Trong văn liệu chúng ta có xói mòn đất tính bằng mô hình Wichmayer của Mĩ công bố từ những năm 70 của thế
kỷ trước. Và khi áp dụng thử vào Sapa thì ta cũng tính ra được hai năm. Và biết rằng xói mòn đất này phụ thuộc
vào lớp phủ. Tiếp đó chúng tôi đã lấy dữ liệu vệ tinh của từng thời kỳ một, và nhận thấy lớp phủ tăng thì xói mòn
giảm. Trong mô hình này chúng tôi không giải thích nhiều về toán. Và ngược lại, lớp phủ giảm thì xói mòn tăng.
Và đây là những biến đổi xói mòn của giai đoạn 1993 - 1999.
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1661 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hệ thông tin địa lý và khả năng ứng dụng vào khoa học xã hội nhân văn ở Việt Nam: hiện trạng và các thách thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i
phá rừng đấy lại toàn là dân nghèo. Nhưng nấp đằng
sau họ là một lực lượng khác. Đó là những ông chủ
ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh lên mua đất ở Tây
Nguyên, mua đất ở Cần Giờ, rồi khắp nơi. Nếu theo
dõi bản đồ phá rừng của Việt Nam thì chúng ta sẽ thấy
nó rơi vào các xã mà chúng ta gọi là 1351. Có người
đã kiến nghị với các anh ở bên nghiên cứu chiến lược
là chúng ta sẽ làm lại tổng kiểm kê rừng trong 10 năm
vừa rồi, ta định nghĩa lại 135 theo tiêu chí về phá rừng,
tức là liên quan đến phá rừng. Mà hiện nay với công
nghệ vệ tinh và với những dữ liệu nằm trong các máy
chủ của các cơ quan nghiên cứu không gian thế giới
thì chúng ta hoàn toàn có dữ liệu để thực hiện. Vấn
đề chỉ hơi khó ở đây là có ba từ khóa trong cụm từ
“hệ thống thông tin địa lý”. Từ thứ nhất là hệ thống
(système), từ thứ hai là thông tin (information), và từ
thứ ba là địa lý (géographique), tôi xin phân tích từng
từ cho đơn giản. Với khái niệm hệ thống (système),
chúng ta biết là có rất nhiều định nghĩa. Riêng tôi thích
khái niệm hệ thống của một nhóm thuộc Đại học tổng
hợp Lômônôxôp – Mạc Tư Khoa, khoảng những năm
1970, gọi là lý thuyết hệ thống, hay địa hệ thống (géo-
système). Trong địa lý Mác xít, người ta cũng nói nhiều
đến vấn đề hệ thống. Vậy hệ thống là gì? Hệ thống có
1 Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số hoặc miền núi.
98 Khóa học Tam Đảo 2008
nhiều cách định nghĩa, nhưng đối với riêng người làm
về thông tin địa lý thì đó là một tổng thể có nhiều hợp
phần. Các hợp phần đó tương tác với nhau để cho hệ
thống hoạt động. Và bản thân hệ thống hoạt động
đó lại có tương tác với bên ngoài. Điều này hoàn toàn
đúng với hệ thống thông tin địa lý. Trong hệ thống
thông tin nói chung và hệ thống thông tin địa lý nói
riêng thì tính hệ thống rất cao. Trước tiên mọi dữ liệu
ở đây phải được xem như là một hợp phần bắt buộc
của hệ thống. Khi nói hệ thống thì ta phải nói đến các
hợp phần.
Hợp phần quan trọng của hệ thống thông tin chính là
dữ liệu. Và nhiều khi chúng ta lại đặt câu hỏi thế nào
gọi là dữ liệu (données) và thế nào gọi là thông tin
(information). Có nhiều cách định nghĩa, song tôi định
nghĩa thông tin là phương tiện mô tả thế giới thực. Có
thể mô tả bằng nhiều phương tiện khác nhau nhưng
hiện nay chúng ta hay dùng phương tiện số. Ví dụ
bạn quay một đoạn phim về núi lửa Pinatubo năm
1991 chẳng hạn, thì đó là cách bạn mô tả thế giới thực
bằng phim ảnh. Ngoài ra bạn có rất nhiều cách mô tả
và cách cảm nhận khác nhau về thông tin. Lấy ví dụ
chúng ta thấy trời nóng là do chúng ra cảm nhận được.
Còn nếu dùng phương tiện công nghệ số, khi ta nói
hôm nay trời nóng 39oC, ta sẽ ghi chữ 39oC là xong.
Nhưng cảm nhận đầu tiên là qua xúc giác, còn sau này
mới dùng nhiệt kế để đo. Tóm lại thông tin là sự mô tả
thế giới thực bằng các phương tiện khác nhau, hoặc
là sự phản ảnh thế giới thực. Vậy thế giới thực ở đây
có gì? Nó có đối tượng, có quá trình và có hiện tượng.
Và nếu đúng như vậy chúng ta sẽ không bỏ qua bất
cứ điều gì.
Dữ liệu là gì? Rất nhiều sách đưa ra định nghĩa dữ liệu
rất đơn giản. Dữ liệu là thông tin được đem ra xử lý.
Và sau khi đã được xử lý xong rồi nó lại cung cấp cho
ta thông tin. Đó gọi là dữ liệu. Lát nữa chúng ta sẽ quay
lại vấn đề này. Để xử lý được thông tin chúng ta cũng
cần có cả một hợp phần, đó là phần mềm. Và để chạy
được phần mềm ta cần phải có máy tính. Và bây giờ,
sau khi đã có trong tay thông tin, dữ liệu, phần mềm
và máy tính, thì ta phải có người chạy được máy tính,
mà quan trọng người đó phải có đầu óc.
Lúc nãy chúng ta có nói tới tỉ lệ phụ nữ đặt vòng tránh
thai và dân tộc phải không? Và bây giờ nếu tôi cứ nghĩ
là tôi có số liệu như vậy, tôi sẽ đi tìm quan hệ giữa
tỉ lệ phụ nữ đặt vòng tránh thai với diện tích của xã
hay sao. Ở đây chẳng có quan hệ gì cả! Nhưng nếu
xét về toán học thì tôi vẫn cứ làm, chẳng ai bắt bẻ gì
được tôi cả! Nhưng trên thực tế hai biến này không
hề có quan hệ gì cả. Điều này dễ dàng được nhận
thấy trong ngành khoa học xã hội. Vì vậy việc tốt nhất
không chạy chương trình vội mà đi hỏi nhà xã hội học
là có nên chạy biến đấy không? Mà tốt nhất là nhà xã
hội học đưa ra bài toán chạy bao nhiêu biến và chính
xác là chạy biến nào cùng với biến nào. Cho nên
việc mà chúng ta quyết định thủ tục chạy ở đây là rất
quan trọng.
Vậy thì thông tin địa lý là gì? Nó là một thông tin
được gắn với một tọa độ nào đó. Vì trong văn liệu
tiếng Pháp có nhiều cách dùng thuật ngữ khác
nhau. Để chỉ thông tin địa lý, có người dùng thuật
ngữ information géopraphique, có người dùng là
information géoréférence, có khi lại là données à la
référence spaciale. Thực chất nó là thông tin có tọa
độ. Và thông tin mà có tọa độ thì là thông tin địa lý.
Còn khái niệm hệ thống thông tin xử lý các tọa độ thì
được gọi là hệ thông tin địa lý. Định nghĩa nó đơn giản
thế thôi.
Hệ thống thông tin địa lý hay hệ thống thông tin nào
khác cũng đều có một nhiệm vụ là trợ giúp quyết định.
Nó thể hiện quan hệ của các đối tượng trong không
gian. Như chúng tôi đã nói là thông tin thì phải có mô
tả. Bạn mô tả thông tin cụ thể đến đâu là tùy thuộc vào
yêu cầu của bài toán ứng dụng của bạn. Đối tượng xã
nghiên cứu được mô tả với lượng thông tin như thế nào
là do nhu cầu ứng dụng của bạn. Nếu chúng ta làm về
dân số cũng vậy thôi, và dân số thì có nhiều cách tiệm
cận. Còn nếu bạn làm về sử dụng đất thì cũng sẽ có
thông tin về sử dụng đất. Và nếu bạn muốn tìm quan
hệ về thông tin giữa sử dụng đất và dân số thì bắt buộc
bạn phải lưu trữ cả thông tin về sử dụng đất và thông
tin về dân số vào cùng một xã. Thêm nữa, ví dụ khi
nghiên cứu về tỉ lệ thất nghiệp của một thành phố, nếu
chúng ta muốn gắn nó với vấn đề tội phạm thì phải có
thêm thông tin về tỉ lệ nghiện hút, tỉ lệ tiền án, tiền sự.
Và ta thử xem xét giữa tỉ lệ nghiện hút, tiền án tiền sự
và thất nghiệp có quan hệ gì không? Như vậy, chúng
ta phải đưa được những quan hệ đó vào trong cơ sở
dữ liệu. Và nó sẽ trở thành thông tin địa lý bởi vì nó gắn
với tọa độ. Còn trong đơn vị không gian của chúng ta,
tọa độ đấy có thể là điểm.
