MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Nội dung
I. Hiệp định chống bán phá giá của WTO và luật chống bán phá
giá của Hoa Kỳ 2
1. Các các hiểu về phá giá 2
2. Biện pháp chống bán phá giá trong thương mại quốc tế .3
3. Cơ chế chống bán phá giá của Mỹ .6
II. Những thách thức và khó khăn có liên quan trong xuất khẩu
hàng hoá của Việt Nam .7
III. Một số đề xuất, kiến nghị 15
Kết luận 19
Tài liệu tham khảo 20
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1713 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hiệp định chống bán phá giá của WTO và Luật chống bán phá giá của Hoa kỳ và thách thức, khó khăn có liên quan trong xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra
mạnh mẽ, mang lại nhiều lợi ích và thúc đẩy sự phát triển kinh tế của
nhiều quốc gia trên cơ sở một nền thương mại và đầu tư công bằng.
Nhưng trong khi các quốc gia thành viên WTO đang phải dẫn dỡ bỏ
các rào cản thuế quan và thuế hoá các rào cản phi thuế quan thì các
biện pháp tự vệ, thuế chống phá giá và thuế đối kháng vẫn ngày càng
được nhiều quốc gia phát triển áp dụng một cách triệt để, nhất là,
nhiều nước đang phát triển và kém phát triển phải đối mặt với tình
trạng hàng hoá nhập khẩu bán phá giá tại thị trường của mình, và
gánh chịu những thiệt hại cho sản xuất trong nước. Cho nên việc tìm
các biện pháp bảo đảm thương mại công bằng - biện pháp chống bán
phá giá, đang được rất nhiều nước quan tâm, kể cả các nước phát triển
và đang phát triển. Tuy nhiên không phải nước nào áp dụng biện pháp
chống bán phá giá một cách đúng đắn, đôi khi mang tính chủ quan áp
đặt mang tính chính trị.... Hàng hoá của Việt Nam cũng đã gặp phải
những biện pháp chống bán phá giá mà nước sở tại áp dụng. Sự việc
đó cũng đã ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng hoá của chúng ta. Trong
bài viết này đề cập đến vấn đề “Hiệp định chống bán phá giá của
WTO và Luật chống bán phá giá của Hoa kỳ và thách thức, khó khăn
có liên quan trong xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam”
2
NỘI DUNG
I. HIỆP ĐỊNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA WTO VÀ LUẬT
CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA HOA KỲ.
1. Các cách hiểu về phá giá:
Mặc dù hiện tại phá giá và chống bán phá giá đã được WTO
thống nhất và đưa ra các tiêu chí và thủ tục để đánh giá song khi nói
đến phá giá, giới kinh doanh vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau:
- Phá giá là giảm giá để tranh giành thị trường và/hoặc tiêu diệt
đối thủ cạnh tranh.
- Phá giá là bán dưới giá thành.
- Phá giá là bán dưới mức giá bình thường.
Định nghĩa về phá giá và cách xác định phá giá của WTO đã
được quy định tại Điều 6 của GATT: “ Phá giá là hành vi mà sản
phẩm của một quốc gia được bán ở quốc gia khác tại mức thấp hơn
giá trị thông thường và làm thiệt hại hay đe doạ làm thiệt hại về mặt
vật chất một ngành của quốc gia khác hoặc làm chậm trễ sự thiết lập
một ngành ở quốc gia khác”.
Hai khái niệm quan trong quy định này là giá trị thông thường
và thiệt hại về vật chất.
Một quốc gia bị cho là đã bán sản phẩm của mình ở một quốc
gia khác tại mức thấp hơn giá trị thông thường nếu:
(1) Giá đó thấp hơn mức giá tương đối trong điều kiện
thương mại thông thường đối với sản phẩm tương tự
tại nước xuất khẩu, hoặc
(2) Nếu không thể xác định mức giá nội địa đó thì:
3
+ Mức giá đó thấp hơn mức giá tương đối cao nhất được xuất
khẩu tới một nước thứ ba trong điều kiện thương mại thông
thường, hoặc
+ Mức giá đó thấp hơn chi phí sản xuất tại nước xuất khẩu cộng
với một tỷ lệ hợp lý chi phí và lợi nhuận bán hàng.
2. Biện pháp chống bán phá giá trong thương mại quốc tế
Trong thương mại quốc tế, khi hàng hoá bị xem là bán phá giá
thì chúng có thể bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá
(antiduming) như thuế chống phá giá, đặt cọc hoặc thế chấp, can thiệp
hạn chế định lượng hoặc điều chỉnh mức giá của nhà xuất khẩu nhằm
triệt tiêu nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước nhập
khẩu, trong đó thuế chống bán pháp giá và biện pháp phổ biến nhất
hiện nay.
Về thực chất, thuế chống bán phá giá là một loại thuế nhập khẩu
bổ sung đánh vào những hàng hoá bị bán phá giá ở nước nhập khẩu
nhằm hạn chế những thiệt hại do việc bán phán giá đưa đến cho ngành
sản xuất của nước đó nhằm bảo đảm sự công bằng trong thương mại
(nói chính xác đó là một sự bảo hộ hợp lý cho sản xuất trong nước).
