Đề tài Hiệu quả hoạt động tài chính của các doanh nghiệp nhà nước tại TP Hồ Chí Minh và các giải pháp đổi mới hiện nay

Mặc dù vậy cho tới nay vẫn không ít ý kiến cho rằng vai trò chủ đạo này nên đặt cho hệ thống doanh nghiệp nhà nước thích hợp hơn là cho nền kinh tế nhà nước. Quan niệm này là chưa hợp lý bởi vì doanh nghiệp nhà nước là bộ phận chính yếu tạo ra tiềm lực vật chất cho nhà nước, là nơi trực tiếp hình thành và nuôi dưỡng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, là lực lượng kinh tế đồng thời cũng là một công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô nền kinh tế của nhà nước, nhưng bên trong nó còn có nhiều bộ phận khác nhau của kinh tế nhà nước như ngân hàng nhà nước, kho bạc nhà nước, ngân sách nhà nước mà khả năng định hướng và thúc đẩy của chúng là vô cùng to lớn. Mặt khác khi nói tới kinh tế nhà nước là nói tới các bộ phận của các bộ phận của kinh tế với các thuộc tính tiến bộ của thành phần kinh tế đại diện cho phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa (thành phần kinh tế tiến bộ có sứ mệnh tự khẳng định bằng bản chất ưu việt của mình).

doc80 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1262 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hiệu quả hoạt động tài chính của các doanh nghiệp nhà nước tại TP Hồ Chí Minh và các giải pháp đổi mới hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp vụ kiểm toán với các công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài thì nguồn lợi thu được từ phí kiểm toán và kiểm soát được hoạt động của các công ty này cũng là thành quả đáng kể. Việc phát triển các công ty thuê mua tài chính hiện nay cũng rất khả quan. Với loại hình công ty này doanh nghiệp có thể thuê máy móc thết bị mà không cần phải huy động vốn lớn để đầu tư. Tuy nhiên cho tới nay ở nước ta loại hình công ty này vẫn chưa thực sự phát triển xuất phát từ các nguyên nhân sau: Doanh nghiệp nhà nước chưa quen với loại hình huy động tài chính này Phí thuê mua còn khá cao Các cá nhân không tư lợi được từ hoạt động này (mua thiết bị mới có hoa hồng) Hình thành các công ty mua bán nợ để tham gia vào việc xử lý công nợ giữa các doanh nghiệp với nhau. Nó có tác dụng tích cực trong việc phòng ngừa các khoản nợ khó đòi lâu ngày khó xử lý. Loại hình công ty này khi hoạt động cần phải nắm kỹ các doanh nghiệp liên quan do đó tình hình doanh nghiệp được đánh giá một cách khách quan, ngăn ngừa được tình trạng kéo dài thời gian trả nợ Nâng cao trình độ của các nhà quản lý doanh nghiệp nhà nước. Thường xuyên tổ chức kiểm tra tay nghề, tăng cường công tác đào tạo nhân sự. Có thể gửi đi học hay trực tiếp đào tạo. Tuy nhiên cho tới nay vẫn chưa có một chuẩn mực cụ thể nào về đội ngũ cán bộ nhưng căn cứ vào quan điểm đường lối chính trị của Đảng và nhà nước ta hiện nay thì những tiêu chuẩn này là: có tinh thần yêu nước, tận tụy phục vụ nhân dân, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường của giai cấp công nhân, gương mẫu về đạo đức lối sống, có kiến thức khoa học lãnh đạo và quản lý, có tư duy độc lập sáng tạo, bám sát với đời sống xã hội, có kiến thức về kinh tế thị trường và quản trị doanh nghiệp, hiểu biết khoa học công nghệ, pháp luật và thông lệ quốc tế, có khả năng tổ chức kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế, xã hội. THÀNH LẬP CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ Tháng 3 năm 1994 Chính Phủ đã ban hành quyết định 90/TTg và 91/TTg tạo cơ sở pháp lý cho việc thành lập các tổng công ty nhà nước ở Việt Nam. Luật doanh nghiệp nhà nước ra đời cũng dành một chương cho việc đề cập đến mô hình tổng công ty nhà nước qua đó mô hình này được nâng cao về cơ sở pháp lý. Như vậy xét về thời gian xuất hiện, các tổng công ty nhà nước ở nước ta nói chung và ở TP.HCM nói riêng được hình thành trong quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước, việc xuất hiện xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau. Cụ thể như sau: Nhu cầu đổi mới tổ chức, cơ chế quản lý các tổng công ty theo luật doanh nghiệp nhà nước với những mô hình tổng công ty đã hình thành trước khi có luật doanh nghiệp nhà nước nhằm làm cho các tổng công ty này thực sự hoạt động theo một cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý doanh nghiệp. Nhu cầu tách một số doanh nghiệp nhà nước trước đây do các sở ngành hoăc quận huyện quản lý để hình thành các tổng công ty nhà nước với mục đích trước hết là tách chức năng quản; lý kinh doanh khỏi chức năng quản lý nhà nước của các ngành, các cấp như tổng công ty thương mại Sài Gòn, Tổng công ty Bến Thành, Tổng công ty địa ốc Sài Gòn… Mô hình tổng công ty nhà nước là một mô hình tổ chức kinh doanh mới, TP.HCM lại là địa phương đầu tiên trên cả nước thành lập và trực tiếp quản lý các tổng công ty nhà nước, các tổng công ty vừa ra đời lại chịu các ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nên lại gặp không ít khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động quản lý và điều hành kinh doanh của mình. Quá trình hình thành các tổng công ty nhà nước đã thể hiện được vai trò trong tình hình hiện nay. Nó thúc đẩy quá trình tập trung vốn, hình thành các đơn vị chủ lực của nền kinh tế. Mặt khác làm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Các tổng công ty còn giúp tạo ra các tổ chức kinh doanh chuyên ngành hoăc đa ngành có tầm vóc quốc gia và tầm vóc quốc tế, liên kết các doanh nghiệp nhà nước đang tồn tại mà nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của toàn tổng công ty và của từng thành viên. Vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành các tổng công ty nhà nước là giúp tạo ra các điều kiện kinh tế tập