Sự hình thành và phát triển của thị trường vốn có vai trò quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của quá trình đổi mới đặt ra: chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng nhanh vững chắc. Song các thị trường vốn là các tổ chức phức tạp, đôi khi mỏng manh và luôn phụ thuộc vào tương quan đồng bộ giữa môi trường kinh tế và môi trường chính trị. Muốn nền kinh tế phát triển nhanh, cần thiết phải tạo dựng một thị trường vốn phát triển mà đỉnh cao của nó là thành lập thị trường chứng khoán. Sự ra đời của thị trường chứng khoán tại Việt Nam là một quá trình tất yếu. Tuy nhiên vấn đề quan trọng là phải chuẩn bị tốt để tổ chức và điều hành hoạt động của thị trường chứng khoán có hiệu quả góp phần tích cực vào sự phát triển ổn định của nền kinh tế quốc dân./.
44 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 991 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hiện trạng và giải pháp thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợc qui định cụ thể cho từng loại chứng khoán ( cổ phiếu , trái phiếu , chứng chỉ , quĩ đầu tư , công cụ phát sinh )
Lô chẵn ( round lot ). Một lô chẵn đối với cổ phiếu , chứng chỉ quĩ đầu tư thông thường là 100 cổ phieeus hoặc chứng chỉ quĩ đầu tư . Một lô chẵn đối với tráI phiếu thông thường là 10 tráI phiếu
Lô lẻ ( odd lot ) là giao dịch có khối lượng dưới lô chắn ( dưới 100 cổ phiếu hoặc <10 tráI phiếu )
Lô lớn ( block lot ) là giao dịch có khối lượng tương đối lớn , thông thường 10.000 cổ phiếu trở lên
Tuy nhiên , ngoàI việc qyi định đơn vị giao dịch thống nhất như trên , tại một số sở giao dịch chứng khoán , còn qui địng đơn vị giao dịch tương ứng vớithị trường tương ứng đó
3. Đơn vị yết giá
Đơn vị yết giá ( quatotation unit ) là các mức giá tối thiểu trong đặt giá chứng khoán (tick size ) . Đơn vị yết giá có tác động tới tính thanh khoản của thị trường cũng như hiệu quả của nhà đầu tư . Trường hợp đơn vị yết giá nhỏ sẽ tạo ra nhiều mức giá lựa chọn cho nhà đầu tư khi đặt lệnh nhưng các mức giá sẽ giàn trải , không tập trung ,và ngược lại đơn vị yết giá lón sẽ tập trung được mức giá , nhưng sẽ làm hạn chế mức giá lựa chọn của nhà đầu tư , do đó không khuyến khích được các nhà đầu tư nhỏ tham gia thị trường
Đối với các giao dịch theo phương pháp thoả thuận , thông thường các thị trường chứng khoán không qui định đơn vị yết giá
7.Hệ thống thông tin trên thị trường chứng khoán
7.1.Các nguồn thông tin trên thị trường chứng khoán
7.1.1 Thông tin từ tổ chức niêm yết
Chứng khoán là một dạng tài sản tài chính ( khác với tài sản thực ) được niêm yết giao dịch trên thị trường thị trường chứng khoán bởi chính tổ chức phát hành .NgoàI yếu tố quan hệ cung- cầu , giá chứng khoán được hình thành dựa trên “ sức khoẻ “ của chính công ty phát hành . Do vậy , các thông tin liên quan đến tổ chức phát hành đều tác động tức thời lên giá chứng khoán của chính tổ chức đó , và trong những chừng mực nhất định có thể tác động lên toàn bộ thị trường . Trên thị trường chứng khoán , vấn đề công bố thông tin công ty ( corporate disclosure ) được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu trong hệ thống thông tin của thị trường , bảo đảm cho thị trường hoạt động cong bằng , công khai và hiệu quả , bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cả nhầ đầu tư
Nội dung thông tin liên quan đến tổ chức phát hành bao gồm các thông tin trước khi phát hành , sau khi phát hành chứng khoán ra công chúng , và sau khi chứng khoán được niêm ýêt giao dịch trên thị trường tập trung . Các thông tin bao gồm :
Thông tin trên bản cáo bạch ( prospectus ) . Bản cáo bạch là bản thông cáo của tổ chức phát hành khi thực hiện phát hành chứng khoán ra công chúng , nhằm giúp nhà đầu tư hiểu rõ về tình hình họat động kinh doanh , tàI chính vv.. và các thông tin khác về mục tiêu phát hành chứng khoán của tổ chức phát hành
Thông tin định kỳ là những thông tin do tổ chức niêm yết công bố vào những thời điểm theo qui định của cơ quan quản lý như : hằng năm , hàng quý , hàng tháng . Nội dung thông tin liên quan đến các báo cáo tàI chính , kết quả hoạt động kinh doanh ; báo cáo lưu chuyển tiền tệ ..vv Các báo cáo thường niên phảI có ý kiến của tổ chức kiểm toán độc lập được UBCK chấp thuận
Thông tin bất thường là thông tin được tổ chức niêm yết công bố ngay sau khi xảy ra các sự kiện quan trọng , làm ảnh hưởng đến giá chứng khoán hoặc lợi ích của nhà đầu tư
Thông thường , các thông tin này được công bố trong vòng 24h sau khi xảy ra sự kiện hoặc sau 3 ngày . Nội dung của các thông tin bất thường do cơ quan quản lý qui định.
Thông tin theo yêu cầu là việc công bố thông tin khi UBCK hoặc SGDCK yêu cầu phảI công bố thông tin do có những dấu hiệu bất thường , hoặc nguồn tin đồn trên thị trường có tác động đến giá chứng khoán
7.1.2 Thông tin từ SGDCK
Hệ thống các văn bản , chính sách ban hành mới ; thay đổi , bổ sung , huỷ bỏ vv
Đình chỉ giao dịch hoặc cho phép giao dịch trở lại các chứng khoán
Công bố ngày giao dịch không được hưởng cổ tức , lãi và các quyền kèm theo
Các chứng khoán thuộc diện bị kiểm soát , cảnh báo
Đình chỉ thành viên hoặc cho phép niêm yết trở lại
Thông tin về tình hình thị trường : thông tin giao dịch của năm cổ phiếu hàng đầu ; dao động giá cổ phiếu hàng ngày ; cổ phiếu đạt mức giá trần , sàn
Thông tin về diễn biến thị trường
Thông tin về giao dịch trên thị trường ( giá mở cửa , đóng cửa , giá cao nhất, thấp nhất trong ngày giao dịch ; khối lượng giao dịch ; giá trị giao dịch ; giao dịch lô lớn ; giao dịch mua bán lại cổ phiếu của tổ chức niêm yết )
Thông tin về lệnh giao dịch ( giá chào mua , chào bán tốt nhất , quy mô đặt lệnh ; số lượng mua hoặc bán )
Thông tin về chỉ số giá ( chỉ số giá cổ phiếu tổng hợp ; bình quân giá cổ phiếu ; chỉ số giá trái phiếu )
Thông tin về tình hình các tổ chức niêm yết
Thông tin về các nhà đầu tư : giao dịch lô lớn ; giao dịch thâu tóm công ty ; giao dịch đấu thầu mua cổ phiếu ..vv
7.1.3 Thông tin về giao dịch chứng khoán
Các thông tin về giao dịch chứng khoán được thông báo trên bảng điện tử kết quả giao dịch trên SGDCK và trên các phương tiện thông tin đại chúng như : báo , tạp chí vv
7.2. Chỉ số giá chứng khoán
7.2.1 Chỉ số giá cổ phiếu
Chỉ số giá cổ phiếu là thông tin thể hiên giá chứng khoán bình quan hiện tại co với giá bình quan tại thời kỳ gốc đã chọn
Chỉ số giá cổ phiếu được xem là phong vũ biểu hiện tình hình hoạt động của TTCK . Đây là thông tin rất quan trọng đối với hoạt động của thị trường của các nhà đầu tư và các nhà phân tích kinh tế
Tất cả các TTCK đều xây dựng hệ thống chỉ số giá cổ phiếu cho riêng mình
Giá bình quân thời kỳ gốc trong so sánh thường được lấy là 100
Chỉ số giá cổ phiếu được tính cho
Từng cổ phiếu
Tất cả các cổ phiếu của từng thị trường , ví dụ :chỉ số KOSPI; Hangseng
Từng ngành , từng nhóm ngành : như chỉ số ngành công nghiệp của Mỹ (DJIA)
Thị trường quốc tế như chỉ số Hang Seng Châu á (HSAIS)
Ngoài ra , một số chỉ tiêu sau cũng thường được thống kê , tổng hợp đối với chỉ số giá và thông báo rông rãi : chỉ số giá trong ngày ; ngày đó so với ngày trước ; so với đầu năm ; chỉ số cao nhất hoặc thấp nhất trong năm
Chỉ số giá có thể tính theo thời gian ( so sánh theo thời gian ) hoặc theo không gian để so sánh giữa các lãnh thổ khác nhau Bất kỳ một thị trường chứng khoán nào cũng có một chỉ số chứng khoán của riêng nó. Ví dụ thị trường chứng khoán New york có chỉ số Dow Jones, thị trường chứng khoán Tokyo áp dụng chỉ số Nikkei, Hong Kong áp dụng chỉ số Hang - xieng, Singapore áp dụng chỉ số "Strai taime"
Một loại chỉ số chứng khoán được nhiều người biết đến nhất là chỉ số Dow Jones ra đời cách đây vừa tròn 100 năm (1896). Chỉ số này được coi như một cột mốc của thị trường chứng khoán thế giới. Chỉ số này do hai nhà kinh tế Mỹ Edward David Jones và Charles Hery Dow đề xuất đo lường mức độ biến động của thị giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán New York. Chỉ số Dow Jones bao gồm 65 loại cổ phiếu được chia thành 3 nhóm chỉ số bình quân nhỏ như sau:
+ Chỉ số Dow Jones công nghiệp bao gồm giá cổ phiếu của 30 công ty hàng đầu ngành công nghiệp công lại rồi chia cho 1504 (con số này có khi có giảm).
