Hiện tượng siêu dẫn và những ứng dụng trong khoa học đời sống
Mục lục 1
Lời mở đầu 3
Lý do chọn đề tài .4
I. Hiện tượng siêu dẫn 7
I.1. Khái niệm hiện tượng siêu dẫn .7
I.2. Điện trở không 7
I.3. Nhiệt độ tới hạn và độ rộng chuyển pha .8
II. Các vật liệu siêu dẫn .9
II.1. Vài nét về lịch sử phát hiện các chất siêu dẫn 9
Bảng thống kê một số vật liệu siêu dẫn 12
II.2. Tính chất từ .13
II.2.1. Tính nghịch từ của vật dẫn lí tưởng 13
II.2.2. Vật siêu dẫn không lý tưởng .14
II.2.3. Hiệu ứng Meissner 15
II.2.4. Từ trường tới hạn 18
II.2.5. Dòng tới hạn 18
II.2.6. Mối liên hệ giữa từ trường tới hạn và dòng tới hạn 21
II.2.7. Phân loại các chất siêu dẫn theo tính chất từ 24
II.3. Tính chất nhiệt 25
II.3.1. Sự lan truyền nhiệt trong chất siêu dẫn .25
II.3.2. Nhiệt dung của chất siêu dẫn 27
II.3.3. Độ dẫn nhiệt của chất siêu dẫn .28
II.3.4. Hiệu ứng đồng vị .30
II.3.5. Các hiệu ứng nhiệt điện 30
II.3.6. Các tính chất khác .31
II.4. Phân biệt giữa vật liệu siêu dẫn và vật dẫn điện hoàn hảo .31
III. Các lý thuyết liên quan về siêu dẫn 32
III.1. Entropi của trạng thái siêu dẫn và trạng thái thường 32
III.2. Sự xâm nhập của từ trường vào chất siêu dẫn .32
III.3. Lý thuyết Ginzburg - Landau .33
III.3.1. Phương trình Ginzburg – landau .33
III.3.2. Độ dài kết hợp .35
III.4. Lý thuyết BCS 35
III.4.1. Lý thuyết BCS .35
III.4.2. Cặp Cooper 36
IV. Chất siêu dẫn nhiệt độ cao .37
IV.1. Sơ lược về lịch sử phát hiện các chất siêu dẫn nhiệt độ cao .37
IV.2. Lý thuyết liên quan đến siêu dẫn nhiệt độ cao .40
IV.3. Một số loại siêu dẫn nhiệt độ cao điển hình .41
IV.3.1. Vài nét về oxit siêu dẫn .41
IV.3.2. Một số loại siêu dẫn nhiệt độ cao điển hình chứa Cu và Oxy .42
IV.3.3. Chất siêu dẫn MgB2 44
IV.4. Tính chất khác .45
V. Các ứng dụng của vật liệu siêu dẫn 46
V.1. Tàu chạy trên đệm từ. .46
V.2. Máy chụp ảnh cộng hưởng từ (MRI) 48
V.3. Máy gia tốc hạt bằng chất siêu dẫn nhiệt độ cao .50
V.4. Truyền tải năng lượng ( Electric Power Tranmission) .50
V.5. Nam châm siêu dẫn trong lò phản ứng nhiệt hạch .51
V.6. Khả năng giữ được trạng thái plasma: 52
V.7. Bom E: 52
V.8. Siêu máy tính: .53
V.9. Ăngten mini ( Miniature Antennas) 53
V.10. Công tắc quang học: 54
V.11. Bình tích trữ năng lượng từ siêu dẫn ( Superconducting Manetic Energy
Storage - SMES) .54
V.12. Các bệ phóng điện từ ( Electrmagetic Launchers): 54
V.13. Tách chiết từ: 55
V.14. Hệ thống từ thủy động lực ( Magnetohydro Dynamic System, MHD) 55
V.15. Máy lạnh từ: 56
V.16. Biến thế siêu dẫn .56
V.17. Máy phát điện siêu dẫn .56
V.18. Động cơ siêu dẫn 57
V.19. Thiết bị máy phát – Động cơ siêu dẫn kết hợp 57
V.20. Tàu thủy siêu dẫn 57
V.21. Thiết bị dò sóng milimet .58
V.22. Bộ biến đổi analog/digital(A/D convertor) .58
V.23. Màn chắn từ và thiết bị dẫn sóng 58
V.24. Thiết bị sử lý tín hiệu 59
V.25. Ôtô điện 59
V.26. Cảm biến đo từ thông ba chiều .59
V.27. Thiết bị Synchrotrons .59
V.28. Lò phản ứng nhiệt hạch từ 60
VI. Một số phát hiện mới về hiện tượng siêu dẫn 60
VI.1. Chất siêu dẫn trong răng người 60
VI.2. Chất siêu dẫn 1.5 .61
VI.3. Hành xử theo cả hai kiểu 62
VI.4. Hỗn hợp tương tác 62
VI.5. Silicon siêu dẫn ở nhiệt độ phòng .63
VI.6. Vật liệu nano mới mang đồng thời tính siêu dẫn và tính sắt từ 64
Lời kết .68
Tài liệu tham khảo .69 .
Hiện tượng siêu dẫn và những ứng dụng trong khoa học – đời sống
70 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 4451 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hiện tượng siêu dẫn và những ứng dụng trong khoa học – đời sống, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
K. Phát minh này
làm chấn động dư luận trên toàn thế giới. Một lần nữa các nhà khoa học đã quay lại
với phát hiện về siêu dẫn có trong hợp chất gốm (1974). Phát minh của Müller và
Bednorz mở ra một chân trời mới đầy hy vọng, nó có sức hấp dẫn và lôi cuốn đa số
các nhà vật lý trên toàn thế giới, nó như một phát súng đại bác mở đầu cho một
cuộc tấn công mạnh mẽ vào lĩnh vực khoa học hoàn toàn mới: “lĩnh vực siêu dẫn
nhiệt độ cao”.
Ngay sau đó là sự bùng nổ thông tin nghiên cứu về siêu dẫn nhiệt độ cao trên
toàn cầu. Các phòng thí nghiệm, các nhóm nghiên cứu ở rất nhiều nước trên thế giới
chạy đua nhau công bố các kết quả về siêu dẫn nhiệt độ cao.Những vật liệu siêu dẫn
mới không ngừng được phát hiện thêm và nhiệt đọ chuyển pha TC ngày càng được
nâng cao một cách đáng kể.
Tiếp sau phát minh của Müller và Bednorz, ngay trong năm 1986 nhóm
TOKYO đã xác đinh được (La0.85Ba0.15)2CuO4 có cấu trúc Perovkite loại K2NiF4
TC cỡ 30 K. Nhóm Houston đã nghiên cứu hiệu ứng áp suất cao ở hợp chất gốm này
và tìm thấy TC tăng cỡ 1K/kbar, đồng thời cũng xác định được nhiệt độ bắt đầu
chuyển pha của nó cỡ 57 K ở áp suất 12 kbar. Sau kết quả này nhóm Houston-
39
Alabamad đã thay thế một lượng nhỏ Ba bằng Sr và đã xác định được nhiệt độ bắt
đầu chuyển pha siêu dẫn TC 42,5K trong hợp chất (La0.9Sr0.1)2CuO4 ở áp suất
thường.
Nhiều phòng thí nghiệm khác nghiên cứu về siêu dẫn nhiệt độ cao trên thế
giới A&T.Bell, Beijing, Belcore, Argone, và Naval Research Laboratory cũng
khẳng định các kết quả được nghiên cứu trên đây.
Cho đến năm 1991,một số nhà khoa học đã tìm ra siêu dẫn còn có trong cả
các hợp chất hữu cơ KxC60 với nhiệt độ chuyển pha lên đến 28 K. Một phát hiện rất
quan trọng cũng vào năm đó là các nhà khoa học ở AT&T đã tìm thấy siêu dẫn hữu
cơ là chất C60Rb3 có nhiệt độ TC cỡ 30 K. Kết quả này là một sự ngạc nhiên lớn cho
các nhà khoa học, nó không chỉ ngạc nhiên về siêu dẫn thực sự tồn tại trrong chât
hữu cơ mà cơ chế siêu dẫn nhiệt độ cao gây bởi các lớp Cu-O trong vật liệu mới này
đã trở nên không còn ý nghĩa. Phải chăng, một hướng mới trrong siêu dẫn nhiệt độ
cao cần được hình thành để giải thích cho sự tồn tại siêu dẫn trong các hợp chất
được gọi là “Fullerence”.
Một phát hiện đáng quan tâm nữa là ngày 20/01/1994 nhóm tác giả R.J.Cava
đã công bố tìm thấy siêu dẫn trong hợp chất Intermetallic-LnNi2B2C (Ln=Y, Tm,
Er, Ho, Lu) có nhiệt độ TC = 13 - 17 K. Mặc dù TC của hợp chất này không cao
nhưng đây là một phát minh quan trọng vì nó mở ra con đường tìm kiếm vật liệu
siêu dẫn trong các hợp kim liên kim loại (Intermetallic) và trong các vật liệu từ -
một vấn đề mà từ trước đến nay người ta vẫn cho rằng không có khả năng tồn tại
siêu dẫn.
Như vậy, cho đến năm 2001 đã có rất nhiều hợp chất siêu dẫn mới được phát
hiện. Sự phân loại tạm thời hôm nay có thể ngày mai sẽ bị thay đổi.
