Thông qua việc đánh giá hiệu quả sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ trong thời gian qua chúng ta đã thấy tác dụng to lớn mà chính sách tiền tệ và các công cụ của nó mang lại. Đó là một nền tiền tệ ổn định và lành mạnh, kiềm chế và kiểm soát được lạm phát, nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và hơn nữa là chỉ số giá tiêu dùng đã được ổn định.
Hệ thống các công cụ chính sách tiền tệ ngày càng phát triển và đang trên đường tiến tới một hệ thống các công cụ hoàn thiện và đồng bộ. Hiệu quả sử dụng các công cụ trên là rất lớn, thể hiện sự phát triển vững mạnh của NHNNVN và của toàn bộ hệ thống ngân hàng trong tiến trình đổi mới đất nước.
25 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1445 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hiệu quả sử dụng công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thập kỷ 90 và những năm đầu thế kỷ 21, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạn còn dài hạn chúng luôn phù hợp với nhau. Khi tăng trưởng kinh tế là điều kiện để giá cả ổn định, ngược lại giá cả ổn định sẽ tạo điều kiện để kinh tế ổn định và tăng trưởng.
Thất nghiệp và mục tiêu tăng trưởng không có sự mâu thuẫn cả trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn. Công ăn việc làm cao sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển và ngược lại. Tuy nhiên mối quan hệ này tương đối phức tạp, chúng mâu thuẫn nhau trong ngắn hạn nhưng lại bổ sung nhau trong dài hạn.
Điều cần nghiên cứu ở đây là chính sách tiền tệ phải tìm ra được các giải pháp dung hoà từng mục tiêu trong từng giai đoạn phát triển cụ thể, để vừa kiềm chế lạm phát, nền kinh tế tăng trưởng và đạt được tỷ lệ việc làm cao.
Mục tiêu trung gian
Trong quá trình chỉ đạo chính sách tiền tệ NHTW không thể tác động
trực tiếp vào các mục tiêu cuối cùng vì vậy NHTW phải chọn các mục tiêu trung gian để từ mục tiêu trung gian tác động đến mục tiêu cuối cùng.
Thông qua mục tiêu trung gian NHTW ảnh hưởng đến tổng cầu, từ đó tác động vào mục tiêu cuối cùng. Để trở thành mục tiêu trung gian cần đáp ứng một số chỉ tiêu sau:
Mục tiêu đó phải đảm bảo tiêu chuẩn định lượng: có thể đưa ra dấu hiệu giúp NHTW biết được tác động của mình đúng hay sai để từ đó đưa ra những giải pháp phát huy hay khắc phục những hạn chế.
NHTW có thể kiểm soát được mục tiêu trung gian để điều chỉnh nó cho phù hợp với định hướng của chính sách tiền tệ nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng.
Mục tiêu trung gian phải có liên hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng. Đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất của một mục tiêu trung gian bởi lẽ mục tiêu trung gian chỉ có ý nghĩa khi nó có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu cuối cùng.
Các mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ bao gồm:mức cung tiền tệ (có thể là M1,M2,M3), lãi suất thị trường trung và dài hạn có thể là một mức lãi suất cụ thể, tỷ giá, khối lượng tín dụng . Hiện nay các nước thường sử dụng mức cung cấp tiền tệ hoặc lãi suất thị trường làm mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ.
Với các mục tiêu trung gian nêu trên, NHTW không thể chủ động tác động một cách hoàn toàn vì vậy NHTW phải lựa chọn các mục tiêu hoạt động để chỉ đạo thường xuyên và trực tiếp.
Mục tiêu hoạt động.
Mục tiêu hoạt động là chỉ tiêu được NHTW lựa chọn để sao cho khi
NHTW sử dụng các công cụ điều tiết thì nó ảnh hưởng đến mục tiêu trung gian. Để được lựa chọn là mục tiêu hoạt động thì các mục tiêu đó phải mang tính định lượng, và có thể đo lường được, chỉ tiêu đó phải hết sức nhạy cảm với biến động của chính sách tiền tệ và phải tác động đến mục tiêu trung gian.