trung để nhà nứơc chủ động hơn trong việc thực hiện chức năng điều tiết nền kinh tế của mình. Hiện nay tại TP.HCM đã hình thành được 7 tổng công ty và do UBND thành phố quản lý với số doanh nghiệp thành viên từ 12 trở lên và hoạt động khá hiệu quả. Hiện nay các tổng công ty tại TP.HCM đều là các tổng công ty 90, 91 trong đó thành phố không trực tiếp quản lý loại hình tổng công ty 91. Tuy nhiên để đánh giá mô hình tổng công ty nhà nước từ hoạt động của các tổng công ty 90 do UBND thành phố quản lý cần được xem xét trong sự so sánh giữa hai loại tổng công ty này. Theo chỉ thị 90 và 91 của thủ tướng chính phủ và một số các văn bản pháp lý khác, tổng công ty 90 và tổng công ty 91 có những điểm khác nhau cơ bản như sau: Thứ nhất là sự khác nhau về quy mô vốn và số lượng thành viên liên kết. Thứ hai là sự khác nhau về phân cấp quản lý. Các tổng công ty 91 do thủ tướng chính phủ quyết định thành lập còn các tổng công ty 90 do thủ tướng uỷ quyền cho bộ trưởng, chủ tịch UBND Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thành lập. Do đó các tổng công ty 91 có ưu thế hơn trong việc mởi rộng quan hệ với các đối tác nước ngoài, khả năng đầu tư và khả năng tín dụng… Hiện nay các ngành kinh doanh độc quyền đều do các tổng công ty 91 nắm giữ như trong lĩnh vực than, điện, nước, bưu chính viễn thông… Từ sự khác nhau này một số vấn đề đã được đặt ra là tăng cường quản lý tình trạng độc quyền kinh doanh của một số tổng công ty nhà nước thông qua luật pháp và cơ quan nhà nước chuyên trách nhằm tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các tổng công ty và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Về vốn thì hiện nay các tổng công ty được đầu tư chủ yếu ở 4 loại doanh nghiệp Doanh nghiệp nhà nước: được coi là thành viên của các tổng công ty. Hiện nay các tổng công ty đã thành lập được 151 doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp thành viên đã cổ phần hoá: sau khi cổ phần hoá các doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần, vốn nhà nước để lại tại các doanh nghiệp này là sự đóng góp vốn của cổ đông. Để các doanh nghiệp này là thành viên của các tổng công ty cần phải có những điều kiện nhất định và phải có các quy định cụ thể của nhà nước. Các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài: hiện nay các tổng công ty đã tham gia góp vốn cùng các nhà đầu tư nước ngoài thành lập được 58 công ty liên doanh. Mặc dù các tổng công ty đều có người tham gia quản lý các công ty liên doanh này nhưng thực tế quyền chi phối lại thuộc về phía đối tác nước ngoài. Do đó liên doanh rất khó trở thành thành viên của tổng công ty. Góp vốn vào các doanh nghiệp khác trong nước: việc góp vốn vào các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác thường tồn tại dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Tuy nhiên nếu tỷ lệ vốn góp của các tổng công ty vào doanh nghiệp này đạt mức chi phối và cùng với việc nghiên cứu hình thành quy chế mới của tổng công ty, các doanh nghiệp này sẽ trở thành thành viên của tổng công ty theo kiểu công ty mẹ - công ty con. Đây là cơ cấu tổ chức điển hình của các tập đoàn kinh tế. Các tổng công ty đang tồn tại dưới hai hình thức tổ chức quản lý đó là tổng công ty có doanh nghiệp nòng cốt và tổng công ty không có doanh nghiệp nòng cốt. Tổng công ty có doanh nghiệp nòng cốt Hiện nay tại TP.HCM có hai tổng công ty có doanh nghiệp nòng cốt là tổng công ty Bến Thành lấy công ty xuất nhập khẩu và dịch vụ quận 1 làm nòng cốt và tổng công ty du lịch Sài Gòn lấy công ty xây dựng Sài Gòn làm nòng cốt. Những doanh nghiệp nòng cốt này thường là những doanh nghiệp có thế mạnh về tài chính và kinh doanh lớn hơn các doanh nghiệp thành viên khác. Hình thức tổ chức này có nhiều ưu điểm hơn so với các hình thức khác ở chỗ bộ máy tổng công ty chủ yếu là bộ máy quản lý của doanh nghiệp nòng cốt, tổng công ty có thực lực để ký kết và tổ chức thực hiện các hợp đồng lớn, các tổng công ty có thể tự trang trải kinh phí cho bộ máy quản lý của mình làm giảm mức đóng góp của thành viên cho chi phí quản lý chung của công ty, tạo lòng tin cho các đối tác. Tổng công ty không có doanh nghiệp nòng cốt Hình thức này được thực hiện do không có thành viên nào nổi trội hơn về mặt tài chính và kinh doanh để đảm nhận vai trò quản lý tổng công ty. Thông thường các doanh nghiệp thành viên mang phần vốn góp của mình đặt dưới sự quản lý của cơ quan này. Do đó cơ quan quản lý tổng công ty là nơi tập trung quyền lực quản lý cao nhất của tổng công ty. Tuy nhiên việc thành lập các tổng công ty ở nước ta cũng như ở TP.HCM chưa phải là sự liên kết do những yêu cầu khách quan về kinh doanh của doanh nghiệp mà là theo quyết định thành lập của cấp trên. Với hình thức tổ chức này mặc dù các tổng công ty có quyền hạn rất lớn nhưng không có thực lực về tài chính, kinh doanh nên rất khó khăn trong việc thực hiện vai trò tổ chức phối hợp của mình. Từ tình hình đó, một số tổng công ty đang tổ chức theo hình thức này dần dần chuyển sang hình thức tổng công ty có doanh nghiệp nòng cốt. Trong hai hình thức trên thì hình thức tổng công ty có doanh nghiệp nòng cốt là phổ biến trong cơ cấu tổ chức tập đoàn ở các nước. Tổ chức được doanh nghiệp nòng cốt sẽ tạo điều kiện phát huy vai trò của tổng công ty tốt hơn vì cơ sở phối hợp giữa các thành viên vững chắc hơn. Về tình hình doanh thu thì hiện nay bảy tổng công ty chiếm khoảng 47-51% so với toàn bộ doanh nghiệp nhà nước do thành phố quản lý. Tình hình kinh tế khó khăn trong những năm qua làm doanh thu của tổng công ty liên tục giảm đặc biệt là trong giai đoạn 1999-2000. Tổng mức lợi nhuận của các tổng công ty so với các doanh nghiệp nhà