40
Đồng thời với nhiều chất siêu dẫn mới được phát hiện, nhiệt độ chuyển pha
của chúng cũng không ngừng được nâng cao. Cho đến nay, một số thông tin cho
biết một vài tác giả đã tổng hợp được chất siêu dẫn có nhiệt độ chuyển pha ở nhiệt
độ phòng.
IV.2. Lý thuyết liên quan đến siêu dẫn nhiệt độ cao
Do đặc điểm các vật liệu siêu dẫn nhiệt độ cao hiện nay đều có cùng một cấu
trúc gồm các mặt tinh thể oxit đồng, nên các mô hình lý thuyết hiện nay thường tập
trung vào giải bài toán của mạng tinh thể oxit đồng trong không gian hai chiều. Mô
hình lý thuyết đơn giản nhất được đề ra hiện nay là mô hình Hubbard hai chiều
nhằm mô tả cấu trúc tinh thể này.
Cũng giống như hiện tượng siêu dẫn nhiệt độ thấp, các nhà vật lý lý thuyết
cho rằng nguyên nhân của hiện tượng siêu dẫn là do sự xuất hiện các "cặp điện tử
Cooper". Các cặp điện tử này không còn tuân theo nguyên lý loại trừ Pauli và có thể
tạm hiểu rằng hai điện tử được liên kết tạo thành một dạng phân tử Bose. Do đó các
cặp điện tử này có thể ngưng tụ lại cùng một trạng thái lượng tử ở nhiệt độ thấp hơn
một nhiệt độ chuyển pha nào đó, gần giống như hiện tượng ngưng tụ Bose trong vật
lý nguyên tử lạnh. Chúng tạo ra một trạng thái lượng tử đồng pha và là nguyên nhân
của hiện tượng siêu dẫn. Tuy nhiên, để tạo ra một cặp điện tử Cooper ta cần một
tương tác hút hiệu dụng giữa các điện tử, tương tự tương tác "điện tử với phonon"
trong lý thuyết BCS. Cho đến này nguyên nhân của tương tác đó vẫn chưa được tìm
ra hoặc chưa được tất cả các nhà khoa học cùng đồng tình.
Từ những phát hiện về các tính chất của vật liệu siêu dẫn nhiệt độ cao ở trạng
thái không siêu dẫn, một trong những hướng nghiên cứu được quan tâm là xuất phát
từ trạng thái cơ bản của hệ oxit đồng khi chưa được cấy các nguyên tử lạ là một
"chất cách điện Mott". Ví dụ như lý thuyết RVB của Philip Anderson (đoạt giải
thưởng Nobel về vật lý năm 1977) vào những năm 1987, 1988 nhằm giải thích siêu
dẫn nhiệt độ cao. Lý thuyết này đề ra một trạng thái cơ bản mới RVB là sự cộng
41
hưởng (hay chồng chập) của tất cả các trạng thái mà trong đó có các liên kết hóa trị
giữa các điện tử trên những nút tinh thể kề nhau. Sau này người ta đã chứng minh
rằng trạng thái này không phải là trạng thái cơ bản của hệ không cấy nguyên tử lạ.
Nhưng trong những năm cuối thập kỉ 1990, Philip Anderson đã hoàn thiện lý thuyết
này và cho rằng nồng độ của chất được cấy ghép vào hệ oxit đồng là nguyên nhân
khiến trạng thái RVB trở nên bền.
Tuy nhiên cho đến nay chưa một lý thuyết nào đủ hoàn thiện để có thể giải
thích đầy đủ các tính chất và cấu trúc của các vật liệu này. Ngoài những tính toán lý
thuyết, những phương pháp mô phỏng số cũng đóng một vai trò rất quan trọng.
Hiện nay phương pháp DMFT1và phiên bản mở rộng của nó CDMFT đang cho
nhưng kết quả rất phù hợp với thực nghiệm.
IV.3. Một số loại siêu dẫn nhiệt độ cao điển hình
IV.3.1. Vài nét về oxit siêu dẫn
Dấu ấn đầu tiên trong lịch sử phát hiện ra siêu dẫn có trong oxit đó là chất
SrTiO3 do Schooley, Hooler và Cohen tìm thấy năm 1964 với nhiệt độ chuyển pha
TC 0.25 K và các hạt tải điện tử là n = 3.1019/cm3. Hiện tượng này không nằm
trong khuôn khổ của lý thuyết BCS. Mười bảy năm sau người ta đã pha tạp Nb và
SrTiO3 và đã nâng được nồng độ điện tử lên n = 1021/cm3 và nhiệt độ chuyển pha
TC 1,3 K. Chín tháng sau, nhóm Matthias đã tìm thấy siêu dẫn trong NaxWO3 với
1 DMFT: là một lý thuyết trường trung bình mới được bắt đầu giới thiệu và
phát triển từ đầu nhưng năm 1990 bởi hai nhà vật lý Antoine Georges (Pháp) và
Gabriel Kotliar ( Mỹ). Cho đến nay, lý thuyết đang được dần hoàn chỉnh với các
phiên bản mới như C-DMFT (Cluster-DMFT).
42
x = 0,3; n = 1022/cm3 và TC 0,57 K. Như vậy hiện tượng siêu dẫn đã xuất hiện
trrong nhiều loại ôxit khác nhau với nồng độ electron đủ lớn.
Năm 1965 hiện tượng siêu dẫn cũng được tìm thấy trong TiO và NbO với
các nhiệt độ chuyển pha tương ứng là 0,65 K và 1,25 K.
Năm 1973, Johnston và đồng nghiệp đã tìm ra siêu dẫn có trong LiTi2O4 với
TC = 11 K. Năm 1975, Sleight và đồng nghiệp đã tìm ra siêu dẫn có trong hệ
perovskite BaPb1-xBixO3. Với x = 0,25 thì nồng độ hạt tải n = 2,4.1021/cm3 và
TC = 11,2 K. Điều này cho phép dự đoán có thể tìm thấy siêu dẫn trong nhiều oxit
khác nhau. Sau đó người ta thay K+1 vào Ba+2 trong chất cách điện BaBiO và tìm
thấy TC 30 K trong hợp chất Ba-K-Bi-O.
Vậy là từ năm 1986 trở về trước người ta tìm được siêu dẫn tồn tại trong
nhiều oxit kim loại nhưng không phải trong các hợp chất chứa oxit đồng.
IV.3.2. Một số loại siêu dẫn nhiệt độ cao điển hình chứa Cu và Oxy
Từ năm 1988 đến nay, hàng loạt các oxit siêu dẫn chứa Cu được phát hiện
ngoài La(R)-214 và Y(R)-123 còn có họ hợp chất siêu dẫn nhiệt độ cao điển hình
sau đây:
Bi2Sr2Can-1CunO2n+4 (gọi tắt là Bi-22(n-1)n với n=1,2,3…)
Ti2Ba2Can-1CunO2n+4 (gọi tắt là Tl-22(n-1)n với n=1,2,3…)
HgBa2Can-1CunO2n+4 (gọi tắt là Hg-12(n-1)n với n= 1,2,3…)
CuBa2Can-1CunO2n+4 (gọi tắt là Cu-12(n-1)n với n=1,2,3…)
A1-xb2xCuO2 (A là kim loại đất hiếm, B là kim loại kiềm hoặc valency)
Các vật liệu siêu dẫn này có nhiệt độ chuyển pha đã vượt quá 120 K và cấu
trúc của chúng cũng đặc biệt hơn, có thể lưu ý những nét đặc trưng riêng của một
số loại điển hình trong các bộ phận siêu dẫn nêu trên.
43
IV.3.2.1 Hệ Bi-22(n-1)n:
Vật liệu này do Maeda và đồng nghiệp phát hiện vào tháng 1/1988.
Điển hình là: Bi-Sr-Ca-Cu-O (gọi tắt là BSCCO system)
Đây là loại vật liệu đa pha mà TC 105 K. Cấu trúc tinh thể gồm ba pha ứng
với n=1,2,3 được xác định là cấu trúc lớp theo trật tự sắp đặt: BiO2-SrO-CuO2-(Ca)-
CuO2-…-(Ca)-CuO2-SrO, với n là lớp CuO2 được ngăn bằng (n-1) lớp Ca. Ứng với
n=1,2 và 3 thì TC có các giá trị cỡ 22 K, 80 K và 110 K, ở đây đã có sự tăng nhiệt
độ chuyển pha theo thư tự tăng số lớp n.
IV.3.2.2 Hệ Tl-22(n-1)n:
Do Shung và Herman công bố vào cuối năm 1987.
Khi thay thế nguyên tố phi từ, hóa trị 3 (Tl) cho (R)-123 (TlBa2Cu3Ox) nhận
thấy nhiệt độ chuyển pha của hợp chất đã tăng lên xấp xỉ 90 K. Tháng 2 năm 1988,
Shung và Herman đã thay một phần Ca và Ba và được hợp chất Tl-Ba-Ca-Cu-O hay
(TBCCO), hợp chất này có cấu trúc giống như siêu dẫn Bi-2223 với hai lớp kép
(TlO2) và có TC=90 K, 110 K và 125 K khi n=1,2,3.