Thuế này đánh vào các nhà sản xuất riêng lẻ chứ không phải là thuế
áp đặt chung cho hàng hoá của một quốc gia. Nguyên tắc chung nêu
ra những Hiệp định của WTO là không được phân biệt đối xử khi áp
dụng thuế chống phá giá, tức là nếu hàng hoá bị bán phá giá được
xuất khẩu từ những quốc giá khác nhau với cùng biên độ phá giá như
nhau thì sẽ áp đặt mức thuế chống phá giá thuộc vào biên độ phá giá
của từng nhà xuất khẩu chứ không phải áp dụng bình quân (ngay cả
khi các nhà xuất khẩu từ cùng một quốc gia) và không được phép
vượt quá biên độ phá giá đã được xác định.
4
Tuy nhiên, không phải bất kỳ trường hợp bán phá giá nào cũng
bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá. Theo quy định của WTO
cũng luật pháp của rất nhiều nước thì thuế chống bán phá giá chỉ được
áp đặt khi hàng hoá được bán phá giá gây thiệt hại đáng kể hay đe doạ
gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất ở nước nhập khẩu. Như vậy,
nếu một hàng hoá được xác định là có hiện tượng bán phá giá nhưng
không gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất mặt hàng đó ở nước
nhập khẩu thì sẽ không bị áp đặt thuế chống bán phá giá và các biện
pháp chống bán phá giá khác. Thiệt hại cho ngành sản xuất trong
nước được hiểu là tình trạng suy giảm đáng kể về số lượng, mức tiêu
thụ trong nước, lợi nhuận sản xuất, tốc độ phát triển sản xuất, việc
làm cho người lao động, đầu tư tới các chỉ tiêu khác của ngành sản
xuất trong nước hoặc dẫn đến khó khăn cho việc hình thành sản xuất
trong nước. Bán phá giá được xác định dựa vào 2 yếu tố cơ bản là: 1 -
Biên độ phá giá từ 2% trở lên; 2 - Số lượng, trị giá hàng hoá bán phá
giá từ một nước vượt quá 3% tổng khối lượng hàng nhập khẩu (ngoại
trừ trường hợp số lượng nhập khẩu của các hàng hoá tương tự mới
nước có khối lượng dưới 3%, nhưng tổng số các hàng hoá tương tự
của các nước khác nhau được xuất khẩu vào nước bị bán phá giá
chiếm trên 7%).
Theo quy định của WTO, biên độ phá giá được xác định thông
qua việc so sánh với mức giá có thể so sánh được của hàng hoá tương
tự được xuất khẩu sang một nước thứ ba thích hợp, với điều kiện là
mức giá có thể so sánh được này mang tính đại diện, hoặc được xác
định thông qua so sánh với chi phí sản xuất tại nước xuất xứ hàng hoá
cộng thêm khoản chi phí hợp lý cho quản trị, bán hàng, các chi phí
chung khác và một khoản lợi nhuận. Như vậy, có thể hiểu rằng biên
5
độ phá giá là mức chênh lệch giá thông thường của hàng hoá tương tự
với mức giá xuất khẩu hiện tại. Việc xác định giá thông thường được
tính toán rất phức tạp dựa trên cơ sở sổ sách và ghi chép của nhà xuất
khẩu hoặc nhà sản xuất là đối tượng đang được điều tra với điều kiện
là sổ sách này phù hợp với các nguyên tắc kế toán được chấp nhận
rộng rãi và phán ảnh được một cách hợp lý của chi phí.
Để xác định hàng hoá có bị bán phá giá hay không, việc bán phá
giá có thể gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hay
không để áp đặt các biện pháp chống phá giá thì điều quan trọng nhất
và phức tạp nhất này ở quá trình điều tra về bán pháp giá. Ở những
quốc gia khác nhau, việc điều tra sẽ được thực hiện bở các cơ quan
chức năng khác nhau. Theo quy định trong Hiệp định về chống bán
pháp giá của WTO thì việc điều tra chỉ được tiến hành khi có đơn yêu
cầu bằng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc của người dân
dành cho ngành sản xuất trong nước. Đơn yêu cầu sẽ được coi là đủ tư
cách đại diện cho ngành sản xuất trong nước nếu như đơn này nhận
được sự ủng hộ bởi các nhà sản xuất chiếm tối thiểu 50% tổng sản
lượng của sản phẩm tương tự được bắt đầu nếu như các nhà sản xuất
bày tỏ ý kiến tán thành điều tra chiếm ít hơn 25% tổng sản lượng của
sản phẩm tương tự được ngành sản xuất trong nước làm ra.
Trên thực tế, quá trình điều tra về bán phá giá của EU, Mỹ và
một số nước khác cho thấy việc xác định giá trị thông thường của
hàng hoá để làm căn cứ xác định biên độ phá giá quá phức tạp và đôi
khi không minh bạch, vẫn còn rất nhiều áp đặt. Theo luật pháp của
Mỹ thì một khi không thể xác định được giá trị thông thường tại nước
xuất khẩu, người ta có thể lấy mức giá của hàng hoá tương tự trong
điều kiện thương mại bình thường ở một nước thứ ba có người trình
6
độ phát triển như của nước bị điều tra bán phá giá. Đây chính là cái
cơ quan trọng mà trong vụ kiện phi lý về Thương mại Mỹ đã tính toán
giá trị thông thường theo giá tại Băng - la - đét với lập luận rằng. Việt
Nam chưa có nền kinh tế thị trường, vì vậy các chi phí và các số liệu
của các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp là không phản ảnh trung
thực và không tin cậy được. Có thể nói rằng, thuế chống bán phá gía
là một công cụ bảo hộ rất mạnh và rất lợi hại.