+ Chỉ số Dow Jones vận tải bao gồm giá cổ phiếu của 20 công ty hàng đầu ngành giao thông vận tải cộng lại chia cho 2785 (con số này có khi tăng).
+ Chỉ số Dow Jones dịch vụ công cộng bao gồm giá cổ phiếu của 15 công ty hàng đầu ngành dịch vụ công cộng
Để biết được tình hình phát triển kinh tế gần đây người ta xác định thêm một số tiêu chuẩn khác. Đó là các điểm giới hạn và điểm liệt. Chẳng hạn điểm giới hạn của chỉ số Dow Jones là 800, điểm liệt là 700. Nếu chỉ số Dow Jones hàng ngày vượt quá 800 điểm chung trong nền kinh tế đang đi lên, nếu dưới 800 điểm cho biết có nguy cơ xảy ra suy thoái kinh tế.
7.2.2 Chỉ số thị trường chứng khoán Việt Nam ( VN INDEX )
Chỉ số thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam –VN INDEX là chỉ số phản ánh mức giá trên TTCK trong một ngày cụ thể so với mức giá cả tại thời điểm gốc . Chỉ số được cấu thành bởi hai yếu tố là loại chứng khoán trọng số và giá của từng chứng khoán cấu thành
ở Việt Nam , trong giai đoạn đầu chỉ số VN Indẽ là chỉ số duy nhất cho đại diện các cổ phiếu được niêm yết trên TTGDCK . Chỉ số này được tính theo phương pháp trọng số giá trị thị trường
Công thức tính VN Index như sau
P1i x Q1i
VN.Index = x 100
P0i x Q0i
P1i x Q1i : là tổng giá trị thị trường tại thời điểm tính toán
P0i x Q0i : là tổng giá trị thị trường tại thời điểm gốc
P1i :là giá cả giao dịch thực tế của phiếu công ty tại thời điẻm tính toán i
P0i : là giá cả giao dịch thực tế của cổ phiếu công ty tại thời điểm gốc
Q1i, Q0i : là sốlượng cổ phần công ty tại thời điểm tính toán và thời điểm gốc
III.Hiện trạng thị trường chứng khoán Việt Nam
1. Tính tất yếu của sự ra đời thị trường chứng khoán Việt Nam
Trước khi tìm hiểu hiện trạng , ta hãy xem xét câu hỏi ; “Vào thời điểm năm 2000 sự thành lập thị thị trường chứng khoán liệu có sớm quá chăng “. Muốn vậy ta cần xem xét tình hình kinh tế năm 2000 và các năm trước đó
Năm 2000 sau 15 năm thực hiện đổi mới , chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Lạm phát đã giảm từ 67% năm 1992 xuống còn 14,4% năm 1994 và 12,7% năm 1995 (hiện nay , lạm phát đang được giữ ở mức > 6% ). Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm trở lại đây luôn được duy trì ổn định ở mức > 7%. Công nghiệp , nông nghiệp dịch vụ đều có những thành tựu vượt bậc. Nền kinh tế thị trường đã bắt đầu ổn định, đang thâm nhập trong chính đời sống hằng ngày của người dân. Thu nhập của dân cư đã tăng và trong nội bộ nền kinh tế đã có tích luỹ.
Nhưng liệu có sớm quá không khi mà nền kinh tế của nước ta tuy trên quan điểm của Đảng là từ năm 1986 xây dựng kinh tế thị trường nhưng thực chất mới thực sự phát triển từ những năm 90. Hệ thống thể chế tài chính của nước ta vẫn chưa hoàn chỉnh , còn rất nhiều chỗ hổng , hơn thế nữa ,việc đưa nền kinh tế thị trường -vốn là đặc trưng của CNTB- theo định hướng XHCN không phải là một chuyện dễ dàng trong ngày một , ngày hai . Kinh tế thị trường gắn liền với doanh nghiệp, mà hệ thống doanh nghiệp của nước ta chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước , vốn chậm thay đổi và phát triển . Bởi vậy , Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích doanh nghiệp phát triển , sửa đổi và bổ sung luật
doanh nghiệp, và từ năm 1993 , Nhà nước có chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp .Tuy nhiên ,các doanh nghiệp của chúng ta vẫn còn yếu kém về nhiều mặt : thiếu vốn , thiếu kinh nghiệm quản lý ,khả năng cạnh tranh kém vv
Như vậy nền kinh tế thị trường nước ta vẫn còn nhiều yếu điểm, mà thị trường chứng khoán lại là một sự phát triển bậc cao của nền kinh tế thị trường ,thế thì việc thành lập TTCK là sớm quá chăng. Nhưng chính TTCK lại là một trong những giải pháp tốt nhất cho những câu hỏi lớn mà nền kinh tế đang gặp phải, đồng thời nó cũng là hướng phát triển đầy triển vọng trong tương lai. Thật vậy ,TTCK có một vai trò quan trọng trong nền kinh tế và hệ thống tài chính quốc gia Muốn xem xét điều này , chúng ta hãy so sánh nguồn vốn của ngân hàng , nguồn vốn từ ngân sách và nguồn vốn từ TTCK .
Nguồn vốn ngân sách trong nền kinh tế thị trường được cung cấp để xây dựng cơ sở hạ tầng , dịch vụ công cộng . Đây là nguồn vốn đáng kể , và đối với các nước đang phát triển thì lại càng có ý nghĩa to lớn . Song , cơ chế phân phối nguồn vốn này có những hạn chế nhất định và có thể gây ra các hiện tượng tiêu cực . Nguồn vốn thứ hai đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế của các quốc gia đang phát triển là nguồn vốn từ các ngân hàng , song cũng cần nhìn nhận những hạn chế của nguồn vốn này . Vì nhu cầu thực tiễn của xã hội nên ngân hàng phải cho vay các chương trình phát triển nông thôn , các công trình đầu tư công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước . Khối lượng cho vay mỗi năm một tăng lên , trong khi việc trả nợ không theo kịp , vì việc cho vay ngắn hạn có rủi ro thu hồi vốn cao , còn việc cho vay dài hạn thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc chuyển đổi vốn ngắn hạn sang vốn dài hạn . Ngoài ra , nền kinh tế thế giới luôn luôn biến động và có thể đẩy ngân hàng vào tình thế khó khăn và nguy cơ khủng hoảng .Đối với các nước đang phát triển , vay nợ nước ngoài , thì những biến động kinh tế thế giới càng tác động nghiêm trọng hơn đối với nền kinh tế và hệ thống ngân hàng .
