Đề tài Hiệu quả quản lý và sử dụng vốn ở Công ty xây dựng thuỷ lợi Hoà Bình

Tiến hành cải thiện hoàn thiện cơ cấu tài sản lưu động. Tài sản lưu động của Công ty luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản của công ty. Năm 1999 nó chiếm tới 62% so với tổng số tài sản. Năm 2000 và 2001 đều chiếm 63% nên tài sản lưu động có một vai trò quan trọng. Doanh nghiệp sử dụng tài sản lưu động càng hiệu quả thì càng có thể thực hiện được nhiều công trình, nghĩa là càng tổ chức được tốt quá trình mua sắm, quá trình sản xuất và tiêu thụ, phân bổ hợp lý các giai đoạn luân chuyển của vốn. Nhìn chung trong 3 năm qua việc sử dụng vốn lưu động của Công ty kém hiệu quả. Nếu như năm 2001 sức sinh lời của vốn lưu động bình quân là 0,005đ thì tài sản cố định là 0,07đ. Tài sản lưu động của Công ty những năm qua thường chiếm tỷ lệ lớn khoảng 62% tổng số tài sản mà trong loại tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn thì khoản phải thu chiếm tỷ trọng lớn, năm 2001 là 43,5% so với tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn điều này có ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động vì Công ty đã bị chiếm dụng vốn. Bên cạnh khoản phải thu chiếm tỷ lệ lớn thì hàng tồn kho chiếm tỷ lệ không nhỏ, năm 1999 là 12,6% so với tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, hơn nữa hàng tồn kho chiếm tỷ lệ ngày càng tăng, năm 2000 là 17,1% và năm 2001 lên tới 31,2% so với tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn. Đây là những khoản không sinh lời mà Công ty vẫn phải mất chi phí cho nó. Tất nhiên đây là do yêu cầu cạnh tranh của thị trường,

doc86 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1368 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hiệu quả quản lý và sử dụng vốn ở Công ty xây dựng thuỷ lợi Hoà Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ời những câu hỏi này chúng ta hãy xem xét những ảnh hưởng sau của doanh thu và vốn lưu động. - Mức thay đổi doanh thu ảnh hưởng tới sức sản xuất vốn lưu động. D 2000/1999 (doanh thu) Mức thay đổi của vốn lưu động ảnh hưởng tới sức sản xuất của vốn lưu động. D 2000/1999 (vốn lưu động) Như vậy, sức sản xuất vốn lưu động của năm 2000 tăng so với năm 1999 là do tác động chủ yếu của doanh thu tăng, doanh thu tăng làm sức sản xuất của vốn lưu động tăng 1,36 đơn vị giá trị còn mức tăng của vốn lưu động làm sức sản xuất của vốn lưu động giảm 0,68 đơn vị giá trị, gộp cả 2 yếu tố này lại ta được mức tăng sức sản xuất của vốn lưu động là 1,36 +(- 0,68) = 0,68 đơn vị giá trị. Điều này chứng tỏ doanh thu tăng nhanh hơn sự tăng của vốn lưu động. Đây là dấu hiệu cho thấy Công ty sử dụng vốn lưu động có hiệu quả hơn. Nhưng sang năm 2001 thì sức sản xuất của vốn lưu động lại giảm mạnh xuống chỉ còn 1,45đ, để xem sự giảm này là do đâu ? tương tự như cách tính trên ta có : Nhìn chung thì doanh thu và vốn lưu động trong năm 2001 đều giảm (như đã trình bày ở phần trên), phần này chỉ xem yếu tố nào giảm mạnh hơn, doanh thu hay vốn lưu động ? lại làm sức sản xuất của vốn lưu động ? - Mức thay đổi của doanh thu ảnh hưởng tới sức sản xuất của vốn lưu động D 2001/2000 (doanh thu ) - Mức thay đổi của vốn lưu động ảnh hưởng tới sức sản xuất của vốn lưu động. D 2001/2000 (vốn lưu động) Như vậy sự giảm của sức sản xuất của vốn lưu động nguyên nhân chính là do sự giảm của doanh thu nhanh hơn sự giảm của vốn lưu động, chính sự giảm của doanh thu của sức sản xuất vốn lưu động gỉam 0,85 đơn vị giá trị còn sự giảm của vốn lưu động làm tăng sức sản xuất của vốn lưu động lên 0,19 đơn vị giá trị. Như vậy cả 2 yếu tố này làm giảm sức sản xuất vốn lưu động là: - 0,85 + 0,05 = - 0,8 đơn vị giá trị. Bên cạnh chỉ tiêu này chúng ta phải xem xét một số chỉ tiêu khác nữa thì mới biết vốn lưu động của Công ty có được sử dụng hiệu quả hay chưa?, chỉ tiêu phản ánh sức sinh lời của vốn lưu động. Đây là chỉ tiêu phản ánh một đồng vốn lưu động bình quân mang lại cho Công ty bao nhiêu đồng lợi nhuận. Sức sinh lời của vốn lưu động năm 1999 Sức sinh lời của vốn lưu động năm 2000 Sức sinh lời của vốn lưu động năm 2001 Qua cách tính trên cho thấy năm 1999 cứ một đồng vốn lưu động mà Công ty bỏ ra thu được 0,005 đồng lợi nhuận. Sang năm 2000 sức sinh lời của vốn lưu động lại giảm xuống chỉ còn 0,003 đồng, năm 2001 sức sinh lời của vốn lưu động lại tăng lên 0,005 đồng ngang bằng với năm 1999 nhưng số vốn lưu động sử dụng của năm 2001 ít hơn năm 1999. Ta hãy xem xét nguyên nhân của sự tăng giảm trên. - ảnh hưởng của lợi nhuận đến sức sinh lời của vốn lưu động. D2000/1999 (lợi nhuận) -ảnh hưởng của vốn lưu động đến sức sinh lời của vốn lưu động D2000/1999 (vốn lưu động) Như vậy năm 2000 sự giảm của sức sinh lời vốn lưu động do cả hai yếu tố, lợi nhuận giảm và vốn lưu động tăng. Lợi nhuận giảm làm sức sinh lời của vốn lưu động giảm 0,001 đơn vị giá trị còn vốn lưu động tăng làm sức sinh lời của vốn lưu động giảm 0,001 đơn vị giá trị, gộp cả hai yếu tố này làm cho sức sinh lời vốn lưu động giảm (- 0,001) +(- 0,001) =- 0,002 đơn vị giá trị. Sang năm 2001 sức sinh lời của vốn lưu động là 0,005 đồng, tăng hơn so với năm 2000 là 0,002 đồng, ta hãy xem xét nguyên nhân nào dẫn đến sự tăng này. -ảnh hưởng sự thay đổi lợi nhuận đến sức sinh lời vốn lưu động D2001/2000 (lợi nhuận) -ảnh hưởng của sự thay đổi vốn lưu động đến sức sinh lời vốn lưu động D2001/2000 (vốn lưu động) Như vậy trong năm 2001 cả sự tăng lợi nhuận và sự giảm của vốn lưu động so với năm 2000 đều làm tăng sức sản xuất của vốn lưu động, xét từng yếu tố thì sự tăng lợi nhuận năm 2001 so với năm 2000 làm cho sức sản xuất của vốn lưu động tăng 0,00135đ, và sự giảm của vốn lưu động làm sức sinh lời vốn lưu động tăng 0,0015đ, cũng có nghĩa rằng sự tăng của lợi nhuận chậm hơn sự giảm của vốn lưu động, gộp cả hai yếu tố này làm tăng sức sinh lời cốn lưu động là 0,00135 + 0,0015 = 0,0028đ Tiếp theo chúng ta xem xét chỉ tiêu suất hao phí của vốn lưu động. Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng doanh thu được tạo ra cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Suất hao phí của vốn lưu động năm 1999 Suất hao phí của vốn lưu động năm 1999 Suất hao phí của vốn lưu động năm 1999 Qua chỉ tiêu trên cho thấy, năm 1999 cứ một đồng doanh thu thì cần 0,63 đồng đồng vốn lưu động, năm 2000 thì một đồng doanh thu tạo ra cần một lượng vốn lưu động ít hơn năm1999 là 0,19 đồng, đến năm 2001 thì một đồng doanh thu được tạo ra lại cần lượng vốn lưu động nhiều hơn hai năm trước đó, sự tăng giảm này do đâu? - Năm 2000 mức thay đổi của vốn lưu động ảnh hưởng tới suất hao phí vốn lưu động D2000/1999 (vốn lưu động) - Mức thay đổi của doanh thu ảnh hưởng tới suất hao phí vốn lưu động D2000/1999 (doanh thu) Vậy nguyên nhân chính của sự giảm suất hao phí vốn lưu động năm 2000 so với năm 1999 là do doanh thu tăng nhanh hơn mức tăng cua vốn lưu động, mức tăng của doanh thu làm suất hao phí vốn lưu động giảm 0,38đ, còn mức tăng của vốn lưu động vẫn làm tăng suất hao phí vốn lưu động lên 0,19đ, kết hợp cả hai yếu tố này gây nên sự giảm của suất hao phí vốn lưu động là 0,19 + (- 0,38) = - 0,19 đ. Sang năm 2001 suất hao phi lại tăng lên, ta xem xét yếu tố nào tác động đến sự tăng này? - Mức thay đổi của vốn lưu động ảnh hưởng đến suất hao phí vốn lưu động D2001/2000 (vốn lưu động) - Mức thay đổi của doanh thu ảnh hưởng đến suất hao phí vốn lưu động D2001/2000 (doanh thu) Như vậy nguyên nhân chính của sự tăng suất hao phí vốn lưu động năm 2001 là do doanh thu giảm, doanh thu giảm làm suất hao phí tăng 0,25đ. Còn sự tăng vốn lưu động làm suất hao phí tăng 0,015đ, kết hợp cả hai yếu tố này ta được mức tăng của suất hao phí là 0,25 +(- 0,015) = 0.24đ. Trên đây chúng ta đã xem xét sự tăng giảm trong cơ cấu vốn lưu động thông qua các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Sự phân tích này cho chúng ta một cái nhìn toàn diện tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động của Công ty trong 3 năm gần đây. Ngoài ra để đánh giá chất lượng, trình độ sử dụng vốn lưu động còn có một chỉ tiêu quan trọng là tốc độ chuyển vốn lưu động. Đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng và hiệu quả kinh doanh nói chung, nếu tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động thì sẽ tiết kiệm được vốn lưu động cả tuyệt đối và tương đối, giảm số ngày chu chuyển gọi là tăng tốc độ chu chuyển. Bảng 08:Bảng tính các chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Đơn vị: Đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1. Doanh thu thuần 3.486.003.460 6.485.808.053 4.052.136.173 2. Vốn lưu động 2.207.115.520 2.887.346.808 2.777.745.231 3. Hệ số luân chuyển (vòng) (1/2) 1,58 2,25 1,46 4. Thời gian một kỳ luân chuyển (ngày/vòng) (360 ngày/3) 277,8 160 246,6 5. Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động (2/1) 0,63 0,44 0,68 Nguồn:Bảng cân đối kế toán, kết quả hoạt động kinh doanh năm 1999,2000,2001 Từ bảng trên cho thấy, hệ số luân chuyển vốn lưu động tăng giảm không đều giữa các năm, năm2000 hệ số luân chuyển nhanh hơn năm 1999 là 0,67 vòng, nhưng sang năm 2001 thì số vòng quay lại giảm so với 2 năm trước, chỉ còn 1,46 vòng, tương ứng với sự tăng giảm này thì thời gian một kỳ luân chuyển cũng thay đổi theo, năm 1999 một vòng quay của vốn lưu động là hơn 277 ngày thì đến năm 2000 chỉ còn 160 ngày trên vòng, đến năm 2001 thì thời gian một kỳ luân chuyển tăng gần 87 ngày so với năm 2000. Xét về hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động thì năm 2000 là có hiệu quả nhất, bởi vì trong năm 2000 để tạo ra một đồng doanh thu chỉ mất có 0,44đ vốn lưu động, thấp hơn năm 1999 là 0,19đ và thấp hơn năm 2001 là 0,24đ. Sau đây chúng ta hãy xem xét sự thay đổi của vốn lưu động và doanh thu ảnh hưởng như thế nào tới tốc độ chu chuyển. - Do số vốn bình quân thay đổi: Thời gian kỳ phân tích * vốn lưu động bình quân Thời gian của một = vòng luân chuyển Doanh thu thuần Từ công thức: Ta có: ảnh hưởng của số vốn lưu động bình quân đến số ngày là: - Do sự chu chuyển thay đổi ảnh hưởng đến số ngày là: Tổng cộng: 69,19 + (- 137,43) = - 68,24 (ngày) Như vậy, tổng số vốn lưu động tăng đã làm tăng thời gian một vòng luân chuyển thêm 69,19 ngày nhưng tốc độ tăng của doanh thu đã rút ngắn thời gian một vòng chu chuyển là 137,43 ngày. Tóm lại, trên đây là tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động của Công ty xây dựng thuỷ lợi Hoà Bình trong 3 năm qua, tiếp theo chúng ta hãy phân tích thành phần thứ 2 cấu thành nên vốn kinh doanh đó là vốn cố định. 2.2.4.5.2. Phân tích tình hình quản lý và sử dụng vốn cố định của Công ty trong 3 năm qua. Quản lý và sử dụng vốn cố định là một trong những nội dung quan trọng của công tác tài chính doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh sự vận động của vốn cố định được gắn liền với hình thái biểu hiện vật chất của nó đó là tài sản cố định. Vì vậy để phân tích vốn cố đinh trước hết chúng ta nghiên cứu tính chất và đặc điểm của tài sản cố định của Công tytrong 3 năm qua. Tình hình tài sản cố định của Công tyđược thể hiện qua bảng sau. Bảng 09: Tài sản cố định của Công tynăm 1999,2000,2001 Đơn vị: Đồng TSCĐ Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Nguyên giá Tỷ trọng (%) Nguyên giá Tỷ trọng (%) Nguyên giá Tỷ trọng (%) 1. Nhà cửa vật kiến trúc 311.362.000 6,04 311.362.000 5,73 311.362.000 5,7 2. Máy móc thiết bị 2.994.678.985 58,19 3.270.376.413 60,22 4.886.506.413 89,9 3. Phương tiện vận tải 1.754.530.000 34,03 1.754.530.000 32,3 138.400.000 2,5 4. Thiết bị dụng cụ quản lý 61.600.000 1,19 61.600.000 1,13 61.600.000 1,13 5.TSCĐ khác 27.000.000 0,52 27.000.000 0,49 27.000.000 0,5 6.Đầu tư dài hạn 5.244.500 0,1 5.744.500 0,1 6.244.500 0,1 TổNG CộNG 5.154.415.485 100 5.430.612.913 100 5.432.112.913 100 Nguồn: Báo cáo tài chính năm 1999,2000,2001 Từ bảng trên cho thấy, năm 1999 nhà cửa vật kiến trúc là 311.362.000đ chiếm 6,04% so với tổng tài sản cố định, sang năm 2000 nhà cửa vật kiến trúc về giá trị tuyệt đối vẫn giữ nguyên nghĩa là Công ty không đầu tư vào loại tài sản này nhưng về tỷ trọng của nó đã giảm 0,4%. Nguyên nhân là do Công ty đầu tư vào máy móc thiết bị làm tăng tổng cộng tài sản cố định. Năm 2000 nguyên giá của tài sản cố định tăng 257.697.428đ so với năm 1999. Năm 2001 cả về giá trị tuyệt đối và tỷ trọng của nhà cửa vật kiến trúc vẫn giữ nguyên so với năm 2000 mặc dù máy móc thiết bị của năm 2001 tăng 1.616.130.000đ so với năm 2000, nhưng phương tiện vận tải lại giảm so với năm 1999 và năm 2000, giảm1.616.130.000đ và chỉ chiếm 2,6% trong tổng số tài sản cố định. Trong khi đó phương tiện vận tải năm 1999 và năm 2000 chiếm tới 34,03% và 32,3%. Về thiết bị dụng cụ quản lý và TSCĐ khác của Công ty trong 3 năm qua hầu như không thay đổi. Như vậy qua bảng tình hình TSCĐ ở trên cho biết Công ty đã đổi mới máy móc thiết bị để thụân tiện cho việc thi công các công trình. Nếu năm 1999 loại này chiếm58,19% so với tổng tài sản cố định thì đến năm 2000 và năm 2001 loại này tăng lên là 60,22% và 89,9%. Có lẽ đây là loại TSCĐ quan trọng nhất để tiến hành thi công và tạo điều kiện thuận lợi trong cạnh tranh trên thị trường hiện nay. Về khoản đầu tư dài hạn: Vẫn chiếm tỷ trọng ít trong TSCĐ, năm 1999 là5.244.500đ chiếm 0,1% tổng tài sản. Tuy năm 2000 và năm 2001 về giá trị tuyệt đối tăng