Tuy nhiên, để gắn được thông tin, để có được một
thông tin đúng nghĩa là thông tin địa lý thì chúng ta sẽ
đề cập dần dần tới lĩnh vực kỹ thuật một chút. Trước
hết thông tin đó phải là một đối tượng đồ họa. Ta phải
vẽ ra được con đường. Phải vẽ được ra tỉnh đó và trong
tỉnh có rất nhiều huyện, trong huyện có rất nhiều xã,
HӋ thông tin ÿӏa lý làm gì?
Dӳ liӋu Thông tin Tri thӭc Hành ÿӝng
Cѫ sӣ
Tri thӭc
Cѫ sӣ
dӳ liӋu Chính sách
Phҫn cӭng
Phҫn mӅm Xã hӝi và
môi trѭӡng
99Hệ thống thông tin địa lý
trong xã có rất nhiều thôn. Song điều quan trọng là tất
cả các tỉnh, xã, thôn ấy đều phải được đặt trên một nền
hình học, một lưới chiếu nào đó như chúng ta đã nói từ
ban đầu. Vì vậy điều kiện tiên quyết của thông tin địa
lý là phải có tọa độ.
Điều quan trọng thứ hai là các đối tượng đó phải được
mô tả. Vì vậy người ta nói rằng ngoài cặp tọa độ tạm
gọi là XY thì đối tượng đó phải được mô tả bằng một số
N thuộc tính nào đó. Tôi lấy ví dụ ta mô tả một xã. N có
thể là 10, có thể là 100 tùy thuộc bài toán, tùy thuộc
ứng dụng đúng không nào? N có thể là 10 trường dữ
liệu về dân số, nhưng có thể chỉ là hai hoặc ba trường
dữ liệu, có nghĩa tôi chỉ quan tâm đến tỉ lệ sinh đẻ hàng
năm, tỉ lệ tử vong dưới sáu tuổi, chẳng hạn. Nếu muốn
nghiên cứu một cách tổng thể nhiều mối quan hệ thì
số N đó sẽ lớn hơn. Như vậy bạn muốn gắn bao nhiêu
thuộc tính vào đối tượng là phụ thuộc vào bài toán ứng
dụng, không có quy định nào cả. Chỉ có một điều bắt
buộc là các thông tin đó phải có tọa độ, phải gắn vào
đơn vị hành chính, đơn vị không gian nào đó.
Bây giờ, tôi sẽ nói qua về đối tượng mà chúng ta gọi là
thông tin có tọa độ. Hiện nay có nhiều cách mô tả thế
giới thực như ta đã nói, trong đó có cách mô tả bằng
phương pháp Vectơ, tức là phương pháp đồ họa. Tất cả
mọi thứ trên đời đều có thể mô tả bằng điểm, đường và
vùng miền. Vì lẽ đó mà bản đồ mới hình thành. Núi non
được mô tả thành các đường đồng mức. Sông ngòi
được mô tả bằng các nét vẽ. Và tất cả những nét vẽ,
đường đồng mức đó đều được hình thành từ ba yếu tố
cơ bản. Yếu tố thứ nhất là điểm, đường và miền.
Thuật ngữ chuyên môn trong nghề gọi dữ liệu đó là
dữ liệu Vectơ, bởi vì nó có tọa độ, có hướng, nó nằm
trong hệ tọa độ, và mô tả thế giới thực bằng đường nét,
bằng điểm, bằng miền. Thêm nữa là những vectơ đó
lại phải được mô tả bằng các thuộc tính. Ví dụ khi ta
mô tả một cái hồ, đầu tiên ta có thể vẽ đường hồ ra, rồi
sau đó thêm thuộc tính về độ sâu, độ mặn và các yếu
tố khác, ví dụ như số nông hộ canh tác, đánh bắt thủy
sản nước ngọt của hồ. Nếu hồ nước này liên quan đến
một chính sách xã hội nào đó (ví dụ như gia đình chính
sách được hưởng lợi) thì các thuộc tính này cũng cần
phải được tính đến. Trong phần thuộc tính này, vấn đề
chúng ta hết sức quan tâm là phải dữ liệu phải được
cập nhật hàng năm.
Và còn một vấn đề kỹ thuật mà có thể các nhà xã hội
học nên tính đến đó là quan hệ không gian của các
vectơ, của những đồ họa, mà nó liên quan tới độ tin
cậy của dữ liệu để chúng ta có thể tiến hành được.
Lấy ví dụ trên bản đồ chúng ta có đường Ngã Tư Sở,
các bạn có hình dung ra cầu vượt Ngã Tư Sở không?
Và cắt với đường Ngã Tư Sở là đường Trường Chinh.
Nếu chúng ta không định nghĩa quan hệ không gian
thì một người ở ngoại tỉnh về Hà Nội muốn rẽ sang
đường Trường Chinh có thể sẽ bê xe máy của ông ấy
đến giữa cầu rồi nhảy xuống vì ông ấy máy móc. Bởi vì
nhìn trên bản đồ thì thấy ở đấy có hai đường cắt. Còn
nếu chúng ta làm dữ liệu một cách tử tế, chúng ta sẽ
nói ở đấy không có đường giao cắt. Riêng việc định
nghĩa có đường cắt và không có đường cắt là ta đã
làm được một việc là định nghĩa quan hệ không gian.
Trong thuật ngữ khoa học gọi là topologie. Vì gốc của
thuật ngữ này đều từ toán Topo mà ra. Sau này chúng
ta còn tính toán cả lưu lượng nước và rất nhiều các bài
toán liên quan đến quan hệ không gian.
Và đây là phạm trù công nghệ, chúng tôi xin nhắc nhở
các nhà xã hội học mỗi khi nhận dữ liệu phải đòi hỏi
người cung cấp đảm bảo cho mình đầy đủ ba điều.
Một là anh dùng hệ tọa độ nào. Hai là các mô tả thuộc
tính đi theo đối tượng nằm ở đâu. Ba là dữ liệu đồ họa
đã có quan hệ không gian chưa. Nếu không có quan
hệ không gian thì bạn xin mời họ về làm lại. Bởi vì
công sức bỏ ra làm về quan hệ không gian chiếm tới
60% - 70% công làm dữ liệu. Nó rất đắt! Nếu không
có quan hệ không gian, ta không thể làm được bất kỳ
phép phân tích nào. Chúng ta nhìn bản đồ thì thấy nó
mang tính trực quan thật nhưng đó lại là cả một kết
quả phân tích. Vì vậy nếu dữ liệu không hoàn chỉnh,
ta không thể làm được phép tính bản đồ, và kết quả là
không ra được bản đồ.
Chúng ta có thể thấy trong số những ngành học cần
tới hệ thống thông tin địa lý thì có tin học, toán, toán
thống kê, khoa học trắc địa, đo đạc trắc địa. Tất cả
những môn học này đều liên quan đến bản đồ. Còn
nói đến viễn thám là cung cấp thông tin thì rất tiếc
tôi lại không có thời giờ để trình bày sâu hơn ở đây,
nhưng đó là nguồn thông tin vô cùng lợi hại. Còn với
những kiến thức về các môn khoa học khác như khoa
học ứng dụng là việc tôi đang làm, và khoa học xã hội
nhân văn thì càng ngày người ta càng nhận thức được
chúng hết sức quan trọng trong việc giải các bài toán
ứng dụng hệ thống thông tin địa lý. Không có những
kiến thức này, chúng ta sẽ lý giải số liệu rất sai. Đây là
vấn đề chúng ta hay gặp phải hiện nay.
Ở Việt Nam hiện nay đã có chuẩn tọa độ là VN 2000.
Tháng 7 năm 2000, Thủ tướng chính phủ đã ký văn
bản quy định từ nay Việt Nam sẽ dùng lưới chiếu VN
2000. Chúng ta không cần quan tâm tới các định nghĩa
kỹ thuật của nó, nhưng cần biết là chúng ta sử dụng
một cách có bản quyền hợp pháp là phải sử dụng
VN 2000.
Thêm nữa là trình độ của Việt Nam trong lĩnh vực này
cũng được nâng lên và may mắn là giới công nghiệp
tư nhân bắt đầu quan tâm tới hệ thống thông tin địa lý.
Đáng tiếc là các trường đại học chưa có nhiều chuyên
gia giỏi trong lĩnh vực này. Chủ yếu là các viện nghiên
cứu. Song có một may mắn là một số trường ý thức
được tầm quan trọng của lĩnh vực đó nên đã đưa vào
giảng dạy. Ví dụ ở phía Nam có trường Đại học Cần
Thơ, tôi cũng vừa có một khóa dạy tại trường này
trong khuôn khổ hỗ trợ của Cơ quan Đại học Pháp
ngữ (AUF). Chương trình AUF hỗ trợ cho các trường
phía Nam thì trong đó có Đại học Cần Thơ, Đại học
Xã hội nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh. Đó là những
nhóm rất mạnh. Các bạn ở phía Nam có thể liên hệ với
100 Khóa học Tam Đảo 2008
những địa chỉ này. Ngoài ra còn có Đại học Nông lâm
Thủ Đức, Đại học Khoa học tự nhiên Thành phố Hồ
Chí Minh, Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh.