Các mục tiêu hoạt động bao gồm: Dự trữ của các ngân hàng thương
mại (R) và lãi suất ngắn hạn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Dự trữ của các ngân hàng thương mại ảnh hưởng trực tiếp đến lượng tiền cung ứng vì thay đổi dự trữ ảnh hưởng đến vốn khả dụng của ngân hàng thương mại do đó ảnh hưởng dến mức cung ứng tiền. Lãi suất ngắn hạn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất thị trường, từ đó tác động ứng.
III. Các công cụ của chính sách tiền tệ.
Công cụ trực tiếp : là công cụ tác động trực tiếp vào khối lượng tiền
trong lưu thông ( hoặc các mức lãi suất trong và dài hạn ). Nó bao gồm:
Lãi suất tiền gửi và cho vay.
Ngân hàng trung ươngcó thể quy định khung lãi suất tiền gửi và cho
vay trên thị trường nhưng thông qua cơ chế điều chỉnh cung cầu tiền tệ. Nếu lãi xuất tiền gửi cao sẽ thu hút được nhiều tiền gửi làm tăng nguồn vốn vay, ngược lại sẽ làm giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín dụng. Khi muốn tăng khối lượng cho vay, NHTW giảm mức lãi xuất cho vay để kích thích các nhà dầu tư vay vốn, khi cần hạn chế đầu tư NHTW ấn định mức lãi suất cao.
Việc ấn định lãi xuất tiền gửi và cho vay có những ưu điểm sau: nó hạn chế được hiệu ứng do mất tính cạnh tranh khi việc cấp giấy phép hoạt động ngân hàng là hạn chế. Hạn chế được việc cho vay có thể không nhằm đúng vào đối tượng có nhu cầu vay nếu thông tin về người vay sơ sài, hoặc giám sát kém hiệu lực. Ngoài ra nó còn giúp cho ngân hàng lựa chọn những dự án cộng tác tốt để cho vay.
Tuy nhiên nó cũng có một số hạn chế sau: việc phân phối nguồn vốn không dựa trên cơ chế cung cầu giá quy định trần có thể lẩn tránh được bằng cách chuyển tiền gửi sang các tài sản có lãi suất tiền tệ hoặc hàng hoá. Trần hoặc sàn có thể mất tính khuyến khích đối với ngân hàng và tăng hoạt động cho vay, cho vay qua các thể chế khác. Ngoài ra biện pháp này làm cho các NHTW mất tính chủ động và linh hoạt trong hoạt động kinh doanh. Mặt khác nó để dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở ngân hàng nhưng lại thiếu vốn đầu tư, tính linh hoạt của thị trường tiền tệ bị suy giảm. Ngày nay biện pháp này ít được sử dụng ở các nước theo cơ chế thị trường bởi trong cơ chế thị trường lãi suất rất nhạy cảm với đầu tư, nó phải được vận động theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường.
1.2Hạn mức tín dụng.
Hạn mức tín dụng là một trong những công cụ can thiệp một cách trực tiếp mang tính hành chính của ngân hàng trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các hệ thống tài chính tín dụng cung ứng cho nền kinh tế đảm bảo mức tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán theo mục tiêu đề ra.
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà ngân hàng trung ương buộc các tổ chức tín dụng phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Mức dư nợ này được quy định cho từng tổ chức tín dụng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của từng tổ chức tín dụng và định hướng cơ cấu đầu tư tín dụng cho nền kinh tế, tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong khoảng thời gian nhất định. Khi sử dụng hạn mức tín dụng là khống chế dư nợ tín dụng của các ngân hàng thương mại từ đó nó quyết định đến lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế vì mỗi khoản cho vay cấu thành dư nợ tín dụng của các ngân hàng thương mại thì tương đương với nó là một lượng ngồn vốn tiền gửi huy động từ đó ảnh hưởng đến tỷ trọng vốn tín dụng so với lượng tiền cung ứng. Khi NHTW tăng mức tín dụng cho nền kinh tế, tăng khả năng tạo tiền qua hệ thống ngân hàng do đó làm tăng lượng tiền cung ứng và ngược lại.
Hạn mức tín dụng có ưu điểm là kiểm soát được tín dụng của các ngân hàng nếu chú ý kiểm soát tiền dự trữ tại NHTW. Công cụ này phát huy hiệu quả trong trường hợp lạm pháp cao do khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tiền cung ứng. Nó là công cụ cứu cánh của NHTW trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng.