nhưng vẫn chiếm tỷ lệ như nhau và bằng 0,1% tổng tài sản. Trên đây là tổng quát về tình hình TSCĐ của Công ty trong một số năm qua, nhưng để hiểu rõ hơn về TSCĐ thì ta cần phải xem xét thêm tình hình tăng giảm của nó vì đây mới là năng lực hiện có của TSCĐ, do trong quá trình sử dụng thì TSCĐ bị hao mòn dần cả hao mòn hữu hình và vô hình, ta sẽ xem xét bảng sau: Bảng 10: Tình hình tăng giảm tài sản cố định ở Công ty năm 1999,2000,2001 Đơn vị: Đồng TSCĐ Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Giá trị còn lại Tỷ trọng (%) Giá trị còn lại Tỷ trọng (%) Giá trị còn lại Tỷ trọng (%) 1. Nhà cửa vật kiến trúc 233.507.026 13,5 220.256.298 12,7 207.005.570 13,8 2. Máy móc thiết bị 766.532.201 44,5 920.944.942 53,3 1.285.675.475 85,8 3. Phương tiện vận tải 680.502.996 39,5 551.096.153 31,9 0 0 4. Thiết bị dụng cụ quản lý 33.977.000 1,9 27.822.848 1,6 0 0 TSCĐ khác 4.830.000 0,3 2.415.000 0,1 0 0 ĐTDH 5.244.500 0,3 5.744.500 0,3 6.244.500 0,4 TổNG CộNG 1.724.593.723 100 1.728.279.740 100 1.498.925.545 100 Nguồn: Báo cáo tài chính năm 1999,2000,2001 Như vậy năm 1999 tổng giá trị còn lại của TSCĐ là 1.724.593.723đ chiếm 33,45% so với nguyên giá của nó trong năm, tức là giá trị hao mòn của TSCĐ trong năm đó là 3.429.821.762đ, cùng với sự tăng lên của nguyên giá năm 2000 thì giá trị còn lại cũng tăng lên3.686.017đ so với cùng kỳ nẳm trước. Cũng tương tự như sự giảm của TSCĐ năm 2001 so vơi năm 2000 thì nguyên giá cũng giảm là 229.354.195đ. Nguyên nhân của sự tăng giá trị còn lại cung như nguyên giá của TSCĐ năm 2000 so với năm 1999 là do Công ty đã mua sắm mới máy móc thiết bị, nguyên giá là 268.126.000đ và giá trị đã hao mòn của loại tài sản này đến cuối kỳ năm 2000 là 20.735.524đ, còn nguyên nhân của sự giảm nguyên giá cũng như giá trị còn lại của TSCĐ năm 2001 là do năm 2001 Công ty không đầu tư thêm cũng như xây dựng mới TSCĐ trong khi đó thì hàng năm hàng tháng vẫn phải trích khấu hao theo một tỷ lệ nhất định nhằm thu hồi vốn đầu tư. Bên cạnh việc xem xét tình hình TSCĐ của công ty, chúng ta cần phải đi sâu phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định của Công ty trong một số năm qua để biết tình hình sử dụng chúng như thế nào? * Hiệu quả sử dụng vốn cố định của Công ty trong 3 năm qua. Trong những năm qua vốn cố định của Công ty thường chiếm một tỷ lệ nhỏ hơn vốn lưu động trong tổng vốn kinh doanh của Công ty. Năm 1999 vốn cố định chiếm 38% so với tổng vốn kinh doanh, năm 2000 và năm 2001 là 37% và 36%. Tuy vậy chúng ta cần phải đánh giá hiệu quả sử dụng chúng của Công ty như thế nào, trên cơ sở đó có biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn cố định trong thời gian tới. Hiệu quả sử dụng vốn cố định có thể được phản ánh bằng nhiều loại chỉ tiêu khác nhau nhưng trước hết và chủ yếu là các chỉ tiêu sau: - Sức sản xuất của TSCĐ năm 1999 - Sức sản xuất của TSCĐ năm 2000 - Sức sản xuất của TSCĐ năm 2001 Chỉ tiêu trên cho thấy, năm 1999 một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ mà Công ty đã bỏ ra và thu được 0,68 đồng doanh thu thuần. Năm 2000 thì một đồng nguyên giá TSCĐ đầu tư Công ty thu được gấp 1,8 lần so với năm 1999, và năm 2001 thì chỉ tiêu này lại giảm so với năm 2000 là 0,48 đồng. Nguyên nhân nào dẫn đến sự tăng giảm trên ? doanh thu thay đổi hay nguyên giá bình quân TSCĐ thay đổi. - Mức thay đổi của doanh thu ảnh hưởng tới sức sản xuất của TSCĐ. D2000/1999 (doanh thu) - Mức thay đổi của TSCĐ ảnh hưởng tới sức sản của TSCĐ D2000/1999 (TSCĐ) Như vậy sức sản xuất của TSCĐ năm 2000 so với năm 1999 tăng là do sự tăng doanh thu, còn sự tăng của TSCĐ chỉ làm giảm sức sản xuất của TSCĐ là 0,04đ. Sang năm 2001 thì sức sản xuất của TSCĐ giảm so với năm 2000 là 0,48đ, nguyên nhân nào dẫn đến sự giảm này sức sản xuất của TSCĐ, mặc dù sức sản xuất của TSCĐ năm 2001 vẫn cao hơn so với năm 1999 là 0,07đ. - Mức ảnh hưởng của doanh thu đến sức sản xuất của TSCĐ. D2001/2000 (doanh thu) - Mức thay đổi của TSCĐ ảnh hưởng đến sức sản xuất của TSCĐ. D2001/2000 (TSCĐ) Như vậy cả sự giảm của doanh thu và sự tăng của TSCĐ đều làm giảm sức sản xuất của TSCĐ, nhưng sự giảm của doanh thu có ảnh hưởng lớn hơn sự tăng của TSCĐ đến sức sản xuất của TSCĐ, sự giảm của doanh thu làm sức sản xuất của TSCĐ giảm 0,46đ, trong khi sự tăng của TSCĐ chỉ làm cho sức sản xuất của TSCĐ giảm 0,019đ. Nhưng dù sao thì cũng chứng tỏ Công ty sử dụng TSCĐ chưa có hiệu quả, mức doanh thu tăng chậm. Để tránh tình trạng này thì Công ty cần tăng doanh thu lên hơn nữa, tăng hơn mức tăng của TSCĐ thì lúc đó việc sử dung TSCĐ sẽ có hiệu quả hơn. Lợi nhuận gộp Sức sinh lợi của TSCĐ = Nguyên giá bình quân TSCĐ Sức sinh lợi của TSCĐ năm 1999 Sức sinh lợi của TSCĐ năm 2000 Sức sinh lợi của TSCĐ năm 2001 Qua chỉ tiêu sức sinh lợi của TSCĐ trong 3 năm qua cho thấy sức sinh lợi của TSCĐ của Công ty ngày càng giảm. Năm 1999 nếu một đồng nguyên giá TSCĐ tạo ra 0,09đ lợi nhuận gộp thì sang năm 2000 và 2001 là 0,077đ và 0,07đ. Ta hãy xem xét sự giảm này là do đâu? do lợi nhuận giảm hay do nguyên giá TSCĐ tăng? Nhìn vào bảng kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty trong 3 năm qua thì phần lớn là do giá vốn hàng bán tăng. Năm 1999 giá vốn hàng bán là 3.022.643.838đ thì sang năm 2000 giá vốn hàng bán tăng lên là 3.051.813.133đ, so với năm 1999 tăng gấp 1,009 lần. Năm 2001 giá vốn hàng bán còn 3.668.963.030đ chiếm 60,39% so với năm 2000 nhưng doanh thu của năm 2001 chỉ có 4.052.136.173đ, bên cạnh yếu tố giá vốn hàng bán còn: - Mức thay đổi của lợi nhuận ảnh hưởng đến sức sinh lợi của TSCĐ. D2000/1999 (lợi nhuận gộp) - Mức thay đổi của nguyên giá TSCĐ ảnh hưởng đến mức sinh lợi của TSCĐ. D2000/1999 (TSCĐ) Vậy nguyên nhân của sự giảm sức sinh lợi của TSCĐ do cả sự giảm lợi nhuận và sự tăng TSCĐ. Nhưng mức giảm của lợi nhuận làm giảm sức sản xuất cuả TSCĐ , gộp cả hai yếu tố này làm giảm sức sản xuất của TSCĐ là : - 0,01+(- 0,0025) = - 0,0125đ Sang năm 2001 thì sức sản xuất của TSCĐ lại tiếp tục giảm , có phải sự giảm của lợi nhuận hay sự tăng lên của TSCĐ ? Ta hãy phân tích : - Mức thay đổi của lợi nhuận ảnh hưởng đến sức sản xuất của TSCĐ. D2001/2000 (lợi nhuận) - Mức thay đổi của TSCĐ ảnh hưởng tới sức sản xuất của TSCĐ. D2001/2000 (TSCĐ) Điều đó cho thấy sức sản xuất của TSCĐ giảm do cả hai yếu tố, lợi nhuận giảm và TSCĐ tăng. Lợi nhuận giảm làm sức sản xuất của TSCĐ giảm 0,0053đ, và mức tăng của TSCĐ làm giảm sức sản xuất của TSCĐ là 0,00184đ nhưng lợi nhuận giảm làm sức sản xuất của TSCĐ giảm nhiều hơn. Nguyên giá bình quân TSCĐ 3, Suất hao phí cuả TSCĐ = Doanh thu thuần Ngoài 2 chỉ tiêu trên còn một chỉ tiêu quan trọng khác