Khác với hai nguồn vốn nói trên , nguồn vốn từ thị trường chứng khoán , thứ nhất , được huy đông và phân phối theo đúng cơ chế tị trường , vì vậy nó phải tuân theo qui luật nghiêm ngặt của thị trường . Việc phân phối vốn qua ngân hàng cũng theo qui luaatj thị trường , nhưng vẫn bị tác động của ý chí chủ quan ,vì việc cho vay vẫn phải qua thẩm định dự án và đánh giá của ngân hàng . Thứ hai , TTCK đóng vai trò quan trọng và có ý nghĩa như ngân hàng trong việc cung cấp vốn cho nền kinh tế . Thậm chí , trong từng giai đoạn phát triển , khi ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn thì TTCK có thể là hệ thống huy động vốn thay thế
TTCK Việt Nam nếu được thành lập sẽ có tiềm năng rất lớn phát triển vì đã có hệ thống các công ty cổ phần , có nhiều doanh nghiệp CPH . Quá trình CPH doanh nghiệp và phadt triển TTCK có thể thúc đẩy lẫn nhau . Vốn trong dân đã tích tụ nhiều cũng là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển TTCK. Các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán là các công ty đại chúng , do nhiều người đầu tư . Khi tham gia trên thị trường chứng khoán thì các công ty phải công bố công khai mọi thông tin liên quan đến hoạt động sản xuất , kinh doanh của mình . Việc thay đổi hành vi công ty có nghiã là hội đồng quản trị và ban giám đốc phải thay đổi phương thức quản lý theo xu hướng hội nhập quốc tế , cạnh tranh – phát triển và cùng tồn tại . Đây chính là giảI pháp hoàn hảo để tạo ra một môi trường cạnh tranh công bằng cho các doanh nghiệp
Vậy ,sự thành lập TTCK là vô cùng cần thiết nhưng trong lúc này ,ta chưa thể có một TTCK đúng nghĩa .Trong tình hình đó , Nhà nước ta quyết định thành lập thị trường chứng khoán nhưng lúc đầu chỉ xây dựng mô hình để tập dượt, tìm ra những kinh nghiệm để từng bước xây dựng một thị trường chứng khoán hoàn chỉnh trong tương lai
2. Hiện trạng thị trường chứng khoán Việt Nam
Thị trường chứng khoán Việt Nam tính đến nay đã hoạt động được trên 3 năm .. Sau 3 năm hoạt động , nhìn tổng thể kết quả đạt được là thiết lập đưa vào hoạt động một TTCK có tổ chức cho giai đoạn ban đầu , thể hiện trên các mặt sau
2.1 Về công tác tổ chức và vận hành trung tâm giao dịch Chứng khoán (TTGDCK)
TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh được tổ chức theo mô hình tập trung qui mô nhỏ, thực hiện chức năng xác định giá chứng khoán theo quan hệ cung cầu và tạo cơ hội luân chuyển cho các nhà đầu tư chứng khoán
Khi thị trường bắt đầu hoạt động ,chỉ có 2 cổ phiếu được niêm yết ,giao dịch tại TTGDCK với tổng giá trị vốn niêm yết là 270 tỷ , đến nay tổng giá trị chứng khoán niêm yết là gần 6.600 tỷ đồngbao gồm trên 1000 tỷ đồng cổ phiếu của 21 công ty cổ phần và trên 5.550 tỷ đồng trái phiếu chính phủ (TPCP) và trái phiếu ngân hàng đầu tư và phát triển (NHĐT&PT) . Thời gian đầu TTGDCK chỉ thực hiện 3 phiên / 1tuần , từ tháng 3/2002 nâng lên 5 phiên một tuần . Tính đến 30/6/2003 TTGDCK đã tổ chức 570 phiên giao dịch chứng khán liên tục , an toàn ,cđạt giá trị giao dịch chứng khoán gần 3700 tỷ đồng trong đó giao dịch cổ phiếu khoảng 88% và giao dịch trái phiếu gần 12%
TTGDCK đã thực hiện tốt chức năng của một trung tâm lưu ký chứng khoán trong điều kiện cơ sở kỹ thuật cũng như nhân lực còn rất hạn chế . Hệ thống lưu kí hoạt động tương đối có hiệu quả , vì thế đã rút ngắn thời gian thanh toán từ 4 ngày xuống còn 3 ngày. NgoàI việc lưu ký 100% trái phiếu niêm yết ,số lượng cổ phiếu niêm yết đượclưu ký đều trên 50% giúp cho hoạt động thanh toán giao dịch chứng khán nhanh gọn , giảm nhiều rủi ro. TTGDCK đã chủ động thực hiện việc cung cấp thông tin kịp thời thông qua các công ty chứng khoán tới người đầu tư , đến nay đã thực hiện cung cấp thông tin trực tuyến thay cho việc cung cấp thông tin tại sàn thông qua đại diện giao dịch của các công ty chứng khoán
Từ ngày 20/5/2003 TTGDCK đã áp dụng một số giải pháp kỹ thuật như hạ thấp lô giao dịch cổ phiếu , tăng từ 1 lên 2 lần khớp lệnh trong phiên giao dịch , bổ sung lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh (ATO ), giảm tỷ lệ ký quĩ tối thiểu xuống 70% . Việc áp dụng những giải pháp trên bước đầu có tác dụng thu hút thêm các nhà đầu tư , đa dạng hình thứclệnh giao dịch , tăng thêm lựa chọn cho nhà đầu tư , tập dượt cho việc khớp lệnh liên tục
Nhìn chung , trong 3năm hoạt động ,TTCK đã thực hiện tốt công tác quản lý , niêm yết thành viên ,giao dịch và công bố thông tin trên thị trường ngày càng chủ động hơn trong tổ chức ,vận hành và quản lý giao dịch chứng khoán . Tuy nhiên vẫn còn những bấy cập trong giám sát giao dịch chứng khóan , giám sát thực hiện chế độ công bố thông tin của công ty niêm yết
2.2 Về phát triển hàng hoá trên thị trường chứng khoán
Đến nay , Uỷ ban chứng khoán đã cấp giấy phép đăng ký niêm yết cổ phiếu cho 21 công ty cổ phầnvới tổng giá trị cổ phiếu niêm yết là 1.086 tỷ đồng ; cấp phép niêm yết cho Ngân hàng đầu tư và phát triển (NHĐT&PT )với tổng giá trị trái phiếu niêm yết là 157 tỷ đồng ; TTGDCK TP.HCM đã phối hợp với bộ tài chính , tổ chức đấu thầu hơn 50 đợt TPCP, trái phiếu của Quĩ hỗ trợ đầu tư và phát triển được hơn 5400 tỷ đồng đưa ra niêm yết trên TTGDCK . UBCKNN cũng đã cấp giấy phép phát hành cho 5 công ty với tổng giá trị trên 155,4 tỷ đồng . Hiện nay , UBCKNN đang xem xét hồ sơ xin đăng ký niêm yết cổ phiếu của 2 công ty ( Cty Cơ khí xăng dầu và Cty cp bông Bạch Tuyết )
Qua hơn 3 năm hoạt động cho thấy , công tác tạo hàng hoá cho TTCK là rất quan trọng , thời kỳ đầu việc triển khai công tác này có nhiều khó khăn , nhưng đến nay số lượng hàng hoá niêm yết trên 6000 tỷ đồng là một gắng rất lớn của UBCKNN
