mình, bộ máy kế toán được tổ chức chuyên sâu. Mỗi kế toán chịu trách nhiệm một phần hành cụ thể nên phát huy được tính chủ động, sự thành thạo trong công việc, công tác quyết toán hàng quý, hàng năm đều được thực hiện tốt, dõ dàng và đúng thời gian. Nhờ đội ngũ kế toán có năng lực và không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ nên trong thời gian qua đã cung cấp những thông tin kịp thời, chính xác, phục vụ đắc lực cho lãnh đạo công ty trong việc ra quyết định chỉ đạo sản xuất kinh doanh một cách kịp thời và chính xác, góp phần tích cực vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Công tác hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương của người lao động luôn chấp hành đúng các chế độ về tiền lương, tiền thưởng, chế độ phụ cấp, trợ cấp BHXH được kế toán tiền lương thực hiện đầy đủ chính xác kịp thời.
Kế toán tiền lương luôn hướng dẫn các bộ phận, các phân xưỏng thực hiện tốt công tác thông tin để tính tiền lương, BHXH như: Bảng chấm công, bảng kê khối lương công việc, bảng thanh toán lương sản phẩm Việc tính toán trả lương đã phản ánh đúng kết quả lao động của từng người, đồng thời đã điều hoà thu nhập giữa các cán bộ công nhân viên nên đac thực hiện thanh toán lương và các khoản trích theo lương cho người lao động kịp thời, đúng kỳ hạn. Các hình thức chứng từ sổ sách sử dụng đúng mẫu của Bộ tài chính ban hành. Phản ánh tương đối dõ dàng các khoản mục và các nghiệp vụ phát sinh, tổ chức tốt công tác ghi chép ban đầu, tổ chức xử lý và ghi sổ kế toán các nghiệp vụ liên quan đến tiền lương và các khoản trích theo lương của người lao động. Báo cáo và phân tích ghi chép tiền lương, BHXH và thu nhập khác của người lao động đã góp phần quản lý, tiết kiệm chi phí lao động thúc đẩy sự phát triển của công ty.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác này còn có một số vấn đề cần xem xét lại đó là:
Tiền lương nghỉ phép vào tháng nào phân bổ vào chi phí nhân công trực tiếp, chi phí nhân viên quản lý phân xưởng, chi phí nhân viên quản lý doanh nghiệp tháng đó. Do cán bộ công nhân viên nghỉ phép không đều giữa các tháng trong năm nên việc thanh toán và phân bổ như vậy đã làm cho các chi phí biến đổi thất thường ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận hoạt động kinh doanh trong công ty. Việc phân bổ như vậy chưa hợp lý ở chỗ có tháng người lao động xin nghỉ phép nhiều, nhưng cũng có tháng không có ai nghỉ dẫn đến việc có tháng Công ty phải chi ra một khoản lương phép rất lớn trong khi đó tiến độ công việc bị chậm lại ảnh hưởng đến kế hoạch của Công ty.
Do kế hoạch giữa các tháng không đều, do đặc thù riêng công nhân luôn phải làm việc ca 3, thêm giờ để hoàn thành kế hoạch dẫn đến tình trạng có tháng làm không hết việc, có tháng lại phải nghỉ vì không có việc. Do đó tiền lương của người lao động không ổn định, tháng nào không có việc thì tiền lương rất thấp thậm chí có những bộ phận không có lương như bộ phận sàng tuyển và phân loại than, bộ phận bốc dỡ và vận chuyển.
Do trả lương theo hình thức trả lương theo sản phẩm mà người lao động luôn chạy đua với sản lượng do vậy chất lượng sản phẩm chưa cao. Đây là một thực trạng chung mà hiện nay nhiều doanh nghiệp đang gặp phải khi áp dụng hình thức trả lương này.
Việc trả lương sản phẩm gián tiếp cho lực lượng nhân viên quản lý và công nhân bổ trợ đã gắn với kết quả kinh doanh của công ty. Song số lượng lao động gián tiếp và công nhân bổ trợ còn nhiều. Do đó việc chi trả lương trong giá thành cao, giảm tỷ lệ lợi nhuận. Chưa kể một số nhân viên quản lý phục vụ làm việc chưa có hiệu quả gây rất nhiều ý kiến suy bì của công nhân.