Song cách thức làm việc mỗi nơi một kiểu. Ngoài Bắc
cũng vậy. Xét ở bình độ quốc gia, Việt Nam đã chấp
nhận chuẩn ISO TC và OPEN GF là hai chuẩn quốc tế
về việc làm dữ liệu đảm bảo có hình học, có thuộc tính,
có quan hệ không gian như tôi vừa nói.
Một điều nữa mà tất cả chúng ta nên biết là Việt Nam
đã vẽ xong bản đồ 1 : 50 000 toàn quốc. Và dự kiến là
tới năm 2013 sẽ kết thúc lớp phủ 1 : 10 000 của toàn
quốc. Và với tỉ lệ 1 : 10 000 thì các dự án về khoa học
xã hội sẽ làm được rất nhiều việc.
Còn về dữ liệu bản đồ, ở Việt Nam là nếu muốn tiếp
cận với các dự án, các bạn có thể làm công văn xin
trung tâm thông tin tư liệu của Bộ tài nguyên môi
trường là người ta sẽ cấp, không còn khó khăn như
ngày xưa nữa! Xin cũng không khó!
Như vậy, chúng ta có thể nói gọn là chức năng tổng
thể của hệ thông tin địa lý là trợ giúp quyết định. Hiện
nay trong văn liệu tiếng Anh người ta dùng một từ rất
mốt là DSS (decision support system). Vậy nó giúp
quyết định điều gì? Quyết định đó có thể liên quan
đến công tác nghiên cứu, chứ không nhất thiết chỉ liên
quan đến nhà quản lý. Khi người ta gọi là DSS thì rất
nhiều người nghĩ nó chỉ thật sự muốn trợ giúp các nhà
quản lý. Nhưng khi chúng tôi tiếp cận sâu hơn thì nhận
thấy nó trợ giúp quyết định trong nghiên cứu và ban
hành các chính sách công. Nhà nghiên cứu quan tâm
tới việc giữa đối tượng này với đối tượng kia có quan
hệ hay không. Thực chất việc đi tìm các mối quan hệ,
trả lời câu hỏi về các mối quan hệ là một trong những
trọng điểm của nghiên cứu về học thuật, nghiên cứu
hàn lâm. Và như vậy hệ thống này cũng có thể trợ
giúp quyết định nghiên cứu trong vấn đề quy hoạch
lãnh thổ hay thực thi. Song, xét về chi tiết để thực hiện
sứ mạng đấy thì nó phải có khả năng thu thập dữ liệu,
quản lý, phân tích, xuất dữ liệu, cách thức phân tích.
Còn thu thập dữ liệu gì là tùy thuộc vào bài toán của
bạn cần dữ liệu gì thì bạn sẽ đưa vào dữ liệu đó.
Như vậy tôi xin nhắc lại là chỉ có mấy lớp dữ liệu thôi.
Đầu tiên là dữ liệu nền. Ngoài ra có rất nhiều dữ liệu về
chuyên đề. Bởi vì diễn đàn này là diễn đàn kinh tế xã
hội nên tôi chỉ trích dẫn một số dữ liệu về địa lý về kinh
tế xã hội như là dân số, kinh tế. Trong kinh tế có bao
nhiêu chỉ tiêu, bao nhiêu chỉ số phải đưa vào đây. Bên
cạnh đó còn việc sử dụng đất và những vấn đề, hiện
tượng xã hội khác. Ngoài ra còn những thông tin về hạ
tầng cơ sở, đường sá, giao thông, tuyến.
Ví dụ về thông tin kinh tế xã hội như số lượng các cửa
hàng karaoke ở Hà Nội thì các bạn thấy có đáng quan
tâm không? Rất nhiều người quan tâm! Bên văn hóa,
bên công an, và các nhà đầu tư, bán thiết bị nghe nhìn,
người cho thuê đất, v.v... tất thảy đều quan tâm. Và hiện
nay ở Hà Nội có một công ty gọi là công ty BDT – hay
gọi là GEOBIZ – chuyên làm dữ liệu về karaoke, bán
điện thoại di động ở Hà Nội, cúm gà, HIV. Và trong số
những giảng viên tham gia cùng với tôi ở Tam Đảo có
anh Lê Thắng là giám đốc phụ trách kỹ thuật của công
ty GEOBIZ. Công ty này chuyên làm các thống kê về
karaoke để phục vụ cho những người bán thiết bị âm
thanh, cách âm và đồ nội thất. Những người đó rất cần
thông tin là ở Hà Nội có bao nhiêu cửa hàng để đầu tư
và đưa thiết bị tới. Và còn có những người muốn mở
cửa hàng karaoke họ cũng cần biết là ở khu phố họ
định mở đã có quán nào chưa, và tụ điểm đấy có giờ
cao điểm, giờ thấp điểm nên liệu có đủ lượng khách để
người ta kinh doanh hay không? Tất cả những câu hỏi
như thế phải được dữ liệu hóa và đưa vào đây.
Người sử dụng hệ thống thông tin địa điều khiển hệ
thống theo các thủ tục. Và các thủ tục đó phải xây
dựng trên nền cơ sở tri thức. Mà đã nói tới cơ sở tri
thức thì không thể nào có một chuyên môn được mà
phải liên ngành.
Trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu chúng tôi có đưa ra
bốn hợp phần. Một là giới quản lý. Thứ hai là chuyên
gia về chuyên ngành để xây dựng bài toán. Thứ ba
là những kiến thức bản địa. Thứ tư mới là công nghệ
thông tin.
Vậy hệ thống thông tin địa lý làm công việc gì? Đó là
chuyển dữ liệu thành thông tin có ích, và từ thông tin
có ích thành các tri thức cần thiết để giúp cho ra quyết
định hành động. Ví dụ tôi có mũi tên hàm ý chỉ tri thức
tác động đến chính trị và tôi để màu xanh! Bởi vì hàng
ngũ lãnh đạo của tất cả các chính phủ, không ngoại
trừ nước nào, đều có kiểu thực hiện riêng của họ.
Nhiều khi mình chỉ là tham khảo thôi.
Tôi hi vọng nếu chúng ta làm việc thật nghiêm túc, tức
là có đầy đủ dữ liệu, tọa độ, thuộc tính của ta hoàn
chỉnh, độ tin cậy cao, có quan hệ không gian đàng
hoàng, bài toán hay, thì chúng ta có thể tác động lên
chính phủ, và nhất là nếu có cơ hội gặp được các vị
lãnh đạo quan tâm nữa thì chúng ta hoàn toàn có thể
gây tiếng nói với chính phủ.
Và đến đây chúng ta lại phải thống nhất rằng hệ thống
thông tin địa lý đúng nghĩa nó là cả một hệ thống.
Hiện nay có thêm một nguồn cung cấp thông tin cho
hệ thống là ảnh vệ tinh. Các nhà xã hội học lại nóng
lòng muốn biết là khi bạn chụp ảnh thì tôi sẽ lấy được
thông tin gì? Nó không hề đơn giản! Ví dụ khi chúng
tôi đặt vấn đề là chúng tôi sẽ theo dõi việc biến động
sử dụng đất thông qua vệ tinh để xem có mối quan hệ
giữa rác thải sinh hoạt nông thôn với biến đổi sử dụng
đất không, thì rất nhiều người trong hội đồng thẩm
định đề tài đó không đồng ý. Và họ đều nói làm sao
vệ tinh lại nhìn thấy rác? Bây giờ làm thế nào giải thích
yêu cầu của họ? Trong khi vệ tinh chụp lại hình ảnh
dựa vào bức xạ của đối tượng. Thành ra việc rất khó!
Và để tách được hình ảnh ra phải dùng rất nhiều tính
toán. Ngoài ra nếu muốn xem xét thông tin đó có liên
quan gì với đối tượng mặt đất không thì bạn phải dùng
cả hai phương pháp khoa học này. Chứ không thể chỉ
chụp ảnh là có ngay kết quả.
101Hệ thống thông tin địa lý
Vậy câu hỏi đặt ra là nếu chụp từ vệ tinh thì ta sẽ nhìn
thấy gì và không nhìn thấy gì?