Các công ty niêm yết bước đầu đã thực hiện tốt các qui định về công bố thông tin trên TTCK và chú trọng nâng cao chất lượng quản trị công ty . Tuy nhiên ,do TTCK là một lĩnh vực mới , phức tạp nên các Cty niêm yết cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định . Các Cty niêm yết còn thụ động trong việc công bố thông tin liên quan đến hoạt động của công ty . Trong thời gian qua , một số công ty niêm yết đã có những vi phạm về nghĩa vụ công bố thông tin gây mất lòng tin công chúng đầu tư như : chậm nộp và công bố báo cáo tài chính . Nhìn chung , các công ty niêm yết đều hoạt động tốt , tuy nhên có Cty niêm yết thực hiện đầu tư dàn trải , thiếu hiệu quả , ảnh hưởng không tốt tới tình hình tài chính cũng như sự phát triển của công ty ( trường hợp của Bibica )
Hiện nay , việc phát triển hàng hoá cho TTCK đang gặp nhiều khó khăn . Số lượng hàng hoá có tăng nhưng rất chậm. , các Cty niêm yết chủ yếu vẫn là những công ty qui mô
nhỏ , chưa có phát hành trái phiếu công ty , trái phiếu công trìng niêm yết trên TTGDCK ; việc đấu thầu TPCP qua TTGDCK triển khai còn ít , chưa đáp ứng được yêu cầu
2.3 Về hoạt động của các tổ chức trung gian trên thị trường
a) Hoạt động của công ty chứng khoán ( CtyCK)
Đến 30/6/2003 ,UBCKNN đã cấp phép hoạt động cho 12 công ty chứng khoán với tổng số vốn điều lệ là 465 tỷ đồng , hoạt động các nghiệp vụ : môI giới , bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư
Qua hơn 3 năm tham gia thị trường , về cơ bản , các Cty CK đều tuân thủ các qui định của pháp luật về chứng khoán và TTCK . Bước đầu các Cty Ck đã tập trung hoàn thiện bộ máy tổ chức , nâng cao năng lực phục vụ khách hàng , một số công ty đã tăng vốn điều lệ , sử dụng phương thức nhận lệnh giao dịch gián tiếp qua Fax , mạng thông tin trực tuyến ,mở thêm các chi nhánh , phòng giao dịch , đại lý nhận lệnh tại các tỉnh , thành phố Hà Nội ,TP.HCM , HảI Phòng , Bình Dương ,Đồng Nai , Long An , Đà nẵng . Các công ty chứng khoán đã xây dựng được một đội ngũ nhân viên nghiệp vụ kinh doanh được đào tạo tốt
Nhìn chung , các công ty chứng khoán đã thực hiện vai trò trung gian trong việc môi giới , mua bán chứng khoán , tích cực tham gia tư vấn niêm yết và thực hiện cung cấp thông tin đến các nhà đầu tư , góp phần cvào thành công của thị trường . Tuy nhiên , hạn chế trong hoạt động của các công ty chứng khoán là một số công ty chưa tuân thủ nghiêm túc các yêu cầu về hoạt đôngj , chưa thể hiện và trò tích cực , chủ động phát triển thị trường; chất lượng tư vấn đầu tư chứng khoán và tư vấn niêm yết chưa cac , chưa đẩy mạnh nghiệp vụ tự doanh , nhà đầu tư còn chưa thật sự tin tưởng vào tính công bằng và khách quan trong hoạt động môi giới , tư vấn đầu tư , đội ngũ nhân viên chưa đáp ứng được nhu cầu công việc
b) Hoạt động của các tổ chức trung gian hỗ trợ khác
UBCKNN đã lựa chọn NHĐT&PT Việt Nam làm ngân hàng chỉ định thanh toán , thực hiên thanh toán tiền cho các giao dịch chứng khoán . Tính đến 30/6/2003 , ngân hàng thanh toán đã thực hiên thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán một cách kịp thời, hính xác với tổng số tiền khoảng 1000 tỷ đồng . Hiện nay , ngân hàng thanh toán đang triển khai hoạt động theo hướng vừa là ngânhàng lưu kí , vừa là ngân hàng phục vụ hoạt động TTCK
Để phục vụ cho triển khai chứng khoán nhanh chóng , an toàn và thực hiện dịch vụ liên quan đến quyền của người nắm giữ chứng khoán , đến nay đã có 5 ngân hàng lưu kí ( 2 ngân hàng trong nước , ba ngân hàng nước ngoàI ) và 11 công ty chứng khoán được cấpgiấy phép thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán . Hiện nay , TTCK đã có hệ thống lưu ký chứng khoán tập trung , hoạt động ổn định và đã cho phép người nước ngoài mở tài khoản tại các Cty CK , ngân hàng trong nước tạo điều kiện để người đầu tư trong nước và ngoài nước tham gia thị trường . Tuy nhiên cơ sở vật chất còn yếu kém , ngiệp vụ lưu ký , đăng ký và thanh toán bù trừ chưa được tự động hoá , phải xử lý thủ công làm tăng thời gian và chi phí, độ an toàn thấp
Đến nay ,UBCKNN đã chấp thuận cho 07 tổ chức kiểm toán độc lập kiểm toán các báo cáo tài chính của các tổ chức phát hành , niêm yết chứng khoán và tổ chức kinh doanh chứng khoán gồm 06 tổ chức kiểm toán trong nước và 1 tổ chức kiểm toán nước ngoài . Các tổ chức kiểm toán được chấp thuận đã đáp ứng được yêu cầu kiểm toán cho các đối tượng tham gia TTCK .Tuy nhiên trong quá trình triển khai nghiệp vụ này , nhiều tổ chức kiểm toán cũng có những thiếu sót nhất định , chất lượng báo cáo kiểm toán chưa cao ,UBCKNN đã phối hợp chătj chẽ với Bộ tài chính trong việc quản lý các tổ chức kiểm toán đựơc chấp thuận cũng như có biện pháp xử lý kịp thời
2.4 Về tham gia của nhà đầu tư trong và ngoài nước
Mặc dù thị trường chứng khoán Việt nam mới hình thành và hoạt động được 3 năm nhưng đã thu hút được sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước . Số lượng các nhà đầu tư tham gia trên thị trường liên tục tăng ; cuối năm 2000 có gần 3000 tài khoản giao dịch ; cuối năm 2001 có gần 9000 tài khoản và đến 30/6/2003 có hơn 14.500 tài khoản
giao dịch trong đó hơn 90 nhà đầu tư cố tổ chức và 35 nhà đầu tư nước ngoài . Sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng cho sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam . Một trong những điểm nổi bật ở đối tượng các nhà ĐTNN là tính chuyên ngiệp và bản lĩnh đầu tư . Sự góp mặt của các nhà ĐTNN đã phần nào làm hạn chế sự suy giảm của thị trường , thâm chí có những thời điểm đã hâm nóng nhiệt độ thị ttrờng .