nước do thành phố quản lý giao động trong khoảng 31-33%. Mặc dù doanh thu trong thời gian gần đây có giảm nhưng lợi nhuận của các tổng công ty tương đối ổn định. Các tổng công ty đã có những đóng góp tích cực trong việc tạo việc làm cho người lao động. Lao động làm việc trong các tổng công ty chiếm từ 38-41% so với các doanh nghiệp nhà nước khác. Chỉ tiêu này liên tục tăng trong những năm gần đây. Mặc dù hình thức tổng công ty đã tồn tại cho đến nay khá lâu nhưng hình thức này vẫn còn một vài hạn chế. Các tổng công ty chưa xây dựng được một chiến lược kinh doanh thực sự để làm cơ sở cho việc tổ chức, quản lý và điều hành tổng công ty và các thành viên. Quản lý điều hành ở cấp tổng công ty là hoạt động quản lý điều hành dựa trên chiến lược kinh doanh của toàn tổng công ty, nhưng cho tới nay hầu như các tổng công ty vẫn chưa xây dựng được một chiến lược kinh doanh thực sự khả thi. Nguyên nhân là không có đủ thông tin cần thiết, thiếu kinh nghiệm và lúng túng trong phương pháp. Do đó các tổng công ty thiếu căn cứ xét duyệt kế hoạch, sắp xếp lại các thành viên, điều phối các nguồn lực của tổng công ty, xác định chuyên môn hoá và tổ chức phối hợp giữa các thành viên. Từ đó làm cho hiệu quả quản lý tổng công ty bị hạn chế. Các tổng công ty chưa khai thác hết ưu thế của hình thức liên kết tập trung này để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Việc thành lập các tổng công ty chưa chú ý đầy đủ đến khả năng liên kết giữa các doanh nghiệp thành viên. Sau khi thành lập các tổng công ty chưa xác định được lĩnh vực kinh doanh chủ yếu, sản phẩm chủ lực và hướng kinh doanh đa ngành của tổng công ty và các thành viên để từ đó sắp xếp lại thành viên. Các tổng công ty chỉ mới dừng ở khâu xây dựng các quỹ tập trung, điều phối một số mặt bằng và ứng trước vốn lưu động cho doanh nghiệp thành viên gặp khó khăn về tài chính. Mô hình tổ chức và cơ chế quản lý tổng công ty còn nhiều điểm chưa rõ ràng đã ảnh hưởng tới công tác quản lý, điều hành công ty. Để phát huy được tối đa tiềm lực do loại hình tổng công ty đem lại chúng ta cần phải hoàn thiện chúng theo các giải pháp sau: * Những giải pháp về vấn đề sở hữu Thực hiện đa dạng hoá sở hữu các tổng công ty nhằm vừa tăng vốn vừa tạo điều kiện mở rộng quy mô của các tổng công ty, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh, vừa làm cho cơ chế quản lý các tổng cộng ty trở nên linh hoạt hơn gắn liền với lợi ích của người chủ sở hữu với kết quả kinh doanh của tổng công ty. Đa dạng hoá sở hữu các tổng công ty không đơn thuần chỉ là cổ phần hoá mà còn có thể áp dụng nhiều biện pháp như phát hành cổ phiếu tăng thêm, khuyến khích các thành phần khác góp vốn vào tổng công ty. Tuy nhiên để đảm bảo vai trò của khu vực kinh tế nhà nước, các tổng công ty vẫn phải do nhà nước chi phối bằng tỷ lệ vốn góp của mình. Bổ sung thêm các doanh nghiệp thành viên như là các công ty cổ phần, các doanh nghiệp có vốn góp của tổng công ty, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. * Những giải pháp về xây dựng cơ cấu tổ chức Tổ chức các doanh nghiệp nòng cốt, tạo tiềm lực trực tiếp về kinh tế và tài chính cho cơ quan quản lý tổng công ty. Khi tổ chức doanh nghiệp nòng cốt cần phải đảm bảo các yêu cầu sau: doanh nghiệp nòng cốt là doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh hơn các thành viên khác trong tổng công ty, là doanh nghiệp có triển vọng phát triển không những trên thị trường trong nước mà còn trên thị trường quốc tế, là doanh nghiệp hạch toán phụ thuộc, đặt dưới sự quản lý của tổng công ty; có khả năng làm trung tâm phối hợp sản xuất kinh doanh đối với các thành viên khác. Tổ chức bộ máy quản lý cao nhất của tổng công ty. Trong thực tiễn người chủ sở hữu có thể là người điều hành các hoạt động kinh doanh. Vì vậy nếu điều kiện cụ thể cho phép thì chủ tịch HĐQT cũng có thể là tổng giám đốc. Sắp xếp lại các thành viên của tổng công ty. Mỗi tổng công ty chỉ nên có từ 10-15 thành viên, mỗi thành viên hoạt động trên mỗi lĩnh vực khác nhau, tổng công ty cần xác định được cơ cấu vốn, cơ cấu thành viên, chuyên môn hoá nhiệm vụ kinh doanh của các thành viên. Mỗi doanh nghiệp thành viên chỉ nên chuyên môn hoá một ngành hàng kinh doanh. Quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo có đủ phẩm chất đạo đức, năng lực và trình độ quản lý để bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo trong tập đoàn. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực về tiếp thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, thích ứng với yêu cầu sản xuất kinh doanh của tập đoàn kinh tế. Đồng thời chính sách giải quyết lao động dôi dư phù hợp khi tổng công ty chuyển sang tập đoàn kinh tế. * Những giải pháp về điều hành hoạt động kinh doanh: Mở rộng quy mô vốn của các tổng công ty. Hiện nay đa số các tổng công ty có quy mô vốn nhỏ bé nên không thể phát huy được những ưu điểm của hình thức liên kết tập trung này. Để nâng cao tiềm lực kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh đòi hỏi các tổng công ty không ngừng tăng cường quy mô tổng vốn hoạt động bằng cách cổ phần hoá… Xây dựng một chiến lược kinh doanh hợp lý, thực sự khả thi. Trên cơ sở chiến lược kinh doanh của tổng công ty, tiến hành chiến lược kinh doanh cho các doanh nghiệp thành viên. Cần thành lập các tổng công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế để thực hiện chức năng huy động, tập trung, điều hoà và đầu tư vốn trong tập đoàn. Xây dựng hệ thống khung pháp lý hoàn thiện để điều chỉnh hoạt động của tập đoàn kinh tế. Nghiên cứu sửa đổi bổ sung kịp thời các văn bản điều chỉnh hoạt động về huy động vốn, phát hành tráiphiếu, cổ phiếu phù hợp với đặc điểm