3. Cơ chế chống bán phá giá của Mỹ
Đoạn 800-801 của Đạo Luật chống bán phá giá của Mỹ quy
định: “Bất cứ người nào thực hiện hay giúp đỡ thực hiện việc nhập
khẩu hàng hoá nước ngoài vào Mỹ một cách phổ biến và có hệ thống
để bán những hàng hoá đó ở mức giá thấp hơn đáng kể giá thực tế thị
trường, hay giá bán buôn của những hàng hoá đó tại thị trường nơi nó
được sản xuất hay tại thị trường nước ngoài khác mà các hàng hoá đó
thường được xuất khẩu sau khi đã cộng giá bán buôn, chi phí vận tải,
thuế, và các chi phí và lệ phí cần thiết khác đều bị coi là vi phạm pháp
luật nếu những hành vi kể trên được thực hiện với dự định phá hoại,
hay gây tổn thất một ngành của Mỹ, hay ngăn cản việc thiết lập một
ngành tại Mỹ, hay tạo sự kiềm chế hoặc độc quyền về hàng hoá đó tại
Mỹ”.
Các thủ tục hành chính áp dụng cho việc chống phá giá được
quy định trong Đạo Luật chống phá giá 1916; Đạo luật chống phá giá
1921; Mục VII của Đạo Luật thuế 1930.
Thủ tục chủ đạo đó là: thay vì dựa trên hành động của chính phủ
hay cá nhân trước toà án, luật chống phá giá cho phép thực hiện các
thủ tục tố tụng. Cụ thể là, những người đại diện cho một ngành ở Mỹ
có thể lấy các lá phiếu biểu quyết và trình cho Bộ Thương Mại Mỹ
7
(DOC). DOC sẽ quyết định có tồn tại việc phá giá hay không và ITC
có trách nhiệm tìm kiếm bằng chứng và chứng minh sự tồn tại các tổn
thất. Yêu cầu về việc có dự định hay không có dự định từ phía bên bị
không quan trọng. Nếu ITC phát hiện ra tồn tại phá giá và tổn thất phá
giá, thuế chông phá giá sẽ được áp dụng. Bên bị sẽ không phải chịu
các trừng phạt dân sự hay hình sự nào.
II. NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KHÓ KHĂN CÓ LIÊN QUAN
TRONG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM
Việc bán phá giá đang diễn ra ngày càng nhiều ở hầu hết các
quốc gia kể cả các quốc gia phát triển và đang phát triển. Mặc dù là
nước đang phát triển ở trình độ thấp, nhưng vài năm trở lại đây hàng
hoá của Việt Nam đã dần thâm nhập vào các thị trường khác nhau và
các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã bị nước ngoài tiến hành điều tra
bán phá giá tới 8 lần (tính từ 1994 - 2002). Trong số 8 vụ các doanh
nghiệp Việt Nam bị áp đặt thuế chống phá giá. Vụ kiện bán phá giá cá
tra, các ba - sa của Việt Nam tại Mỹ (năm 2002) được coi là một vụ
kiện có quy mô lớn và có rất nhiều áp đặt bất công từ phía Mỹ. Các
ngành đã từng bị kiện phá giá của Việt Nam là tỏi, giày dép, bột ngọt,
cá tra, cá basa, bật lửa gas.
Canada kiện Việt Nam hai vụ liên quan tới giày dép và tỏi. Thuế
chống phá giá áp dụng cho tỏi của Việt Nam là 1,48 CAĐ/kg.
EU kiện Việt Nam hai vụ liên quan tới giày dép và bột ngọt.
Mức thuế chống phá đối với bột ngọt là 16,8%. Riêng đối với mặt
hàng giày dép, EU đã không đánh thuế chống bán phá giá đối với Việt
Nam vì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn các quốc
gia khác là Trung Quốc, Inđônêxia và Thái Lan.
8
Ba Lan kiện Việt Nam một vụ về bật lửa gas. Thuế chống phá
giá là 0,09 EUR/chiếc.
Mỹ kiện Việt Nam một vụ về cá tra, cá basa. Thuế chống phá
giá áp đặt cho Việt Nam từ 38% đến 64%. Phương thức mà Hiệp hội
cá tra, cá ba sa (CFA) của Mỹ đã thực hiện trong vụ tranh chấp với
Việt Nam có thể tóm tắc như sau:
+ Trước hết, CFA đã gây sức ép bắt các nhà xuất khẩu Việt
Nam phải thay đổi tem dán để phân biệt các của Việt Nam với cá của
Mỹ.
+ Sau đó, CFA kiện Việt Nam đã phá giá cá tra, cá basa trên thị
trường Mỹ.
Gạo của Việt Nam đã từng bị Columbia kiện vào năm 1994 với
biên phá giá là 9,7% nhưng sau đó Columbia quyết định rằng Việt
Nam đã không gây thiệt hại về vật chất với việc sản xuất gạo của
Columbia nên không áp dụng thuế chống bán phá giá.