Công tác hạch toán nói chung và hạch toán tiền lương nói riêng muốn hoàn thiện được tốt thì cần nắm vững chức năng và nhiệm vụ của công tác hạch toán kế toán. Hơn nữa kế toán phải xuất phát từ đặc trưng của các đơn vị sản xuất kinh doanh để có hướng hoàn thiện thích hợp sửa chữa những sai sót, những cái chưa khoa học để đi đến những cái khoa học. Đó là một quá trình đi từ nhận thức làm thay đổi thực tế rồi từ việc phát huy khả năng bổ sung cho nhận thức lý luận và song song với điều kiện đó kế toán phải đảm bảo theo nguyên tắc phục vụ theo yêu cầu quản lý.
Hoàn thiện phải căn cứ vào mô hình hạch toán những quy định về ghi chép, luân chuyển chứng từ của đơn vị sản xuất kinh doanh để làm sao cho các thông tin kế toán phải phù hợp với cơ chế thị trường phục vụ cho yêu cầu của đơn vị.
Trên con đường phát triển Công ty Than Nội Địa đang cố gắng từng bước hoàn thiện và chuyển đổi để đáp ứng tốt công tác quản lý sản xuất kinh doanh của đơn vị:
Thứ nhất: Tiền lương tồn tại một cách khách quan, của phạm trù hàng hoá sức lao động. Tiền lương được xem là giá cả sức lao động, lao động sản xuất ra hàng hoá phải có một giá trị tiền lương chứa đựng trong hàng hoá. Vì vậy nó cần được tính đúng, tính đủ và tiền lương phải trả trên cơ sở sức lao động. Điều này có thể đảm bảo cho người lao động có thể nuôi sống bản thân và gia đình họ và xoá bỏ những bất hợp lý trong xã hội.
Để khuyến khích những người làm việc thực sự có năng suất, chất lượng và hiệu quả, khuyến khích những người có khả năng thì cần thực hiện việc trả lương không những theo công việc mà còn theo số lượng, hiệu quả công việc của người lao động chứ không thể tuân theo bằng cấp. Bởi vì, nó thực sự chỉ là một yếu tố để bố trí công việc để tính mức lương ban đầu khi bắt buộc làm việc chứ không phải là yếu tố quyết định về tiền lương của người lao động.
Thứ hai: Chính sách tiền lương tối thiểu là một trong những nội dung quan trọng nhất, tiền lương phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động. Tiền lương tối thiểu là mức lương thấp nhất đảm bảo các nhu cầu cần thiết, yếu tố ăn mặc ở đi lại sinh hoạt văn hoá giao tiếp xã hội
Người sử dụng không được trả công mức tối thiểu vì dưới mức đó người lao động không đảm bảo tái sản xuất sức lao động. Như vậy sẽ ảnh hưởng đến nền sản xuất xã hội .Tiền lương tối thiểu phải căn cứ vào mức sống tối thiểu và phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội trong từng thời kì. Nó thể hiện rõ nét mối quan hệ lao động trong phạm vi toàn xã hội và ở mỗi thành phần kinh tế.
Không ngừng hoàn thiện chính sách tiền lương tối thiểu là rất quan trọng bởi vì nó là cơ sở, là nền tảng để trả công cho lao động toàn xã hội.
Thứ ba: Việc hoàn thiện chính sách tiền lương phải đặt trong tổng thể của nền kinh tế quốc dân, phải thực hiện đồng bộ với các chính sách khác.
Tiền lương có tính đối lập của nó, do đó ta không hoàn thiện được hơn nếu như ta có quan điểm rằng khả năng ngân sách đến đâu thì mức tiền lương đến đó mà cần phải dựa trên điều kiện và khả năng thực tế để có thể đưa chính sách tiền lương gắn liền với cuộc sống hơn và đem lại hiệu quả kinh tế hơn.
Việc hoàn thiện chính sách tiền lương phải gắn liền với việc hoàn thiện chính sách bảo hiểm, bởi nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Do đó các chế độ bảo hiểm không ngừng được nâng cao nhằm đảm bảo cho người lao động yên tâm lao động và nếu có gì xảy ra thì BHXH có thể trợ giúp cho người lao động một phần. Mặt khác, trong xu hướng liên doanh, liên kết hiện nay thì cần phải có các chế độ về BHXH buộc người sử dụng phải quan tâm đến điều kiện làm việc và môi trường làm việc để có thể tránh những rủi ro đáng tiếc xảy ra đối với người lao động.