Đó là hình ảnh thành phố Hà Nội, các bạn có nhận ra
không? Khu vực này chúng ta gọi là phố cổ đây, hay
tạm gọi là Phố cũ. Còn đây là phố mới, như các bạn
thấy nó giống hệt nhau. Bởi vậy, nếu chỉ nhìn thì bạn
không thể biết đâu là phố cổ, đâu là phố mới, dù có
phần mềm hệ thống thông tin địa lý 3 chiều. Nhiều
nhà xây ở ngoài bờ sông Bạch Đằng trông còn đẹp
hơn ở trong phố. Vì xây trong phố bạn sẽ bị va chạm
với hàng xóm và bị cấm đoán nên bạn không thể xây
đẹp bằng. Còn một điều nữa các bạn cũng không thể
thấy được là thu nhập bình quân đầu người ở đây chỉ
có 700.000 đồng, còn thu nhập ở đây cao gấp mười
lần. Mà nếu nhìn nhà thì giống nhau. Điều bạn không
bao giờ thấy được chính là nằm ở chỗ này. Chính vì
vậy người ta mới phải điều tra. Chúng ta cần phải phối
hợp hành động với nhau, và ý tôi muốn nói là phải có
sự phối hợp liên ngành.
Đến đây chúng ta đã có thể tích hợp với rất nhiều thông
tin. Và ở đây bạn phải làm việc rất nhiều về lớp thông
tin. Vậy bạn phải phối hợp với cả một nhóm chuyên
ngành, liên ngành để xử lý được nhiều lớp thông tin.
Tiếp theo là bạn phải có các cách tiệm cận khác nhau.
Chúng ta cùng xem đây. Hai khu này là có ngữ cảnh
khác nhau. Khu này nằm ngoài bờ đê sông Hồng và
chỗ này được gọi là xóm liều. Còn khu này gọi là khu
buôn bán. Ta nói ngữ cảnh là theo nghĩa đó! Bạn đặt
ngữ cảnh vào thì bạn sẽ vẫn có ngôi nhà đấy. Nếu bạn
đặt nó vào ngữ cảnh khác thì nó khác. Trong lĩnh vực
này, người ta gọi đó là cách tiệm cận theo ngữ cảnh.
Bây giờ tôi xin lấy ví dụ về Sapa
102 Khóa học Tam Đảo 2008
Những bức ảnh vệ tinh này do sinh viên năm thứ tư khoa địa lý của tôi vừa tốt nghiệp xử lý. Để ta thấy rằng là
việc cũng không có gì ghê gớm lắm ! Và mục tiêu của bài toán ở Sapa là gì? Đó là tìm xem ở Sapa có bao nhiêu
kiểu biến đổi sử dụng đất cũng như giữa việc thay đổi sử dụng đất và những đặc điểm kinh tế xã hội của các xã ở
Sapa có mối quan hệ gì không? Hay cách thức biến đổi sử dụng đất của người H’mông có gì khác so với người
Dao, người Tày, người Dáy không? Đó là vấn đề chúng ta quan tâm.
Rất may chúng tôi có trong tay số liệu điều tra của World Bank cho 83 xã được làm rất bài bản, nên tôi nghĩ chúng
ta hoàn toàn dùng được số liệu đó.
Phân tích thӕng kê
C¬ së d÷ liÖu
83 ®¬n vÞ th«n b¶n
C¬ cÊu
d©n téc
Kh¶ n¨ng
tiÕp cËn vw
møc sèng
D©n sè
vw lao
®éng
S¶n xuÊt
NN
Sè liÖu ®iÒu tra kinh tÕ
x· héi n¨m 2006
DT líp phñ
n¨m 2006
BiÕn ®éng líp
phñ 1993-2006
Sè liÖu xö lÝ ¶nh vÖ tinh
vw ph©n tÝch kh«ng gian
5 biÕn d©n téc
11 biÕn kinh tÕ x·
héi
5 biÕn DT líp phñ
2006
8 biÕn biÕn ®éng
líp phñ 1993-
2006
Ph©n tÝch
thnh phÇn
chÝnh
§¸nh gi¸: sù ph©n ho¸ vÒ kinh tÕ v s¶n
xuÊt n«ng nghiÖp víi biÕn ®éng líp phñ
gi÷a c¸c nhãm d©n téc
Phân tích thӕng kê
C¬ së d÷ liÖu
83 ®¬n vÞ th«n b¶n
C¬ cÊu
d©n téc
Kh¶ n¨ng
tiÕp cËn vw
møc sèng
D©n sè
vw lao
®éng
S¶n xuÊt
NN
Sè liÖu ®iÒu tra kinh tÕ
x· héi n¨m 2006
DT líp phñ
n¨m 2006
BiÕn ®éng líp
phñ 1993-2006
Sè liÖu xö lÝ ¶nh vÖ tinh
vw ph©n tÝch kh«ng gian
5 biÕn d©n téc
11 biÕn kinh tÕ x·
héi
5 biÕn DT líp phñ
2006
8 biÕn biÕn ®éng
líp phñ 1993-
2006
Ph©n tÝch
thnh phÇn
chÝnh
§¸nh gi¸: sù ph©n ho¸ vÒ kinh tÕ v s¶n
xuÊt n«ng nghiÖp víi biÕn ®éng líp phñ
gi÷a c¸c nhãm d©n téc
BiӃn ÿәi hiӋn trҥng lӟp phӫ và quan hӋ
vӟi các nhóm H’Mông, Y’Dao
Variables (axes F1 and F2: 50.84 %)
DCT06
CB06
RT06
RTS06 RKTX06
RT-DCT63
DCT-CB63
DCT-RT63
DCT-RTS63
CB-DCT63
CB-RT63
RT-CB63
RT-RTS63
RTS-DCT63
RKTX-
RTS63
Y
H
-1
-0.75
-0.5
-0.25
0
0.25
0.5
0.75
1
-1 -0.75 -0.5 -0.25 0 0.25 0.5 0.75 1
F1 (31.80 %)
F2
(1
9.
04
%
)
Tªn biÕn:
D©n téc : Hm«ng, Y: Dao
DiÖn tÝch líp phñ n¨m 2006:
RKTX06: Rõng kÝn thoêng xanh
RTS06: Rõng thø sinh
RT06: Rõng trång
CB06: Cá bôi
DCT06: §Êt canh t¸c
Sù chuyÓn ®æi c¸c lo¹i h×nh líp phñ giai ®o¹n
1993-2006:
RKTX-RTS63: Rõng thø sinh chuyÓn sang rõng
kÝn thoêng xanh
RTS-DCT63: §Êt canh t¸c chuyÓn thwnh rõng
thø sinh
RT-RTS63: Rõng thø sinh chuyÓn thwnh rõng
trång
RT-CB63: Cá bôi chuyÓn thwnh rõng trång
CB-RT63: Rõng trång chuyÓn thwnh cá bôi
CB-DCT63: §Êt canh t¸c chuyÓn thwnh cá bôi
DCT-RT63: Rõng trång chuyÓn thwnh ®Êt canh
t¸c
DCT-RTS63: Rõng thø sinh chuyÓn thwnh ®Êt
canh t¸c
DCT-CB63: Cá bôi chuyÓn thwnh ®Êt canh t¸c
BiӃn ÿәi hiӋn trҥng lӟp phӫ và quan hӋ
vӟi các nhóm H’Mông, ’Dao
Variables (axes F1 and F2: 50.84 %)
DCT06
CB06
RT06
RTS06 RKTX06
RT-DCT63
DCT-CB63
DCT-RT63
DCT-RTS63
CB-DCT63
CB-RT63
RT-CB63
RT-RTS63
RTS-DCT63
RKTX-
RTS63
Y
H
-1
-0.75
-0.5
-0.25
0
0.25
0.5
0.75
1
-1 -0.75 -0.5 -0.25 0 0.25 0.5 0.75 1
F1 (31.80 %)
F2
(1
9.
04
%
)
Tªn biÕn:
D©n téc : Hm«ng, Y: Dao
DiÖn tÝch líp phñ n¨m 2006:
RKTX06: Rõng kÝn thoêng xanh
RTS06: Rõng thø sinh
RT06: Rõng trång
CB06: Cá bôi
DC 06: §Êt canh t¸c
Sù chuyÓn ®æi c¸c lo¹i h×nh líp phñ giai ®o¹n
1993-2006:
RKTX-RTS63: Rõng thø sinh chuyÓn sang rõng
kÝn thoêng xanh
RTS-DCT63: §Êt canh t¸c chuyÓn thwnh rõng
thø sinh
RT-RTS63: Rõng thø sinh chuyÓn thwnh rõng
trång
RT-CB63: Cá bôi chuyÓn thwnh rõng trång
CB-RT63: Rõng trång chuyÓn thwnh cá bôi
CB-DCT63: §Êt canh t¸c chuyÓn thwnh cá bôi
DCT-RT63: Rõng trång chuyÓn thwnh ®Êt canh
t¸c
DCT-RTS63: Rõng thø sinh chuyÓn thwnh ®Êt
canh t¸c
DCT-CB63: Cá bôi chuyÓn thwnh ®Êt canh t¸c
103Hệ thống thông tin địa lý
Cũng tương tự như vậy người ta tìm hiểu quan hệ giữa các yếu tố như hệ thống canh tác, khoảng cách đến đường
giao thông - gọi là cơ hội tiếp cận - và mức sống của hai nhóm dân tộc này, và cũng nhận thấy trong đó có sự
phân dị.