phản ánh hiệu quả sử dụng TSCĐ là: Suất hao phí cuả TSCĐ năm 1999 Suất hao phí cuả TSCĐ năm 2000 Suất hao phí cuả TSCĐ năm 2001 Chỉ tiêu này cho thấy năm 1999 một đông doanh thu thuần mà Công ty thu được có 1,469đ TSCĐ. Năm 2000 số TSCĐ có trong một đồng doanh giảm xuống còn 0,816đ, giảm hơn năm 1999 là 0,653đ, giảm gần 45% so với năm 1999. Năm 2001 TSCĐ có trong một đồng doanh thu lại tăng lên 1,34 đồng, ta hãy tìm nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch trên. Trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi để thực hiện doanh thu năm 2000, trong năm 1999 Công ty cần một lượng TSCĐ là: 1,469 *6.485.808.053 = 9.527.652.030đ Vì vậy năm 2000 Công ty đã tiết kiệm một lượng TSCĐ là: 5.292.514.199 - 9.527.652.030 = - 4.235.157.831đ Nhưng sang năm 2001 thì Công tyđã lãng phí một lượng TSCĐ rất lớn. Năm 2001 để thực hiện doanh thu như năm 2000 thì Công ty cần một lượng TSCĐ là: 0,816 * 4.052.136.173 = 3.306.543.117 Như vậy năm 2001 so với năm 2000 Công ty đã lãng phí một lượng TSCĐ là: 5.430.862.913 - 3.306.543.117 = 2.124.319.796đ Nhưng so với năm 1999 tiết kiệm lượng TSCĐ là: 1,469 * 4.052.136.173 =5.952.588.038đ 5.430.862.913 - 5.952.588.038 = - 521.725.125đ Qua việc phan tích tổng vốn kinh doanh của Công ty và các thành phần cấu tạo nên vốn kinh doanh ta đã biết Công ty trong thời gian qua đã sử dụng vốn như thế nào. Bên cạnh đó chúng ta cũng cần biết thêm trong thời gian qua Công ty đã sử dụng vốn chủ sở hữu ra sao để biêt thêm một đồng vốn chủ sở hữu Công ty bỏ ra thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận? Lãi ròng Hệ số doanh lợi vốn chủ sở hữu = Vốn chủ sở hữu Ta hãy xem chỉ tiêu chi tiết sau: -Hệ số doanh lợi vốn chủ sở hữu năm 1999 - Hệ số doanh lợi vốn chủ sở hữu năm 1999 - Hệ số doanh lợi vốn chủ sở hữu năm 1999 Qua trên cho thấy, năm 1999 một đồng vốn chủ sở hữu mà Công ty bỏ ra đã tạo ra 0,00337đ lãi ròng. Năm 2000 thì kết quả này thu được thấp hơn năm 1999 là 0,00087đ, giảm 25,81%, nguyên nhân chính của sự giảm này là do giá vốn hàng bán năm 2000 tăng mạnh như đã phân tích ở trên. Sang năm 2001 thì chỉ tiêu này đã tăng lên cao hơn cả 2 năm trước đó, tăng 31,2% so với năm 2000 chứng tỏ Công ty sử dụng vốn kinh doanh nói chung và vốn chủ sở hữu nói riêng đã có hiệu quả hơn. Tóm lại, trên đây là tình hình sử dụng vốn của Công ty trong 3 năm qua, mặc dù đó là sự cố gắng của toàn bộ cán bộ công nhân viên Công ty đã làm cho hiệu quả sử dụng vốn trong những năm qua đạt được những thành tích đang khích lệ, đặc biệt hệ số doanh lợi vốn kinh doanh năm 2001 tăng gấp 1,9 lần so với năm 2000, và các chỉ tiêu hiệu quả khác ngày càng cao như đã phân tích. Công ty đã có chỗ đứng trên thị trường khốc liệt hiên nay, có đóng góp đáng kể cho ngân sách. Tuy vậy trong quá trình hoạt đông sản xuất kinh doanh vẫn còn tồn tại một số nhược điểm nhất định đòi hỏi Công ty cần đưa ra các giải pháp khắc phục để việc quản lý và sử dụng vốn ngày càng có hiệu quả hơn. 2.2.5. Đánh giá tổng quan về hiệu quả sử dụng vốn của Công ty trong ba năm qua 2.2.5.1. Những kết quả đạt được - Thông qua việc phân tích thực trạng quản lý và sử dụng vốn của Công ty cho thấy trong những năm qua Công ty đã đạt được một số kết quả như sau: - Hiệu quả kinh doanh của Công ty trong ba năm qua tuy vẫn không đạt được như kế hoạch đặt ra, nhưng cũng đã có chiều hướng tăng lên, năm 2001 cao hơn năm 2000 là 1,47 lần. Sự tăng lên của hệ số doanh lợi vốn kinh doanh chủ yếu là do hiệu quả sử dụng của vốn lưu động đem lại. - Công ty luôn đảm bảo đời sống và việc làm cho hơn 100 lao động với mức thu nhập năm sau cao hơn năm trước. - Lãi ròng của Công ty tăng giảm không đều giữa các năm. Năm 1999 là 7.516.352đ thì sang năm 2000 lãi ròng của Công ty giảm xuống còn 6.366.830đ và năm 2001 khoản này lại tăng lên hơn cả hai năm trước đó, tăng 32,5% so với năm 2000, 12,2% so với năm 1999. Đây là sự cố gắng nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên Công ty trong những năm qua. Nguyên nhân là do Công ty đã thực hành tiết kiệm nguyên vật liệu, giảm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Nếu như hai loại chi phí này năm 1999 là 355.414.369đ thì sang năm 2000 là 348.010.472đ và năm 2001 giảm xuống còn33.192.440đ. - Nộp ngân sách của Công ty ngày càng tăng, chủ yếu là thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp , lên tới hàng trăm triệu đồng. - Công tác huy động vốn: Công ty đã huy động được một lượng vốn lưu động khá lớn, vay ngắn hạn năm 1999 là 897.137.301đ, năm 2000 là 798.148.089đ và năm 2001 lên tới 996.577.760đ. Ngoài ra Công ty còn đi chiếm dụng được một lượng vốn lớn phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Điều đó chứng tỏ Công ty được bạn hàng, các tổ chức tín nhiệm. - Trong những năm qua ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ công nhân viên Công ty đã không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần làm việc, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Công ty đã tổ chức linh hoạt cơ cấu vốn. Dùng vốn ngắn hạn để đầu tư vào mục đích dài hạn. Điều này đã làm giảm chi phí sử dụng vốn làm cho lợi nhuận của Công ty năm sau cao hơn năm trước. Đó là một thành tích đáng khích lệ rất quan trọng đối với Công ty. Bên cạnh những kết quả đạt được Công ty còn có một số tồn tại. 2.2.5.2. Những tồn tại - Công tác thu hồi công nợ: Qua phân tích ở trên cho thấy, công tác thu hồi công nợ của Công ty những năm qua còn quá yếu kém, không hiệu quả. Điều đó làm cho một lượng vốn rất lớn bị khách hàng chiếm dụng, không có khả năng sinh lời. Năm 1999 khoản phải thu chiếm 45,6% so với tổng tài sản và 73,8% so với tài sản lưu động. Năm 2000 và năm 2001 tương ứng là 41%, 64,9% và 27,8% 43,9%. Trong khi vốn của mình bị chiếm dụng thì Công ty lại phải bỏ ra chi phí sử dụng vốn để đi vay đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh. Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh của Công ty. - Doanh thu: Năm 2000 doanh thu của Công ty đã tăng gần 1,9 lần so với năm 1999, nhưng năm 2001 doanh thu không những không tăng mà còn giảm hơn năm 2001 là2.433.671.880đ, giảm 37,5%. Điều đó chứng tỏ công tác sản xuất xây lắp, tìm kiếm công trình còn yếu kém. Doanh thu giảm nó có ảnh hưởng rất lớn tới tình hình tài chính của Công ty nói chung và ảnh hưởng tới các chỉ tiêu về hoạt động, khả năng thanh toán. - Khoản phải thu của Công ty luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số tài sản. Năm 1999 khoản này chiếm 45,6%, năm 2000 là 41% và năm 2001 còn 27,8%. Nguyên nhân là do Công ty chưa tổ chức tốt công tác đảm bảo tiến độ thi công, làm cho tiến độ hoàn thành một số hạng mục công trình chậm hơn so với kế hoạch. Chứng tỏ công tác tổ chức sản xuất, tiến độ thi công của Công ty chưa được tổ chức tốt đã làm cho một lượng vốn lớn chưa có thể thanh toán bị ứ đọng gây nên tình trạng lãng phí. - Nợ phải trả của Công ty cũng chiếm một tỷ trọng lớn. Năm 1999 nợ phải trả chiếm 50,65% so với tổng nguồn vốn. Năm 2000 là 52,6% và năm 2001 là 45,5%, mà trong số nợ phải trả thì chủ yếu là nợ ngắn hạn. Năm 2001 nợ ngắn hạn chiếm tỷ lệ cao nhất, chiếm tới 53,5% so với tổng nợ phải trả.Trong khoản nợ phải trả bao gồm nợ người cung ứng, người mua ứng trước, phải trả công nhân viên, thuế và các khoản phải nộp chưa đến hạn thanh toán. Nói chung các khoản này đều là các khoản chiếm dụng hợp pháp. Bởi vậy Công ty đã huy động cao độ hiệu quả sử dụng loại vốn này. Nó đã làm cho đòn bẩy tài chính của Công ty luôn dương, có tác dụng khuếch đại lợi nhuận vốn chủ sở hữu. Bởi vì khi sử dụng loại vốn này Công ty không phải trả chi phí sử dụng vốn. Tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp hiện nay diễn ra tương đối phổ biến, nhưng nói chung khi chiếm dụng vốn của người khác là không tốt. Nó thể hiện tình hình tài chính của Công ty đang gặp khó khăn, thiếu lành mạnh. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của Công ty với khách hàng. Đứng trước thực trạng này đòi hỏi ban lãnh đạo Công ty phải sớm đưa ra những biện pháp chủ động, tìm nguồn vốn ổn định có tính chất vững chắc để đảm bảo cho nhu cầu vốn kinh doanh của Công ty. Có như vậy mới nâng cao hiệu quả của việc quản lý và sử dụng vốn trong thời gian tới. Chương 3 Một số ý kiến đề xuất nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Công ty xây dựng thuỷ lợi hoà bình 3.1. Mục tiêu phát triển của Công ty trong thời gian tới. Trong năm tới Công ty sẽ cố gắng thực hiện tăng giá trị sản lượng, tăng doanh thu so với năm 2001; Đồng thời đẩy mạnh công tác quản lý vật tư thiết bị, các chi phí khác, tổ chức cơ cấu lại công tác thu hồi nợ, nâng cao khả năng thanh toán, tạo ra tình hình tài chính lành mạnh cho Công ty; Khai thác hết công suất máy móc thiết bị để đạt doanh thu cao hơn nữa, nhằm thực hiện vượt định mức kế hoạch, tăng thu nhập cho người lao động… 3.2. Một số ý kiến đề xuất để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Công ty xây dựng thuỷ lợi Hoà Bình. Qua thực tế xem xét tình quản lý và sử dụng vốn cũng như hoạt động kinh doanh của Công ty xây dưng thuỷ lợi hoà bình trong những năm vừa qua chúng ta thấy rằng mặc dù hoạt động trong điều kiện gặp nhiều khó khăn nhưng do sự cố gắng của tập thể cán bộ công nhân viên Công ty trong việc hoạt động kinh doanh, nên đã đạt được một số kết quả nhất định .Công ty đã khẳng định được vị trí của mình trên thị trường, tình hình tài chính ngày càng ổn định, lành mạnh, lợi nhuận thu được hàng năm tuy không cao nhưng đã được cải thiện, tăng tích luỹ nội bộ, đồng thời đời sống của công nhân viên ngày càng được cải thiện . Tuy nhiên đi sâu vào phân tích tình hình thực tế của Công ty cho thấy bên cạnh những kết quả đạt được Công ty còn bộc lộ một số vấn đề tồn tại trong vấn đề hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như việc quản lý sử dụng vốn sản xuất kinh doanh. Vì thế cần phải đưa ra những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế khắc phục những tồn tại hạn chế, nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý sử dụng vốn của Công ty. Từ thực tế trên đây tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần đẩy mạnh việc quản lý và sử dụng vốn của Công ty như sau: - ý kiến1: Giải pháp tạo vốn cho Công ty. Đối với Công ty kinh doanh, vốn là điều kiện cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Giữa vốn và hiệu quả sản xuất kinh doanh có mối quan hệ tương tác với nhau. Việc đảm bảo kịp thời vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của Công ty. Xuất phát từ việc đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong tình hình hiện nay. Vấn đề đặt ra là Công ty phải tạo vốn như thế nào để có thể cung cấp đầy đủ kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty cần nhanh chóng khai thác triệt để mọi nguồn vốn trong nội bộ của mình. Đây là biện pháp dựa vào những điều kiện tiềm năng sẵn có của Công ty để huy động vốn một cách tối đa. Đối với Công ty hiện nay cần phải: - Tăng cường khả năng thu hồi vốn trong thanh toán, các khoản phải thu của Công ty trong năm qua còn quá cao. Cuối kỳ 1999 tổng các khoản phải thu là 2.056.914.133đ chiếm tới 45,6% so với tổng tài sản và 72,8% trong tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn; trong năm 2000 và trong năm 2001 tỷ lệ này này đã giảm nhưng vẫn còn cao vì năm 2000 là 1.923.780.626đ chiếm 46,6% so với tổng tài sản và 64,9% tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, năm 2001 lần lượt là 27,8% và 43,9% . Để giải quyết vấn đề này, Công ty cần phải liệt kê lại các đơn đặt hàng nghiên cứu quan hệ với các chủ công trình, tích cực giải quyết nợ tồn đọng bằng cách thực hiện chiết khấu để nhanh chóng thu hồi vốn càng nhanh càng tốt vì đây là khoản không sinh lời đối với doanh nghiệp nhưng lại mất chi phí vì bên cạnh đó thì Công typhải đi vay vốn ngắn hạn nhiều. Ngoài ra Công ty còn phải theo dõi chặt chẽ các khoản chi tiêu phát sinh tăng quá trình hoạt động kinh doanh. Tìm các biện pháp lập lại cân bằng giữa thu và chi để đảm bảo cho khả năng thanh toán của mình . Kiểm tra thường xuyên đối với tình hình hoạt động của Công ty và thực tốt việc phân tích tình hình sử dụng vốn của Công ty, qua đó có thể đánh giá được tình hình hoạt động của Công ty phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực. - ý kiến2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh: - Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Tiến hành cải thiện hoàn thiện cơ cấu tài sản lưu động. Tài sản lưu động của Công ty luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản của công ty. Năm 1999 nó chiếm tới 62% so với tổng số tài sản. Năm 2000 và 2001 đều chiếm 63% nên tài sản lưu động có một vai trò quan trọng. Doanh nghiệp sử dụng tài sản lưu động càng hiệu quả thì càng có thể thực hiện được nhiều công trình, nghĩa là càng tổ chức được tốt quá trình mua sắm, quá trình sản xuất và tiêu thụ, phân bổ hợp lý các giai đoạn luân chuyển của vốn. Nhìn chung trong 3 năm qua việc sử dụng vốn lưu động của Công ty kém hiệu quả. Nếu như năm 2001 sức sinh lời của vốn lưu động bình quân là 0,005đ thì tài sản cố định là 0,07đ. Tài sản lưu động của Công ty những năm qua thường chiếm tỷ lệ lớn khoảng 62% tổng số tài sản mà trong loại tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn thì khoản phải thu