Việt Nam còn rất ít kinh nghiệm trong việc đương đầu với các
vụ kiện phá giá và vận dụng cơ chế chống bán phá giá. Qua các vụ
kiện phá giá chúng ta có cơ hội nhìn nhận rõ hơn thực trạng thương
mại quốc tế hiện nay. EU đã bác bỏ vụ kiện DN Việt Nam bán phá giá
bật lửa gas vào thị trường này với lý lẽ, DN Việt Nam hoạt động trong
nền kinh tế thị trường. Trong khi đó, Hoa Kỳ lại kết luận Việt Nam có
nền kinh tế phi thị trường. Việc xem xét Việt Nam là nền kinh tế thị
trường hay phi thị trường hoàn toàn mang tính chính trị, không phụ
thuộc vào yếu tố kỹ thuật, mặc dù phía Mỹ có đưa ra 5 yếu tố kỹ thuật
để xem xét. Như vậy, kinh tế thị trường chỉ là cái cớ mà nguyên nhân
sâu xa chính là giá bán. Với mức giá 1kg các basa khoảng 3USD thì
các DN Hoa Kỳ cạnh tranh nổi, khi đó hình thức kiện phá giá được sử
9
dụng nhiều nhất. Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch Hoa Kỳ đã phát triển
đến một mức tinh vi với các nước có nền kinh tế phát triển, đôi khi lại
trắng trợn theo lối đơn phương - áp đặt, nhất là với các nền kinh tế
nhỏ bé. Cách tốt nhất là chúng ta không không để xảy ra kiện cáo bán
phá giá. Thực tế chúng ta không bán phá giá nhưng không tìm hiểu
xem đối tác của ta ở nước sở tại chi phí sản xuất như thế nào, bán gía
bao nhiêu. Nếu chúng ta nghiên cứu kỹ, sẽ đưa được mức giá phù
hợp, không gây mâu thuẫn về lợi ích với DN Hoa kỳ thì chắc chắn
việc kiện cáo sẽ ít sảy ra. Mặt khác, ngay cả trong tình hình xuất khẩu
thuận lợi, chúng ta cũng nên san sẻ sang các thị trường khác, bởi cứ
gia tăng sản lượng xuất khẩu vào một thị trường sẽ bị DN nước sở tại
phản ứng một cách tiêu cực.
Văn phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ mới đây đã có báo cáo kết
luận rằng luật chống bán phá giá trên thực tế đã gây tổn hao cho nền
kinh tế Mỹ nhất là qua vụ kiện tôm được nhiều nước quan tâm hiện
nay, John McQuaid công tác tại tờ “The Times picayune” đã tập hợp
ý kiến của các nhà kinh tế nhằm chỉ ra những điểm phi lý trong luật
chống bán phá giá của Mỹ.
“Bán phá giá” gợi lên hình ảnh Công ty nước ngoài theo đuổi
chiến lược có chủ ý, có sự phân phối hợp nhằm cản trở DN trong
nước bằng hàng NK giá rẻ tràn ngập thị trường. Đây chính là điệp
khúc mà ngành côngnghiệp đánh bắt tôm ở Mỹ viện làm lý do khơi
kiện. Ngư dân đánh bắt tôm ở Mỹ nói riêng họ bị áp đảo bởi xu hương
hàng NK bán phá giá từ 6 nước nuôi tôm đang gia tăng, khiến mặt
hàng tôm rơi giá. Liên minh tôm miền nam nước Mỹ (SSA), đại diện
cho 8 bang trong đó Louisiana, đã đệ đơn theo luật chống phá giá, yêu
10
cầu chính phủ Mỹ áp thuế đối với mặt hàng tôm NK và trợ giá sản
phẩm của họ.
Trên thực tế, luật chống phá giá của Mỹ không đòi hỏi bằng
chứng cho thấy các Công ty nước ngoài bị cáo buộc bán phá gía đang
phối hợp hành động hay có ý định đẩy mặt hàng của họ tràn ngập thị
trường Mỹ. Các nhà kinh tế nói rằng luật chống phá giá được soản
thảo khái quát và nhiều trình tự cho luật nàylà thủ tục hoạt động tiêu
chuẩn đổi mới các DN tại Mỹ và trên thế giới. Sự khác biệt giữa văn
bản luật và thực tiễn là điều bình thường trong thế giới của chống phá
mà những người đánh bắt tôm ở Mỹ bước vào.
Khi toàn cầu hoá gây ra làn sóng đổ vỡ xuyên suốt nền kinh tế
Mỹ. Thương mại quốc tế đã trở thành vấn đề chính trị tại Lousiana,
cũng như với nhiều bang khác phải chống chọi với nguy cơ mất việc
làm do sự cạnh tranh từ nước ngoài. Luật chống phá giá mở ra
phương thức giúp các ngành công nghiệp gặp khó khăn có được
khoản trợ cấp kinh tế tạm thời. Luật này cũng được xem xét là một
chiếc van an toàn về chính trị. Mặc dù các quyết định về chống phá
giá có ảnh hưởng trên toàn thế giới, nhưng chúng lại được quyết định
trong phạm vi một nhóm nhỏ, thiển cận ở Oashinhtơn. Những ý kiến
chỉ trích nói rằng các vụ kiện bị chi phối bởi những quy định mà ít
người bên ngoài có thể hiểu được và đầy rẫy những mâu thuẫn.
Những người đề xướng việc kiện tụng nói rằng luật chống phá
giá có thể “làm cân bằng sân chơi” thương mại quốc tế, nơi làm các
Công ty nước ngoài thường không chơi công bằng và cách chơi của
họ đe dạo việc làm của Mỹ. Luật chống phá giá mà Quốc hội Mỹ ban
hành được xem như một vũ khí tự vệ của các ngành công nghiệp. Mục
tiêu của luật này là để cân bằng thương mại bất công. Khái niệm luật
11
chống phá giá cũng tương tự như luật chống độc quyền, nó có tác
dụng sắp xếp lại thị trường nhằm duy trì khả năng cạnh tranh và bảo
vệ người tiêu dùng về lâu dài.