Tuy nhiên nó có nhược điểm là làm sai lệch việc phân phối nguồn vốn ngân hàng. Nó mang tính chủ quan kém linh hoạt và không thể thay đổi thường xuyên. việc quy định hạn mức tín dụng có thể han chế việc cho vay, vay của ngân hàng để chuyển sang các thể chế khác. Nó khó thực hiện nếu có quá nhiều ngân hàng và có nguồn vốn nước ngoài vào. Ngoài ra nó còn làm giảm khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại.
NHTW chỉ sử dụng công cụ này khống chế lượng tiền cung ứng trong điều kiện nền kinh tế không sử dụng được các công cụ gián tiếp.
1.3. Tỷ giá.
Tỷ giá được coi là một mục tiêu trung gian nhưng ở Việt Nam nó được coi là một công cụ chính sách tiền tệ.
Tỷ giá hối đoái là tương quan giá trị trao đổi giữa hai đồng tiền, hay chính là giá cả của đồng tiền này được biểu hiện bằng đồng tiền khác.
Tỷ giá có vai trò hết sức quan trọng. Nó tác động đến giá cả tương đối của hàng hoá trong nước và hàng hoá nước ngoài. Khi đồng tiền của một nước tăng giá (tăng trị giá so với đồng tiền khác) thì hàng hoá của nước đó tại nước ngoài trở thành rẻ hơn (giá nội địa tại hai nước giữ nguyên) và ngược lại. Ngoài ra tỷ giá còn có vai trò kích thích và điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu. Thông qua tỷ giá có thể xác định mức độ lỗ lãi, hiệu quả kinh tế trong hoạt động kinh tế đối ngoại, nhà nước có thể kích thích tác động điều chỉnh cơ cấu xuất nhập khẩu trong từng thời kỳ. Tỷ giá còn có vai trò điều tiết thu nhập trong hoạt động kinh tế đối ngoại.
Các nhân tố tác động đến tỷ giá trong dài hạn là mức giá cả tương đối, thuế quan, sự ưa thích hàng nội so với hàng ngoại, năng suất lao động. Trong ngắn hạn, tỷ giá bị tác động bởi sự chênh lệch mức thu nhập kỳ vọng giữa tiền gửi ngoại tệ và tiền gửi nội tệ. Mức tỷ giá cân bằng sẽ thay đổi khi lãi suất của hai đồng tiền thay đổi tương đốivà khi mức tỷ giá kỳ vọng thay đôỉ.
Tỷ giá là một công cụ rất dễ biến động và ảnh hưởng rất lớn đến tình hình xuất nhập khẩu chính vì vậy mà cần có sự can thiệp của NHTW để ổn định tỷ giá. NHTW can thiệp vào tỷ giá một cách trực tiếp trên thị trường ngoại hối trong chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý NHTW thực hiện can thiệp tỷ giá khi nó có xu hướng biến động quá mức thông qua việc tác động đến quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
Ưu điểm của tỷ giá là nó ổn định sự tương quan giữa nội tệ và ngoại tệ góp phần thúc đấy xuất khẩu kiểm soát nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
Hạn chế của tỷ giá là nó luôn biến động, được coi là một yếu tố của trên thị trường nên phụ thuộc vào quan hệ cung cầu của thị trường.
2.Công cụ gián tiếp.
Công cụ gián tiếp là những công cụ tác động vào mục tiêu trung gian thông qua việc điều chỉnh mục tiêu hoạt động.
Dự trữ bắt buộc.
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà tổ chức tín dụng phải gửi tại NHTW để
thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Nó được xác định bằng tỷ lệ % nhất định trên tổn số dư tiền gửi tuỳ theo tính chất và thời hạn mà các tổ chức tín dụng huy động được. Tỷ lệ này gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Những thay đổi trong dự trữ bắt buộc tác động đến cung ứng tiền tệ
bằng cách gây ra thay đổi số nhân cung ứng tiền tệ.một sự tăng lên trong dự trữ bắt buộc làm giảm số tiền gửi được nâng đỡ bởi một mức nhất định của cơ số tiền tệ và dẫn đến thu hẹp cung ứng tiền tệ. Mặt khác một sự giảm xuống của dự trữ bắt buộc dẫn đến một sự tăng lên của cung ứng tiền tệ bởi vì có thể tạo thêm tiền gửi gấp nhiều lần.