Ở đây chúng ta dùng phép phân tích thành phần chính thì nhận thấy các hệ số này cao thì có nghĩa nó biến đổi
ở nhiều phía. Ở đây chúng tôi tiến hành ở những địa điểm có ý nghĩa, tức là những nơi mà con số này lớn, dù là
số âm hay số dương.
Ở đây có ba nhóm cần phân tích. Một là dân tộc, hai là hệ thống canh tác, ba là mức sống và cách tiếp cận.
Quan hӋ: hӋ thӕng canh tác, khoҧng cách ÿѭӡng xá và mӭc sӕng
cӫa các nhóm H’Mông và Y’Dao
Variables (axes F1 and F2: 53.04 %)
KC_DUONG
XM
DAI
TV
DTtq
Slngo Slthoc
Lon
Trau
TLDE
NLD
Y
H
-1
-0.75
-0.5
-0.25
0
0.25
0.5
0.75
1
-1 -0.75 -0.5 -0.25 0 0.25 0.5 0.75 1
F1 (29.88 %)
F2
(2
3.
16
%
)
Dân tӝc: H-Hmông, Y-Dao
Sҧn xuҩt nông nghiӋp: DTTQ: diӋn tích thҧo quҧ
TRAU: trâu
SLNGO: sҧn lѭӧng ngô
SLTHOC: sҧn lѭӧng thóc
LON: lӧn
NLD: sӕ ngѭӡi lao ÿӝng
0.431-0.474KC_DUONG
0.349-0.125XM
0.268-0.043DAI
0.285-0.074TV
-0.0560.461DTtq
0.1640.116Slngo
0.1390.286Slthoc
-0.0250.352Lon
0.3550.234Trau
0.587-0.527TLDE
-0.0710.664NLD
1-0.585Y
-0.5851H
YHBiӃn
Mӭc sӕng và khҧ năng tiӃp cұn:
DAI: ÿài
TV: ti vi
XM: xe máy
TLDE: tӍ lӋ hӝ dùng ÿiӋn
KC_DUONG: khoҧng cách tӟi ÿѭӡng
Mӭc sӕng và hӋ thӕng canh tác ӣ quy mô nông hӝ
Dân tӝc:
H’Mong, Y’Dao, Tay, Day
Mӭc sӕng và khoҧng cách ÿӃn ÿѭӡng:
NGHEO: Hӝ nghèo
NHAds: Nhà ÿѫn sѫ NHAkg: Nhà khung gӛ,
NHAbkc: Nhà xây, TV: Sӕ lѭӧng tivi,
XM: Sӕ lѭӧng xe máy, DAI: Sӕ lѭӧng Radio
DLE: Sӕ lѭӧng hӝ có ÿiӋn lѭӟi
HӋ thông canh tác:
DTLL: DiӋn tích lúa lai; DTNL: DiӋn tích ngô lai; DTLdp: DiӋn tích lúa
giӕng ÿӏa phѭѫng; DTNdp: DiӋn tích ngô giӕng ÿӏa phѭѫng,
DTS: DiӋn tích sҳn; SLL: Sҧn lѭӧng lúa, SLN: Sҧn lѭӧng ngô, SLtq:
Sҧn lѭӧng thҧo quҧ; Sllon: Sҧn lѭӧng lӧn
-0.109-0.2160.0790.267Sllon
0.938-0.326-0.327-0.312DTS
-0.2030.395-0.2830.083SLN
-0.3480.343-0.3240.335DTNdp
0.0130.338-0.175-0.197DTNL
0.055-0.2980.425-0.176SLL
0.1110.1180.000-0.244DTLdp
-0.079-0.1710.400-0.143DTLL
-0.5060.0350.754-0.273SLtq
-0.5570.1790.644-0.261TQ
-0.4020.157-0.3830.652DLE
0.374-0.4550.515-0.438MPE
-0.1620.1010.0540.009DAI
-0.207-0.2740.4290.073TV
-0.112-0.3510.4780.006XM
0.0480.121-0.2060.032NHAds
-0.428-0.0260.0390.443NHAkg
0.335-0.0860.143-0.411NHAbkc
-0.0180.443-0.330-0.117NGHEO
1-0.369-0.338-0.322TAY
-0.3691-0.343-0.327HM0NG
-0.338-0.3431-0.300DAO
-0.322-0.327-0.3001DAY
TAYHM0NGDAODAYBIӃn
V a r i a b l e s (a x e s F 1 a n d F 2 : 4 0 . 7 8 % )
S l l o n
D T S
S L N
D T N d p
D T N L S L L
D T L d p
D T L L
S L tq
T Q
D L E
M P E
D A I
T V
X M
N H A d s
N H A k g
N H A b k c
N G H E O
T A Y
H M 0 N G D A O
D A Y
-1
-0 .7 5
-0 .5
-0 .2 5
0
0 .2 5
0 .5
0 .7 5
1
-1 -0 .7 5 -0 .5 -0 .2 5 0 0 .2 5 0 .5 0 .7 5 1
F 1 (2 2 . 7 2 % )
F2
(1
8.
06
%
)
104 Khóa học Tam Đảo 2008
Chúng ta cũng thấy có những khung cảnh phân dị rất
lớn giữa hai nhóm H là H’mông và Y là Dao. Phân dị
này có thể được chỉ số hóa bằng số lượng tivi, số lượng
radio, số lượng các hộ dùng điện. Còn hệ thống canh
tác được chỉ số hóa bằng diện tích thảo quả, sản lượng
lúa, ngô, lợn và trâu, cả cả số lượng lao động. Đây là
các biến đổi chỉ số mà các nhà xã hội học và các nhà
kinh tế học phải gán vào từ con số một. Qua việc phân
tích ví dụ này ta thấy rõ sự phân dị.
Bây giờ chúng ta đi xuống quy mô xã. Khi nghiên cứu
từng hộ chúng tôi cũng nhận thấy vấn đề tương tự như
vậy, giữa các hộ dân tộc Tày và Dao có phân dị rất rõ
về mức sống. Và sau khi đã có con số cụ thể như thế
này, bạn có thể mô tả bằng gam màu trên bản đồ. Mỗi
một giá trị sẽ được thể hiện bằng một màu khác nhau,
và như vậy ta sẽ thấy có bốn dân tộc với bốn màu
tương ứng. Mỗi màu nói lên điều gì? Có nghĩa ở nơi
đó có mối liên quan với việc xuất khẩu thảo quả. Ví dụ
điểm này là có liên quan, mặc dù đời sống cao nhưng
lại xa đường giao thông. Lý do vì sao? Vì họ sống
nhờ thảo quả! Và nó có một hệ số tương quan. Còn
khu vực dân tộc H’mông thì họ ít phương tiện hơn, họ
nghèo hơn vì một phần không trồng thảo quả, và một
phần cũng do họ phá rừng nhiều hơn dân tộc kia! Qua
việc biến đổi lớp phủ rừng cho thấy người H’mông vẫn
tiếp tục du canh du cư ở những xã chúng tôi đã nghiên
cứu. Trong khi đó ở những xã mà người H’mông được
cuốn hút vào du lịch thì rừng hầu như không bị phá,
còn ruộng nương người ta bỏ hết!
Nhưng đây không phải là trường hợp nghiên cứu của
chúng tôi. Bốn xã chúng tôi nghiên cứu đều không có
gì liên quan đến du lịch. Tất cả những chỉ số này đều
được thể hiện bằng màu sắc cụ thể trên bản đồ và ai
cũng biết. Tất cả các chỉ số đều có ở đó! Rất dễ nhận
thấy! Và đằng sau các chỉ số đó là các phép phân tích.
Tiếp theo sau các phép phân tích là dữ liệu và quan
trọng hơn cả là bài toán do cả một nhóm nghiên cứu
đặt ra. Đó là những nhà nhân học và xã hội học cùng
với chúng tôi đặt ra, chứ tôi không có chuyên môn
trong lĩnh vực này.
Bây giờ tôi xin chuyển qua vấn đề vật lý. Chúng ta đã
nói nhiều đến xói mòn đất.
A = R*K*L*S*C*P
R= n6i=1EI30
100K=2.1*10-4M1.14(12-OS)+ 3.25(A-2)+ 2.5(D-3)
LS = (L/22.1)0.6 * >sin (S*0.01745)/0.09@1.3 *
0.6
0.06Agriculture Land
0.7Bush
0.02Plantation
0.003Restoration
0.001Evergreen Forest
CVegetation Coverage
Mô hình hóa quá trình xói mòn
105Hệ thống thông tin địa lý
Trong văn liệu chúng ta có xói mòn đất tính bằng mô hình Wichmayer của Mĩ công bố từ những năm 70 của thế
kỷ trước. Và khi áp dụng thử vào Sapa thì ta cũng tính ra được hai năm. Và biết rằng xói mòn đất này phụ thuộc
vào lớp phủ. Tiếp đó chúng tôi đã lấy dữ liệu vệ tinh của từng thời kỳ một, và nhận thấy lớp phủ tăng thì xói mòn
giảm. Trong mô hình này chúng tôi không giải thích nhiều về toán. Và ngược lại, lớp phủ giảm thì xói mòn tăng.