Nhiều ý kiến chỉ trích, trong đó có những người ủng hộ thương
mại tự do và nhiều nhà kinh tế chủ đạo, đồng tình rằng thương mại
toàn cầu thường không công bằng. Nhưng họ cũng nói rằng luật
chống phá giá và các quy định của luật này, đặc biệt là những công
thức phức tạp mà Chính phủ áp dụng để tính thuế, là mang tính độc
đoán và gây trở ngại cho các Công ty đang hoạt động theo các nguyên
tắc thông thường tại thị trường quốc tế. Họ nói rằng về cơ bản luật
này là một hình thức bảo hộ và do đó nó là kẻ thù của thương mại tự
do.
Vụ kiện chống phá giá tôm chỉ là một trong cả chục vụ kiện xẩy
ra mỗi năm. Bên nguyên đơn cáo buộc sáu nước, Trung Quốc,
Ecuađo, Ấn Độ, Thái Lan và Việt Nam - đã xuất ồ ạt sản phẩm và thị
trường Mỹ với giá thấp hơn giá thành sản xuất. Những người đánh bắt
tôm ở Mỹ đòi hỏi chính phủ áp thuế tôm NK từ 25,76% (mức thấp
nhất đối với Việt Nam) đến 349% (mức cao nhất đối với Braxin).
Chính phủ Mỹ đã sử dụng hệ thống hai cấp, phức tạp để phân tích vụ
kiện bán phá giá. Bộ Thương mại Mỹ (DOC) có quyền quyết định liệu
vấn đề bán phá giá có xảy ra trên thực tế hay không và mức thuế nào
sẽ được áp đặt. Uỷ ban Thương mại quôc tế Mỹ (USITC) là cơ quan
đưa ra phán quyết cuối cùng, quyết định xem liệu DN Mỹ - trong vụ
kiện này là các DN tôm có bị “thiệt hại vật chất” do hàng NK hay
không. Cho tới nay của DOC và USITC đều có những phán quyết sơ
bộ ủng hộ người đánh bắt tôm ở Mỹ. Theo luật hiện nay, khoản tiền
thuế sẽ được dành để trợ cấp cho ngành công nghiệp tôm nội địa.
12
Nhìn chung, Chính phủ Mỹ thường có xu hướng đứng về phía
các ngành công nghiệp Mỹ. Theo nhà kinh tế Bruce Blonigen của Đại
học tổng hợp bang Oregon, một chuyên gia nghiên cứu lĩnh vực
chống phá giá, có tới 80% vụ kiện có kết luận là xảy ra tình trạng bán
phá giá, khoảng 60% vụ kiện kết luận rằng các DN nội địa bị ảnh
hưởng bởi hàng NK. Thomas Prusa, nhà kinh tế của Đại học tổng hợp
Rutgers chuyên nghiên cứu về các vụ kiện thương mại và chống phá
giá nói: “DOC gần như không bao giờ kết luận là không xảy ra tình
trạng bán phá giá”.
Các nhà kinh tế còn nhiều quan tâm đến khác biệt về mục tiêu
chính sách cơ bản của luật chống phá giá. Một số coi luật này là
phương thức nuôi dưỡng chủ nghĩa bảo hộ. Một số khác bảo vệ khái
niệm mày như một công cụ giữ gìn việc làm và giúp giảm bớt tại hoạ
của kinh tế toàn cầu. Clyde Prestowitz, Chủ tịch Viện chiến lược kinh
tế, một nhóm nghiên cứu thiên tả có trụ sở tại Oasinhtơn, nói: “Khái
niệm chống phá giá là hoàn toàn hợp pháp và đã được đưa vào các
quy định của tổ chức Thương mại thế giới (WTO) bởi đây là công cụ
để đối phó với một số vấn đề thực tế”. Nhưng nhiều nhà kinh tế nói
rằng cách thức mà DOC phân xử vụ kiện tôm đã bị “bóp méo” nhằm
chống lại các Công ty nước ngoài và thiên vị các ngư dân đánh bắt
tôm ở Mỹ.
Theo các nhà kinh tế, yếu tố gây tranh cãi nhất về luật chống
phá giá là cách thức DOC tính thuế chống phá giá. Các nhà kinh tế
của DOC sẽ xem xét sự khác biệt giữa giá của sản phẩm NK với giá
trị thị trường hợp lý. Nếu giá NK thấp hơn, có nghĩa là các Công ty
nước ngoài đang bán sản phẩm vào Mỹ với giá quá rẻ, như vậy xuất
hiện hiện tượng bán phá giá. Tuy nhiên, theo Michael Moore và một
13
số nhà kinh tế khác, khó khăn chính ở đây là làm sao so sánh giá NK
thực tế với “giá thị trường hợp lý” giả thuyết, ở một số trường hợp
việc so sánh như vậy gần như là điều không thể, bởi hầu như chẳng ai
biết rõ “giá thị trường hợp lý” sẽ là bao nhiều. Tuỳ thuộc vào tình
huống vụ kiện. Chính phủ Mỹ xác định giá thị trường hợp lý theo
những phương thức khác nhau. Trong trường hợp đơn giản nhất,
Chính phủ Mỹ so sánh giá tại nước XK với giá tại Mỹ. Nhưng trong
hầu hết các vụ kiện chống phá giá, phương thức xác định không đơn
giản như vậy: Trong số sáu nước bị kiện, SSA nói rằng chỉ duy nhất
Braxin có thị trường nội địa đáng kể về mặt hàng tôm, các nước khác
hoặc không có thị trường lớn về mặt hàng này hoặc là những nước bị
quy vào diện không có nền kinh tế thị trường. Trong những trường
hợp như vậy, DOC có khả nhiều lựa chọn phụ, lập danh sách giá tôm
tại một nước thứ ba mà DOC cho rằng có thể so sánh với nước XK.