Thứ tư: Tiền lương phải đánh giá đúng chất lượng và hiệu quả lao động. Trong chính sách tiền lương hiện hành có chia chế độ tiền lương theo khu vực sản xuất kinh doanh, hành chính sự nghiệp.Các hệ thống tiền lương này mặc dù nằm trong một thể thống nhất về chức năng chế độ tiền lương của nhà nước nhưng đối
lập với nhau về hình thức do tính chất của nguồn quỹ và tính chất của từng loại khác nhau:
+ Với khu vực sản xuất kinh doanh: Người lao động được trả tiền lương phù hợp với năng suất, chất lượng, hiệu quả của từng người và toàn doanh nghiệp.
+ Khu vực hành chính sự nghiệp: Quỹ lương được cấp từ ngân sách Nhà nước và được quy định một cách chặt chẽ trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ và biên chế của từng cơ quan. Các cấp, các ngành chế độ tiền lương được thực hiện theo các bảng lương, mã lương theo chức danh và tiêu chuẩn nghiệp vụ từng chức danh.
Để quản lý kinh doanh, để giám sát chặt chẽ hơn các doanh nghiệp, cũng như thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển thì không ngừng hoàn thiện về chính sách lương, BHXH mà cần phải hoàn thiện về công tác tổ chức hạch toán tiền lương của người lao động.
Tổ chức hợp lý, đúng đắn công tác kế toán sẽ tạo ra một hệ thống chứng từ sổ sách và sự vận động quần chúng phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đáp ứng nhu cầu thông tin kịp thời, chính xác và toàn diện cho việc quản lý mọi nghiệp vụ kinh tế trong quá trình hoạt động. Việc tổ chức công tác kế toán tiền lương sẽ tạo ra sự kết hợp nhịp nhàng giữa các phần hành kế toán trong bộ máy kế toán tại doanh nghiệp.
Tổ chức hợp lý quá trình hạch toán ban đầu bao gồm khâu lập chứng từ và luân chuyển chứng từ. Chứng từ kế toán là minh chứng về giấy tờ về các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh. Thông qua việc lập chứng từ mà kế toán có thể kiểm tra được tính hợp lý, hợp pháp của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Mặt khác, chứng từ pháp lý là căn cứ pháp lý cho mọi số liệu ghi chép là căn cứ kiểm tra ý thức chấp hành chính sách, nguyên tắc, là căn cứ để xác định trách nhiệm vật chất của người lao động, cuối cùng là bằng chứng để giải quyết mọi khiếu tố tranh chấp có thể xảy ra.
Trong việc hoàn thiện chứng từ cần phải đảm bảo tính pháp lý của chứng từ, đảm bảo đúng thời gian và địa điểm phát sinh, hoàn thiện chứng từ kế toán còn phải đề cập đến vấn đề tổ chức chỉ đạo hướng dẫn việc thực hiện chế độ ghi chép của từng cá nhân, từng bộ phận trong đơn vị, đảm bảo cho họ có thể hạch toán chính xác các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Chứng từ kế toán thường xuyên vận động từ bộ phận này sang bộ phận khác. Sự vận động này gọi là sự luân chuyển chứng từ, lập chứng từ và luân chuyển chứng từ là hai mặt thống nhất của phương pháp chứng từ. Vì vậy song song với việc hoàn thiện chứng từ là việc hoàn thiện luân chuyển chứng từ.
Mỗi loại chứng từ có một vị trí khác nhau trong quản lý và có đặc điểm khác nhau. Sự khác nhau đó không chỉ về nội dung mà còn khác nhau về trình tự cũng như thời gian luân chuyển. Điều này còn phụ thuộc vào quy mô, đặc điểm của mỗi đơn vị. Hoàn thiện luân chuyển chứng từ phải dựa trên quy mô đặc điểm kinh doanh của đơn vị để sao cho việc luân chuyển chứng từ được nhanh nhất mà vẫn đảm bảo được nguyên tắc tài chính kế toán. Trong công việc hạch toán tổng hợp, vận dụng hợp lý hệ thống tài khoản kế toán cũng là một yếu tố quan trọng vì hạch toán tổng hợp là việc ghi chép phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh một cách tổng hợp trên cơ sở các chứng từ cung cấp từ các khâu hạch toán ban đầu tạo ra các thông tin tổng hợp để đáp ứng nhu cầu quản lý. Trên cơ sở thông tin này cán bộ quản lý có thể đề ra các quyết định kinh doanh kịp thời đem lại hiệu quả kinh tế cao cho đơn vị.