Tuy nhiên , số lượng nhà đầu tư tham gia TTCK chủ yếu là nhà đầu tư cá nhân , ít vốn , tham gia thị trường mang tính chất thăm dò , khi thị trường có dấu hiệu bất ổn thì rút khỏi thị trường . Số lượng tài khoản thường xuyên giao dịch khoảng 1000 tài khoản . Nhà đầu tư có tổ chức quá ít . Nhà đầu tư nước ngoài phần lớn đang cư trú tại Việt Nam , do qui mô thị trường còn bé , các chính sách đối với nhà ĐTNN còn chưa rõ ràng , cơ chế mở tàI khoản lưu ký , giao dịch cho nhà ĐTNN còn phức tạp nên chưa thu hút được đông đảo nhà ĐTNN đặc biệt là người không cư trú tại Việt Nam
2.Đánh giá thị trường chứng khoán sau hơn 3 năm hoạt động
Qua 3 năm hoạt động , thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được những kết quả như sau
Một là , đã mở ra một TTCK theo mô hình tập trung với qui mô nhỏ . Hoạt động của thị trường chứng khoán mặc dù chưa phát triển như mong muốn song bước đầu đã được triển khai suôn sẻ , không gây ra những biến cố lớn hoặc tác động tiêu cực tới đời sống kinh tế – xã hội của đất nước
Hai là , đã huy động được một khối lượng vốn nhất định cho ngấnachs Nhà nước thông qua cơ chế đấu thầu và bảo lãnh phát hành trên 5400 tỷ đồng TPCP , trái phiếu Quỹ hỗ trợ phát triển để niêm yết trên thị trường . Đã có 05 Cty phát hành thêm cổ phiếu để mở rộng sản xuất kinh doanh , tăng vốn điều lệ với tổng vốn tăng thêm 155,4 tỷ đồng
Ba là , đã xây dựng được một hệ thống các tổ chức trung gian tham gia trên TTCK , bao gồm các Cty CK , các tổ chức lưu ký , ngân hàng chỉ định thanh toán . Các trung gian tàI chín đã làm tốt vai trò môi giới , mua bán chứng khoán trên thị trường tập trung , tích cực tham gia bảo lãnh phát hành và tư vấn cho các công ty trong việc niêm yết và cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư , thực hiện tốt việc thanh toán bù trừ các giao dịch chứng khoán trên thị trường
Bốn là , công chúng dần làm quen với với thị trường chứng khoán . TTCK Việt Nam được xây dựng là một thị trường CK mang tính đại chúng , vì thế , mỗi cổ phiếu theo qui định tại nghị định 48/1998/NĐ -CP chỉ có mệnh giá là 10.000 đồng đẻ người dù ít tiền cũng có thể tham gia . Nhờ vậy , trong một thời gian ngắn , số lượng các nhà đầu tư tăng lên rất nhanh
Năm là , hoạt động quản lý , vận hành thị trường của UBCKNN và TTGDCK TPHCM đã có nhiều cải tiến và từng bước hoàn thiện trên cơ sở rút kinh ngihiêm từ hoạt động thực tiễn
Sáu là , hoạt động cuẩ TTCK góp phần thúc đẩy tiến trình CPH doanh nghiệp Nhà nước và áp dụng những công nghệ tốt nhất trong quản trị doanh nghiệp trong đó việc thực hiện công khai thông tin về hoạt động sản xuất , kinh doanh và quản trị doanh nghiệp có ý ngiã đặc biệt quan trọng tạo ra tiền đề phấn đấu cho sự phát triển vững chắc của doanh nghiệp nói chung và Cty niêm yết nói riêng
2.2 Những hạn chế
Thứ nhất , TTCK Việt Nam phải chăng còn quá trầm lặng . Ta xem xét kể từ phiên giao dịch chứng khoán đầu tiên, ngày 28/7/2000 , liên tiếp giá cổ phiếu tăng . Đến phiên giao dịch ngày 26/6/2001 chỉ số chứng khoán VN. Index đạt con số kỷ lục là 571, 04 điểm, trị giá trong phiên đạt 23.570.700.000 đồng . Tại thời điẻm đó , giá các cổ phiếu giao dịch đã đạt tới mức cực đỉnh . Chỉ trong vòng một năm đầu chỉ số giao dịch đã tăng liên tục . Nhưng đó cũng là lời cảnh báo về sự tụt dốc tất yếu sẽ xảy ra . Và điều đó đã xảy ra ,chỉ số VN.Index liên tục sụt giảm trong những tháng tiếp theo cùng với sự nguội lạnh dần của thị
trường . Đến tháng 3 năm 2003 , giá các cổ phiếu đồng loạt sụt giảm , VN, Index giảm đến mức kỷ lục145,41 điểm vào ngày 31/3 . Cung cầu của thị trường cổ phiếu có những biểu
hiện khó nắm bắt . Các nhà đầu tư trong tình trạng thiếu thông tin thị trường trong khi những thông tin tác động đa chiều luôn được chuyênr tải . Một số công ty niêm yết dường như đang bị xói mòn hình ảnh tốt đẹp trong mắt các nhà đầu tư . Sau đó , TTCK “ phục hồi" nhưng từ đó đến nay chỉ số chứng khoán chỉ trongphạm vi 150- 160 điểm ,tổng giá trị giao dịch khớp lệnh từng phiên giao dịch chỉ đạt 2- 10 tỷ đồng . Thêm vào đó , mặc dù còn ở giai đoạn phát triển ban đầu những hiện tượng đầu cơ , thao túng thị trường đã có dấu hiệu manh nha trên thị trường chứng khoán Việt Nam , và gây khó khăn không ít cho hoạt động quản lý và điều hành thị trường
Đồng thời do tổng mệnh giá các chứng khoán niêm yết còn quá nhỏ vì vậy ,sự thay đổi giá cả của chúng chưa phản ánh được động tháI của nền kinh tế quốc dân. Cho nên chỉ số chứng khoán VN.Index không những không phát huy được tác dụng dự báo trước xu hướng mà còn phản ánh không đúng thực trạng nền kinh tế . Trong những năm gần đây , nền kinh tế Việt Nam luôn tăng trưởng cao , ổn định >7% trong khi đó ,chỉ số chứng khoán thì liên tục biến thiên giảm .Như vậy , TTCK chưa thể đóng vai trò “ hàn thử biểu “ của nền kinh tế
Thứ hai , nền kinh tế Việt Nam còn khó khăn , thu nhập dân chúng thấp , nguồn vống lại bị phân tán ,đầu tư vào các tàI sản thay thế như tiền gửi , ngân hàng , đầu tư bất động sản , ngoại tệ chưa có chính sách phù hợp để khai thác nguồn lực tàI chính trong dân . TTCK chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dàI hạn cho đầu tư páht triển . Hiện nay tỉ lệ vốn đầu tư vào chứng khoán còn quá nhỏ bé , tổng giá trị thị trường mới chiếm 1,6% GDP
Thứ ba , hệ thống doanh nghiệp Việt Nam còn mang nặng tư tưởng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung , còn trông chờ vào nguồn vay ưu đãi không muốn huy động vốn trên thị trường . Các doanh nghiệp e nhại kiểm toán và công bố thông tin khi niêm yết trên thị trường chứng khoán . Các doanh nghiệp niêm yết không phải là các doanh nghiệp lớn , có khả năng phát triển hấp dẫn người đầu tư . Ngoài ra ở một số Cty niêm yết tỷ lệ vốn thuộc sở hữu nhà nước còn khá cao ,do vậy khối lượng cổ phiếu thực sự đưa vào giao dịch rất thấp. Các tổ chức niêm yết chưa they hết dược tầm quan trọng của việc công khai thông tin nên chưa chủ động , tự giác cung cấp thông tin cho công chúng đầu tư , chính điều này phần nào ảnh hưởng đến lòng tin và quyết định tham gia thị trường của người đầu tư
Thứ tư , Đảng và chính phủ chủ trương phát triển hệ thống tài chính trong đó có thị trường vốn , TTCK ; tuy nhiên trong điều hành thì hệ thống thị trường bị chia cắt : Thị trrường tiền tệ do Ngân hàng Nhà nước quản lý , thị bảo hiểm do Bộ tài chính điều hành , TTCK do UBCKNN giám sát . Các bộ ngành đều xây dựng chiến lược phát triển của ngành mình, song chưa có sự tổng hợp thống nhất chiến lược phát triển thị trường tài chính nói chung. Vì vậy định hướng và các giảI pháp thiếu đồng bộ ; chưa coi việc phát triển thị trường vốn, TTCK là khâu đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
Thứ năm , quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK còn nhiều bất cập, khó khăn. UBCKNN đã tăng cường công tác quản lý giám sát , xử lý kịp thời các vi phạm , tuy nhiên cơ chế quản lý điều hành chưa đáp ứng đòi hỏi thị trường , thể hiện ở các mặt như hệ thống pháp lý chưa đồng bộ , thâm chí mâu thuẫn ( ví dụ giữa các văn bản về tham gia mua cổ phiếu của các nhà ĐTNN) ; chính sách khuyến khích các đối tượng tham gia thị trường ( thuế , phí .. )chưa thống nhất và chưa thực sự được phát huy tác dụng ( ví dụ đối với nhà đầu tư cá nhân được miễn thuế , nhưng các nhà đầu tư có tổ chức thì chưa được miễn thuế); hưa kịp thời xử lý các tình huống đặc biệt là lúc thị trường lên xuống thất thường
Hoạt động của TTGDCK còn hạn chế về mô hình tổ chức và trình độ kỹ thuật ; việc cung cấp thông tin thị trường chưa được thuận lợi cho người quan tâm .