DOC cũng quyết định xem xét liệu các Công ty nước ngoài có bán
tôm dưới mức chi phí sản xuất, cộng thêm tỷ lệ lợi tức được quy định.
Đây là lý lẽ được viện dẫn chống lại tôm NK từ Việt Nam và Trung
Quốc. Chính phủ Mỹ sẽ tiến hành điều tra và thu thập số liệu theo
cách điều tra và thu thập số liệu theo cách của mình, như lý lẽ mà các
luật của nguyên đơn đưa ra không phải là lý lẽ cuối cùng. Nhưng lý lẽ
này những phần nào cho thấy cách thức tiến hành vụ kiện.
Để đưa ra lý lẽ rằng các Công ty Trung Quốc bán phá giá tôm
tại Mỹ, các luật sư của nguyên đơn đã đặt ra một mô hình kinh tế
phức tạp để xác định chi phí sản xuất tôm tại Trung Quốc và Việt
Nam. Nhưng Trung Quốc và Việt Nam bị xếp vào diện các nước
không có nền kinh tế thị trường, do vậy họ nói rằng số liệu cơ bản,
xác thực về chi phí sản xuất có thể có là không có hiệu lực. Thay vào
14
đó, các luật sư nguyên đơn lấy mức giá và chi phí tại Mỹ và ấn Độ
làm thị trường phụ để xác định số liệu. Đối với trường hợp Trung
Quốc các luật sư khảo sát các nhà chế biến tôm ở Mỹ nhằm tính toán
các hạng mục để có thê chế biến được 1 pao (0,454kg) tôm đông lạnh,
như điện nước, vật liệu đóng gói... Tiếp đến họ nghiên cứu nền kinh
tế Ấn Độ để xác định chi phí của các mục này. Sau đó họ kết hợp hải
kết quả này để đưa mức chi phí sản xuất. Cuối cùng, họ ước tính tỷ lệ
lãi đối với mặt hàng của Trung Quốc. Kết quả của cách tính toán này
đưa ra “giá sản xuất” đối với tôm loại to của Trung Quốc là 10,6
USD/ pao - cao hơn 7,72 USD so với mức giá tôm Trung Quốc nhập
vào Mỹ theo số liệu của Cơ quan Hải quan Mỹ và mức chệnh lệch này
được chuyển thành mức thuế chống phá giá được đề nghị là 263,68%
(mức cao nhất được dự kiến đối với tôm của Trung Quốc”. Các nhà
kinh tế nói rằng cách tính toán như vậy bộc lộ đầy rẫy những bất cập,
chỉ nói đơn giản ngay ở việc so sánh giá tại các nước khác nhau.
Michael Moore thắc mắc. “Ai dám khẳng định đó đã phải là giá hợp
lý chưa? Việc cho rằng giá viện chuyển tại Ấn Độ hay Trung Quốc
cũng đều giống nhau là điều hết sức phi lý”.
Các nhà kinh tế nói rằng một vấn đề đáng nói nữa là việc Chính
phủ Mỹ gộp tất cả các Công ty và các nước cùng vào một vụ kiện
chung, dù là các Công ty khác nhau bán sản phẩm với mức giá khác
nhau, sản phẩm của nước này có thể có cơ cấu giá khác hẳng so với
sản phẩm của nước khác, hoặc thậm chí là một sản phẩm khác hẳn.
Trong vụ kiện tôm, Ấn Độ đang đưa ra lý lẽ rằng tôm SK của họ là
hoàn toàn khác và không thể đem ra so sánh với tôm của Mỹ.
Trên thế giới, từ năm 1995 - 2002, các nước và vùng lãnh thổ bị
điều tra bán phá giá nhiều nhất trong thương mại quốc tế là Trung
15
Quốc: 308 vụ, Hàn Quốc: 160 vụ, Mỹ: 115 vụ, Đài Loan: 109 vụ, In-
đô- nê - xi - a: 91 vụ... Như vậy, so với các nước khác thì số vụ mà
các doanh nghiệp Việt Nam bị điều tra còn là con số rất nhỏ. Mặc dù
Việt Nam đã bị kiến phá giá từ cách đây 10 năm song chúng ta đã
không có một kế hoạch cụ thể để đương đầu với các vấn đề về giá cả
và chống bán phá giá.
Khi vụ kiện cá tra, cá basa tạo được sự chú ý của dư luận và các
doanh nghiệp thủy sản Việt Nam cũng như những người nông dân
Việt Nam phải gánh chịu phần thua, lúc này các Bộ Ngành và các
Hiệp hội liên quan mới thực sự lo ngại về khả năng Việt Nam bị kiện
phá giá ở những mặt hàng khác.
Việt Nam không thể tránh khỏi việc tiếp tục bị kiện phá giá. Lý
do có thể nêu ra như chống bán phá giá được sử dụng như một công
cụ bảo hộ mới, Việt Nam có điều kiện để xuất khẩu những mặt hàng
giá rẻ và Việt Nam bị cho là một nền kinh tế phi thị trường.
Bên cạnh đó, chống bán phá giá còn được sử dụng như một
phần trong số các công cụ gây ảnh hưởng chính trị từ các nước lớn.