IV.3.2.3 Hệ Hg-12-(n-1)n:
Năm 1991 người ta thay thế Hg cho Cu và sau đó Putilin và đồng nghiệp tạo
ra hợp chất HgBa2CuO4+ (n=1) với TC =94 K. Schilling và đồng nghiệp thay n=2,3
trong Hg-12(n-1)n đã làm tăng TC= 133 K – 134 K ở áp suất cao 16 Gpa và 164 K ở
30 Gpa.
Cấu trúc được sắp đặt là: HgOd-BaO-CuO2-(Ca)-CuO2-…- (Ca)-(CuO2)-BO.
Với n lớp CuO2 được ngăn cách bằng (n - 1) lớp Ca, cấu trúc này giống với cấu trúc
TlBa2Can-1CunO2n+
44
IV.3.2.4 Hệ CuBa2Can-1CunO2n+2+
Công thức chung: AmX2Can-1CunO2n+m+2+ với m=1 hoặc 2, X=Ba hoặc Sr,
n=1,2,3 tăng theo sự thay đổi của A trong bảng hệ thống tuần hoàn.
Từ nhóm V B (Bi), nhóm III B (Tl) đến nhóm II B (Hg) trong bảng hệ thống
tuần hoàn, có khả năng làm tăng TC bằng cách thay đổi A liên tiếp đến nhóm I B
như Au hoặc Ag và TC đạt được 124 K trong hệ này.
IV.3.3. Chất siêu dẫn MgB2
Chẳng bao lâu nữa chất siêu dẫn mới magnesium diboride (MgB2) có thể
được ứng dụng rộng rãi nhờ một kỹ thuật do các nhà nghiên cứu Mỹ phát triển. Kỹ
thuật này giúp họ biến MgB2 thành những tấm màng cực mỏng.
Năm ngoái, các nhà nghiên cứu vô cùng sửng sốt khi MgB2 có thể dẫn
điện ở nhiệt độ 234oC, cao hơn so với các chất siêu dẫn tương tự. Tuy nhiên, khó
khăn nhất là biến chúng thành màng mỏng để sử dụng trong mạch điện tử siêu dẫn.
Hiện giờ trở ngại trên đã được Thiếu Hạnh Tề cùng đồng nghiệp thuộc đại học
Pennsylvania State khắc phục.
Nhóm nghiên cứu vừa tìm ra một phương pháp đơn giản và rẻ tiền để tạo ra
những tấm màng mỏng MgB2 chất lượng cao. Theo nguyên tắc, các mạch tích hợp
làm bằng chất bán dẫn có thể hoạt động với hiệu suất cao hơn mạch bán dẫn như
silicon, mở đường cho công nghệ thông tin tốc độ nhanh hơn. Một trong những
công nghệ đó là thiết bị giao thoa lượng tử siêu dẫn (superconducting quantum
interference devices - SQUIDs). Nó được sử dụng để dò từ trường rất nhỏ, chẳng
hạn như trong kỹ thuật hình ảnh cộng hưởng từ (magnetic resonance imaging -
MRI).
Thật không may là các mạch và thiết bị này chỉ có thể hoạt động ở nhiệt độ
cực thấp. Chẳng hạn như SQUIDs được chế tạo từ niobium, và hợp kim này phải
45
được làm lạnh bằng helium lỏng tới khoảng - 269 oC. Các đặc tính siêu dẫn của nó
bị mất ở nhiệt độ cao. Do đó, các nhà nghiên cứu luôn muốn tìm những vật liệu có
thể duy trì khả năng siêu dẫn ở nhiệt độ cao hơn. Vật liệu gốm có tên là oxide đồng
Tc siêu dẫn ở nhiệt độ cao hơn MgB2 vài độ, song giá thành lại cao hơn MgB2.
Trước đây có 2 phương pháp sản xuất màng siêu dẫn MgB2. Phương pháp
thứ nhất là nung nóng màng boron trong điều kiện có hơi magnesium, tạo cho màng
boron có đặc tính siêu dẫn, song lại có bề mặt thô ráp. Các thiết bị như là SQUIDS
thường cần nhiều lớp màng chồng lên nhau. Vì vậy, bề mặt thô ráp là một khiếm
khuyết nghiêm trọng. Phương pháp thứ hai là đồng thời ngưng tụ hơi magnesium và
boron, tạo ra các tấm màng nhẵn song siêu dẫn ở nhiệt độ thấp hơn.
Nhóm nghiên cứu của ông Tề làm bốc hơi các cục magnesium ở khoảng
700oC. Hơi magnesium sau đó kết hợp với diborane, một loại hợp chất dạng khí bao
gồm boron và hydrogen, trong môi trường khí hydrogen áp suất cao. Màng MgB2
mỏng hình thành trên những chiếc đĩa làm bằng vật liệu cứng như sapphire hay
silicon carbide. Chìa khoá ở đây là hydrogen. Nó ngăn không cho magnesium oxide
ảnh hưởng tới các tấm màng cũng như khả năng siêu dẫn của chúng.
IV.4. Tính chất khác
Ngoài tính chất siêu dẫn nhiệt độ cao, lớp các vật oxit đồng này còn có
những tính chất rất khác thường ngay ở trong trạng thái không siêu dẫn. Hai đặc
điểm khác thường này có thể kể đến trạng thái với "hố thế giả" và trạng thái không
phải là chất lỏng Fermi, một lý thuyết do Landau đề xuất để giải thích bài toán heli
lỏng.
Trong trạng thái bình thường các kim loại và hợp kim được mô tả rất tốt bởi
lý thuyết chất lỏng Fermi. Có nghĩa là có thể định nghĩa được trạng thái "chuẩn hạt"
(quasi-particle) và từ đó định nghĩa được "mặt Fermi" giống như trong khí Fermi tự
do. Nhưng những thí nghiệm ARPES dựa trên hiệu ứng phát xạ photon lại cho thấy
46
các "mặt Fermi" bị suy biến không còn là một mặt liên tục mà lúc này nó trở thành
các "túi" rời rạc. Điều đáng chú ý ở đây là không hề có một sự phá vỡ đối xứng nào.
V. Các ứng dụng của vật liệu siêu dẫn
V.1. Tàu chạy trên đệm từ.
Kể từ khi có sự phát minh ra siêu dẫn có rất nhiều sự quan tâm đặc biệt dành
cho những ứng dụng trong lĩnh vực điện từ. Thực ra ứng dụng dựa vào đặc tính từ
trường của nó được sử dụng nhiều và đa dạng hơn ứng dụng trong việc giảm bớt
diện trở rất nhiều.
Dựa vào "nam châm siêu dẫn", người Nhật và người Đức thiết kế ra các
đoàn tàu chạy trên đệm từ. Người Nhật đã thử nghiệm với khoảng 3 - 4 công nghệ
tàu chạy trên đệm từ khác nhau, lấy tên là Maglev dựa theo: thực hiện phép nâng
điện - động lực học bằng cách tạo ra 2 từ trường đối nhau giữa các nam châm siêu
dẫn đặt trên con tàu và những cuộn dây lắp trong đường ray hình chữ U bằng bê
tông.
Sau đây là một hình mẫu nhiều
triển vọng nhất đã thử nghiệm đến lần
thứ ba, có thông số kỹ thuật: tàu chạy từ
Tokyo đến Osaka cách nhau khoảng
500km, mục tiêu chở 100 khách chạy
trong một giờ. Từ trường do nam châm
siêu dẫn tạo ra cực mạnh đủ để nâng con
tàu lên 10 cm khỏi đường ray. Đường
ray có mặt cắt hình chữ U, trên nó có lắp
3 cuộn dây từ, được cung cấp điện bởi
các trạm nguồn đặt dưới đất dọc đường tàu. Nam châm siêu dẫn đặt trên tàu và đặt
trong những bình chứa Helium đã hoá lỏng, tạo ra nhiệt độ thấp là 269 độ dưới
Hình 5.1
High Một con tàu của Nhật ứng dụng hệ
thống Speed Surface transport
47
không độ, khi có dòng điện đi qua, sinh ra một từ trường khoảng 4,23 tesla nâng tàu
bổng lên trong khung đường ray chữ U.
Nhờ lực hút và lực đẩy xen kẽ giữa hai cực Nam - Bắc của cuộn dây và nam
châm, con tàu cứ thế tiến lên phía trước. Điều khiển tốc độ nhờ điều chỉnh biến đổi
tần số dòng điện trong cuộn dây từ 0 đến 50 Hz và điều chỉnh tốc độ từ xa tại trung
tâm điều khiển. Để hãm tàu, người ta làm cách hãm như trên máy bay. Người Nhật
đã phải vừa sản xuất vừa thử nghiệm trong 7 năm với kinh phí trên 3 tỷ USD. Hệ
thống trên đôi khi còn được gọi là hệ thống "Vận tải trên bộ tốc độ cao" (High
Speed Surface transport - HSST).
Theo hướng công nghệ HSST này, người Đức chế tạo ra tàu "Transrapid"
chạy trên đệm từ và cũng theo nguyên lý phát minh từ những năm 1960 theo công
nghệ hơi khác người Nhật đôi chút, đó là phương pháp nâng điện từ nhờ tác động
của những thanh nam châm đặt trên tàu, với những nam châm vô kháng chạy bên
dưới và hai bên đường tàu hình chữ T. Ước vận tốc đạt 450 km/giờ chạy trên đường
Berlin tới Hambourg, kinh phí khoảng 6 tỷ USD. Ngoài ra, người Pháp cũng đã và
đang quan tâm đến vấn đề vận tải siêu tốc trên bộ bằng siêu dẫn.