Do vậy, hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán cần chú trọng sao cho nó phản ánh được chính xác nhất, tỷ mỷ nhất các khoản mục chi phí doanh thu của từng bộ phận, phân xưởng, đơn vị tránh được sự trùng lặp vô lý và có thể đáp ứng với yêu cầu, trình độ quản lý kinh tế, tài chính. Hơn nữa hoàn thiện công tác hạch toán cần phải hoàn thiện sổ sách kế toán để kết hợp giữa hạch toán tổng hợp và hạch toán chi tiết.
Sổ sách kế toán là phương tiện để thực thi các nghiệp vụ kế toán. Kế toán vận dụng những phương pháp của mình để xử lý các thông tin. Vì vậy các thông tin trên sổ sách kế toán là thông tin đã được xử lý và sổ sách kế toán cung cấp các thông tin về đối tượng kế toán một cách hệ thống. Do vậy vấn đề quan trọng trong hạch toán là phải biết cách tổ chức hệ thống sổ sách kế toán như thế nào cho hợp lý để phục vụ cho công tác hạch toán, đồng thời tạo điều kiện dễ dàng cho các thao tác nghiệp vụ kế toán và đáp ứng yêu cầu quản lý.
3.2.Một số biện pháp nhằm nâng cao công tác hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty Than Nội Địa.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng lao động ở Công ty Than Nội Địa, ngoài đầu tư để đổi mới dây chuyền công nghệ, đồng bộ dây chuyền sản xuất, về phía công ty cần xắp xếp lại đội ngũ lao động cho hợp lý hơn. Mặc dù công ty có đội ngũ công nhân tay nghề cao nhưng luôn làm việc trong môi trường độc hại, hệ thống máy móc thiết bị không đồng bộ, sản phẩm sản xuất mang tính đơn chiếc cho nên tác phong công nghiệp còn hạn chế, khả năng thích ứng với thị trường chưa cao. Nên Công ty cần phải đầu tư đào tạo, bồi dưỡng thêm cho đội ngũ cán bộ công nhân viên để làm quen với môi trường công nghiệp hiện đại, khả năng thích ứng với hệ thống máy móc hiện đại, linh hoạt trong quá trình sản xuất, sửa chữa. Sắp xếp lại đội ngũ lao động sao cho phù hợp, có chính sách thích ứng đối với từng loại lao động. Đầu tư thêm vốn để mở rộng mặt hàng sản xuất, phát huy thế mạnh của Công ty là tay nghề kỹ thuật và máy móc trong lĩnh vực cơ khí để duy trì đầy đủ việc làm cho người lao động, tạo điều kiện cho người lao động và gia đình họ ổn định cuộc sống.
Một số kiến nghị:
Thứ nhất: Công ty nên xem xét nghiên cứu lại quy chế trả lương cho khối phục vụ quản lý sao cho công bằng hợp lý ( trả lương đúng người đúng việc). Hiện tại Công ty đang áp dụng trả lương cho khối phục vụ quản lý theo lương sản phẩm gián tiếp phụ thuộc vào doanh thu đạt được là đúng nhưng khi chia cho các đối tượng lại căn cứ vào lương cấp bậc hiện giữ là chưa hợp lý, bởi vì cùng là nhân viên như nhau nhưng lại thực hiện những công việc khác nhau, có những công việc đòi hỏi phải mất nhiều thời gian công sức, có những công việc giản đơn nhưng lại được hưởng mức lương tương đương như nhau.