2.3 Nguyên nhân tồn tại
Những tồn tại và hạn chế nêu trên , bắt nguồn từ các nguyên nhân cơ bản sau
Một là , TTCK là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính nhưng được xây dựng và phát triển một cách riêng rẽ , thiếu chiến lược tổng thể phát triển thị trường tài chính cũng như sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa các bộ , các ngành liên quan trong việc hoạch định và thực thi chính sách
Hai là ,chứng khoán niêm yết còn hạn chế về số lượng , chất lượng chưa cao . Nhiều doanh nghiệp chưa tiếp cân kịp thời với thị trường vốn mà còn ỷ lại vào sự ưu đãI , bao cấp của nhà nước hoặc thói quen vay ngân hàng , mặt khác doanh nghiệp còn ngại công bố thông tin , công khai tàI chính khi tham gia niêm yết
Ba là , thị trường còn thiếu vắng các nhà đầu tư có tổ chức ( Ngân hàng , bảo hiểm , quỹ đầu tư ,các tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp ) nên ảnh hưởng đến tính ổn định của thị trường do tác động tâm lý của các nhà đầu tư nhỏ , thiếu chuyên nghiệp
Bốn là ,việc quản lý và điều hành thị trường của UBCKNN , TTGDCK còn bất cập , hạn chế do sự thiếu chủ động và thiếu kinh nghiêm của đội ngũ quản lý thị trường
Năm là , vai trò của nhà nước hỗ trợ thị trường là rất quan trọng nhưng chưa được quan tâm đúng mức như các chính sách khuyến khích ưu đãi về thuế đối với các tổ chức tham gia thị trường
Sáu là , những biến động trong thời gian qua về thị trường bất động sản , giá vàng , lãI suất ngân hàng tăng cũng tác động, ảnh hưởng xấu đến thị trường chứng khoán
IV. Giải pháp và định hướng phát triển Thị trường chứng khoán
1.Giải pháp trước mắt
Để củng cố và phát triển TTCK Viêt Nam , theo em , trước hết cần những biện pháp cơ bản sau
Một là , phát triển thị trường tiền tệ một cách đồng bộ ( tiền đề của sự củng cố và phát triển TTCK ) bao gồm TTCK ngắn hạn , thị trường liên ngân hàng và thị trường ngoại tệ . Do ccác chứng khoán ngắn hạn cho phép hạn chế rủi ro bởi các nhân tố như lạm phát , thiên tai , chiến tranh , các nhân tố chính trị đồng thời sự phát triển của thị trường tiền tệ tạo điều kiện cho cong chúng và các nhà đầu tư làm quen và tạo ra thói quen giao dịch , đầu tư – kinh doanh chứng khoán . Do vậy , TTCK Việt Nam chỉ có thể phát triển trên cơ sở sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tiền tệ – nghĩa là trước mắt cần tăng cường việc phát hành và lưu thông chứng khoán ngắn hạn
Hai là , củng cố và phát triển TTCK sơ cấp –là nguồn duy nhất cung cấp các sản phẩm tàI chính ( các chứng khoán ) cho thị trường thứ cấp và TTCK nói chung . Vì vậy , thị trường sơ cấp phảI đủ mạnh đảm bảo đủ lượng chứng khoán trên thị trường và đạt tới mức đòi hỏi phảI phát sinh một lĩnh vực đầu tư và kinh doanh độc lập ( đầu tư – kinh doanh chứng khoán ) . Hơn nữa kinh nghiệm thế giới chỉ ra rằng : lượng chứng khoán cơ bản lưu thông ttrên thị trường tập trung chỉ chiếm 10-20 % lượng chứng khoán được phát hành trên thị trường sơ cấp ; ở Việt Nam hiên nay mới chỉ có 21 công ty cổ phần thực hiện niêm yết chứng khoán tại trung tâm giao dịch chứng khoán và đều là các công ty CP có qyi mô vừa và nhỏ ; việc phát hành chứng khoán chính phủ đang vấp nhiều khó khăn ( đã nhiều lần liên tục đấu giá trái phiếu chính phủ không thành công) và chưa thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư
Để củng cố và phát triển TTCK sơ cấp , trước hết cần phải kích thích bằng lợi ích vật chất đối với các công ty cổ phần , các công ty liên doanh tham gia niêm yết trên TTCK (như ưu đãI về thuế ) ; đổi mới chế độ tín dụng trên cơ sở thay thế dần nguồn vốn vay ngân hàng bằng nguồn vốn phát hành chứng khoán
Ba là , tiến hành cổ phần hoá đại bộ phận các doanh nghiệp Nhà nước – một trong những con đường chủ yếu cung cấp các sản phẩm tài chính cho TTCK trong bước quá độ sang nền kinh tế thị trươngf ở Việt Nam . Mặc dù quá trình cổ phần hoá trên qui mô lớn bắt đầu từ năm 1998 , nhưng cho đến tháng 10/ 2002 mới chỉ cổ phần hoá được 800 doanh nghiệp –chiếm khoảng 2% tổng giá trị vốn và tàI sản của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nha nước . Để thúc đẩy quá trình này , Chính pủ đã thực hiện hàng loạt các giảI pháp như : thực hiện các chế dộ ưu đãI đối với các doanh ngiệp và người lao động khi tiến hành cổ phần hoá ; xây dựng và triển khai kế hoạch đến từng doanh nghiệp phải cổ phần hoá ; tuyên truyền và động viên người lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước , quần
chúng và các nhà đầu tư tham gia quá trình cổ phần hoá ; thiết lập thị trường tàI mà chủ yếu là TTCK nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hoá . Nhưng hầu hết việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước vẫn không thực hiện được và đang lâm vào tình trạng bế tắc ; mô hình kế hoạch hoá tập trung nền kinh tế quốc dân ( trước đây )dựa tên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đã tạo ra thói quen chờ đợi , ỷ lại nhà nước ; sự phản ứng nội bộ của đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các doanh nghiệp cần cổ phần hoá do sợ bị thu hẹp , mất đI quyền lãnh đạo , quản lý doanh nghiệp ; sợ phảI báo cáo công khai hoạt động tàI chính ; .. mặt khác do nghèo nên người lao động không thể mua tàI sản của các doanh nghiệp , còn người đầu tư chưa tin tưởng vào cơ chế quản lý tàI chính của công ty cổ phàn và những lợi ích kinh tế mà việc đầu tư mang lại . Theo em đẻ tiến hành nhanh chóng quá trình cổ phần hoá ta có thể áp dụng giải pháp như các nước XHCN cũ đó là phát hành cho công nhân các chứng chỉ cổ phần hoá “ không phải trả tiền “ rồi chuyển thành cổ phiếu
Bốn là tăng cung hàng hoá cho thị trường về số lượng , chất lượng và chủng loại , đẩy mạnh cầu chứng khoán.