Ưu điểm của dự trữ bắt buộc là nó có thể tác động đến tất cả các ngân hàng như nhau và có tác dụng đầy quyền lực đến cung ứng tiền. Nó tác động lên cầu đối với dự trữ nên có thể dự đoán được cầu dự trữ. Tăng yêu cầu dự trữ làm thay đổi dư thừa thanh khoản.
Nhược điểm của dự trữ bắt buộc: dự trữ bắt buộc cao là thuế đánh vào các ngân hàng, do đó có thể làm tăng chênh lệch lãi suất chovay-lãi suất tiền gửi. Công cụ này không thuận tiện cho việc quản lývốn khả dụng và cho việc đạt mục tiêu chính sách tiền tệ vì ngân hàng thụ động trong việc sử dụng.Vì vậy công cụ này thường được sử dụng kết hợp với các công cụ khác nhằm điều chỉnh vốn khả dụng cho các ngân hàng khi cần thiết.
2.2 Chính sách tái chiết khấu.
Chính sách tái chiết khấu được thể hiện thông qua việc NHTW cung ứng vốn tín dụng cho các tổ chức tín dụng. Chính sách tái chiết khấu được thực hiện thông qua cửa sổ tái chiết khấu. NHTW áp dụng lãi suất tái chiết khấu và quy định các điều kiện để tái chiết khấu cho các tổ chức tín dụng.
Công cụ của chính sách tái chiết khấu là lãi suất tái chiết khấu. Đó là lãi suất mà NHTW áp dụng để chiết khấu lại các giấy tờ có giá của các ngân hàng thương mại. Lãi suất tái chiết khấu tác động vào giá tín dụng nên khi lãi suất tái chiết khấu tăng sẽ tác động vào mặt bằng giá vốn đầu vào của ngân hàng thương mại gây áp lực và lãi suất của nền kinh tế sẽ tăng theo dẫn đến thu hẹp khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại dẫn đến hệ số tạo tiền giảm và ngược lại.
Đi kèm với lãi suất tái chiết khấu là hạn mức tái chiết khấu, là quy định mức cho vay tối đa trên cơ sở lãi suất đã quy định để gây ảnh hưởng nguồn vốn mà các ngân hàng thương mại vay. Ngoài ra còn các tiêu chuẩn về thời hạn chủng loại giấy tờ có giá và uy tín của các tổ chức tín dụng.
Ưu điểm của chính sách tái chiết khấu là công cụ linh hoạt nó có hiệu ứng thông báo mạnh có tác động đến nền kinh tế. NHTW với tư cách là người cho vay cuối cùng được coi là cái van toàn cho toàn bộ hệ thống
Hạn chế của chính sách này là nó sẽ không phát huy hiệu quả trong trường hợp khi các điều kiện tái chiết khấu không đảm bảo. NHTW không chủ động trong việc chi phối số tiền tái chiết khấu. Công cụ này chỉ có ý nghĩa tác động một chiều.
ở việt Nam tái chiết khấu nằm trong chính sách tái cấp vốn và nó là một trong ba hình thức của tái cấp vốn.
2.3 Nghiệp vụ thị trường mở.
Nghiệp vụ thị trường mở được NHTW các nước sử dụng như là một công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ thoong qua việc làm thay đổi vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng từ đó gián tiếp làm thay đổi lượng tiền cơ bản theo mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Hoạt động thị trường mở là việc NHTW tiến hành mua bán các trái phiếu do kho bạc hay do chính phủ phát hành và trái phiếu NHTW mà thôi. Sử dĩ như vậy , theo Miskin là nhằm tránh mâu thuẫn quyền lợi và tiêu cực nên NHTW không thực hiện việc mua bán các chứng khoán do khu vực tư nhân phát hành trong thị trường mở. đây cũng là quan điểm chính thống được thừa nhân rộng rãi trên thế giới về hoạt động thị trường mở.