của tập đoàn kinh tế. Việc thực hiện kinh doanh đa ngành trong tập đoàn kinh tế là cần htiết nhưng trước mắt trong điều kiện hiện nay, tập đoàn kinh tế Việt Nam dứt khoát phải tuân theo nguyên tắc có một ngành chủ đạo, chuyên sâu, các ngành khác phải được lựa chọn trên cơ sở năng lực, kinh nghiệm quản lý, hiệu quả kinh tế thực sự để vừa phát triển được bản thân ngành đó, vừa hỗ trợ cho các ngành chủ đạo. CỔ PHẦN HOÁ DNNN 1. Đặc điểm quản lý tài chính và ưu thế của công ty cổ phần trong quản lý tài chính Trong một nền kinh tế, có thể phân loại hình thức tổ chức doanh nghiệp theo nhiều hình thức khác nhau. Hiện nay tại Việt Nam nếu xét theo hình thức sở hữu vốn thì doanh nghiệp có thể phân thành ba loại: doanh nghiệp một chủ sở hữu, doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu và doanh nghiệp hỗn hợp. Loại hình doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu là doanh nghiệp trong đó có các thành viên cùng góp vốn, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần gốn góp vốn và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ trong công ty. Theo thông tư 104/1998/TT-BTC của Bộ Tài Chính đã định nghĩa công ty cổ phần như sau: “Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các cổ đông cùng góp vốn, cùng tham gia quản lý, cùng chia lợi nhuận cùng chịu rủi tro tương ứng với phần vốn góp”. Như vậy ta thấy công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp thuộc doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu, có trình độ xã hội hoá cao nhất, có khả năng tách rời quyền sở hữu vốn với quyền quản lý kinh doanh, sở hữu vốn. Nó là loại hình công ty gắn liền với thị trường chứng khoán và đòi hỏi khả năng trình độ quản lý rất cao ở tầm vĩ mô và vi mô. Về pháp lý, công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân mà vốn kinh doanh do nhiều người đóng góp dưới nhiều hình thức cổ phần. Các cổ đông chỉ có trách nhiệm với các cam kết tài chính của công ty trong phạm vi số vốn đóng góp. Trong trường hợp công ty bị phá sản thì họ chỉ mất số tiền đã đầu tư vào công ty, không chịu trách nhiệm vô hạn như hình thức kinh doanh một chủ sở hữu hoặc chung vốn. Mọi cổ đông chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn và công ty cổ phần là một hình thức pháp lý đầy đủ, thuận lợi để kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận. Điều này cho phép khắc phục phần lớn trở ngại đặt ra các hình thức chung vốn. Mệnh giá cổ phiếu của các công ty cổ phần thường rất nhỏ có khả năng khai thác được ngay cả những số tiền tiết kiệm nhỏ nhất trong công chúng. Hình thức này có thể huy động được một lượng vốn rất lớn trong dân cư một cách hiệu quả. Về mặt huy động vốn: công ty cổ phần đã huy động được một lượng vốn trong xã hội hết sức hiệu quả. Những khoản tiết kiệm nhỏ của từng cá nhân riêng lẻ không đủ sức để thành lập doanh nghiệp nhỏ thì rõ ràng sự có mặt của các công ty cổ phần đã tạo điều kiện cho những cá nhân này có cơ hội đầu tư một cách có lợi và an toàn. Hình thức cổ phần có sức hấp dẫn riêng đối với các nhà đầu tư. Điều này thể hiện ở chỗ việc mua cổ phiếu không những đem lại cổ tức bằng hoặc cao hơn so với lãi suất ngân hàng mà còn hứa hẹn đem lại cho cổ đông một thặng dư vốn khi công ty làm ăn có hiệu quả. Các cổ đông có quyền tham gia quản lý theo điều lệ công ty và được pháp luật đảm bảo, làm cho quyền sở hữu của cổ đông trở nên cụ thể và có sức hấp dẫn hơn. Ngoài ra cổ đông còn có quyền ưu đãi trong việc mua cổ phiếu mới phát hành của công ty trước khi đem bán ra công chúng. Hình thức hoạt động của công ty cổ phần được thực hiện tách rời giữa quyền sở hữu với quyền sử dụng. Toàn bộ hoạt đông kinh doanh của công ty thuộc về ban giám đốc điều hành. Đại hội cổ đông cũng bầu ra ban kiểm soát thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của công ty để bảo vệ lợi ích của cổ đông. Các cổ phiếu và trái phiếu có thể chuyển nhượng tự do trên thị trường chứng khoán. Công ty cổ phần đã có những đóng góp rất đáng kể cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Theo Mác: “nếu như cứ chờ cho đến khi tích luỹ làm cho một số tư bản lớn lên đến mức có thể đảm nhiệm việc xây dựng đường sắt thì có lẽ cho đến ngày nay thế giới vẫn chưa có đường sắt. Ngược lại qua các công ty cổ phần tập trung đã thực hiện được việc đó trong nháy mắt”. Như vậy ta có công ty cổ phần là sản phẩm của xã hội hoá sở hữu phản ánh quá trình tích tụ và tập trung tư bản, công ty cổ phần ra đời đã góp phần đẩy nhanh quá trình này về tốc độ và quy mô, làm xuất hiện những xí nghiệp mà với tư bản riêng lẻ không thể thiết lập được. Việc thành lập công ty cổ phần đã cho phép các công ty mở rộng quy mô sản xuất nhanh chóng mà không bị giới hạn bởi từng tư bản riêng biệt, tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất. Quá trình hình thành phát triển công ty cổ phần theo quy luật tiến hoá doanh nghiệp dựa trên quá trình xã hội hoá sở hữu tư nhân, cho phép khẳng định xu hướng phát triển tất yếu của loại hình công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Điều này là cần thiết đối với việc xây dựng cơ sở vững chắc có tính khoa học nhằm phân tích và chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần tiến tới thành lập các công ty lớn mạnh đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Nhờ những vai trò và ưu điểm đặc biệt nên công ty cổ phần được coi là con đường hữu hiệu nhất để cải tổ các doanh nghiệp nhà nước nhưng đồng thời vẫn giữ vững vai trò của khu vực kinh tế nhà nước bằng cách di chuyển linh hoạt các nguồn vốn cổ phần của mình vào các công ty cổ phần cở các lĩnh vực cần thiết có sự điều tiết và kiểm soát của nhà nước. 2. Đẩy