Để khuyến khích tăng năng suất lao động, động viên người có tài công ty lên áp dụng hình thức trả lương theo chức danh làm việc nào thì hưởng lương việc ấy tránh gây ra sự suy bì tỵ nạnh ảnh hưởng đến sản xuất. (Ví dụ như ở bộ phận thăm dò, khảo sát tìm kiếm các vỉa than, bộ phận nạp mìn nổ pha vỡ đất đá. Đây là những bộ phận đòi hỏi người lao động phải có trình độ, có kỹ thuật và người lao động luôn làm việc trong môi trường nguy hiểm với mức độ rủi do xảy ra rất lớn. Vì vậy Công ty nên có chế độ trả lương phù hợp tương xứng để động, viên khuyến khích người lao động)
Thứ hai: Hiện nay ở Công ty Than Nội Địa thực tế trả lương đã gắn với mức lương tối thiểu nhưng chưa đồng bộ, có những đơn vị trực thuộc công ty chưa áp dụng mức lương tối thiểu do nhà nước quy định vào việc tính lương cho công nhân bởi vì một người không có việc phải nghỉ cả tháng thì không có lương như vậy tiền lương tối thiểu cũng không có. Các đơn vị cũng không để riêng khoản lương tối thiểu cố định để trợ cấp khi không có việc. Do đó, Công ty cần có chủ trương, chỉ thị đến các mỏ, nhà máy, xí nghiệp căn cứ vào mức lương tối thiểu nhà nước quy định tách ra khỏi quỹ lương một khoản tiền dự phòng không tính hết vào đơn giá sản phẩm để trả cho người lao động, sử dụng quỹ này để hỗ trợ cho người lao động khi không có việc làm hoặc có sự cố gì đó thì sẽ phần nào ổn định được đời sống của cán bộ công nhân viên. Và khoản tách ra không tính hết vào đơn giá này Công ty phải có trách nhiệm gánh chịu.
Thứ ba: Công ty nên xem xét tổ chức lại việc lập chứng từ, xử lý chứng từ và luân chuyển chứng từ từ các bộ phận của mình sao cho phù hợp, kịp thời để phòng
Kế toán tài chính có thể lập báo cáo được nhanh chóng, việc giám sát thường xuyên và có hệ thống.
Thứ tư: Trong việc hạch toán, tính toán tiền lương, BHXH ở phòng tài chính kế toán lẫn thống kê nghiệp vụ tại các đơn vị trực thuộc khi sửa chữa phải thông báo với những người có liên quan để khi hạch toán và ghi sổ được thống nhất, đúng, đầy đủ, không lãng phí thời gian và sức lực.
Thứ năm: Công ty nên lập bộ phận kiểm tra, xử lý chứng từ để việc hạch toán, thanh toán lương được chính xác, đầy đủ và có hiệu quả. Bộ phận này phải là những cán bộ, những kế toán có trình độ chuyên môn, làm việc nghiêm túc. Tránh mọi sai sót, sơ hở trong kinh doanh giúp Công ty hoạt động có hiệu quả.
Thứ sáu: Trong việc quản lý và sử dụng quỹ lương Công ty lên xem xét và hoàn thiện lại các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Cố gắng đạt tỷ lệ doanh thu luôn lớn hơn tỷ lệ tăng của quỹ lương, tốc độ tăng năng suất lao động phải lớn hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân.
Thứ bảy: Để đảm bảo doanh thu có ảnh hưởng trực tiếp đến quỹ lương cũng như để đảm bảo cho tiền lương của người lao động được ổn định Công ty cần quan tâm đến kế hoạch được giao thông qua kế hoạch năm để phân phối đều cho các tháng tránh mất cân đối về kế hoạch dẫn đến tháng phải làm thêm giờ không hết việc, tháng thì ngồi chơi không có việc.
Thứ tám: Công ty nên thực hiện trích trước tiền lương nghỉ phép, nghỉ theo chế độ của cán bộ CNVC trong cơ quan vì số lượng CNVC trong Công ty nghỉ phép không đều trong các tháng của năm, nên trích trước để phân bổ đều vào các tháng trong năm tránh được sự đột biến về chi phí có ảnh hưởng đến lãi thuần trong các tháng của năm và số trích trước Công ty có thể tính như sau:
Mức tiền lương nghỉ phép của CNSX theo kế hoạch
=
Tiền lương thực tế phải trả cho CNSX trong tháng
´
Tỷ lệ trích trước
Tỷ lệ trích trước TL nghỉ 100%
=
Tổng TL theo KH năm của CNSX
Tổng T L chính K H năm của CNSX
´
Phép CNSX
Kết luận.
Để xây dựng và phát triển một nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường thì tiền lương, BHXH và các khoản thu nhập khác thực sự phải làm được chức năng làm đòn bẩy kinh tế, phải trở thành động lực chính để thúc đẩy tăng năng suất lao động, kích thích người lao động làm việc có hiệu quả cao. Mỗi hình thức trả lương đều có ưu nhược điểm riêng. Nhưng điều quan trọng là việc kết hợp hài hoà có khoa học giữa các hình thức trả lương cho thích hợp trong loại hình doanh nghiệp của mình để phát huy được các ưu điểm của chúng. Thực hiện đúng đắn theo nguyên tắc phân phối theo lao động, tổng hoà giữa các lợi ích: Lợi ích Nhà nước, lợi ích doanh nghiệp và lợi ích người lao động.