Trong vụ kiện cá tra, cá basa, Hiệp hội nông dân, cá tra, cá basa Mỹ
(CFA) có sự hậu thuẫn chính trị, đặc biệt là từ Nghị sĩ Trent Lott.
Ông này đã thúc đẩy việc buộc Việt Nam phải thực hiện phân biệt
nhãn cá tra, basa. Nhiều nghị sĩ ở khu vực phía Nam nơi nuôi cá tra
và cá basa cũng có những hành vi tương tự vì họ cần phiếu ủng hộ từ
cử tri ở khu vực này.
Những hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam thông thường có lợi
thế cạnh tranh do giá nhân công rẻ dẫn đến giá thành thấp so với các
quốc gia khác và xu thế ngày càng nhiều của hàng hoá Việt Nam thâm
nhập vào thị trường quốc tế chắc rằng các cuộc điều tra chống phá giá
16
đối với các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không dừng lại ở đó và một khi
đã bị áp đặt thuế chống bán phá giá thì khả năng xuất khẩu mặt hàng
đó sẽ bị giảm đi rất nhiều. Vì thế, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp
và các nhà quản lý của Việt Nam là làm thế nào để có thể hạn chế
được những tác động bất lợi để “đồng hành” cùng các công cụ chống
bán phá giá.
III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
Để chúng ta có thể “đồng hành” cùng các biện pháp chống bán
phá giá, các doang nghiệp Việt Nam trước hết cần trang bị cho mình
những kiến thức pháp luật về chống bán phá giá trong thương mại
quốc tế. Bên cạnh đó, cần lưu ý một số vấn đề cụ thể sau:
Một là, sẵn sàng đương đầu với các vụ kiện phá giá khác.
Chính phủ Việt Nam cần có kế hoạch sẵn sàng đương đầu với
các vụ kiện bán phá giá khác. Việt Nam cần làm nhiều việc để chủ
động giảm thiểu tiêu cực của việc chống bán phá giá từ các nước
khác. Cụ thể Việt Nam cần:
(1) Xây dựng một hệ thống thông tin về phá giá và chống bán
phá giá.
(2) Xây dựng cơ chế cảnh bảo về kiện phá giá và chống bán phá
giá (trực thuộc Bộ Thương mại), dự kiến những mặt hàng có
khả năng bị kiện phá giá.
(3) Xây dựng cách thực tận dụng có hiệu quả các thủ tục điều tra
trong khuôn khổ WTO cũng như thủ tục điều tra của nước
kiện phá giá. Chẳng hạn, khi bị áp dụng thuế chống bán phá
giá, quốc gia bị áp thuế có thể tăng giá hàng hoá của mình để
17
chịu mức thuế chống bán phá giá thấp hơn ở giai đoạn xem
xét lại hành vi phá giá.
(4) Tích tực tham gia vào các diễn đàn cùng với các nước đang
phát triển để xây dựng một cơ chế chống bán phá giá chặt
chẽ hơn trong khuôn khổ WTO.
Đây được xem là cơ hội để các doanh nghiệp thu thập thông tin
về vấn đề này và chứng minh tính hợp lý của giá xuất khẩu hàng hoá.
Một khi các doanh nghiệp Việt Nam đứng ngoài là tự đánh mất quyền
được khiếu nại và quyền kháng nghị của mình. Khi đó, các cơ quan
điều tra sẽ đưa ra những phán quyết của riêng họ và áp đặt các biện
pháp chống phá giá, tất nhiên là có lợi cho họ. Mặt khác, khi các
doanh nghiệp nước ngoài thắng kiện, họ sẽ không ngần ngại tiếp tục
kiện các hàng hoá khác, và như vậy thì cơ hội xuất khẩu hàng hoá của
các doanh nghiệp Việt Nam sẽ giảm đi nhanh chóng. Tham gia vụ
kiện (rất có thể bị thua do những áp đặt vô lý), các doanh nghiệp có
thể rất tốn kém, nhưng từ chối tham gia là sẽ chấp nhận thiệt hại mà
thông thường còn lớn hơn nhiều.
Hai là, Xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin về phá giá, chống bán
phá giá.
Dữ liệu thông tin về phá giá và chống bán phá giá nên được xây
dựng cả bằng tiếng Việt và tiếng Anh. Các tình huống kiện phá giá,
các vấn đề liên quan cần được chia theo ngành, theo quốc giấp dụng
và ưu tiên theo đặc thù của nền ngoại thương Việt Nam. Chẳng hạn,
thời gian trước mắt, các thông tin liên quan đến các vụ kiện tôm, dệt
may, giày dép và khoáng sản cần được ưu tiên thu thập. Chính phủ và
các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý rằng việc nắm bắt và có đầy đủ
thông tin về các vụ kiện trong cùng ngành cũng như những lập luận
18
của bên trong vụ kiện là sự chuẩn bị cần thiết để sẵn sàng đương đầu
với các vụ kiện phá giá trong thời gian tới.
Ba là, tổ chức tìm hiểu các vụ kiện về chống bán phá giá của
một số ngành và một số quốc gia lựa chọn.
Việt Nam cần thiết phải tìm hiểu các vụ kiện về bán phá giá
trong một số ngành và một số quốc gia mà Việt Nam quan tâm. Trong
bối cảnh các quy định về chống bán phá giá của WTO còn chưa chặt
chẽ như hiện nay, việc tìm hiểu các vụ kiện trong một số ngành là cần
thiết. Chính phủ Việt Nam có thể tìm ra được các lý lẽ mà các nước bị
kiện khác đang sử dụng để phản bác lại nước đi kiện.