Hình 5.2
Sơ đồ hoạt động của tàu chạy trên đệm
từ
Hình 5.3
Tàu hỏa siêu tốc MALEGV
48
Hình 5.4
Tàu Yamanashi
Vào tháng 12 năm 2003, tàu Yamanashi MLX01 đã được thử nghiệm với
vận tốc 581km/giờ. Tuy nhiên các nhà khoa học cũng cảnh báo rằng các phương
tiện giao thông sử dụng công nghệ này có thể gây nguy hiểm đến hệ sinh thái do từ
trường rất mạnh.
V.2. Máy chụp ảnh cộng hưởng từ (MRI)
MRI (Magnetic Resonance Imaging) là loại máy sử dụng nam câm siêu dẫn
để có một từ trường đủ mạnh để cho nguyên tử hydro bên trong chất béo của con
người và các phân tử nước được tăng lên mức năng lượng nào đó có thể đo được
bằng các dụng cụ đặc biệt. Dùng trong y học (quét ảnh bằng cách đo tiếng dội lại
của âm thanh) để khám các mô trong cơ thể người.
Hình 5.4
Tàu Yamanashi
Hình 5.5
Máy chụp ảnh cộng hưởng MRI
49
Khi bác sĩ cần kiểm tra những gì đang diễn ra trong cơ thể người bệnh, họ
phải đặt vào trong cơ thể một nguồn từ trường mạnh có nguồn gốc siêu dẫn. Bằng
cách này các nguyên tử hiđrô có trong nước và mỡ sẽ bị buộc phải chấp nhận năng
lượng của từ trường. Sau đó các
nguyên tử hiđrô sẽ giải phóng năng
lượng này ra theo tần số mà máy tính
có thể nhận biết và vẽ nên biểu đồ.
Công nghệ MRI đã ra đời vào giữa
những năm 1940 và được thử nghiệm
lần đầu tiên trên người vào năm 1977.
Tuy nhiên, tại thời điểm đó, kỹ thuật
này phải mất đến 5 tiếng mới tạo ra
được 1 hình ảnh. Dù vậy, công nghệ này vẫn làm vinh danh 2 nhà nghiên cứu khoa
học Felix Bloch và Edward Purcell với giải Nobel Vật lý năm 1952.
Đến năm 1986, công nghệ MRI cho ra hình ảnh chỉ trong vòng 5 giây. Năm
1992, công nghệ này đã có thể lập nên bản đồ của nhiều vùng chức năng trong não.
Quá trình nghiên cứu và cải tiến công nghệ MRI non trẻ đã mang lại cho 3 nhà khoa
học khác 1 giải Nobel Hoá học năm 1991 và giải Nobel Y khoa năm 2003.Thiết bị
giao thoa lượng tử siêu dẫn (SQUID)
H
Hình 5.6
Hình ảnh sọ người sử dụng công nghệ MRI
Hình 5.7
Thiết bị SQUID là thiết bị nhận biết nhạy cảm nhất được biết đến hiện nay trong
khoa học được sử dụng để đo từ trường.
50
Hiện nay, nhóm Korean Superconductivity Group đã nâng công nghệ MRI
lên một tầng cao mới với sự phát triển của thiết bị SQUID (Superconducting
Quantum Interference Device = máy giao thoa lượng tử dùng siêu dẫn) trong công
nghệ lập bản đồ các vùng chức năng của não (MEG). Thiết bị này có thể cảm nhận
được sự thay đổi rất nhỏ của từ trường, nhỏ hơn cả 1 phần tỉ lần lực để di chuyển
cái kim của compa. Với công nghệ mới này, bác sĩ có thể thăm dò cơ thể người đến
1 mức độ nhất định mà không cần sử dụng từ trường mạnh như của công nghệ MRI.
Đây là một máy dò nhạy nhất về các tín hiệu trường điện từ. Thiết bị là sự
ghép nối của hai tiếp xúc Josephson và có thể đo các từ trường nhỏ tới 1/10 tỷ của
từ trường trái đất. Được ứng dụng để đo các tín hiệu từ trường cực nhỏ như: dò
xung của các dây thần kinh trong xương và bắp thịt, thăm dò khoáng sản và dầu
trong lòng trái đất và đại dương. Còn có khả năng phát hiện dò tìm, truyền thông tin
dưới biển phục vụ cho công nghiệp quốc phòng và nghiên cứu hải dương học. Sử
dụng hệ thống này dễ dàng kiểm tra được đối tượng mà không làm hại đến các quá
trình công nghiệp.
V.3. Máy gia tốc hạt bằng chất siêu dẫn nhiệt độ cao
Một ứng dụng quan trọng khác nữa là, có thể tạo ra được máy gia tốc mạnh
để nghiên cứu đặc tính gốc của nguyên tử. Người ta dùng những nam châm cực
mạnh để bẻ cong các chùm hạt, làm cho chúng chạy theo đường tròn để chúng va
đập vào nhau, qua đó nghiên cứu những "mảnh" sinh ra do những va đập mạnh đó;
người ta gọi đó là "siêu va đập siêu dẫn", dựa theo nguyên tắc này, các nhà khoa
học Mỹ đang tiến hành xây dựng một "máy gia tốc cực mạnh" trong đường hầm dài
88 km ở bang Texec để nghiên cứu các hạt cơ bản của vật chất.
V.4. Truyền tải năng lượng ( Electric Power Tranmission)
Hiện nay các đường dây tải điện siêu dẫn nhiệt độ cao đã dược xây dựng ở
một số nước tiên tiến như Mỹ, Nhật,… tải điện bằng cáp siêu dẫn có lợi rất lớn so
51
với đường dây tải điện thông thường. Có khả năng tải dòng rất lớn và không bị hao
tổn năng lượng trong quá trình tải điện. Thực nghiệm cho thấy dây cáp được làm
lạnh trong trạng thái siêu dẫn có thể tải dòng lớn gấp 3 lần trong dây cáp đồng bình
thường với đường kính dây và hiệu điện thế giống nhau, và có thể truyền đi rất xa
mà không bị tốn kém. Cáp siêu dẫn có thể tải năng lượng địa nhiệt, năng lượng điện
hydro và năng lượng mặt trời, năng lượng lấy từ than đá hoặc năng lượng hạt nhân
từ nguồn đến các trung tâm dân cư sử dụng hoặc nơi tiêu thụ.
V.5. Nam châm siêu dẫn trong lò phản ứng nhiệt hạch
Pháp và Nhật Bản đang cạnh tranh quyết liệt để được lựa chọn là nơi xây
dựng lò phản ứng nhiệt hạch thí nghiệm quốc tế (ITER) trị giá 5 tỷ USD. Nó có thể
là thí nghiệm lớn cuối cùng trước khi một nhà máy điện nhiệt hạch chính thức được
xây dựng trên thế giới.
ITER là dự án hợp tác giữa Liên minh châuÂu,
Nhật Bản, Nga, Canada, Trung Quốc, Hàn Quốc và Mỹ.
Các nước này sẽ bỏ phiếu lựa chọn vào tháng tới. Mục
đích của lò phản ứng ITER là tái tạo trên trái đất tiến
trình cung cấp năng lượng cho mặt trời và những vì sao
khác: phản ứng nhiệt hạch. Nó sẽ nung nóng hỗn hợp
gồm deuterium và tritium - hai đồng vị của hydrogen -
tới 200 triệu độ C. Các nam châm siêu dẫn sẽ giữ plasma ở giữa không trung trong
lò phản ứng tokamak hình bánh rán.
ITER sẽ là lò phản ứng nhiệt hạch đầu tiên tạo nhiệt. Nhiệt đó có thể sánh
với nhiệt được tạo ra từ các nhà máy điện thông thường. Deuterium và tritium là
nhiên liệu rẻ tiền và dồi dào. Deuterium được tách từ nước biển trong khi tritium
được sản xuất từ nguyên tố phổ biến - lithium. Khi được nung nóng, hai nhiên liệu
này sẽ hợp nhất với nhau để tạo helium và các neutron tốc độ cao. Nhiệt do neutron
tạo ra sẽ được sử dụng để vận hành turbine.
Hình 5.8
Mô hình ITER.
52
Phản ứng nhiệt hạch là nguồn năng lượng của các ngôi sao giống như mặt
trời. Mặt trời có một lò phản ứng tổng hợp hạt nhân ở lõi. Áp lực lớn và nhiệt độ 16
triệu độ C buộc hạt nhân nguyên tử hoá hợp và giải phóng năng lượng. Ước tính có
4 tỷ tấn vật chất được biến thành ánh sáng mặt trời mỗi giây.
Nếu Pháp giành thắng lợi, ITER sẽ được xây dựng tại Cadarache. Trong
trường hợp ngược lại, ITER sẽ nằm tại Rokkasho, Nhật Bản. Lò phản ứng nhiệt
hạch là bước tiến quan trọng trong việc phát triển năng lượng hạt nhân. Nó không
có khả năng gây ô nhiễm như lò phản ứng hạt nhân sử dụng plutonium và uranium
hiện nay.