Và đây là những biến đổi xói mòn của giai đoạn 1993 - 1999.
Có quan hӋ gì giӳa dân tӝc và
xói mòn ÿҩt?
LiӋu có quan hӋ gì giӳa kiӇu sӱ
dөng ÿҩt, nhóm dân tӝc thiӇu sӕ và
xói mòn ÿҩt không?
Chúng tôi đặt ra câu hỏi cho các nhà xã hội học là
liệu hình thức du canh du cư của người dân tộc có
liên quan gì tới biến đổi này không? Ngoài ra còn có
sự phân bố của các nhóm dân tộc, nơi nào có nhiều
người H’mông ở thì xói mòn ít hay nhiều? Câu hỏi cũng
tương tự như vậy đối với người Dao? Vấn đề này cần
phải tiếp tục nghiên cứu.
Ví dụ thứ hai tôi xin nói nhanh là có một câu hỏi nghiên
cứu đặt ra là liệu có quan hệ gì giữa lượng rác thải
sinh hoạt rắn với các điểm kinh tế xã hội của từng xã
ở Duy Tiên không? Người ta nhận thấy là có. Ở các
xã thuần nông nghiệp thì chúng ta thấy ở cột này chỉ
lượng rác, và chúng tôi đã cân lên rồi tính theo nông
hộ, đầu người.
Agriculture/Déchets
.630-.604agri_area_pc
.911.103wood_cooker
.935.262rice_area
.527.770
public_servive_area
.307.917IC_income
-.071.951Industry_hh
21
Component
Thuҫn nông/ Rác thҧi
106 Khóa học Tam Đảo 2008
Và với chừng này lượng rác thì chúng không thay đổi theo hàng tháng nhưng những gam màu này của các xã
nó sẽ thay đổi.
Đây là thị trấn Đồng Văn và Hòa Mạc, lượng rác đương
nhiên là cao hơn những vùng thuần nông rồi! Còn ở
đây có những xã thuần nông nhưng lượng rác cao vì
đó là làng nghề. Rất khó tách biệt vì thuần nông cộng
với làng nghề, mà làng nghề thì không hẳn thuần nông
nhưng cũng không hẳn là làng nghề.
Bây giờ chúng ta nói đến quan hệ giữa thu nhập phi
nông nghiệp và rác thải.
-.743.195Industry_hh
.757-.295agri_land_per_hh
.868.161agri_area_pc
-.493.627Trade_hh
.059.829Construction_hh
-.108.882Service_hh
-.245.882Transport_hh
21
Component
Thu nhұp phө / Rác thҧi
-.695-.567
agri_land_per_pe
.725-.223
resident_area00_06
.766.075
pop_growth
-.165.821
public_servive_area
-.254-.862
AFA_pc_income
-.044.923
IC_income
21
Component
Phi Nông nghiӋp/
Rác thҧi
107Hệ thống thông tin địa lý
Các bạn nhìn thấy những nhóm nằm phía dưới này,
thực tế chúng liên quan tới vấn đề dân số nhiều hơn là
thu nhập. Mà liên quan tới dân số khi chúng ta đang
nói về rác thải, thì trong trường hợp này nó liên quan
đến mật độ dân số, còn ở phía này chủ yếu liên quan
đến thu nhập. Khi tiến hành điều tra chúng ta phát hiện
ra một điều là những nơi càng mở rộng đất xây dựng
thì rác thải càng nhiều, và kết quả thu nhập cũng cao,
nên có thể rác sinh hoạt cũng nhiều hơn.
-.695-.567agri_land_per_pe
.725-.223resident_area00_06
.766.075pop_growth
-.165.821public_servive_area
-.254-.862AFA_pc_income
-.044.923IC_income
21
Component
Mӣ rӝng ÿҩt xây
dӵng/ Rác thҧi
Và đi điều tra thì mới biết ở đấy dân số tăng, mà dân số tăng thì phải chia đất thổ cư cho con cái xây dựng nhà
cửa, và trong số liệu của bốn năm chúng tôi theo dõi thì diện tích xây dựng đó tăng rất nhanh, song không có
nghĩa đô thị hóa ở đó diễn ra mạnh, nên việc rác thải ở đó không tăng là chuyện dễ hiểu.
Tôi muốn kết thúc phần trình bày của mình bằng việc mượn lời của một nhóm tác giả của Đại học Texas, Hòa Kỳ.
Họ có nói là các nhà địa lý tự nhiên, địa lý xã hội nhân văn cũng như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, phải
ngồi cùng với nhau, nếu muốn dùng hệ thống thông tin địa lý thì phải ngồi cùng với nhau để xây dựng nên cơ sở
tri thức và trao đổi với nhau về lý thuyết.
Xin cảm ơn mọi người.
Trong các lĩnh vực tự nhiên và nhân văn, các nhà địa lý
sử dụng viễn thám và Hệ thông tin địa lý cần xây dựng
một cơ sở tri thức để học hỏi lẫn nhau
về lý thuyết, về phương pháp và kể cả về thuật ngữ,
về cách tiếp cận nhận thức.
(Ronald R. Rindfuss and Paul C. Stern 1998)
108 Khóa học Tam Đảo 2008
Thảo luận...
Đỗ Ngọc Hà, Tổng cục thống kê
Sau khi nghe bài trình bày về hệ thống thông tin địa
lý này, mọi người cũng thấy tầm quan trọng của nó
là đưa thông tin đến trí não rất nhanh, mà hiện nay
Tổng cục thống kê có rất nhiều dữ liệu về điều tra
quốc gia như dân số, lao động, việc làm, doanh
nghiệp…, và chúng tôi rất muốn phổ biến những
thông tin này đến người dùng đầu cuối trên bản
đồ nền, vậy xin ông có thể cho chúng tôi những lời
khuyên về vấn đề này? Xin cảm ơn.
Nguyễn Chí Thông, ĐH Kinh tế TP Hồ Chí Minh
Tôi đã có một số tìm hiểu về thị trường bất động sản,
và nhận thấy các vấn đề quản lý, phát triển bất động
sản cũng có liên quan đến hệ thống thông tin địa
lý, vậy nên tôi cũng muốn được hỏi là tại sao ở Việt
Nam mình, vấn đề này chưa phát triển? Cũng như là
nghiên cứu này của tác giả có hướng đến việc phát
triển thị trường bất động sản để tư vấn cho chính
quyền cũng như cung cấp dịch vụ định giá, tất cả
về thị trường bất động sản phải không ạ?
Lê Hồ Phong Linh, Viện nghiên cứu kinh tế
TP Hồ Chí Minh
Nghiên cứu sinh trong khuôn khổ của dự án FSP,
hiện tôi đang công tác tại Viện Kinh tế. Khi nãy ông
có trình bày về nhiều cách định nghĩa thông tin. Tôi
muốn hỏi là khi nãy giáo sư rất ngạc nhiên một điều
là tại sao có những nhà nghiên cứu rất nổi tiếng của
các trường đại học trên thế giới vẫn chưa sử dụng
nhiều phương pháp để đưa những thông tin thu
thập được lên bản đồ, vậy giáo sư có thể cho biết
nguyên nhân tại sao? Và một câu hỏi nữa là theo
giáo sư để cho phương pháp này trở nên phổ biến ở
Việt Nam thì liệu các nhà nghiên cứu Việt Nam, hay
những nhà hoạch định chính sách có thể có những
biện pháp hay hoạt động gì đó để hỗ trợ cho nhà
nghiên cứu?
Nguyễn Thị Thu Hằng, Viện nghiên cứu Tôn giáo
Thầy có nói nghiên cứu liên ngành rất là quan trọng,
đối với hệ thống thông tin địa lý, và nghiên cứu khoa
học xã hội, vậy xin thầy cho biết khi nào thì khoa học
xã hội sẽ là công cụ của hệ thống thông tin địa lý,
và khi nào hệ thống thông tin địa lý sẽ là công cụ để
chúng em xử lý những vấn đề xã hội?
Phạm Văn Cự
Tôi cảm ơn các bạn đã đặt câu hỏi và tôi cũng xin
được trả lời lần lượt. Ở bên Tổng cục thống kê,
chúng tôi cũng khuyến cáo từ rất lâu rồi là phải đưa
thông tin lên hệ thống bản đồ. Cái khó lại chính là
vấn đề đồng bộ về cấp lãnh thổ của số liệu do Tổng
cục thống kê cung cấp. Nếu chúng ta muốn lấy số
liệu của cấp xã thì phải về tận huyện trực thuộc để
lấy. Ở trên tổng cục thống kê, rất hiếm khi chúng
ta lấy được các niên giám có số liệu đến cấp xã.