mạnh các giải pháp cổ phần hoá DNNN Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, thực chất là chuyển quyền sở hữu tài sản và lĩnh vực hoạt động của nhà nước thành của cổ đông, thuộc các thành phần kinh tế khác. Hay nói cách khác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là đa dạng hoá quyền sở hữu doanh nghiệp nhà nước. Kết quả là sẽ làm cho tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả hơn khắc phục được tình trạng kém hiệu quả. Tại điều 2 nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 27/6/1998 của chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần đã xác định việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục đích sau: Thứ nhất, huy động vốn của toàn xã hội bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp. Thứ hai, tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn vào được làm chủ thực sự. Thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản nhà nước, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. Ngày 23/10/2002. Bộ lao động – Thương binh và xã hội ban hành thông tư số15/2002/TT-LDTBXH, hướng dẫn về chính sách đối với người lao động khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần theo nghị định 64/2002/ND-CP, lập phương án lao động theo trình tự sau: Lập danh sách lao động có tên trong danh sách của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá theo biểu mẫu số 1 kèm theo thông tư này. Lập danh sách lao động thuộc diện nghỉ hưu theo chế độ hưu trí. Lập danh sách lao động hết hạn hợp đồng lao động tại thời điểm cổ phần. Hội đồng quản trị hoặc giám đốc công ty cổ phần có trách nhiệm: Tiếp nhận số lao động quy định tại điểm 1 mục A phần II trong thông tư này. Tiếp tục thực hiện những cam kết trong hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể đã được ký kết trước đó với người lao động theo quy định của pháp luật hiện hành. Sau đây là một số giải pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: Trước hết là vấn đề về tài chính kế toán tại công ty mẹ - công ty con. Về phương pháp lập và trình bày báo cáo tài chính hợp nhất, báo cáo tài chính phải phản ánh trung thực, chính xác tình hình tài chính, kết quả hoạt động của doanh nghiệp để giúp các chủ nợ và các nhà đầu tư đưa ra được quyết định đúng đắn về khoản đầu tư của mình. Đặc biệt đối với các tập đoàn kinh tế tổ chức theo mô hình công ty mẹ - công ty con nếu không có những quy định rõ ràng và không kiểm soát chặt chẽ việc lập báo cáo hợp nhất cho cả tập đoàn sẽ đưa ra các thông tin sai lệch có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà đầu tư và chủ nợ. Tiếp theo là một số định hướng sửa đổi cơ chế định giá doanh nghiệp. Sửa đổi bổ sung quy định về xử lý và xác định giá trị tài sản là giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp. Đối với diện tích đất doanh nghiệp cổ phần hoá đang sử dụng mặt bằng xây dựng trụ sở, văn phòng giao dịch, xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh, đất để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản làm muối… thì doanh nghiệp cổ phần hoá được quyền chọn lựa thuê đất hoặc giao đất theo quy định của luật đất đai. Trường hợp doanh nghiệp cổ phần hoá lựa chọn thuê đất thì không tính giá trị sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá. Doanh nghiệp cổ phần hoá tiếp tục ký hợp đồng thuê đất theo quy định của luật đất đai. Trường hợp doanh nghiệp cổ phần hoá thực hiện hình thức giao đất thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá. Đối với diện tích đất nhà nước đã giao cho doanh nghiệp để xây dựng nhà để bán hoặc cho thuê, xây dựng kết cấu hạ tầng, chuyển nhượng hoặc cho thuê thì phải tính vào giá trị doanh nghiệp. Sửa đổi bổ sung quy định về việc xây dựng giá trị vốn đầu tư dài hạn của các doanh nghiệp cổ phần hoá theo hướng: doanh nghiệp được quyền lựa chọn việc kế thừa hay không kế thừa các hoạt động đầu tư dài hạn vào các doanh nghiệp khác. Trường hợp doanh nghiệp kế thừa thì giá trị vốn đầu tư dài hạn của doanh nghiệp cổ phần hoá tại doanh nghiệp khác được đánh giá theo giá trị thị trường tại thời điểm đấu giá nhưng không thấp hơn giá trị ghi trên sổ sách kế toán vì các hoạt động liên doanh thường những năm đầu là lỗ, có trường hợp đối tác cố tình lỗ thông qua việc điều chỉnh giá mua lại phần vốn của doanh nghiệp. Do đó để giảm tổn thất cho nhà nước trong quá trình thực hiện sắp xếp chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước thì cần phải điều chỉnh lại như trên. Bổ sung cơ chế xử lý nợ và tài sản tồn đọng: yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hoá phải chủ động xử lý các tồn đọng tồn tại về tài chính trước khi chuyển đổi sở hữu, không chờ tới thời điểm cổ phần hoá mới làm. Trường hợp đến thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp không kịp xử lý thì được loại trừ ra khỏi giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá và phải bàn giao cho công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng để xử lý khi có quyết định công bố giá trị doanh nghiệp. Giám đốc doanh nghiệp và doanh nghiệp nếu không tích cực xử lý nợ và tài sản tồn đọng thì sẽ bị xử phạt theo quy định hiện hành. Ngoài ra chúng ta cũng cần đổi mới phương thức xây dựng giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá để rút ngắn thời gian nhưng vẫn đảm bảo tính công khai, minh bạch. Cụ thể là bỏ việc xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá thông qua hội đồng. Cơ quan quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thuê các tổ chức có chức năng định giá như công ty chứng khoán, công ty kiểm toán, ngân hàng… để thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp có giá trị tài