chiếm tỷ trọng lớn, năm 2001 là 43,5% so với tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn điều này có ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động vì Công ty đã bị chiếm dụng vốn. Bên cạnh khoản phải thu chiếm tỷ lệ lớn thì hàng tồn kho chiếm tỷ lệ không nhỏ, năm 1999 là 12,6% so với tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, hơn nữa hàng tồn kho chiếm tỷ lệ ngày càng tăng, năm 2000 là 17,1% và năm 2001 lên tới 31,2% so với tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn. Đây là những khoản không sinh lời mà Công ty vẫn phải mất chi phí cho nó. Tất nhiên đây là do yêu cầu cạnh tranh của thị trường, Công ty có một số ưu đãi với chủ hàng, nhưng liệu ưu đãi có đúng không, trong khi đó Công ty lại đang thiếu vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh doanh, khả năng thanh toán nhanh của Công ty trong những năm qua còn quá thấp. (9% năm 1999, 56% năm 2000 và 54% năm 2001). Thiết nghĩ Công ty phải rút số vốn bị chiếm dụng về càng nhanh nhất càng tốt, để bổ sung vào vốn lưu động, hiện nay tiền mặt của Công ty chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với tổng tài sản lưu động và vốn đầu tư ngắn hạn khoảng 2,9% năm 1999 và 15,2% năm 2000 và 20,7% năm 2001, đồng thời có một vài chính sách ưu đãi cho khách hàng như: Trả tiền và lãi suất đúng thời hạn hạn quy định trong hợp đồng Ưu tiên khách hàng trả tiền trước một phần tiền vừa phải đủ để giữ uy tín cho Công ty. Tuy nhiên bên cạnh chính sách chiết khấu thì Công ty cần phải xem xét các yếu tố như: Giá bán sản phẩm hàng hoá Các chi phí phát sinh thêm do việc tăng các khoản nợ Thời gian thu hồi các khoản nợ Dự đoán số nợ phải thu của khách hàng Để nhanh chóng thu hồi nợ, hạn chế việc phát sinh các chi phí không cần thiết, thì Công ty cần có các biện pháp như: Mở sổ theo dõi chi tiết các khoản phải thu, thường xuyên đôn đốc để thu hồi các khoản đó đúng thời hạn. Có các biện pháp phòng ngừa rủi ro, không để các khoản thu khó đòi xảy ra như nghiên cứu kỹ khách hàng trước khi làm hợp đồng, yêu cầu đặt cọc… Có chính cách tín dụng đúng đắn hợp lý đối với khách hàng Có biện pháp cứng rắn đối với khách hàng thanh toán chậm so với thời gian hợp đồng đã ký kết như tính lãi suất bằng với lãi suất quá hạn của các ngân hàng thường áp dụng. Tóm lại: Để việc tổ chức và sử dụng vốn lưu động đạt được hiệu quả kinh tế cao thì Công ty cần rút nhanh khoản vốn bị khách hàng chiếm dụng, bổ sung vào vốn lưu động, đẩy nhanh vòng luân chuyển vốn đem lại lợi nhuận lớn hơn, đồng thời giải quyết triệt để vốn dây dưa trong thanh toán, hạn chế tối đa hiện tượng vốn bị chiếm dụng nhiều như hiện nay để làm được điều này Công ty cần: Nghiên cứu, đánh giá đúng đắn các khoản phải thu của mình đang bị khách hàng chiếm dụng, xem xét khả năng thu hồi công nợ. Bởi vì các khoản phải thu là bộ phận cấu thành nên vốn lưu động. Công ty chỉ xác định được số vốn thực tế có để sử dụng khi đánh giá đúng được công tác thu hồi công nợ của mình. Nếu trên thực tế có phát sinh thêm nhu cầu vốn thì Công ty cần chủ động cung ứng kịp thời đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục. Ngoài ra việc xác định nhu cầu, lập kế hoạch huy động và sử dụng vốn lưu động nhất thiết phải dựa vào sự phân tích tính toán các chỉ tiêu kinh tế tài chính của kỳ trước, kết hợp với những tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tăng cường trong thời kỳ tới. - Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. Tài sản cố định là bộ phận chủ yếu cấu thành nên vốn cố định của Công ty. Do vậy để việc quản lý vốn cố định đạt hiệu quả thì cần phải quản lý tốt tài sản cố định Quản lý tốt tài sản cố định có nghĩa là phải vận dụng tối đa công suất của nó trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tránh những hiện tượng hao mòn vô hình rất dễ xảy ra trong điều kiện phát triển khoa học kỹ thuật mạnh mẽ như hiện nay. Đồng thời phải thanh lý những tài sản cố định không còn sử dụng được. Quản lý và sử dụng vốn cố định là một nội dung quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của công ty. Điều đó không chỉ có ý nghĩa quyết định tới năng lực sản xuất kinh doanh mà còn do việc sử dụng vốn thường gắn liền với hoạt động đầu tư dài hạn, thu hồi vốn chậm và dễ gặp rủi ro. Thứ nhất: Công ty cần phải xác định được nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản cố định đã được thẩm định để lựa chọn và khai thác các nguồn vốn đầu tư phù hợp. Công ty có thể khai thác nguồn vốn từ nhiều nguồn khác nhau để đầu tư vào tài sản cố định: như từ nhân sách Nhà nước, vay dài hạn của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, liên doanh liên kết… Tuy nhiên mỗi nguồn đều có những ưu và nhược điểm riêng. Bởi vậy Công ty cần phải xem xét kỹ lưỡng từng nguồn sao cho phù hợp với khả năng của doanh nghiệp mình, tận dụng tối đa những ưu điểm của những nguồn huy động. Khi khai thác các nguồn vốn đầu tư Công ty có thể dựa vào một số yếu tố sau. - Khả năng ký kết các hợp đồng liên doanh với các Công ty khác - Khả năng huy động vốn vay dài hạn từ các ngân hàng và tổ chức tín dụng - Các dự án kinh tế kỹ thuật đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Thứ 2: Quản lý và sử dụng vốn cố định. Vốn cố định của Công ty có thể được sử dụng để mua sắm các tài sản cố định hữu hình và vô hình, đầu tư dài hạn. Công ty cần thực hiện đúng các quy chế quản lý đầu tư và xây dựng tốt khâu chuẩn bị đầu tư, lập và thẩm định dự án đầu tư để tránh các hoạt động đầu tư kém hiệu quả. Quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả bao gồm cả việc bảo toàn tài sản cố định, hơn nữa Công ty còn phải phát triển được vốn cố định sau mỗi kỳ kinh doanh. Đặc điểm của tài sản cố định là tham gia vào nhiều kỳ kinh doanh song vẫn giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu, còn giá trị lại dịch chuyển dần vào giá trị sản phẩm. Vì vậy bảo toàn vốn cố định luôn bao gồm hai mặt: hiện vật và giá trị.Trong đó bảo toàn về mặt hiện vật là tiền đề để bảo toàn vốn cố định về mặt giá trị. Bảo toàn vốn cố định về mặt hiện vật không chỉ giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của tài sản cố định mà quan trọng hơn là duy trì thường xuyên năng lực sản xuất ban đầu của nó. Cũng có nghĩa là trong quá trình sử dụng Công ty phải quản lý chặt chẽ không làm mất mát tài sản cố định thực hiện đúng quy chế sử dụng, bảo dưỡng, sửa chữa nhằm duy trì và nâng cao năng lực hoạt động của tài sản cố định . Bảo toàn vốn cố định về mặt giá trị là phải duy trì được thời điểm bỏ vốn đầu tư ban đầu, bất kể sự biến động giá cả, tiến bộ khoa học kỹ thuật…Công ty không chỉ duy trì được sức mua