V.6. Khả năng giữ được trạng thái plasma:
Chúng ta biết rằng phản ứng nhiệt hạch (Thermonuclear reactions) với khả
năng tạo ra một năng lượng khổng lồ, hãy thử hình dung năng lượng được tạo ra do
phản ứng nhiệt hạch từ một gam D-T tương đương với năng lượng từ 10000 lits
dầu.Nhưng ở trạng thái plasma với thành phần chủ yếu là Hidro nà hêli và nhiệt độ
khoảng 60000C sẽ không co loại vật liệu nào có thể giữ, khống chế được nguồn
năng lương này. Với khả năng ưu việt của mình các Ions và electrons quay xung
quanh các đường từ trường tạo ra một áp lực tử vô cùng lớn có thể giữ được trạng
thái plasma trong các lò phản ứng hạt nhân.
V.7. Bom E:
Tính năng nguy hiểm nhất của chất siêu dẫn đang được quân đội Mỹ triển
khai chính là E-bomb. Thiết bị này đã sử dụng một lực từ trường có nguồn gốc siêu
dẫn cực mạnh để tạo nên xung điện từ rất nhanh và mạnh nhằm phá hỏng các thiết
bị điện tử của đối phương. Lần đầu tiên thiết bị này được sử dụng là trong cuộc
chiến vào tháng 3/2003, khi quân đội Mỹ phá huỷ hệ thống phát thanh của Iraq.
Quân đội Mỹ hi vọng công nghệ E-bomb này sẽ được trang bị cho Bộ binh, hải
quân và không quân để làm nổ hoặc tê liệt đạn và pháo của đối phương. Nếu điều
53
Hình 5.9
Mô hình siêu máy tính
này thành hiện thực thì nó sẽ trở thành vũ khí công nghệ tinh vi nhất mà quân đội
Mỹ từng tạo nên từ trước đến nay.
V.8. Siêu máy tính:
Tổ chức Khoa học tự nhiên cùng với NASA, DARPA và một số trường đại
học đang nghiên cứu máy tính “petaflop”. Máy tính này có thể thực hiện một nghìn
tỷ tỷ thao tác 1 giây nhờ các nút bấm tí hon làm bằng chất siêu dẫn. Máy tính nhanh
nhất hiện nay mới chỉ đạt được tốc độ “teraflop”. Kỷ lục hiện nay thuộc về IBM
Blue Gene/L với tốc độ 70.7 teraflop/giây.
Các máy tính sử dụng linh kiện bằng chất siêu dẫn có ưu điểm: nhỏ, nhẹ,
nhanh, cấu hình mạnh. Các mạch điện đóng mở nhanh và có thể tích nhỏ. Trong các
máy tính siêu dẫn các đường truyền là các vi mạch siêu dẫn nối với thiết bị bán dẫn.
Ví dụ trong tiếp xúc Josephson, công tắc siêu dẫn chỉ đóng mở trong 6 pico giây
(nhanh gấp 10 lần công tắc bán dẫn).
V.9. Ăngten mini ( Miniature Antennas)
Người ta chế tạo các cần ăngten siêu nhỏ bằng chất siêu dẫn và đưa vào sử
dụng. Ăngten làm bằng chất siêu dẫn nhiệt độ cao chỉ có kích thước bằng 5% các
loại ăngten thông thường. Ăngten mini này làm việc theo nguyên lý mạch xuyên
ngầm và có độ nhạy gấp 20 lần các loại ăngten khác. Ví dụ ăngten siêu dẫn nhiệt độ
54
cao dài 2.6 inch có thể thay cho ăngten thông thường dài 52 inch sử dụng để bắt tần
số FM.
V.10. Công tắc quang học:
Trong các hệ tin học điều khiển truyền thông tin bằng cáp quang và các máy
tính quang điện thế hệ mới, người ta chế tạo và sử dụng các loại thiết bị công tắc
quang học từ chất siêu dẫn nhiệt độ cao. Công tcắ này nhỏ, gọn, nhẹ, điều khiển
chính xác, bền và có độ nhạy cao. Thời gian điều khiển cực nhanh.
V.11. Bình tích trữ năng lượng từ siêu dẫn ( Superconducting
Manetic Energy Storage - SMES)
Thiết bị này được chế tạo tại Mỹ. Trong SMES, năng lượng được sinh ra từ
từ trường của cuộn dây siêu dẫn rất lớn được chôn trong lòng đất. Năng lượng được
tích trữ trong cuộn dây siêu dẫn và các mạch điện trong hệ thống này không bị tiêu
hao năng lượng. Năng lượng ở đây không cần chuyển đổ từ các dạng năng lượng
khác nhau vào bình chứa (ví dụ các dạng năng lượng cơ học, hoá học, nhiệt học,…).
Khi cần sử dụng, năng lượng được phóng ra rất nhanh với cường độ rât mạnh. Điều
này làm giảm từ trường và giảm năng lượng tích trữ. SMES có hiệu suất đến 90%,
các ứng dụng trong khoa học quân sự như: năng lượng lazer, súng chạy trên dường
ray, có thể bắn các loại tên lửa tầm xa với tốc độ rất lớn. Các thiết bị này yêu cầu sự
tích luỹ năng lượng rất lớn và lượng năng lượng khi sử dụng cũng rất lớn và giải
phóng ra rấtt nhanh. Có thể sử dụng thiết bị này để phóng các loại máy bay phản
lực, tàu vũ trụ,…
V.12. Các bệ phóng điện từ ( Electrmagetic Launchers):
Các cuộn dây điện từ siêu dẫn có thể sử dụng làm bệ phóng điện từ đểphógn
các vật với vận tốc cực lớn. Ví dụ, một loại súng rất nhỏ nhưng có tốc độ cao đươc
thiết kế, ứng dụng trong quốc phòng. Súng có vậntốc bắn siêu nhanh được phóng ra
55
từ các bộ phóng điện từ làm bắng chất siêu dẫn. Những thiết bị lớn hơn cũng được
chế tạo như bệ phóng điện từ có thể phóng máy bay phản lực và phóng vệ tinh trái
đất, dược dùng trong các phương tiện của tàu vũ trụ. Các bệ phóng điện từ siêu dẫn
có hiệu suất lớn hơn vài bậc so với các hệ thống tên lửa thông thường và giá thành
sản xuất không quá lớn.
V.13. Tách chiết từ:
Tách lọc từ là phương pháp tách chiết các thành phần tạp chất xác định nào
đó ra khỏi hỗn hợp của nó. Do sự khác nhau của các tính chất từ của các thành
phần riêng tạo nên hỗn hợp, một vài thành phần sẽ bị kéo ra khi có từ trường đặt
vào hỗn hợp. các thành phần khác còn lại trong hỗn hợp theo ý muốn. nam châm
siêu dẫn nhiệt độ cao có nhiều khả năng ứng dụng trong công nghệ này như: tách
chiết các sunfuaro từ than đá, tách chiết các tạp chất từ các kkhoáng vật, tách chiết
các mảnh kim loại trong lòng đất, trong các thiên thạch,…Có thể sử dụng để tái chế
và làm sạch nước thải, các hóa chất và tách lọc khí đốt. Phương pháp này giá thành
rẻ, kích thước thiết bị rất nhỏ và từ trường của các chất siêu dẫn rất cao làm cho nó
có khả năng hút hoặc đẩy tạp chất rất mạnh khi sử dụng.
V.14. Hệ thống từ thủy động lực ( Magnetohydro Dynamic System,
MHD)
Hệ thống này sử dụng khí gas khi bị đốtt cháy, trở thành ion hóa tạo nên lực
xuyên qua từ trường làm tách các ion dương và âm đẻ tạo thành dòng điện. máy
phát điện MHD có một số bộ ohận không chuyển động và cho hiệu suất tốt hơn
nhiều so với tuabin hơi nước. các nam châm siêu dẫn sử dụng để tạo ra từ trường
cao làm cho hiệu suất tốt hơn. MHD có thể sử dụng để quay chân vịt đẩy tàu thủy.
nước biển được sử dụng như là chất lỏng làm việc thay cho khí đốt bị ion hóa. Laọi
hệ thống bánh lái này được gọi là hệ đẩy điện từ (Electromagnetic thurster) EMT.
Hệ EMT tạo ra lực đẩy nhờ nam châm siêu dẫn. Công nghệ chế tạo các hệ thống
56
MHD và EMT được áp dnụg để chế tạo các hệ thống đẩy, điều khiển cả tàu thủy và
tàu ngầm.
V.15. Máy lạnh từ:
Máy lạnh từ sử dụng các chất làm lạnh chứa Chloroflourocarleon, chất này
có tác dụng phá hủy tầng ozon của trái đất, do đó các bơm từ nhiệt sẽ mau chóng
được thay thế cácmáy kạnh sử dụng khí gas thông thường. các chất siêu dẫn nhiệt
độ cao có thể thay thế và làm đơn giản hóa các mô hình máy lạnh, giảm giá thành
và côngh nghệ sản xuất cũng tiện lợi hơn. Các thế hệ máy lạnh từ trong tương lai sẽ
gọn, nhẹ và đảm bảo độ sạch cho môi trường.
V.16. Biến thế siêu dẫn
Các nhà khoa học ước tính rằng: khoảng 1/6 năng lượng bị mất mát do quá
trình tải điện, trong đó có sự mất mát lớn do dòng điện qua các trạm biến thế.nếu
những vòng dây làm bằng chất siêu dẫn được lắp đặt trong biến thế thì hiệu quả
truyền năng lượng sẽ tăng lớn và giá thành tải điện sẽ được giảm mạnh.mặt
khác,các trạm biến thế siêu dẫn sẽ không chiếm những diện tích lớn như biến thế
thường.