Nghiên cứu ban hành các chính sách khuyến khích đưa thêm các loại cổ phiếu của các ngân hàng thương mại (NHTT) , cổ phiếu của các công ty lớn , cổ phiếu ưu đãi , quyền mua cổ phiếu , trái phiếu công trình , trái phiếu doanh nghiệp , chuyể đổi chứng chỉ quỹ đầu tư vào niêm yết . Hỗ trợ các Cty niêm yết trong việc quản trị doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế ; thực hiện chế độ kiểm toán thao tiêu chuẩn quốc tế
áp dụng nhiều biên pháp thu hút nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường ; phát triển các nhà đầu tư có tổ chức tham gia thị trường như quỹ đaauf tư , quỹ hưu trí , bảo hiểm , tổ chức tài chính , khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài. Nghiên cứu ban hành các chính sách phát triển như chương trình bán cổ phiếu cho người lao động trong doanh nghiệp , nới lỏng các quy định hạn chế với các tổ chức tín dụng , tài chính , thúc đẩy thành lập các công ty tư vấn đầu tư , tăng cường khả năng tiếp cận thị trường cho các nhà đầu tư nhỏ . Nới lỏng hạn chế đầu tư của người nước ngoài , ban hành các chính sách ưu đãi về thúê ;
Sáu là đa dạng hoá dạng hoá các loại hình chứng khoán . Hiện nay , chứng khán trên thị trường Việt Nam chủng loại còn rất đơn điệu . Việc đa dạng hoá các loại hình chứng khoán không chỉ tạo ra sự phong phú ,đa dạng của sản phẩm tài chính ,tạo điều kiện tăng thêm dung lượng thị trường mà vấn đề hết sức quan trọng lácho phép tăng thêm khả năng lựa chọn các phương án lựa chọn phương án trong danh mục đầu tư – một trong những tiền đề thúc đẩy sự phát triển , sự vận động của thị trường chứng khoán . Bởi vậy , đối với hệ thống chứng khoán chính phủ cần phát hành các loại hình tráI phiếu có thời hạn khác nhau , với lãI suất thay đổi ( căn cứ vào tình hình thực tế của thị trường tàI chính ) trên cơ sở bảo vệ lợi ích của người đầu tư ; đối với các chứng khoán công ty , không chỉ thuần tuý phát hành cổ phiếu như hiện nay , mà còn phải tổ chức phát hành tráI phiếu : trái phiếu chuyển đổi ( có thể chuyển thành các cổ phiếu khác nhau), trá phiếu có kỳ hạn và lãi suất thay đổi , trái phiếu công trình , trái phiếu được đảm bằng vàng hoặc ngoại tệ mạnh
Bảy là củng cố và phát triển kết cấu hạ tầng của TTCK bao gồm : sở giao dịch chứng khoán ( trung tâm giao dịch chứng khoán ) , hệ thống các công ty chứng khoán , các công ty đầu tư , tư vấn về nghiệp vụ đầu tư kinh doanh chứng khoán ; hệ thống lưu ký , thanh toán bù trừ , hệ thống báo giá ; đồng thời phải đào tạo được đội ngũ cán bộ nghiệp vụ , các nhà đầu tư đủ mạnh để cung ứng cho TTCK . Sắp xếp , hoàn thiện bộ máy của UBGDCK , TTGDCK theo tinh thần ngị định 30/20003/NĐ-CP ngày 1/4/2003 của chính phủ nhằm nâng cao khả năng điều hành , giám sát thị trường một cách linh hoạt ,có hiệu quả . Tăng cường quản lý , giám sát thị trường thông qua việc tổ chức hoàn thiện các hoạt động theo dõi kiểm tra , thanh tra các hoạt động thị trường để kịp thời ban hành chính sách điều chỉnh phù hợp và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật . Có như vậy mới thực hiện vấn đề bảo vệ lợi ích kinh tế các nhà đầu tư – một trong những nguyên tắc tối cao của thị trường chứng khoán – là động lựu thúc đẩy sự tham gia của công chúng và các nhà đầu tư trênTTCK . Sự chao đảo của TTCK Việt Nam đã khiến cho nhiều nhà đầu tư phải xa lánh thị trường . Vì vậy , cần phải xây dựng bộ luật về chứng khoán và TTCK- cơ sở pháp lý của tất cả các hoạt động liên quan đến phát hành và lưu thông chứng khoán , đồng thời bảo vệ lợi ích công chúng và nhà đầu tư - động lực thúc đẩy họ tham gia TTCK
2.Định hướng phát triển
2.1 Xây dựng thị trường giao dịch chứng khoán cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiến tới xây dựng thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC ) tại Hà Nội
Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội sẽ là nơi niêm yết cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thoả mãn điều kiện có số vốn từ 5 tỷ VNĐ trở lên , kinh doanh có lãi một năm và có tối thiểu 30 cổ đông bên ngoài nắm giữ tối thiểu 20% cổ phần , có cổ phiếu lưu ký tập trung và báo cáo định kỳ trên cơ sở kiểm toán độc lập
Theo số liệu thống kê , số lượng doanh nghiệp cổ phần đã đáp ứng được các điều kiện như trên không dưới 500 doanh nghiệp , và nếu chương trình CPH được thúc đẩy mạnh mẽ hơn , cộng với chính sách của Chính phủ nâng cao vai trò các doanh nhân trong nền kinh tế , số lượng doanh nghiệp tham gia thị trưòng này sẽ còn tăng nhanh
Tuy nhiên,trên thực tế ít doanh nghiệp đủ điều kiện sẽ mong muốn niêm yết , đặc biệt lại là niêm yết tại bảng loại hai . Bởi vì họ chưa thấy rõ ngay lợi ích của việc niêm yết mang lạ , trong khi niêm yết lại phảI chịu áp lực thường xuyên về hoạt động và quản trị công ty , công bố thông tin và nhiều yêu cầu khác từ TTGDCK , đồng thời phảI theo dõi và tìm cách nâng cao giá trị cổ phiếu doanh nghiệp trên thị trường
Như vậy muốn phát triển thị trường chứng khoán bảng II, ta cần thực hiện một số biện pháp sau:
Thứ nhất , chủ động tạo ra các nguồn vốn dài hạn và có chất lượng , có nhu càu đầu tư vào các chứng khoán trước niêm yết và chứng khoán niêm yết thông qua việc cho phép tổ chức các tổ chức đầu tư , trong đó công ty quản lý quỹ đầu tư và các quỹ đầu tư đóng vai trò quan trọng .
Thứ hai , nâng cao các điều kiện ưu đãi nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia niêm yết , xác định rõ doanh nghiệp khi niêm yết phải đầu tư nâng cao giá trị của mình nếu không muốn bị đào thải .
Thứ ba , ban hành các văn bản nhà nước không chỉ khuyến khích mà còn đồng thời áp dụng các biện pháp áp đặt , thúc đẩy mạnh hơn tiến trình CPH doanh nghiệp Nhà nước , mở rộng CPH sang nhiều lĩnh vực quan trọng hơn và các doanh nghiệp có vốn lớn hơn , trước mắt cần ban hành ngay thông tư hướng dẫn nghị định 64/CP , trong đó việc bán 30% cổ phiếu cho các cổ đông bên ngoàI doanh nghiệp nên đưa thành điều kện bắt buộc
Thứ tư , nhìn nhận việc nước ngoàI tham gia TTCK theo quan theo quan điểm tích cực , qua đó khuyến khích các nhà ĐTNN , thường là những tổ chức và cá nhân có vốn lớn ,và đầu tư dàI hạn tham gia đầu tư gián tiếp bằng các ưu đãI nhiều hơn ,cấp phép đầu tư dễ dàng hơn ; nâng cao hơn các giới hạn sở hữu của phía nước ngoài trong các doanh nghiệp
Thứ năm , tăng cường mối liên kết giữa các cơ quan quản lý thị trường như Uỷ ban chứng khoán nhà nước và các tổ chức cá nhân tham gia thị trường như các nhà dầu tư , các công ty chứng khoán ,các quỹ đầu tư trong và ngoàI nước , các công ty bảo hiểm thông qua một hệ thống thông tin hai chiều rõ ràng , minh bạch
TTGDCK Hà nội sẽ tạo ra một sân chơI mới công khai và minh bạch cho các doanh ngiệp nhưng năng động ,mong muốn huy động vốn với chi phí thấp để tăng trưởng . TTGDCK Hà Nội cũng sẽ góp phần tạo nên một TTCK Việt nam hoàn thiện hơn
2.2 Xây dựng quỹ đầu tư chứng khoán
Quỹ đầu tư chứng khoán (quỹ DTCK) là một cơ chế hoạt động mà trong đó một số đông các nhà đầu tư riêng lẻ góp vốn để hình thành một quỹ chung , rồi sau đó uỷ thác quản lý cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp tiến hành đầu tư nhằm thu lợi nhuận cao và số lợi nhuận thu được từ hoạt động của quỹ được phân chia cho các nhà đầu tư riêng theo tỉ lệ số vốn đã đóng góp . Quỹ DTCK là một khái niệm còn mới lạ ở Việt Nam nhưng loại quĩ
Thị trường chứng khoán này rất cần được thành lập và phát triển dể góp phần huy động vốn cho nền kinh tế nói chung và phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) một cách ổn định.