mà còn mở rộng được quy mô vốn thực chất đầu tư ban đầu thì Công ty phát triển được vốn cố định của mình. Để bảo toàn và phát triển vốn cố định, Công tycần đánh giá đúng các nguyên nhân dẫn đến tình trạng không bảo toàn được vốn cố định để có biện pháp xử lý thích hợp. Có thể nêu ra một số biện pháp chủ yếu sau: - Phải đánh giá đúng giá trị của tài sản cố định, tạo điều kiện phản ánh chính xác tình hình biến động của vốn cố định, quy mô vốn phải bảo toàn, điều chỉnh kịp thời giá trị của tài sản cố định để tạo điều kiện tính đúng, tính đủ, chi phí khấu hao, tránh tình trạng mất vốn cố định. Hiện nay Công ty đang áp dụng phương pháp khấu hao theo phương pháp tuyến tính cố định, phương pháp này có ưu điểm là giá cả ổn định nhưng có nhược điểm là không phản ánh đúng sự hao mòn thực tế cả hao mòn hữu hình và vô hình. Theo cách này có thể tránh đựơc trường hợp thấp hơn hoặc cao hơn mức hao mòn thực tế, nếu đánh giá thấp hơn thì sẽ không đảm bảo thu hồi vốn khi hết thời gian sử dụng , còn nếu đánh giá cao hơn thì sẽ làm tăng chi phí một cách giả tạo…. Vì vậy, Công ty cần phải xem xét cụ thể mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá sản phẩm đầu ra để có chính sách khấu hao phù hợp như khấu hao nhanh để đảm bảo thu hồi vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh . Cần quan tâm đổi mới trang thiết bị phù hợp với nhu cầu thụ trường. Trong thời gian qua Công tymới quan tâm đến máy móc thiết bị. Đây là loại tài sản cố định cần trực tiếp cho thi công công trường. Nếu năm 2000 tỷ lệ máy móc thiết bị trên tổng tài sản cố định là 60,3 % thì sang năm 2001 là 90,1%. Còn lại các tài sản cố định khác như nhà cửa vật kiến trúc, phương tiện vận tải, hoặc thiết bị dụng cụ quản lý… thì Công ty chưa chú trọng đầu tư. Có lẽ đây là những bất cập về sự đầu tư đồng bộ. Chẳng hạn phương tiện vận tải rất cần trong thi công nhưng Công ty không đầu tư, trong khi đó thì các loại tài sản cố định đều giảm dần giá trị ngay cả khi nó không sử dụng, năm 2001 một số loại tài sản cố định như phương tiện vân tải, thiết bị dụng cụ quản lý, tài sản cố định khác đều đã khấu hao hết nên giải pháp cho trường hợp này là Công ty cần phải đầu tư sao cho hợp lý, đồng bộ… Thực hiện tốt chế độ sửa chữa, bảo dưỡng tài sản cố định định kỳ tránh tình trạng trong quá trình thi công bị hỏng hóc sẽ làm gián đoạn quá trình thi công. Cần phải khắc phục và đổi mới hơn nữa trong công tác quản lý và sử dụng vốn của Công ty, cụ thể Công ty cần có sự quản lý chặt chẽ hơn nữa trong việc sử dụng vật liệu, máy móc.. để có thể tiết kiệm ở mức cao nhất nhưng vẫn đảm bảo chất lượng cho các công trình xây dựng. Tăng thêm uy tín góp phần thắng lợi trong công cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay. - Một số chỉ tiêu về hiệu suất kinh tế còn chưa đạt, hoặc đạt chưa cao, công nợ còn tồn đọng lớn, Công ty cần có kế hoạch và đôn đốc việc thanh quyết toán đảm bảo vốn và chủ động trong sản xuất kinh doanh. - Công ty còn nhiều lãng phí trong việc sử dụng máy thi công, tỷ suất đầu tư vào tài sản cố định chưa cao, tỷ xuất thanh toán còn thấp, nguồn vốn nợ ngắn hạn còn tồn đọng nhiều. Công tác quản lý phải luôn luôn có những chiến lược kinh doanh hợp lý hơn, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế đem lại nguồn thu nhập lớn cho Công ty. - ý kiến 3. Tổ chức tốt công tác thu hồi tiền hàng, cải thiện tình hình thanh toán công nợ của Công ty. Qua phân tích ở bảng 05 cho thấy, vốn lưu động của Công ty đang bị khách hàng chiếm dụng với số lượng rất lớn. Cuối kỳ năm 1999 là 73,8%, năm 2000 là 64,9% và năm 2001 là 43,9% vốn lưu động hiện có của Công ty. Điều đó cho thấy công tác thu hồi công nợ thanh toán tiền hàng còn rất nhiều tồn tại chưa hiệu quả cần phải sớm khắc phục. Công ty chưa áp dụng các biện pháp khuyến khích đối với khách hàng như: Chiết khấu, giảm giá…Bởi vậy đã làm cho thời gian một kỳ luân chuyển vốn lưu động chậm, năm 2001 là 246,6 ngày/vòng, cao hơn năm 2000 là 86,6 ngày. Nguyên nhân là do Công ty chưa quan tâm đến các điều kiện ràng buộc về mặt thanh toán mà mới chỉ dừng lại ở việc quy định thời hạn thanh toán, chưa có những ràng buộc cụ thể về kỷ luật thanh toán khi khách hàng vi phạm kỷ luật thanh toán. Để khắc phục tình trạng này trong thời gian tới Công ty cần áp dụng các biện pháp sau: Trước khi ký hợp đồng với khách hàng Công ty cần phải xem xét kiểm tra tình hình tài chính của khách hàng, đặc biệt là những hợp đồng của những công trình lớn, giá trị hợp đồng cao. Công ty có thể từ chối tham gia dự thầu, ký kết hợp đồng với những khách hàng có khả năng tài chính yếu kém, nợ nần dây dưa.. -Trong các hợp đồng ký kết mới Công ty cần phải quy định rõ không chỉ ở phương thức thanh toán mà còn phải đưa ra một số các biện pháp cứng rắn hơn khi khách hàng vi phạm kỷ luật về thời gian thanh toán thông qua lãi suất phạt nếu khách hàng nợ quá hạn tới từng thời điểm cụ thể. Điều đó sẽ buộc khách hàng phải có trách nhiệm một cách đầy đủ nghiêm túc các điều khoản hai bên đã cam kết trong hợp đồng. - Công ty cần đưa vào áp dụng các hình thức khuyến khích khách hàng thanh toán tiền hàng như giảm giá hàng bán, chiết khấu bán hàng để khuyến khích khách hàng thanh toán sớm tiền hợp đồng đã nhiệm thu. Hạn chế việc thanh toán chậm, nợ nần dây dưa. Để xác định mức chiết khấu cho hợp lý, phù hợp với từng thời điểm, thời gian khách hàng thanh toán tiền hàng thì Công ty cần phải dựa vào lãi suất vay ngân hàng mà Công ty sẽ phải đi vay nếu khách hàng không thanh toán sớm. Bởi vậy việc giảm giá chiết khấu cho khách hàng một tỷ lệ nhất định trên tổng số tiền hàng sao cho tỷ lệ đó nhỏ hơn so với chi phí mà Công ty bỏ ra để có được một lượng vốn tương ứng với số tiền thanh toán, làm như vậy Công ty vẫn có lợi hơn là để cho khách hàng nợ một thời gian và trong thời gian đó Công ty lại phải bỏ ra chi phí hoạt động vốn phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Thật vậy trong năm qua do khách hàng chiếm dụng vốn quá lớn dẫn tới Công ty đã phải đi vay rất nhiều để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh cụ thể cuối kỳ năm 2001. Công ty có khoản nợ ngắn hạn lên tới 996.557.760 đ, chiếm 53,5% tổng nợ phải trả của Công ty, cao hơn năm 2000 là 99.440.459 đ. Đối với những khoản nợ cũ thì Công ty cần phải theo dõi từng đối tượng thời gian thanh toánh để xắp xếp chúng theo từng loại đối tượng để theo dõi. Công ty cần thu hồi dứt điểm các khoản nợ này nếu họ không chịu thanh toán nợ đến hạn thì Công ty có thể dùng tài sản thế chấp của họ để thanh lý thu hồi nợ, đòi nhà bảo lãnh (nếu có) sau khi áp dụng tất cả các biện pháp trên mà vẫn chưa thu hồi vốn thì điều