Đây là một thực tế. Nhưng không vì thế mà chúng
ta không làm được, vì dữ liệu của Tổng cục thống
kê thường đi đến cấp huyện, và có cả bản đồ cấp
huyện. Thế thì có những cách hiện nay chúng ta làm
để đưa số liệu lên bản đồ: thứ nhất là ta phải chuẩn
hóa lại một số dữ liệu của tổng cục thống kê, đưa
nó sang khuôn dạng của hệ thống thông tin địa lý,
và đây là điều rất đơn giản. Bởi bản thân nó là dữ
liệu số; việc thứ hai mới là việc khó, tức là vận động
ông tổng cục trưởng để làm sao ông ấy có thể cho
phép mọi người dùng số liệu, bắt chước việc Trung
Quốc họ đã làm, tức là họ công bố tất cả trên mạng
Internet. Đây mới là việc khó. Chính lãnh đạo Tổng
cục thống kê chưa có cam kết lớn về chuyện phổ
biến thông tin này, chứ không phải vấn đề khó về kỹ
thuật. Chỉ khi nào có dự án thì thông tin mới được
phổ biến. Tôi có một đĩa CD-R của dự án di dân rất
hay, và có thể gọi điện đến bất cứ lúc nào cũng được
cung cấp, bởi vì nó thuộc của dự án. Còn số liệu của
chính phủ Việt Nam lại rất khó lấy. Đấy là một thực
tế. Mà tôi cũng xin nói thật là lấy được rồi cũng khó
dùng chứ không phải dễ, vì những số liệu đó đôi khi
không được tin cậy hoàn toàn. Chúng tôi đã thử tin
học hóa ngay ở huyện Duy Tiên đấy, đó là sách xuất
bản đàng hoàng, vậy mà tính thành phần dân số cho
từng mục cho ra một kết quả thế này, cộng lại thì ra
một con số, trong khi con số ở ngay trên đấy là con
số khác. Cho nên trước khi công bố, số liệu đó phải
được rà soát lại, mà không được quá lâu vì thông
thường đến năm 2008 nhưng chúng ta chỉ có số liệu
của 2007. Tuy nhiên, điều đó cũng dễ thực hiện, và
việc đưa lên hệ thống thông tin địa lý cũng dễ làm,
chỉ có điều khó nhất là ra được chủ trương từ trên.
Về Tổng cục thống kê thì họ muốn bản đồ gì cũng
có thôi. Ví dụ có thể tra thống kê về mật độ dân số
của các huyện, rồi các chỉ tiêu kinh tế, xã hội. Vấn đề
vướng nhất hiện nay là vấn đề tài chính để thực hiện
các thông tin có giá trị gia tăng trên bản đồ. Chứ còn
nếu bạn chỉ sao chép nguyên si mấy trăm trường dữ
liệu của tổng cục thống kê thì sẽ chẳng có ý nghĩa
gì nữa. Bây giờ mình muốn hệ thống địa lý hóa nó,
bản đồ hóa nó, mình phải có tài chính để làm giá trị
gia tăng, các bạn đồng ý không? Tức là trước đây
số liệu nằm ở bảng, thì bây giờ tôi đưa chúng sang
bản đồ, và để làm việc đó phải có tiền. Thêm nữa,
cái thú vị nằm trong việc tính toán giữa các trường
dữ liệu thuộc tính của tổng cục thống kê sẽ cho ra
rất nhiều chỉ số hấp dẫn. Và đó là công tác làm giá
trị gia tăng. Một là bạn cung cấp số liệu thô, hai là
bạn cung cấp số liệu có giá trị gia tăng, có tính định
hướng của ngành thống kê, cho tất cả đều dùng. Mà
như vậy vấn đề này phải có chủ trương. Việc thứ hai
là lấy bản đồ cấp huyện và bắn dữ liệu đấy vào, chỉ
cần như vậy rồi ta công bố kết quả.
109Hệ thống thông tin địa lý
Bây giờ chúng ta chuyển sang vấn đề hệ thống
thông tin địa lý và bất động sản, thì rất tiếc bất động
sản lại là một trong những ngành hàng, nếu bây
giờ ta chấp nhận nó là hàng hóa ở Việt Nam, thì
sẽ còn rất nhiều vấn đề để có thể không gian hóa
nó. Thứ nhất, thông tin của nó không tường minh.
Chúng ta đều biết rõ thực trạng ở Việt Nam có quá
trình đầu cơ về bất động sản rất là lớn, mà bây giờ
anh hỏi chuyện nhà đầu tư kiêm nhà đầu cơ thì rất
là khó. Vì vậy đối với chúng ta, nếu không lấy được
thông tin chúng ta không thể làm được, còn trong
lĩnh vực bất động sản, người ta dùng nhiều kiến thức
toán học. Nhưng đưa lên hệ thống thông tin địa lý
thì là một thách thức rất lớn. Lý do chính là thông tin
đấy phải được cập nhật theo thời gian thực. Những
thông tin bất động sản là thông tin rất đắt tiền, và
việc quan trọng hơn nữa ở Việt Nam là thị trường bất
động sản không tường minh. Và theo quan điểm
của tôi, chừng nào ta gắn đất công với tài sản thì
sẽ rất khó định nghĩa. Vì ở các nước khác họ không
định nghĩa bất động sản giống như ở nước mình.
Ít ra là theo những tài liệu tôi đã đọc. Ở mình chỉ có
quyền sử dụng đất, chứ bạn không được gọi là bất
động sản, tôi cũng không hiểu tra ở từ điển nào ra
mà chúng ta nói bất động sản là chỉ có quyền sử
dụng đất với riêng ngôi nhà, còn miếng đất lại thuộc
của người khác. Đây mới là việc khó đấy. Thành ra,
ở đây một lần nữa chúng ta thấy để làm được hệ
thống thông tin địa lý thì cơ sở tri thức là rất quan
trọng, mà cơ sở tri thức của bạn chưa tường minh,
bạn không thể làm được. Đấy là lý do.
Việc thứ hai, đã có cơ sở tri thức rồi, bạn lại phải
có dữ liệu thông tin, mà điều này bạn lại không có.
Cho nên theo quan điểm của tôi, đưa vào làm ở
mức độ vĩ mô của bất động sản là chưa khả thi ở
Việt Nam. Như ở vi mô thì có thể làm được, bạn ở
các thành phố lớn thì bạn đưa ra xử lý thông tin đại
chúng. Thực tế giới đầu cơ hiện nay xử lý thông tin
đại chúng là chính, chứ họ không có nguồn thông
tin chính xác hay thông tin chính thức nào. Tôi cũng
không có bạn bè nào giàu đến mức đi buôn bất
động sản, nhưng tính tôi hay tò mò, tôi xem thử thôi.
Vậy thì chúng ta còn phải chờ đợi điều gì ? Đó là chờ
đợi để có những thông tin về thị trường bất động
sản một cách tường minh và công khai. Mà thông
tin người ta muốn đòi hỏi bây giờ là phải minh bạch.
Điều chờ đợi thứ hai của chúng ta là vấn đề về tri
thức bất động sản phải thống nhất được với nhau,
và mọi người phải ngồi được với nhau thì mới gọi là
làm được.
Trả lời cho câu hỏi: Tại sao một số đồng nghiệp
không dùng bản đồ? Tôi xin trả lời, đó là vấn đề văn
hóa. Vấn đề văn hóa trong nghiên cứu. Và tôi đã giải
thích từ đầu, tức là đối với nhiều người nghiên cứu
lý thuyết, đặc biệt trong xã hội học, trường phái đặc
lý thuyết đó, thì thực ra tư duy của họ là tư duy trừu
tượng. Yếu tố không gian nằm ở trong các quan hệ
không gian, ở trong tư duy chứ không bao giờ nó
được thể hiện tường minh trên bản đồ. Đấy là một lý
do. Thậm chí một số nhà xã hội học trình bày không
cần dùng Powerpoint. Bởi vì tư duy người ta như
thế. Ở đây thì tôi không biết các nhà xã hội học Việt
Nam có làm giống như vậy không, nhưng ở Bắc Mỹ
là như thế. Chúng ta vẫn nói rằng nước Pháp, Mỹ,
Canađa là những nước có công nghệ thông tin phát
triển rất mạnh, tuy nhiên có rất nhiều giáo sư ở các
nước đấy không dùng máy tính.
Bây giờ chúng ta nói tới Nhà nước Việt Nam và vấn
đề phát triển hệ thống thông tin nghiên cứu. Nhà
nước Việt Nam trong ba năm 1996 đến 1998 đã có
chương trình rất lớn về hệ thống thông tin địa lý, và
tôi có vinh dự được bầu là chủ tịch hội đồng thẩm
định trong hai năm liền, và một năm làm chủ tịch
nghiệm thu. Tôi cho rằng chủ trương của nhà nước
hồi đó chủ yếu mang tính công nghệ chứ không
phải nghiên cứu. Vì tôi thấy hệ thống thông tin địa lý
du nhập vào Việt Nam với tư cách là một công nghệ
nhiều hơn là công cụ để nghiên cứu. Việc đầu tiên
người ta nghĩ đến là trợ giúp quyết định trong quy
hoạch. Lúc bấy giờ có 34 tỉnh thành đã nhận được
tiền của dự án nhưng cũng không vì mục đích dành
cho nghiên cứu, họ vẫn nghĩ hệ thống thông tin địa
lý chỉ dùng để trợ giúp quyết định thôi.