sản theo sổ sách kế toán dưới 20 tỷ đồng (chiếm khoảng 50%) thì không nhất thiết phải thuê đánh giá mà doanh nghiệp có thể tự kiểm kê xác định giá trị doanh nghiệp. Huỷ bỏ cơ chế “giá sàn” trước đây, giá công bố chỉ là căn cứ xây dựng phương án cổ phần hoá, xây dựng cơ cấu cổ phần, xác định giá khởi điểm để đấu giá bán cổ phần. Chúng ta cũng nên sửa đổi bổ sung một số quy định tạo cơ sở cho việc xác định giá trị doanh nghiệp khi thực hiện cổ phần hoá toàn tổng công ty. Bổ sung quy định về vốn nhà nước toàn tổng công ty để cổ phần hoá đối với tổng công ty do nhà nước quyết định đầu tư và thành lập. Điều chỉnh quy định về thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp đối với trường hợp cổ phần hoá tổng công ty nhà nước. theo đó việc tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp sẽ do các Bộ, UBND chịu trách nhiệm, nhưng việc thẩm tra và ra quyết định công bố giá trị tổng công ty để cổ phần hoá sẽ do Bộ Tài chính thực hiện theo uỷ quyền của thủ tướng chính phủ. ĐỔI MỚI DNNN BẰNG HÌNH THỨC KHÁC Các quy định chung về giao khoán quản lý và cho thuê: Theo điều 1 nghị định 103/1999/NĐ-CP: mục tiêu của việc giao bán khoán kinh doanh cho thuê toàn bộ một doanh nghiệp nhà nước là những biện pháp tiếp tục sắp xếp và đổi mới những doanh nghiệp nhà nước quy mô nhỏ thua lỗ kéo dài hoặc không cần duy trì sở hữu nhà nước nhằm: Tạo điều kiện cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của khu vực kinh tế nhà nước. Bảo đảm việc làm cho người lao động, thay đổi cơ chế quản lý doanh nghiệp tạo động lực để phát huy quyền làm chủ của người lao động, sử dụng có hiệu quả hơn tài sản đã đầu tư, khai thác mọi tiềm năng trong các thành phần kinh tế để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Giảm bớt chi phí và trách nhiệm điều hành kinh doanh của nhà nước, đảm bảo lợi ích chung của cả nhà nước và người lao động Về phạm vi áp dụng: Đối với các doanh nghiệp nhà nước độc lập và các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty có vốn nhà nước trên sổ sách kế toán dưới 1 tỷ đồng, kinh doanh thua lỗ kéo dài hoặc nhà nước không cần nắm giữ cổ phần trừ các doanh nghiệp là nông trường, lâm trường quốc doanh, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tư vấn, thiết kế giám định. Các doanh nghiệp không quy định tại điểm trên có vốn nhà nước trên sổ sách kế toán từ 1 tỷ đến dưới 5 tỷ đồng bị thua lỗ kéo dài nhưng chưa lâm vào tình trạng phá sản, sau khi đã thực hiện các biện pháp cần thiết nhưng vẫn không khắc phục được tuỳ theo trường hợp cụ thể do thủ tướng chính phủ quyết định. Khoán kinh doanh đối với một doanh nghiệp nhà nước gọi tắt là khoán kinh doanh là phương thức quản lý doanh nghiệp nhà nước mà bên nhận khoán được giao các quyền quản lý doanh nghiệp, có nghĩa vụ thực hiện một số chỉ tiêu, bảo đảm các điều kiện và được hưởng các quyền lợi theo hợp đồng khoán. Cho thuê doanh nghiệp nhà nước là hình thức chuyển giao cho người nhận thuê quyền sử dụng tài sản và lao động trong doanh nghiệp theo các điều kiện ghi trong hợp đồng thuê. Người nhận giao, người mua, người nhận khoán, người thuê doanh nghiệp là đại diện của pháp nhân, tập thể, nhóm người hoặc cá nhân nhận giao, mua, nhận khoán kinh doanh hoặc thuê doanh nghiệp. Người giao, người bán, người khoán, người cho thuê doanh nghiệp là đại diện cơ quan, doanh nghiệp thực hiện giao bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp. Các giải pháp củng cố nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước bằng hình thức giao khoán: 2.1.Khai thác lợi thế: Mặt bằng: Mỗi doanh nghiệp định vị ở một nơi nào đó đều cần phải có mặt bằng vì khi mở doanh nghiệp xây nhà xưởng, mở một cửa hàng chúng ta đều cần tới mặt bằng. Mặt bằng được định giá theo giá thị trường và đem lại lợi nhuận khi cho thuê… Hiện nay ở nước ta một phần lợi sinh ra từ khai thác lợi thế của mặt bằng đã bị đánh mất làm cho thiệt hại rất nhiều. Không chỉ có mặt bằng, nhà kho, phân xưởng mà các doanh nghiệp nhà nước còn có rất nhiều đất đai. Theo luật đất đai thì đất là sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý và không được mua bán, chỉ chuyển quyền sở hữu. Và vì doanh nghiệp nhà nước được hình thành dựa trên nền tảng công hữu nên các doanh nghiệp nhà nước có rất nhiều đất được nhà nước cấp và mọi chi phí cải tạo đều do nhà nước chi trả. Bán, thanh lý và chuyển nhượng làm giảm chủ sở hữu tài sản không cần thiết, giảm sở hữu nhà nước. Chúng ta cũng có thể nâng cấp tu sửa đưa vào sử dụng. Lao động: Lao động là một trong những nguồn lực quan trọng có ảnh hưởng đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh. Lao động có tay nghề, người quản lý có tài sẽ giúp cho doanh nghiệp mau chóng thành công, tạo niềm tin cho công nhân. Cần phải sa thải những người không có năng lực quản lý. Quyền hạn phải đi đôi với trách nhiệm, thù lao thoả đáng, phải có tinh thần đồng đội trong công việc. Cần phải nâng cao tri thức của người lao động, phải thường xuyên tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật. Người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước phải là con người của thời đại mới, phải tự chủ trong doanh nghiệp, luôn tìm tòi nghiên cứu những cái mới và cải tiến những cái cũ, phải là người có khả năng đứng vững trước các biến động bất ngờ, là người luôn vững tin và có ý chí, có tính cầu tiến. Gắn liền mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp với đời sống người lao động và ngày càng hoàn thiện hơn để đáp ứng nhu cầu cung ứng kịp thời và bắt kịp thị hiếu người tiêu dùng. Phải có đội ngũ lao động thâm nhập vào môi trường cung cầu của thị trường tìm hiểu về tâm lý, thị hiếu cũng như khả năng của