Công tác hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương đóng góp rất lớn trong quản lý lao động tiền lương nếu như ra hạch toán đúng, đủ, chính xác, kịp thời trong thanh toán tiền lương và các khoản trích theo lương là động lực thúc đẩy người sản xuất kinh doanh tăng năng suất lao động, phát huy tính năng động sáng tạo nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật góp phần hoàn thành và hoàn thành vựơt mức kế hoạch được giao, là phương cách đúng đắn nhất để tăng thu nhập cho chính mình, tích luỹ cho doanh nghiệp và cho xã hội. Ngược lại hạch toán không chính xác nó có thể trở thành một vật cản kìm hãm sự phát triển kinh tế, thậm chí mang lại hậu quả không tốt, công nhân biểu tình đình công, chống đối gây khó khăn cho việc khai thác, sản xuất hàng hoá.
Ngày nay trong mỗi doanh nghiệp, tiền lương trước hết là giá cả sức lao động. Nên khi xác định tiền lương tối thiểu phải tính đúng, tính đủ các yếu tố, đảm bảo đủ tái sản xuất sức lao động phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế của doanh nghiệp và của xã hội. Các yếu tố cấu thành lương tối thiểu phải bao gồm tất cả ăn, mặc, ở, sinh hoạt và một phần tích luỹ nhỏ.
Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay việc nâng cao chất lượng công tác trả lương theo sản phẩm là nhiệm vụ cơ bản lâu dài của các doanh nghiệp nói chung và Công ty Than Nội Địa nói riêng để ngày càng được hoàn thiện phù hợp với công tác quản lý và hạch toán lao động.
Vì thời gian và kiến thức còn nhiều hạn chế, đặc biệt là thời gian tiếp xúc làm việc thực tế rất ít nên không tránh khỏi những sai sót và những biện pháp đưa ra chưa hoàn hảo. Kính mong được sự quan tâm giúp đỡ chỉ bảo của các thầy cô giáo, cùng toàn thể các cô, chú thuộc phòng tổ chức nhân sự Công ty Than Nội Địa, để bài viết được hoàn thiện thêm hơn.
Cuối cùng em xin cảm ơn các thầy, cô giáo, cảm ơn TS: Nguyễn Thị Anh Thu và các cô, chú phòng tổ chức nhân sự Công ty đã giúp em trong quá trình thực tập.
Danh mục tài liệu tham khảo.
1- Nghị định số 28/CP ngày 28/03/1997: Đổi mới quản lý tiền lương thu nhập trong các doanh nghiệp nhà nước.
2- Nghị định 26/CP ngày 26/05/1998 : Hệ thống thang bảng lương.
3- Thông tư 05/2001/TT – BLĐTBXH: Hướng dẫn xây dựng đơn giá tiền lương và quản lý tiền lương, thu nhập Nhà nước trong doanh nghiệp.
4- Thông tư 14/2001/TT – BLĐTBXH: Hướng dẫn xây dựng định mức lao động, đối với các doanh nghiệp nhà nước.
5- Văn bản mới: Sửa chữa, bổ sung về chế độ quản lý tài chính quỹ BHYT. ( Báo lao động xã hội số 10 ra ngày Chủ nhật từ 3/2 đến 5/2/ 2002 trang 2)).
6- Một số ý kiến về định hướng cải cách tiền lương.
TS- Hoa Hữu Lân:Tạp chí Kinh tế và Dự Báo số 11/2001, trang18 – 19.
7- Tập thể tác giả: Đào Thanh Hải – Trần Nam Sơn – Phan Quang: Những văn bản hướng dẫn mới về tiền lương và thời gian làm việc nghỉ ngơi, BHXH, thi đua khen thưởng. ( NXB Lao Động – 2000).
8- PGS – PTS Vương Đình Huệ; PTS Nguyễn Đình Đỗ: Kế toán doanh nghiệp sản xuất. ( NXB Giáo Dục – 2001)
9- TS Nguyễn Thị Đông: Hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp ( NXB Giáo Dục - 2001).
10- Tài liệu của Công ty Than Nội Địa.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2296.doc