thuận lợi và khó khăn
Nền kinh tế tăng trưởng ổn định , thu nhập của dân cư ngày càng tăng. TTCK đã đi vào hoạt động và bước đầu hoạt động suôn sẻ. Hàng hoá chứng khoán có xu hướng ngày càng phong phú . Sự có mặt của các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tạo ra một yếu tố thúc đẩy sự ra đời các quỹ đầu tư trong nước tại Việt Nam
Tuy nhiên , chúng ta thiếu đội ngũ các nhà quản lý , đầu tư chuyên nghiệp . TTCk hiện nay qui mô còn nhỏ , hàng hoá chứng khoán còn ít . Cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển quỹ đầu tư chưa hoàn chỉnh . sự hiểu biết của công chúng về quỹ đầu tư còn nhiều hạn chếMột số giải pháp thúc đẩy sự hình thành và phát triển quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt nam Về mô hình quỹ đầu tư Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam là quỹ đầu tư dạng hợp đồng
Mô hình này hiên nay đang được tổ chức khá thành công ở Nhật bản và Hàn Quốc .C ó hai yếu tố quyết định sự thành công của mô hìnnày ở hai quốc gia nói trên là có đội ngũ các nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp , có trình độ cao và hệ thống pháp lý tương đối hoàn chỉnh , chặt chẽ . Hai yếu tố này tạo cơ sở vững chắc cho các nhà đầu tư riêng lẻ hay nói cách khác đilà công chúng đặt niềm tin vào quỹ đầu tư
Mô hình quỹ đầu tư cần được giải quyết một số vấn đề sau
Thứ nhất ,cần tiếp tục nghiên cứu và nên cho phép triển khai cả mô hình Quỹ đầu tư theo dạng công ty
Việc thực hiên như vậy cho phép người đầu tư có thể cân chắc lựa chọn tuỳ theo cách đánh giá của từng người đầu tư để quyết định đầu tư vào quỹ đầu tư theo tín thác hay dạng công ty . ở đây cũng cần nhận thấy , trong khi ở Nhật Bản và Hàn Quốc áp dụng mô hình Công ty đầu tư lại phát triển mạnh mẽ và thành công hơn ở Mỹ . ở Việt Nam ,ngoài quỹ đầu tư theodạng hợp đồng như hiện hành nên cho phép thành lập cả quỹ đầu tư theo dạng công ty nhưng cơ chế tổ chức nên đơn giản hơn so mô hình Quỹ tương hỗ của Mỹ
Quỹ đầu tư dạng công ty nên thành lập và hoạt động theo dạng tương tự công ty cổ phần quy định trong luật doanh nghiệp . Trong đó người đầu tư góp vốn vào quỹ dưới hình thức mua cổ hiếu và trở thành cổ đông có các quyền của cổ đông phổ thông . Hội đồng quản trị là người đại diện của Quỹ hợp đồng thuê công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát bảo quản tài sản của quỹ đồng thời Hội đồng quản trị (HĐQT ) cũng là người giám sát hoạt động của người điều hành Quỹ do Công ty quản lý quỹ cử đến . Như vậy , người điều hành quỹ hoạt động với tư cách là giám đốc của quỹ mà HĐQT dã thuê từ công ty quản lý quỹ . Việc phân chia lợi nhuận của Quỹ sẽ do đại hội cổ đông quyết định
Thứ hai , cần bổ sung hoàn thiên quy chế về tổ chức hoạt động của Quỹ đầu tư theo dạng hợp đồng hiên hành . Trong đó cần xem xét một số điểm sau
Để gắn trách nhiệm và quyền lợi hơn nữa của ccông ty quản lý quỹ với người đầu tư cần quy định trong 3 năm đầu Công ty quản lý phảI nắm giữ một tỉ lệ tối thou là 25% chứng chỉ Quỹ đầu tư đang lưu hành
Việc phân chia lợi nhuận cho người đầu tư . Trong quy chế hiện hành không đề cập đến vấn đề chia lợi nhuận của quỹ đầu tư . ở đây , một vấn đề đặt ra là nếu việc phân chia lợi nhuân thực hiện dứt điểm hằng năm thì sẽ xảy ra tình trạng những năm hoạt ddộng của quỹ gặp thuụân lợi thì số lợi nhuận thu được sẽ thu được sẽ lớc , số lợi tức chia cho một hứng chỉ quỹ sẽ tăng nhiều . Nhưng những năm hoạt động của quỹ khó khăn , lợi nhuận thu được ít hoặc bị thhua lỗ , người đầu tư được chia ít hoặc thua lỗ thì dễ dẫn đến chán nản . Vậy nên chăng quy điịnh cho phép hằng năm quỹ được trích một tỷ lệ từ lợi nhuân sau thuế để lập một loại quỹ có tính chất dự trữ đẻ bổ sung cho phàn lợi nhuận phân chia cho người đầu tư ở những năm quỹ thu được lợi nhuận thấp . Chẳng hạn hằng năm được trích 10% lợi nhuận sau truế để lập quỹ dự trữ điều hoà lợi tức cho đến quy mô của quỹ đạt tới giới hạn 10% vốn điều lệ của Quỹ thì thôi không trích nữa
Nhà nước cần khuyến khích và hỗ trợ tích cực cho việc hình thành và phát triển quỹ đầu tư
Khi TTCK đã đi vào hoạt động thì việc hình thành các quỹ đầu tư là hết sức cần thiết để tạo điều kiện cho công chúng có thể tham gia vào TTCK . Tuy nhiên , Quỹ đầu tư chứng khoán hiện nay còn là vấn đề rất mới và trong điều kiện hiện nay còn nhiều khó khăn để quỹ ra đời và hoạt động , do vậy rất cần có sự trợ giúp của Nhà nước như :
Nhà nước cần đi tiên phong trong việc thành lập công ty quản lý quỹ và thiết lập các Quỹ đầu tư
Trợ giúp trong việc tạo hàng hoá cho sự hoạt động của quỹ
Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế với hoạt động đầu tư chứng khoán của quỹ đầu tư
Chú trọng nghiên cứu , đồng thời phổ biến rộng rãi kiến rthức về quỹ đầu tư ra công chúng
Những vấn đề về tín thác đầu tư và Quỹ đầu tư còn rất mới mẻ tại Việt Nam . Do vậy ,một mặt cần tiếp tục nghiên cứu về mặt lý luận và kinh nghiệm của các nước trong việc phát triển hệ thông tín thác đầu tư , Mặt khác , cần phổ biến rộng rãI về quỹ đầu tư ra công chúng qua sách báo và các phương tiện thông tin đại chúng . Đối tượng thu hút các nhà đầu tư tham gia Quỹ đầu tư chủ yếu là công chúng .Vì thế sự thành công của quỹ phụ thuộc rất lớn vào sự hiểu biết và tham gia của công chúng
2.3 Thành lập Hiệp hội các nhà đầu tư – kinh doanh chứng khoán Việt nam
Để khắc phục những hiện tượng tiêu cực như sự cạnh tranh không lành mạnh , thao túng lũng đoạn trên thị trường và nhằm mục tiêu làm giảm bớt các chi phí giao dịch , tăng cường sự liên minh , liên doanh , liên kết trong quá trình đầu tư – kinh doanh chứng khoán - đặc biệt là do khuynh hướng phát triển ngày càng mạnh mẽ của thị trường “ OTC “, việc thành lập tổ chức tự quản , phi chính phủ của các nhà đầu tư – kinh doanh chứng khoán là tất yếu khách quanvà là hện thực ở hầu hết các TTCK trên thế giới . Hiệp hội các nhà đầu tư kinh doanh chứng khoán Việt Nam thành lập sẽ là một bước quan trọng tiến tới xây dựng trung tâm TTCK “OTC “ tại Việt Nam
KếT LUậN
Sự hình thành và phát triển của thị trường vốn có vai trò quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của quá trình đổi mới đặt ra: chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng nhanh vững chắc. Song các thị trường vốn là các tổ chức phức tạp, đôi khi mỏng manh và luôn phụ thuộc vào tương quan đồng bộ giữa môi trường kinh tế và môi trường chính trị. Muốn nền kinh tế phát triển nhanh, cần thiết phải tạo dựng một thị trường vốn phát triển mà đỉnh cao của nó là thành lập thị trường chứng khoán. Sự ra đời của thị trường chứng khoán tại Việt Nam là một quá trình tất yếu. Tuy nhiên vấn đề quan trọng là phải chuẩn bị tốt để tổ chức và điều hành hoạt động của thị trường chứng khoán có hiệu quả góp phần tích cực vào sự phát triển ổn định của nền kinh tế quốc dân./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0543.doc