Ưu điểm của nghiệp vụ thị trường mở là thị trường mở được tiến hành liên tục , tạo ra sự linh hoạt thuận lợi cho việc phát triển tiền tệ, nó có tác dụng tức thời.
Nhược điểm của công cụ này là nó yêu cầu phải có nột thị trường thứ cấp phát triển và NHTW phải có một khối lượng lớn tài sản chứng khoán.
Phần ii: hiệu quả sử dụng công cụ chính sách tiền tệ ở việt nam thập kỷ 90 và những năm đầu thế kỷ 21
Ngày 6-5-1951 ngân hàng quốc gia Việt Nam nay là ngân hàng nhà nước Việt Nam (NHNN) được thành lập. NHNN Việt Nam ra đời thực sự là một bước ngoặt lịch sử trong sự phát triển nền tiền tệ –ngân hàng Việt Nam. Từ đó cho đến nay lịch sử phát triển của NHNN Việt Nam được đánh dấu bằng 4 dấu mốc lịch sử sau:
Từ 6-5-1951 đến 1987: hệ thống ngân hàng một cấp. Chức năng
chủ yếu của NHNN lúc bấy giờ là phát hành giấy bạc và quản lý kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng và quản lý tiền tệ.việc thực hiện hệ thống ngân hàng một cấp không thể hiện một cách rõ ràng 2 chức năng chủ yếu chức năng kinh doanh và chức năng quản lý nhà nước các hoạt động ngân hàng, không phát huy hiệu quả vai trò quản lý của NHNN và không đạt được những mục tiêu của chính sách tiền tệ
Chính vì vậy đến năm1988 hệ thống ngân hàng được phân chia
thành hệ thống ngân hàng hai cấp(nghị dịnh53 ngày 26-3-1988)bao gồm NHNN và các ngân hàng chuyên doanh.NHNN lúc này hoạt động với tư cách độc quyền, là cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng và là cơ quan dự trữ ngoại hối của nhà nước. NHNN đã thực sự trở thành một NHTW.
5-1990 pháp lệnh NHNN ra đời thực sự đánh dấu bước đổi mới căn bản trong hoạt động của NHNN.
12-12-1997 luật NHNN Việt Nam ra đời tạo ra khuôn khổ pháp
lý choviệc tiếp tục đổi mới hoạt động ngân hàng trong giai đoạn mới.
Cùng với sự ra đời của 2 pháp lệnh ngân hàng và luật ngân hàng nhà
nước là sự ra đời của các công cụ chính sách tiền tệ. Chúng ra đời đánh dấu tiến trình phát triển và hoàn thiện của NHNN trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế vĩ mô.
I.Sự ra đời và phát triển của các công cụ chính sách tiền tệ.
Hạn mức tín dụng.
Theo khuyến nghị của IMF và xuất phát từ thực tế chưa thể áp dụng
đồng bộ các công cụ gián tiếp, 6 tháng cuối năm 1994 NHNN bắt đầu áp dụng hạn mắc tín dụng và coi đó là một công cụ của chính sách tiền tệ. Đối tượng áp dụng bước đầu là 4 ngân hàng thương mại quốc doanh vì 4 ngân hàng này chiếm hơn 90% tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế. Kết quả đã khống chế được tổng mức cho vay ngắn hạn cả năm 1994 tăng 24%so với cuối năm 1993
Năm 1995, mức tăng tín dụng đối với nền kinh tế cả năm là 37.2% gấp 1,66 lần hạn mức tín dụng cho phép.
Năm 1996 hạn mức tín dụng dự kiến dụ kiến tăng 21%-25% nhưng tổng tín dụng đối với nền kinh tế tăng 40% gấp 2 lần hạn mức tín dụng.
Điều này cho thấy sự điều hành công cụ này chưa có hiệu lực cao và nhu cầu vốn cho nền kinh tế là rất lớn.
Năm 1997, phạm vi tín dụng bị quản lý bởi hạn mức tín dụng từ trên 85% tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế tăng lên trên 95% và số lượng tổ chức tín dụng áp dụng hạn mức tín dụng tăng lên thêm 4 ngân hàng thương mại cổ phần so với năm 1996. Tăng trưởng tín dụng năm 1997 ước gần khoảng 20 %, không đạt mức dự kiến đầu năm là 21-25%, cả 3 quý đầu năm đạt xấp xỉ hoặc không đạt hạn mức tín dụng đề ra. điều nay cho thấy là hạn mức tín dụng thừa so khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế.