người tiêu dùng và các đối tác cũng như đối thủ cạnh tranh. Xác định khả năng nội lực của doanh nghiệp để có nhận xét, so sánh đánh giá hoạt động của doanh nghiệp từ đó đưa ra hướng đi đúng cho doanh nghiệp. Tuy nhiên hiện nay chúng ta đang gặp phải một số câu hỏi mà chưa được trả lời một cách thích đáng. Đó là chúng ta đã khai thác hết được các khả năng độc lập và tính sáng tạo hay chưa? Người lao động phải làm gì trong thời đại hiện nay để đuổi kịp bước tiến của nhân loại? Mở cửa hội nhập là thuận lợi hay bất lợi đối với người lao động và đối với doanh nghiệp nhà nước? Xuất phát từ quan điểm con người là trung tâm của xã hội, do đó chúng ta cần quan tâm tới sự nghiệp tăng cường khả năng phòng bệnh của người lao động để họ có thể làm tốt hơn vai trò của mình trong sản xuất kinh doanh. Hỗ trợ cơ chế: Cải thiện công tác tiếp thị, chi phí kiểm soát và tăng cường chi phí tài chính, tự do hoá thị trường. Tạo điều kiện phát huy cơ chế thị trường, thực hiện cơ chế mở có sự giám sát của nhà nước nhằm ngăn chặn kịp thời các trường hợp sai lệch để doanh nghiệp nhà nước luôn thực sự giữ vững vai trò chủ đạo. Xoá bỏ tình trạng đóng cửa độc quyền. Mở rộng và phát triển hơn nữa thị trường hàng hoá, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường kỹ thuật, thị trường thông tin… không ngừng hoàn thiện thị trường dịch vụ. Xây dựng nền kinh tế mở, hình thành thị trường thông suốt trong cả nước gắn với thị trường trong khu vực và trên thế giới, khuyến khích xuất khẩu, tạo điều kiện hơn nữa thu hút nguồn vốn từ nước ngoài và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả. Thực hiện kế hoạch mở từ bên trong lẫn bên ngoài, trong doanh nghiệp chúng ta khuyến khích tích luỹ đầu tư vào sản xuất không nên trông chờ vào nguồn ngân sách, bên ngoài thì phát triển các nền kinh tế ngoài quốc doanh, tạo lòng tin và khuyến khích sự làm giàu chính đáng đúng pháp luật, tạo mối quan hệ hợp tác và cạnh tranh bình đẳng cùng hưởng lợi. Nguồn vốn: Trợ cấp cho doanh nghiệp nhà nước, tạo việc làm, hàng hoá và dịch vụ giá rẻ cho người nghèo Cắt giảm hoặc gia tăng nguồn vốn để thực hiện việc luân chuyển vốn mang lại hiệu quả Quản lý: Nội dung cơ bản của đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, gắn sản xuất với thị trường thông qua tín hiệu giá cả được hình thành theo quan hệ cung cầu, đi đôi với việc tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị kinh tế khác trong môi trường hợp tác và cạnh tranh bình đẳng. Nhà nước quản lý thông qua cơ chế rõ ràng, nghiêm minh kết hợp đúng đắn tính kế hoạch với việc sử dụng quan hệ tiền tệ, sử dụng hợp lý các đòn bẩy kinh tế: giá cả, chính sách tài chính, tín dụng… Công nghệ Chúng ta cần thay đổi những hệ thống máy móc cũ, công nghệ lác hậu thay vào đó là công nghệ tiên tiến, dây chuyển sản xuất hiện đại, phải có sự giám sát để điều tiết ô nhiễm, năng suất đem lại cao hơn, chất lượng sản phẩm đem lại tốt hơn Máy móc thiết bị một phần yếu tố cơ bản tác động tích cực đến năng suất lao động. Để doanh nghiệp có thể tồn tại và cạnh tranh trên thị trường thì điều kiện cần đầu tiên đối với công nghệ của doanh nghiệp nhà nước là gì? Đó là điều chúng ta cần quan tâm hiện nay. 2.2.Cơ chế chính sách: Cần phải cải cách hệ thống tài chính nhất là hệ thống ngân hàng, ngân hàng cần tách khỏi chức năng người thủ quỹ của quốc gia mà thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ là công cụ đắc lực phục vụ cho quá trình chuyển đổi và phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước. Do vậy ngân hàng cần thay đổi tổ chức hoạt động và hệ thống để trở thành một trong những công cụ trong hệ thống quản lý vĩ mô của nhà nước. Ngân hàng phải hoạt động như vai trò của ngân hàng. Cần xoá bỏ cơ chế tập trung vào các ngành công nghiệp, áp đặt ngành sản xuất đối với các doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện để doanh nghiệp nhà nước có quyền tự chủ trong sản xuất, tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, cần tạo điều kiện để giám đốc các doanh nghiệp nhà nước làm quen và thực hiện hành động của nhà doanh nghiệp. Cạnh tranh và khẳng định mình trên thị trường nội địa và thế giới. Chuyển hệ thống giá chỉ đạo của chính phủ sang hệ thống giá cả theo thị trường (loại trừ một số mặt hàng chiến lược như xăng, dầu, xi măng, sắt thép, điện nước, cước vận tải…). Giá cả là giá của thị trường phụ thuộc vào cung cầu. Chính phủ tham gia quản lý với mức độ cần thiết và chỉ tập trung vào những sản phẩm then chốt của nền kinh tế. Đối với tỷ giá cần phải chuyển sang cơ chế thả nổi có sự quản lý của chính phủ. Cần có chính sách hợp lý để giảm lượng tiền mặt lưu thông làm giảm sức ép tổng cầu nhằm kiềm chế giá cả. Giảm thâm hụt tài chính. Các cuộc cải cách tài chính và tiền tệ dẫn tới việc thu và chi hài hoà cũng làm tăng sức ép đối với cải cách các doanh nghiệp nhà nước bằng việc làm rõ gánh nặng thâm hụt tài chính ở các doanh nghiệp nhà nước. Chỉ sử dụng các hợp đồng hoạt động khi chúng liên quan tới những vấn đề cơ bản. Các hợp đồng hoạt động chỉ nên được sử dụng khi chúng chuyển đến những tín hiệu rõ ràng đến cải cách, đưa ra những giải thưởng nếu hoạt động được nâng cao. Việc soạn ra một hợp đồng hoạt động tốt có lẽ không kkhó lắm nhưng vấn đề là ở chỗ chúng thường không thành công khi đối phó với các vấn đề về thông tin, thưởng phạt và cam kết. Nói chung trong các hợp đồng như vậy thì nỗ lực thường được tập trung vào việc theo đuổi hay không theo đuổi. Nới lỏng các hạn chế thương mại, tự do hoá thương mại tạo điều kiện cho các nhà xuất khẩu một vị thế cao hơn trong nền kinh tế và các nhà sản xuất khẩu có thể trở thành người ủng hộ quan trọng đối với