Bốn là, chứng minh “Việt Nam có nền kinh tế thị trường”.
Trong vụ kiện giữa Việt Nam và Mỹ về cá tra, cá basa, Việt Nam bị
coi là “nền kinh tề phi thị trường” dẫn đến những tham chiếu bất lợi
khác như phải chọn một nước thứ ba để so sánh chi phí và tính giá trị
thông thường của sản phẩm. Mặc dù, trong thời gian tới Việt Nam cần
tiếp tục đấu tranh để có sự công bằng hơn trong việc lựa chọn quốc
gia thứ ba và cách tính toán chi phí của quốc gia thứ ba đó song điều
Việt Nam cần coi trọng hơn là chứng minh lập luận “Việt Nam là nền
kinh tế thị trường”.
Năm là, thuế chống phá giá sẽ áp đặt cho tất cả các doanh
nghiệp có hàng xuất khẩu, vì thế khi bị kiện, rất cần có sự tham gia và
ủng hộ của tất cả các doanh nghiệp. Nếu đứng ngoài cuộc sẽ luôn bị
áp đặt mức thuế suất cao nhất. Do đó, cùng đoàn kết thống nhất để
tham gia vụ kiện là bài học quan trọng mà các doanh nghiệp Trung
Quốc đã rút ra khi tham gia vụ kiện về nước táo ép của họ và các vụ
kiện khác.
19
Sáu là, cố gắng để cuộc điều tra sơ bộ về chống bán phá giá dẫn
đến kết luận tốt nhất. Vấn đề rất quan trọng là, các doanh nghiệp phải
tìm hiểu thật kỹ và trả lời tất các câu hỏi do cơ quan điều tra nếu ra
trong bảng câu hỏi điều tra một cách hợp lý nhất và trong thời gian
sớm nhất. Sự minh bạch và rõ ràng trong các câu trả lời sẽ tạo ấn
tượng tốt với các cơ quan điều tra. Sự tham vấn các ý kiến của các
luật sư có uy tín trong trường hợp này là rất quan trọng.
Bảy là, cần có những chứng cứ xác đáng để chứng minh việc
bán giá thấp (nếu có) để không gây thiệt hại cho nền sản xuất cả nước
nhập khẩu (lượng hàng xuất khẩu chiếm dưới 3% tổng khối lượng
nhập khẩu mặt hàng đó của nước có hàng bán giá thấp) và nếu có thì
biên độ bị coi là phá giá là không đáng kể (dưới 2%). Đồng thời, có
thể thương lượng với cơ quan đưa ra phán quyết của nước này nhằm
đạt được thoả thuận về hạn chế định lượng hoặc chấp nhận một mức
giá tối thiểu thay vì áp đặt thuế chống phá giá.
Tám là, trong điều kiện có thể, hãy thuyết phục các Công ty
nhập khẩu của nước ngoài cùng lên tiếng trước các cơ quan điều tra
rằng, thực sự không có tổn hại đáng kể.
KẾT LUẬN
Như vậy trong thời gian vừa qua Việt Nam đã phải đón nhận
một số vụ kiện chống bán phá giá từ một số quốc gia mà chúng ta
xuất khẩu hàng hoá sang nước đó. Vấn đề này chúng ta đã gặp phải từ
rất lâu nhưng do chưa nhận thức được tầm quan trong của vấn đề cho
nên chưa có sự chuẩn bị chu đáo đối với các vụ kiện. Mặt khác chúng
ta còn ít kinh nghiệm trong vấn đề chống bán phá giá cùng với sự áp
đặt của những nước lớn, những nước mà đang nhập khẩu hàng hoá
20
của chúng ta dẫn đến chúng ta gặp phải những bất lợi lớn. Hàng hoá
của chúng ta có chi phí sản xuất thấp dẫn đến giá bán thấp nhưng vẫn
bị cho là bán phá giá và chịu thuế xuất cao. Điều này dẫn đến giảm
kim ngạch xuất khẩu và ảnh hưởng đến sản xuất trong nước. Trong
thời gian tới chúng ta có thể sẽ phải gặp những vụ kiện bán phá giá
mới, cho nên cần phải có những tìm hiểu đúc rút kinh nghiệm và có
phương án giải quyết vấn đề một cách tốt nhất.
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí thương mại số 12 tháng 3/2004
2. Tạp chí thương mại số 18 tháng 5/2004
3. Tạp chí thương mại số 22 tháng 6/2004
4. Tạp chí thương mại số 29 tháng 8/2003
5. Tạp chí cộng sản số 9 tháng 5/2004
6. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số 2,3,4 năm 2004.
22
MỤC LỤC
Lời mở đầu..............................................................................1
Nội dung
I. Hiệp định chống bán phá giá của WTO và luật chống bán phá
giá của Hoa Kỳ..................................................................................2
1. Các các hiểu về phá giá ..........................................................2
2. Biện pháp chống bán phá giá trong thương mại quốc tế ...........3
3. Cơ chế chống bán phá giá của Mỹ ...........................................6
II. Những thách thức và khó khăn có liên quan trong xuất khẩu
hàng hoá của Việt Nam .....................................................................7
III. Một số đề xuất, kiến nghị .................................................... 15
Kết luận ..................................................................................19
Tài liệu tham khảo ..................................................................20
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- da337_1459.pdf