cần thiết là Công ty phải nhờ đến sự can thiệp của pháp luật. Cụ thể Công ty nên phân loại nợ phải thu và lập bảng để thu từng loại nợ phải thu ứng với các giải pháp thu nợ thích hợp. Đối với những khoản nợ trong thanh toán thì Công ty cần chuẩn bị tốt chứng từ khi đến hạn thanh toán, nhắc nhở đôn đốc khách hàng. Đối với nợ đến hạn thanh toán thì Công ty nên dùng các biện pháp có tính tự nguyện như cho người đến tận Công ty của họ để nhắc nhở. Còn đối với nợ quá hạn thì Công ty nên dùng các biện pháp mạnh có tính cường chế như sự can thiệp của pháp luật. Đứng trước tình hình công nợ tình hình tài chính của Công ty như hiện nay hơn bao giờ hết Công ty cần thiết lập quỹ dự phòng phải thu khó đòi, việc này trước đây Công ty chưa làm được. Như đã phân tích ở trên cho thấy các khoản phải thu của Công ty là rất cao, năm 2001 là 43,9% vốn lưu động cho nên đây là việc rất cần thiết bởi vì dù Công ty có thận trọng đến đâu trong quá trình đưa ra các quyết định phục vụ sản xuất kinh doanh. Song trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh chịu ảnh hưởng rất nhiều của các yếu tố rủi ro, rủi ro có thể xảy ra với mọi doanh nghiệp bất cứ lúc nào do vậy. Việc phát sinh các khoản phải thu khó đòi là điều rất có thể xảy ra bởi những lý do chủ quan và khách quan của khách hàng. Khi đó xây dựng quỹ dự phòng tài chính có thể bù đắp cho các khoản nợ khó đòi, giúp Công ty tránh được những khó khăn về tài chính, những ảnh hưởng xấu đến tình hình tài chính của Công ty. - ý kiến 4. Giảm chi phí, hạ giá thành. Giảm chi phí hạ giá thành sản phẩm nó sẽ giúp sản phẩm của Công ty có thể chiến thắng trong cạnh tranh tranh giành thị trường. Đó là một trong những khó khăn lớn của Công ty trong những giải pháp giúp Công ty có thể dễ dàng thắng thầu hơn, từ đó góp phần tăng tốc độ luân chuyển vốn. Nó sẽ tạo điều kiện cho Công ty giảm bớt được một lượng vốn lưu động bỏ vào sản xuất hoặc có thể mở rộng quy mô mà không nhất thiết phải huy động vốn, bởi vì giảm được chi phí, hạ giá thành Công ty sẽ tiết kiệm được chi phí về nguyên vật liệu … chi phí quản lý, do đó Công ty vẫn có thể sản xuất được khối lượng như cũ mà lại giảm bớt được một lượng vốn lưu động không cần thiết. Để giảm được chi phí hạ giá thành Công ty cần thực hiện tốt các biện pháp sau. Trong thực tế do khả năng hạn hẹp về vốn, do đó Công ty chưa có thể trang bị đầy đủ máy móc vào thi công mà vẫn phải thuê ngoài, trong trường hợp lựa chọn thuê máy thi công Công ty cần căn cứ vào tình hình cụ thể công việc, kế hoạch thi công để xác định thời gian thuê dài hạn hay theo ca. Cụ thể là đối với những việc cần làm bằng máy ít thời gian thi công ngắn thì tốt hơn là thuê theo ca. Giá thuê máy được căn cứ trên mặt bằng giá chung và có sự điều chỉnh linh hoạt sao cho hai bên cùng có lợi. Còn khi công việc thi công lớn phải làm bằng máy, thời gian thi công dài và có tính liên tục trong thi công thì Công ty nên thuê máy dài hạn. Như vậy sẽ mang tính chủ động trong thi công, lại tiết kiệm được chi phí, đầu tư thêm máy móc thiết bị hiện đại để giảm định mức tiêu hao nguyên bật liệu, tăng năng suất lao động. Bởi vì hiện nay phần lớn các máy móc thiết bị của Công ty đều đã cũ và lạc hâụ, năng suất thấp, mức tiêu hao lớn làm tăng giá thành sản phẩm, giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Việc đầu tư đổi mới máy móc thiết bị sẽ giúp Công ty khắc phục được vấn đề này. Việc này đòi hỏi Công ty phải có một lượng vốn lớn để làm được điều này Công ty cần: - Sắp xếp lại lao động một cách hợp lý trong sản xuất thi công, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân. Đối với công nhân theo hợp đồng để thuê ngoài thì Công ty nên căn cứ vào thời gian thi công của từng công trình để xác định thời gian hợp đồng. Công tycũng nên thuê lao động này ở nơi có công trình có nghĩa là công trình thi công ở đâu thì thuê lao động hợp đồng ở đó. Làm như vậy Công ty có thể linh hoạt hơn trong việc điều chỉnh hợp đồng lao động và để thu được lao động rẻ hơn. - Bố trí các khâu sản xuất, tổ chức sử dụng vốn hợp lý, hạn chế sự lãng phí nguyên vật liệu, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho việc chủ động mua sắm vật tư, tránh tổn thất cho sản xuất như ngừng việc do thiếu nguyên vật liệu… Kết luận Nâng cao hiệu quả và sử dụng vốn là một vấn đề mang tính thời sự cấp bách có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp trong thị trường hiện nay . Là một đơn vị hoạch toán kinh doanh độc lập hoạt động trong cơ chế thị trường, Công ty xây dựng thuỷ lợi Hoà Bình tồn tại và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp khác. Điều này đòi hỏi Công ty cần phải tích cực chủ động phấn đấu nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác quản lý và sử dụng vốn kinh doanh, bảo toàn và phát vốn làm cho đồng vốn không ngừng sinh sôi nảy nở, duy trì và phát triển năng lực sản xuất, đồng thời nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên Công ty. Trong những năm vừa qua Công ty đã có nhiều tích cực phấn đấu trong hoạt động sản xuất kinh doanh, từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Tuy nhiên hiệu quả quản lý và sử dụng của Công ty vẫn còn ở mức thấp. Do vậy để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên trong Công ty, tăng mức đóng góp cho ngân sách và có tích luỹ để tái sản xuất mở rộng, Công ty xây dựng thuỷ lợi Hoà Bình cần phải xem xét thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu đã được trình bày ở trên. Do trình độ hiểu biết và thời gian nghiên cứu có hạn nên khoá luận của tôi chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Tôi mong muốn nhận được ý kiến đóng góp chân thành của các thầy cô, ban lãnh đạo, các cô chú phòng tài chính kế toán của Công ty cùng toàn thể các bạn đọc để đề tài nghiên cứu của tôi thêm được hoàn thiện. Tài liệu tham khảo Charles J. Woelfel, Phân tích hoạt động tài chính ở các doanh nghiệp, NXB khoa học và kỹ thuật, 1991 TS. Vũ Duy Hào, Đàm Văn Huệ, Phạm Long, Quản trị tài chính doanh nghiệp, NXB thống kê, 2000 PGS.PTS Vũ Phán, Kinh tế các ngành sản xuất vật chất, NXB giáo dục,1996 Nguyễn Hải Sản, Quản trị tài chinh doanh nghiệp, NXB thống kê, 1996 Nguyễn Thị Minh Tâm, Phân tích hiệu quả sử dụng vốn trong ngành công nghiệp dệt Việt Nam, luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân, 1999 PTS Lê Văn Tầm, Quản lý doanh nghiệp công nghiệp, NXB đại học và giáo dục chuyên nghiệp,1992 Giáo trình Phân tích hoạt động kinh doanh, NXB thống kê, 2001 Báo cáo tài chính của Công ty xây dựng thuỷ lợi Hoà Bình năm 1999,2000,2001

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0122.doc
Tài liệu liên quan