cải cách doanh nghiệp nhà nước, đòi hỏi phải có các điều khoản hữu hiệu hơn đối với các loại hàng hoá và dịch vụ mà các doanh nghiệp cung cấp. Dỡ bỏ hàng rào hải quan sẽ làm tăng tiếng nói yêu cầu cải cách doanh nghệp nhà nước. Những người mới vào nhất thiết phải dựa vào dịch vụ các doanh nghiệp nhà nước hay cạnh tranh với các sản phẩm doanh nghiệp nhà nước do đó sẽ tích cực ủng hộ công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước. Đề xướng cải cách trong lĩnh vực tài chính, phát triển hệ thống tài chính bằng cách nâng cao năng lực giám sát và điều tiết, giảm tín dụng có định hướng, hướng sự kiểm soát của chính phủ vào các tổ chức tài chính trung gian, nới lỏng một số hình thức kiểm soát lãi suất. Chính phủ có thể làm cho cải cách doanh nghiệp nhà nước khả thi hơn bằng cách hạn chế sự chống đối cải cách của công nhân và những người khác vốn phụ thuộc vào doanh nghiệp nhà nước. Các hành động này có thể là: Huỷ bỏ các trở ngại cho việc tạo việc làm ở khu vực tư nhân. Lao động ở các doanh nghiệp nhà nước chống lại cải cách là do bộ máy lao động quá dư thừa có thể dẫn tới việc thải hồi bớt một số lao động và không có việc làm thay thế hợp lý. Các nhà hoạch định thực ra có thể làm cho cải cách doanh nghiệp nhà nước được dễ dàng hơn bằng cách nâng cao cơ hội việc làm ở khu vực tư nhân. Các bước thực hiện bao gồm việc bỏ những khoản trợ cấp lãi suất, khuyến khích các chủ doanh nghiệp lấy vốn thay thế lao động và các hình thức điều tiết việc làm phức tạp hạn chế sự phát triển việc làm tư nhân. Tách việc cung cấp dịch vụ xã hội ra khỏi việc làm ở các doanh nghiệp nhà nước. Nâng cao uy tín bằng cách thông báo trước các chương trình, chẳng hạn như thông báo trước các cuộc cải cách kinh tế vĩ mô như đã nêu trên và tuân thủ chặt chẽ chương trình Thiết lập các mối quan hệ trong nước và quốc tế, ban hành và tôn trọng các quy định pháp luật bảo đảm quyền sở hữu về tài sản cố định có thể giúp các nhà đầu tư tin tưởng rằng chính phủ sẽ đảm bảo thực thi các cam kết của mình. Điều tiết giá cả có hiệu quả hơn khi nó cho phép các doanh nghiệp giữ lại một phần lợi nhuận kinh doanh, trong khi đó chuyển một phần sang các nhà tiêu dùng dưới hình thức giá thấp. Việc đặt mức giá dựa trên các nguồn thông tin khác chứ không dựa vào công ty có thể loại bỏ được những cố gắng của doanh nghiệp nhằm thổi phồng giá cả. Việc không thường xuyên kiểm tra giá cả sẽ giúp cho doanh nghiệp cắt bớt các chi phí giữa các cuộc điều chỉnh. Các hợp đồng điều chỉnh đáng tin cậy sẽ làm giảm chi phí cho người tiêu dùng. Nếu đảm bảo cam kết thực hiện đến cùng hợp đồng điều chỉnh thì có thể chính phủ sẽ gặp phải một sự thương lượng khó khăn hơn với các nhà đầu tư. Khi mà hợp đồng điều chỉnh chỉ dựa trên một nghị định của chính phủ hay thiếu các điều khoản cho việc phán xử một cách công bằng các xung đột thì các nhà đầu tư thường đòi hỏi một lợi nhuận cao hơn hay thế độc quyền để bù trừ phần rủi ro mà họ gánh chịu. Thúc đẩy cạnh tranh ở nơi có thể để tạo động cơ khuyến khích cải thiện hoạt động kinh doanh. Các nhà quản lý doanh nghiệp nhà nước chỉ có thể có được những nỗ lực cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp một khi bị đẩy vào thế cạnh tranh. Tuy nhiên cạnh tranh chỉ có hiệu quả khi chính phủ chấm dứt sự bao cấp hay chuyển khoản của mình cho doanh nghiệp và loại bỏ việc cung cấp tín dụng mềm. Ngoài ra cũng nên trao quyền tự quyết cho các nhà quản lý doanh nghiệp để họ có thể thích ứng với cạnh tranh và chịu trách nhiệm trước kết quả. Các nhà quản lý cần có quyền sa thải công nhân, tìm kiếm các nhà cung ứng vật tư có chi phí thấp hơn, chấm dứt các hoạt động không sinh lời và tìm kiếm thị trường mới. Thiếu quyền tự chủ và trách nhiệm các nhà quản lý có thể phản ứng lại với các trở ngại ngày càng tăng bằng cách làm tổn hại tới doanh nghiệp như cắt giảm chi phí bảo dưỡng máy móc và chi phí tiếp thị… Nhằm xoá bỏ những tồn tại trong mối quan hệ quản lý giữa nhà nước với doanh nghiệp nhà nước tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, giúp doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn, chính phủ có thể: Giao chỉ tiêu: Cơ cấu lại tổng thể doanh nghiệp nhà nước theo các ngành kinh tế kỹ thuật, theo quy mô, theo vùng, khu kinh tế, theo loại hình chuyên môn hoá hay kinh doanh tổng hợp. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức có hiệu quả. Chỉ tiêu được giao phải rõ ràng, cụ thể, không mơ hồ và tránh giao nhiều chỉ tiêu gây mâu thuẫn, tránh chỉ tiêu chồng chéo không rõ ràng dẫn tới hiệu quả sẽ không đạt được. Phân biệt giữa chỉ tiêu vì mục tiêu lợi nhuận hay vì mục tiêu phúc lợi xã hội, cần phân biệt giưã doanh nghiệp hoạt động kinh doanh hay hoạt động công ích. Khi chỉ tiêu đề ra cũng cần phải xét đến yếu tố nội lực cũng như ngoại lực của doanh nghiệp. Xoá bỏ các quan hệ nội tại giữa nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, tăng cường quyền tự chủ cho doanh nghiệp dưới sự kiểm tra của nhà nước tuy nhiên nhà nước không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp. Cần phải cắt giảm sự bảo hộ mang tính bao cấp của nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước. Nếu không có tính tự chủ luôn có sự bảo hộ của nhà nước thì dần dần doanh nghiệp sẽ không còn có thính cạnh tranh, công nghệ lạc hậu. Lúc này doanh nghiệp sẽ bị đào thải khỏi thị trường. Do đó nhà nước chỉ bảo hộ đối với các ngành nghề hoạt động thực sự cần thiết. Giảm bớt các thủ tục nhiêu khê, những nguyên tắc lòng vòng làm doanh nghiệp mất cơ hội, gây cản trở hoạt động cho doanh nghiệp.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHIEU QUA HOAT DONG TAI CHINH DNNN.doc
Tài liệu liên quan