V.17. Máy phát điện siêu dẫn
Máy phát điện siêu dẫn giống như các turbin thông thường. Sự điều khiển và
hoạt động của máy phát điện siêu dẫn giống như turbin về mặt nguyên lý.Nhưng sự
khác nhau cơ bản là motor siêu dẫn được bao bọc trong một buồng chân không
quay tròn.Chất lỏng Hêli(hoặc nitơ) được bơm vào buồng chân khoongbawfng lực
huwowsnh tâm đẻ duy trì nhiệt độ của motor ở trạng thái siêu dẫn.Máy phát điện
siêu dẫn đã chứng tỏ tính nawng tốt ,giá thành hạ hơn so với máy phát điện thông
thường 300MW,và hieeyj suất của nó được nâng từ 98% lên 99%.Mặt khác,máy
57
phát điện siêu dẫn có kích thước chỉ bằng một nửa máy phát điện thường và giá rẻ
hơn cõ 40%.
V.18. Động cơ siêu dẫn
Người ta chế tạo các motor siêu dẫn dựa trên cơ sở của hiệu ứng
Messner.Tính chất cua các motor siêu dẫn là gây nên sự đẩy các đường từ
thông.Khi nam châm trở thành gần đến trạng thái siêu dẫn, thì chất siêu dẫn sẽ đẩy
nó. Sức đẩynày sử dụng để lái rotơ trong motor điện .các motor siêu dẫn rất rắn
chắc và có kích thước cỡ 1/3 kích thước motor thường.Sự mất mát dòng trong
motor siêu dẫn ước tính giảm đi cỡ 50% so với motor thường.Motor siêu dẫn có
nhiều ứng dụng cả trong công nghiệp sản xuất ôtô,các loại bom,quạt, các máy thổi,
các máy cơ khí, máy nghiền và rất nhiều phương tiện khác.
V.19. Thiết bị máy phát – Động cơ siêu dẫn kết hợp
Sự kết hợp của motor siêu dẫn và các máy phát siêu dẫn đã nâng cao một
cách hiệu quả khi sử dụng vào bộ phận đẩy tàu thủy.Kích thước,trọng lượng thết bị,
sự tiêu tốn năng lượng và độ ồn do thiết bị gây ra ddeeefu giảm đáng kể.Những
thông số này có vai trò quan trọng để thiết kế, lắp đặt trong các tàu ngầm hiện đại
có thể mang vũ khí hạng nặng và duy chuyển với tốc độ nhanh hơn.Thiết bị motor-
máy phát điện siêu dẫn ghép cũng có thể sử dụng cho các đầu máy xe lửa chạy trên
đường ray và cho các máy bay trực thăng để làm tăng vận tốc.
V.20. Tàu thủy siêu dẫn
Các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã sử dụng motor siêu dẫn để chạy tàu thủy và
đạt được đến vận tốc 60mph. Họ đã sử dụng năng lượng trường điện từ được tạo ra
bằng nam châm siêu dẫn để chạy tàu thủy. Các từ trường này có thể đẩy tàu thủy và
tàu ngầm dưới nước với tốc độ cao. Tàu ngầm mang năng lượng hạt nhân cũng có
thể sử dụng hệ thống đẩy từ thủy động lực (MHD).
58
V.21. Thiết bị dò sóng milimet
Sử dụng tiếp xúc Josephson trên các màng mỏng siêu dẫn YBCO đã thành
công trong việc chế tạo thiết bị các sóng milimet, điều mà rất khó thực hiện được
bằng các công cụ bán đẫn thông thường.từ các nguồn nhiệt độ thấp bức xạ các sóng
milimet, thiết bị dò bằng màng mỏng YBCO có thể phát hiện và định vị các bộ phận
ung thư trong không gian ba chiều.Đó là các vùng có nhiệt độ thấp hơn so với các
bộ phận bình thường ở vùng xung quanh nó. Các chất siêu dẫn có thể sử dụng cho
công nghệ thông tin ở những vùng có tần số siêu cao.
V.22. Bộ biến đổi analog/digital(A/D convertor)
Nhờ tiếp xúc Josephson, các bộ biến đổi A/D trên các chất siêu dẫn đã được
chế tạo và thử nghiệm. Về lí thuyết các bộ biến đổi này nhanh hơn nhiều so so với
bộ biến đổi thiết kế chất bán dẫn.Do được làm bằng chất siêu dẫn đã làm tăng vùng
tần số có thể đo được .Hơn nữa, bộ biến đổi A/D bằng tiếp xúc Josephson đảm bảo
độ ổn định hơn so với các bộ biến đổi thông thường bằng bán dẫn.
V.23. Màn chắn từ và thiết bị dẫn sóng
Dựa trên hiệu ứng Meissner, các chất siêu dẫn đẩy các đường từ thông ra
khỏi nó ở trạng thái siêu dẫn, người ta có thể sử dụng để tạo nên các vùng không có
từ trường hoặc tạo thành những vùng có các dạng từ trường khác nhau.Các chất siêu
dẫn có thể phun thành plasma với các hình dạng phức tạp.Đó là tiền đề cho việc có
thể dùng chất siêu dẫn như các bức tường chắn sóng micro; làm màn chắn chống lại
các vụ nổ hạt nhân vaf làm màn chắn các loại sóng điện từ khác trong không gian
trước khi đi vào Trái Đất. Nhiều ứng dụng quan trọng cho việc bảo mật trong lĩnh
vực máy tính và công nghệ thông tin. Sử dụng các màn chắn bằng chất siêu dẫn như
những bức tường bảo vệ các số liệu thông tin và hội thoại.
59
V.24. Thiết bị sử lý tín hiệu
Có thể phát triển các máy xử lý tín hiệu tốc đọ cao bằng việc sử dụng chất
siêu dẫn nhiệt độ cao. Máy này hoạt động với độ nhạy gấp 50 lần các thiết bị xử lý
tín hiệu thông thường
V.25. Ôtô điện
Có thể sử dụng motor siêu dẫn cho các ôtô điện và máy kéo.Điện năng được
tích trữ trong bình tích trữ năng lượng từ siêu dẫn, thiết bị được lắp đặt trên các
phương tiện truyền tải.Các trạm gas sẽ trở thành các trạm tái nạp điện. Các ôtô và
máy kéo này chạy êm, hiệu suất năng lượng cao và không làm ô nhiễm môi
trường.Chất siêu dẫn nhiệt độ cao ở nhiệt độ phòng trong tương lai sẽ làm tăng hiệu
quả và giá thành cho việc ứng dụng này.
V.26. Cảm biến đo từ thông ba chiều
Hệ SQUID YBCO có thể sử dụng cho việc đo từ thông ba chiều. Lợi ích của
thiết bị này là định vị sự tăng từ thông trong cấu trúc cụ thể.
V.27. Thiết bị Synchrotrons
Bức xạ Synchrotrons có cường độ lớn gấp một triệu lần so với ánh sáng phát
ra từ bản in quang khắc (photolithography), do đó có thể sử dụng chất siêu dẫn để
chế tạo các con chip micro với hàng trăm triệu bit của bộ nhớ trên chip đơn. Kích
thước máy Synchrotrons thông thường là 100’x100’.Khi sử dụng chất siêu dẫn nhiệt
độ thấp, kích thước này có thể rút gọn lại là 6’x15’ và nếu dùng chất siêu dẫn nhiệt
độ cao cấu tạo máy còn có thể nhỏ hơn nhiều.
60
V.28. Lò phản ứng nhiệt hạch từ
Để sử dụng cho các thí nghiệm với lò phản ứng nấu chảy từ. Nam châm siêu
dẫn nhiệt độ thấp có thể sản sinh ra từ trường lên đến 11 testla. Trạng thái plasma
của khí gas nóng được đưa vào bên trong từ trường. Phản ứng nóng chảy tự xuất
hiện khi plassma nóng lên và ngưng đọng lại. Sử dụng chất siêu dẫn nhiệt độ cao sẽ
làm giảm tổng năng lượng cần thiết để làm lạnh nam châm và đơn giản hóa hệ
thống làm lạnh.
V.29. Các băng siêu dẫn
Các nhà khoa học Mỹ đã sản xuất các băng siêu dẫn có độ đàn hồi thích hợp
và mật độ dòng tới hạn đạt đến 1000 A/cm2 ở 77K và ở mẫu khối có thể đạt 17.000
A/cm2 ở 77K trong từ trường bằng 0 và 4000 A/cm2 trong từ trường 1 testla.
VI. Một số phát hiện mới về hiện tượng siêu dẫn
VI.1. Chất siêu dẫn trong răng người
Các nhà khoa học tại đại học Warwick (Anh) cho biết phosphorus (diêm
sinh), một chất vô cơ trong răng, có thể đóng vai trò là chất siêu dẫn (cho dòng điện
truyền qua mà không có điện trở). Tuy nhiên, phosphorus chỉ biến thành chất siêu
dẫn với một lực nén lớn gấp 30 ngàn lần lực nghiến răng của một người bình
thường (2,5 megabar).