Tôi xin trả lời câu hỏi của chị là khi nào khoa học
xã hội là công cụ của hệ thống thông tin địa lý?
Khoa học xã hội là công cụ của hệ thống thông tin
địa lý khi nó tham gia vào làm cơ sở tri thức, để giải
bài toán không phải của khoa học xã hội. Tôi lấy
việc này để giải quyết kia. Thì đó là công cụ đúng
không? Tôi lấy ví dụ nếu tôi giải bài toán cải tạo
giao thông hiện nay của Hà Nội, và làm điều tra xã
hội học để xem những vấn đề của giao thông xét
về khía cạnh xã hội học là gì, để cho ra được quyết
định sẽ giáo dục họ. Vậy thì trong bài toán này khoa
học xã hội là công cụ. Bởi vì vấn đề cần trợ giúp
quyết định là việc giải tỏa giao thông, còn khi chị
muốn giải bài toán khoa học xã hội mà chị cần công
cụ phân tích không gian thì hệ thống thông tin địa lý
là công cụ của khoa học xã hội. Tương tự như việc
chị nói cần phải xóa đói giảm nghèo ở chỗ nọ, chỗ
kia thì hệ thống thông tin địa lý sẽ giúp đỡ chị bằng
cách chị đưa cho tôi tiêu chí nghèo, tôi sẽ hiện thị
lên tất cả các vùng nghèo, tôi sẽ phân tích tình trạng
nghèo đấy có quan hệ gì với việc sử dụng đất, quan
hệ nghèo với thu nhập phi nông nghiệp, quan hệ
nghèo với xuất khẩu lao động, và với các thu nhập
khác. Vậy trong trường hợp đó hệ thống thông tin
địa lý sẽ là công cụ của khoa học xã hội.
110 Khóa học Tam Đảo 2008
Nguyễn Xuân Hoản – Viện khoa học nông
nghiệp
Viện khoa học nông nghiệp của chúng tôi đã áp
dụng hệ thống thông tin địa lý này vào trong việc
lập bản đồ Atlas của vùng đồng bằng sông Hồng,
cũng như hệ thống nông nghiệp ở miền núi, trong
các dự án nghiên cứu SAM 1, SAM 2, cùng với tổ
chức CIRAD hoặc Viện nghiên cứu phát triển của
Pháp (IRD). Đặc biệt là gần đây chúng tôi có sử
dụng hệ thống thông tin địa lý này trong việc xây
dựng các sản phẩm AOC, tức là phân vùng các sản
phẩm, tức là có chỉ dẫn địa lý, hoặc các đặc sản
vùng. Và trong khuôn khổ của dự án nghiên cứu các
làng nghề của chúng tôi có mua ảnh vệ tinh spot 5,
tức là xây dựng bản đồ nền, và phân tích các quá
trình mở rộng không gian của các làng nghề. Cũng
như trên bản đồ nền đó, chúng tôi thể hiện các nấc
thông tin, ví dụ như lịch sử phát triển của các làng
nghề, mật độ dân số trong các làng nghề, cũng
như các mối quan hệ về cung cấp nguyên liệu, và
tiêu thụ sản phẩm. Điều đó rất có ích và chúng tôi
tiếp tục sử dụng hệ thống thông tin địa lý này trong
những nghiên cứu của mình. Trong quá trình tiến
hành thì có vấn đề đặt ra đối với chúng tôi là rất khó
khăn trong việc mua ảnh vệ tinh. Giá một ảnh như
thế tại Pháp có thể lên tới 3000-4000 euro/một bản
đồ. Tôi xin hỏi giáo sư là ở Việt Nam chúng ta có thể
mua được các bản đồ ảnh vệ tinh ở đâu, hoặc là
có một địa chỉ nào tin cậy giáo sư có thể giới thiệu
cho chúng tôi mua được không? Và câu hỏi thứ hai
là hiện chi phí để mua các ảnh vệ tinh cũng như là
ứng dụng hệ thống thông tin địa lý này để xây dựng
bản đồ, như giáo sư đã làm trong các dự án, thì có
đắt không?
Phạm Văn Cự
Thứ nhất chúng ta phải khẳng định là ảnh vệ tinh
sẽ có nhiều loại. Đứng về phương thức chụp, nó có
loại quang học, tức là chụp trong dải sóng nhìn thấy
và cận hồng ngoại. Và kỹ thuật này bị một nhược
điểm cực kỳ lớn là nếu gặp mây thì sẽ không chụp
được. Thứ hai là vệ tinh radar, thì chúng ta lại khó
dùng trong việc giải đoán hiện trạng trong nông
nghiệp. Làm các bài toán khác như về lũ hoặc tràn
dầu thì được, nhưng để phân loại ra hiện trạng thì
khó. Còn vệ tinh mà anh nói đến là dữ liệu Spot 5 thì
hiện trạm thu ở Hà Nội thu được. Trạm thu này được
xây dựng trong dự án tài trợ ODA của chính phủ
Pháp, đặt ở Cầu Diễn, và nó thu được vệ tinh spot 5,
spot 4 và spot 2. Spot 3 thì không dùng được nữa vì
không kiểm soát được. Vậy, nếu làm nghiên cứu tỷ
lệ ở thôn xóm thì chắc phải dùng spot 5, vì nó có độ
phân giải tới 2,5 m, và giá mua ở Hà Nội trong thời
gian còn dự án, mà theo tôi biết thì bộ Nông nghiệp
có hai đơn vị được nằm trong hệ thống phân phối
dữ liệu thử nghiệm hai năm đầu, gọi là DUS (tiếng
Anh là Data User System) là Viện Quy hoạch và thiết
kế nông nghiệp (NIAPP)ở phố Hàng Chuối, và bên
kiểm lâm. Như vậy, anh có thể dùng chung số liệu
mới, họ có thể được đặt bất cứ lúc nào, với điều kiện
không có mây, trạm thu sẽ chụp. Tuy nhiên, chúng
ta vẫn phải ý thức một điều là ảnh vệ tinh mà anh
muốn chụp thời gian thực là rất khó. Với trời như mấy
ngày hôm nay là chúng ta không có cơ hội nào để
chụp cả, và theo thống kê của tổ chức khí tượng thế
giới, thì độ phủ mây tự do (cloudy free) của Việt Nam
có 10%/năm thôi, và cơ hội ta có ảnh rất khó, nên
phải theo dõi. Đây là điểm hạn chế. Còn nếu lấy ảnh
theo đường mua của Spot Image bên Singapore,
hoặc Toulouse, thì anh phải trả không dưới 4000$,
khoảng 2500 euro. Nếu muốn có ảnh chất lượng tin
cậy thì tốt nhất anh nên mua của các hãng như Spot
Image hay Spot Asia ở Singapore, còn nếu muốn lấy
ảnh từ trạm thu ở Hà Nội thì anh có thể làm công văn
xin Bộ Tài nguyên – Môi trường, chỗ Trung tâm viễn
thám. Còn về thời điểm chụp thì tôi nói rồi, và còn
vấn đề nữa về chuyên môn, tức là nếu xảy ra việc
chờ ảnh vệ tinh mãi không có thì làm thế nào? Chịu
thua sao? Vì vậy nếu mở rộng làng nghề, các bạn
có thể dùng phương tiện khác là đo bằng hệ thống
thông tin địa lý GPS. Chi phí rẻ hơn rất nhiều, và anh
có thể đến tận nơi anh đo. Và nếu dùng GPS cầm
tay thì độ chính xác của anh là 10m, còn nếu anh
dùng GPS 2 tần, tiếng Anh gọi là Dual Frequency
thì anh sẽ có độ chính xác là mm. Trong khuôn khổ
dự án SAM mà tôi đã tham dự, tôi cũng đã cùng với
Jean-Christophe Castella công bố một số bài viết,
chúng tôi dùng hệ thống thông tin địa lý để phân
tích rất nhiều những biến đổi sử dụng đất. Trong
một số trường hợp chúng tôi phải dùng GPS ở miền
núi, chứ cũng không có được ảnh Spot. Dùng GPS
chi phí rẻ hơn rất nhiều và chủ động hơn so với việc
dùng ảnh Spot.
Rất tiếc là vì tôi không còn thời gian nữa, nhưng tôi
sẵn sàng trả lời thư của các bạn. Đây là địa chỉ email
của tôi : pvchanoi@vnn.vn. Xin cảm ơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tam-Dao-2008-VN-SP4-Pham-Van-Cu.pdf