Ở áp suất 0,1 megabar, phosphorus đã có thể dẫn điện một cách rất hạn chế.
Nếu hạ nhiệt độ xuống 100oK (khoảng - 263oC) thì Phosphorus đã thể hiện tính siêu
dẫn, nhưng rất hạn chế, ở áp suất này. Khi áp suất tăng lên 2,5 megabars, cấu trúc
của phosphorus đã có dạng y như cấu trúc kim loại.Bằng cách sử dụng các lý thuyết
về chuyển động của electron và bức xạ ion, các nhà khoa học tại đại học Warwick
đã chứng minh cấu trúc của phosphorus ở áp suất 2,5 megabar, 14 - 220K có tính
siêu dẫn tốt hơn cấu trúc ở 0,1 megabar, 100K.
61
Các nhà khoa học tại Warwick còn đi xa hơn nữa trong khi họ đã đưa ra một
cách kích họat tính siêu dẫn của phosphorus mà không cần đưa áp suất lên quá cao.
Họ cho rằng, bằng cách đặt các nguyên tử phosphorus lên một kim lọai nền, cấu
trúc siêu dẫn của Phosphorus sẽ được duy trì lâu bền mà không cần áp suất cao.
Ngoài ra, nếu đặt phosphorus siêu dẫn giữa 2 nam châm điện, nó sẽ chuyển đổi liên
tục giữa 2 trạng thái bán dẫn và dẫn điện thường.
VI.2. Chất siêu dẫn 1.5
Bất kì ai từng học qua vật lí vật chất hóa đặc đều biết rằng các chất siêu dẫn
có thể phân loại rõ ràng thành loại 1 hoặc loại 2 theo cách thức chúng hành xử trong
một từ trường ngoài. Nhưng nay các nhà vật lí ở Bỉ và Thụy Sĩ vừa tìm thấy ít nhất
thì một chất - magnesium diboride – kết hợp các đặc điểm của cả hai loại, đưa đội
nghiên cứu đến khẳng định đã khám phá ra một loại chất siêu dẫn mới gọi là “loại
1,5”
Đa số các chất siêu dẫn nhiệt độ thấp thông thường thuộc loại 1, nghĩa là từ
trường thường không thể thâm nhập vào chất liệu. Tuy nhiên, từ trường có thể thâm
nhập vào các chất siêu dẫn loại 2 bằng cách tạo ra những xoáy lượng tử nhỏ xíu
tăng dần số lượng khi cường độ trường tăng lên. Từ trường đi qua cái xoáy của chất
Hình 5. 10
Các sọc xoáy nhìn thấy trong chất siêu dẫn “loại 1,5” do Victor Moshchalkov và
các đồng sự nghiên cứu. Vạch màu trắng có chiều dài 10 μm (Ảnh: Victor
Moshchalkov)
62
liệu bình thường tại chính giữa của mỗi xoáy. Các xoáy đẩy lẫn nhau, và khi số
lượng của chúng tăng lên, chúng hình thành nên một mạng xoáy.
Sự phân biệt này không rõ ràng cho lắm vì dưới những điều kiện đặc biệt
nhất định, các đường sức từ có thể xuyên vào các chất loại 1. Nếu nhiệt độ của chất
thay đổi đột ngột, các xoáy sẽ hình thành nhưng sẽ hút lẫn nhau và tan biến mất lúc
va chạm. Đồng thời, khi các mẫu rất mỏng chất siêu dẫn loại 1 phơi ra trước từ
trường, thì các viền xen kẽ của chất siêu dẫn và chất bình thường có thể xuất hiện.
VI.3. Hành xử theo cả hai kiểu
Kết quả là một tập hợp các xoáy và các vùng phi siêu dẫn tổ chức thành hình
ảnh sọc viền và tơ nhện – tùy thuộc vào nhiệt độ của mẫu và cường độ của từ
trường. Moshchalkov phát biểu với physicsworld.com rằng các hình ảnh đó trông
tương tự như hình ảnh thấy ở một số tinh thể lỏng và các màng polymer, trong đó
các phân tử thành phần có các tương tác hút và đẩy tương tự. Nay, Victor
Moshchalkov và các đồng sự tại trường Đại học Công giáo Leuven ở Viện Công
nghệ Liên bang Thụy Sĩ ở Zürich là những người đầu tiên chứng tỏ được rằng các
xoáy trong các mẫu đơn tinh thể magnesium diboride (MgB2) hành xử theo cả hai
kiểu. Họ đã đặt tên cho chất liệu là chất siêu dẫn loại 1,5 vì các xoáy của nó biểu
hiện sự đẩy lẫn nhau trên những cự li ngắn và hút lẫn nhau trên những cự li lớn hơn
(arXiv:0902.0997).
Moshchalkov tin rằng hành trạng loại 1,5 có thể hiểu được bằng cách nghĩ
tới một chất chứa hai chất lỏng siêu dẫn gần như độc lập nhau, chúng tương tác sao
cho các electron siêu dẫn có thể chảy từ chất lỏng này sang chất lỏng kia.
VI.4. Hỗn hợp tương tác
Các hệ hai chất lỏng với các xoáy thuộc loại tương tác này đã được tiên đoán
vào năm 2005 bởi Egor Babaev ở trường Đại học Massachusetts ở Mĩ, người đã mô
63
tả gồm một “hỗn hợp tương tác của hai thành phần siêu dẫn đồng thơi biểu hiện
những tính chất của sự siêu dẫn loại 1 và loại 2”.
Moshchalkov tin rằng người ta có thể tìm thấy thêm nhiều chất loại 1,5 nữa,
ngoài magnesium diboride, chất lần đầu tiên được phát hiện là siêu dẫn vào năm
2001. Đặc biệt, ông tin rằng một số trong những chất siêu dẫn gốc sắt đã phát hiện
hồi năm ngoái là những ứng cử viên sáng giá. Ông cũng tin rằng các chất “nhân
tạo” loại 1,5 có thể chế tạo cb đặt một lớp mỏng chất loại 1 lên trên một lớp mỏng
chất loại 2 – cái đội của ông hiện đang nghiên cứu.
Babaev trông đợi người ta sẽ nghiên cứu thêm về các chất loại 1,5 vì nó có
thể hé mở nhiều hình ảnh xoáy trước nay chưa từng thấy – với khả năng chuyển tiếp
pha giữa các hình ảnh khi cường độ từ trường biến đổi. Ngoài ra, ông nói rằng công
trình nghiên cứu đó sẽ thu hút các nhà thiên văn vật lí, những người cho rằng hành
trạng loại 1,5 cũng có thể xảy ra một trạng thái siêu dẫn của các proton mà người ta
tin là tồn tại trong các sao neutron.
VI.5. Silicon siêu dẫn ở nhiệt độ phòng
Các nhà khoa học Đức và Canada tuyên bố vượt qua siêu thử thách của
ngành điện tử, đó là tạo ra chất siêu dẫn ở nhiệt độ phòng mà chỉ dùng các hợp chất
thông thường.
Với khí SiH4 ở áp suất cao, các nhà khoa học đã tạo ra được vật liệu siêu dẫn
ở nhiệt độ phòng. Source: Wikipedia
Đầu năm 2008, TTCN đã tóm tắt về sự tiến triển trong việc tìm kiếm vật liệu
siêu dẫn. Có lẽ bước tiến quan trọng nhất trong lĩnh vực này đã được một nhóm các
nhà khoa học của Canana và Đức thực hiện thành công và đã được công bố mới
đây. Nhóm này đã phát triển được một hợp chất siêu dẫn ở nhiệt độ thường bao
gồm silicon và Hydro mà không cần bộ máy làm lạnh.
64
Chìa khóa của hiện tượng siêu dẫn ở nhiệt độ thường là áp suất, yếu tố mà
trước đây được coi là rào cản không thể vượt qua trong ngành điện tử. Một số hợp
chất, nếu được nén ở áp suất lớn sẽ có những đặc tính đặc biệt, trong đó có siêu dẫn.
Giáo sư John Tse của Đại học Saskatchewan (University of Saskatchewan)
Canada nói "Nếu hợp chất của Hydro được đặt dưới áp suất đủ lớn thì chúng sẽ có
tính siêu dẫn. Tính siêu dẫn này có thể được bảo toàn ngay cả ở nhiệt độ cao,
không cần được làm lạnh.
Thế nhưng trong nhiều năm nay, những cố gắng để nén Hydro đến mức cần
thiết đều đi đến thất bại. Những nhà nghiên cứu Canada và Đức đã tìm được chìa
khóa của vấn đề mà mọi người khác thất bại, đó là pha tạp Silicon vào Hydro.
Chất siêu dẫn mới là một hợp chất có tên "Silane". Hợp chất này có cấu trúc
tương tự Metal với nguyên tử Si thay cho nguyên tử C ở tâm.
Giáo sư Tse đã phát triển phần lí thuyết của hiện tượng siêu dẫn của Silane
với sự giúp đỡ của Yansun Yao - một nghiên cứu sinh tại Đại học Saskatchewan.
Lý thuyết này đã được chứng minh bằng thực nghiệm bởi nhà nghiên cứu Mikhail
Eremets tại Học viện Max Planck (Max Planck Institute) Đức.
Các nhà khoa học hy vọng rằng những kết quả trên sẽ nhanh chóng được áp
dụng trong công nghiệp, trong đó có cả làm dây dẫn điện cho các siêu máy tính.
VI.6. Vật liệu nano mới mang đồng thời tính siêu dẫn và tính sắt từ
Trước đây, người ta vẫn cho rằng tính sắt từ và tính siêu dẫn thường không
thể cùng tồn tại tại một thời điểm. Tuy nhiên, các nhà vật lý Mỹ và Pháp đã làm
thay đổi suy nghĩ này khi tạo ra một cấu trúc nano mang đồng thời cả tính sắt từ và
tính siêu dẫn ở cùng một thời điểm. Các kết quả đã cho thấy một sự ảnh hưởng qua
lại giữa tính sắt từ và tính siêu dẫn, và sẽ được các nhà nghiên cứu tiếp tục nghiên
cứu ở Swiss Light Source (Thụy Sĩ) và Viện Paul Scherrer.
65
Theo lý thuyết siêu dẫn Bardeen - Cooper - Schrieffer (lý thuyết BCS), các
electron có spin trái dấu nhau kết cặp với nhau (các cặp Cooper) và do đó có thể
chuyển động không bị cản trở, tạo nên sự mất điện trở. Một từ trường có thể làm
phá hủy trạng thái siêu dẫn theo 2 kiểu: hoặc là bẻ gãy các cặp Cooper; hoặc là tạo
cho các electron có spin hướng song song với nhau. Các hiệu ứng này đều dẫn đến
việc làm giới hạn một dòng điện chuyển dời trong các chất siêu dẫn do hiệu ứng
đánh thủng của từ trường do chính dòng điện gây ra.
Năm ngoái, Jacques Chakhalian và các đồng nghiệp Viện Max Planck (Đức)
và Đại học Grenoble (Pháp) đã công bố trên tạp chí Nature Physics vol. 2, pp. 229,
2007 một tính chất chất mới về vùng tiếp xúc giữa một chất siêu dẫn tạo ra bởi
Yttrium, Barium, đồng và Oxygen và một chất sắt từ (LaCaMnO3). Các nhà
nghiên cứu đã phát triển kỹ thuật cho phép họ tổ hợp 2 vật liệu trong một màng
mỏng siêu mạng, và có đồng thời tính sắt từ và tính siêu dẫn.
Chakhalian và các đồng nghiệp đã lập ra kế hoạch quan sát sâu hơn vào các
interface giữa 2 vật liệu sử dụng ánh sáng đồng bộ (các bức xạ điện từ với bước
sóng khác nhau mà có thể điều chỉnh để có một bước sóng xác định cho những thí
nghiệm riêng). Để giúp họ làm điều này, các nhà nghiên cứu đã được tài trợ kinh
phí và thời gian nghiên cứu để làm việc hơn 2 năm tại Swiss Light Source - một
trng những nơi có nguồn sáng đồng bộ hiện đại nhất thế giới.
Hình 5.11
Ảnh chụp cắt ngang siêu mạng.
66
Phổ ánh sáng tại Swiss Light Sourse biến đổi từ vùng hồng ngoại cho đến tia
X cứng và tia X mềm. Tuy nhiên, không giống như các tia X truyền thống, có thể
phát tán trong không gian, các tia X này được hội tụ rất hẹp. Thử thách chính về kỹ
thuật của nhóm Chakhalian sẽ là làm sao để hội tụ một chùm photon năng lượng
thấp vào một điểm có kích thước chỉ một vài trăm microns.
Nghiên cứu này sẽ mở ra nhiều lĩnh vực mới trong vật lý và thậm chí có thể
sẽ dẫn đến việc phát hiện thêm nhiều vật liệu mới có đồng thời cả tính sắt từ và tính
siêu dẫn - theo công bố của nhóm nghiên cứu.
VI.7. Tái tạo vũ trụ từ nam châm siêu dẫn to nhất thế giới
Nam châm siêu dẫn to nhất thế giới,
với trọng lượng bằng 5 chiếc máy bay
thương mại vừa được đưa xuống lòng đất
vào sáng 28/2 tại Trung tâm nghiên cứu vật
lý nguyên tử lớn nhất châu Âu (CERN),
Thụy Sĩ để thực hiện thử nghiệm tái tạo vũ
trụ.
Nam châm cân nặng gần 2.000 tấn này đã được xuống lòng đất sâu 100m
trong một hệ thống đường hầm chạy theo vòng tròn dài 27km đi qua biên giới Pháp
- Thụy Sĩ, gần Geneva
Với chiều cao 16m, chiều rộng 13m và chiều dài 17m, nam châm sẽ được lắp
ráp dưới lòng đất với 14 thành phần khác trước khi được đưa vào hoạt động vào
cuối năm nay. Nó đã từng vận hành trên bề mặt vào tháng 11/2006 trước khi được
tháo dỡ.
Nam châm sẽ thực hiện một trong bốn thử nghiệm tại CERN nhờ máy gia tốc
LHC (Large Hadron Collider) làm va chạm các hạt cơ bản với tốc độ gần bằng tốc
Hình 5.12
Nam châm siêu dẫn to nhất thế giới
67
độ ánh sáng, cho phép các nhà nghiên cứu tìm hiểu về những giai đoạn đầu đời của
vũ trụ. Họ sẽ tái tạo các điều kiện vật lý, sinh hóa vào thời điểm một phần tỉ giây
đồng hồ sau khi vụ nổ "Big Bang" tạo ra vũ trụ xảy ra cách đây 15 tỉ năm.
Trung tâm CERN, phòng thí nghiệm đầu tiên trên thế giới nghiên cứu về vật
lý hạt là một tổ chức quốc tế được thành lập từ năm 1954 bởi 12 nước châu Âu.
Gần đây, một nhóm các nhà nghiên cứu tại Đại học Tennessee và Phòng thí
nghiệm quốc gia Oak Ridge (Mĩ) do giáo sư vật lí Pengcheng Dai đứng đầu đã ra
tuyên bố rằng họ đã khám phá ra được nguyên nhân của siêu dẫn. Kết quả nghiên
cứu của nhóm (đăng tại Boston College) đã chỉ ra làm thế nào mà các dao động đặc
biệt ở mức dưới nguyên tử trong mạng tinh thể, xét về mặt từ tính, có thể khiến cho
các hạt phonon ghép các electron lại với nhau, từ đó mà xảy ra hiện tượng siêu dẫn.
Trong số ra mới đây của tập san Đại học Tennessee (ngày 21/12/2007), Dai
cho biết: “Những phát hiện này đã góp phần hiểu thêm rằng từ trường có sự đóng
góp trong việc tạo ra những cặp đôi (cặp Cooper) quan trọng. Đây chưa phải là hồi
kết của những tranh cãi nhưng nó là một bước tiến lớn.”
Nếu kết quả nghiên cứu này thuyết phục được cộng đồng khoa học thì chắc
hẳn đây sẽ là một bước tiến quan trọng nhất trong việc tìm ra cơ chế, nguyên nhân
của sự siêu dẫn trong vật liệu. Từ đó, nó sẽ cho phép các nhà khoa học dễ dàng tìm
ra các chất siêu dẫn nhiệt độ cao mà mức ngưỡng chuyển đổi siêu dẫn sẽ được đẩy
dần lên cao, cho tới một ngày nào đó, chúng ta có thể sẽ có một vật liệu siêu dẫn
ngay cả ở nhiệt độ thường.
68
Lời kết
Hiện tượng siêu dẫn thực sự là một vấn đề nóng bỏng mà giới khoa học quan
tâm, và các khả năng ứng dụng tiềm tàng của các chất siêu dẫn là hết sức rộng rãi và
quan trọng, sẽ đưa đến sự thay đổi lớn lao về kĩ thuật, công nghệ và có thể cả trong
kinh tế và đời sống xã hội.
Siêu dẫn là một đề tài rất rộng lớn, tài liệu này do nhóm chúng tôi thực hiện
cũng chỉ là một số vấn đề liên quan về hiện tượng này, do thời gian hạn hẹp cũng
như khả năng có hạn nên tài liệu cũng còn một số vấn đề chưa đề cập đến, cũng còn
những thiếu sót không thể tránh khỏi. Hy vọng sẽ được sự ủng hộ và góp ý của thầy
và các bạn.
Nhóm xin chân thành cám ơn thầy Lê Văn Hoàng đã hướng dẫn, giúp đỡ
chúng em hoàn thành đề tài.
Nhóm sinh viên thực hiện.
69
Tài liệu tham khảo
[1]. Thân Đức Hiền (2008), Nhập môn về siêu dẫn (vật liệu, tính chất và ứng dụng),
Nhà xuất bản bách khoa, Hà Nội.
[2]. Nguyễn Huy Sinh (1994), Vật lý siêu dẫn, NXB Giáo dục.
[3].
[4].
[5].
nam/8323_Che_tao_thanh_cong_may_tuyen_tu_nam_cham_dat_hiem.aspx
[5].
[6].
[7]. htp://vi.wikipedia.org/wiki/Si%C3%Aau_d%E1%BA%Abn_nhi%E1%BB%87
t_%C4%91%E1%BB%99_cao
[8].
[9].
21/20360933/195/
[10].
lai/20038429/195/
[11].
[12].
dan_426.html
[13].
[14].
id=264
[15].
id=311
[16].
[17].
hmk&cof=FORID%3A10&ie=UTF-8&c=all&ft=&q=sieu+dan&sa=Search