Năm 1998, hạn mức tín dụng chỉ còn là chỉ tiêu định hướng, làm căn cứ để điều hành mức tăng trưởng tín dụng đối với các loại hình tổ chức tín dụng, với mức tăng tín dụng thực tế là 17% không đạt hạn mức tín dụng dự kiến đầu năm. Chính vì vậy công cụ hạn mức tín dụng trở nên không cần thiết nữa. Cuối năm 1998 đến nay thì NHNN Việt Nam đã tạm ngừng sử công cụ này.
2. Lãi suất.
Lãi suất được coi là một công cụ hết sức quan trọng của chính sách tiền tệ, có tác động nhanh và mạnh đến thị trường tiền tệ, tín dụng tạo ra các hiệu ứng rõ rệt đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng và tác động đối với nền kinh tế.
Quá trình đổi mới cơ chế lãi suất tín dụng trong thời gian vừa qua bao gồm các giai đoạn sau:
Từ 1988 đến 6-1992: cơ chế lãi suất tín dụng thời kỳ này thể hiện
sự bao cấp về vốn của NHNN đối với nền kinh tế, lãi suất âm (lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất tiền gửi), ngân hàng quy định từng mức lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay với từng loại hình doanh nghiệp, từng nghành nghề và lãi suất phân biệt theo từng thành phần kinh tế.
Từ 6-1992 đến cuối năm 1995: đây là giai đoạn thực hiện cơ chế lãi suất thực dương, lãi suất cho vay bình quân lớn hơn lãi suất tiền gửi bình quân, lãi suất tiền gửi bình quân lớn hon tỷ lệ lạm phát. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể cụ thể thời kỳ trước được thay thế bằng khung lãi suất ( lãi suất cho vay tối đa, lãi suất tiền gửi tối thiểu). Trong phạm vi khung lãi suất của NHNN các tổ chức tín dụng được phép ấn định các mức lãi suất cho vay và tiền gửi cụ thể phù hợp với đặc thù hoạt động kinh doanh và cung cầu vốn từng thời điểm.
Từ 1996đến 7-2000: đây là thời kỳ tiếp tục chính sách lãi suất thực dương nhưng được nới lỏng hơn thời kỳ trước đó. Bằng việc thực hiện cơ chế trần lãi suất cho vay, có áp dụng một số mức trần khác nhaucho khu vực thành thị nông thôn hay các loại hình tổ chức tín dụng trong thời hạn nhất định. Lãi suất tiền gửi bắt đầu được tự do hoá.
Từ 8-2000 đến 30-5-2002: NHNN đã chuyển từ cơ chế điều hành
lãi suất trần cho vay sang cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với lãi suất cho vay ngoại tệ phù hợp với quy định của luật NHNN và luật các tổ chức tín dụng. Đặc biệt từ 6-2001 cơ chế điều hành lãi suất được tiếp tục đổi mới một bước quan trọng , với việc bỏ quy định về biên độ lãi suất cho vay bằng USD, lãi suất cho vay USD nói riêng và lãi suất cho vay ngoại tệ nói chung được hoàn toàn tự do hoá.
Từ 30-5-2002: NHNN đưa ra quyết địnhvề việc thực hiện cơ chế
thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại thay thế cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam.
Dự trữ bắt buộc.
Dự trữ bắt buộc là công cụ được NHNN thiết lập và sử dụng khi
chuyển sang hệ thống ngân hàng 2 cấp.
Công cụ dự trữ bắt buộc bắt đầu được hình thành ngay từ thời kỳ
thực hiện Nghị định 53/HĐBT ngày 26-3-1988 của Hội đồng bộ trưởng. Tại quyết định số 16/NH-QĐ ngày 26-4-1988 của tổng giám đốc NHNN Việt Nam quy định về mức ký gửi vốn (một công cụ gần giống như dự trữ bắt buộc) với mục đích đảm bảo khả năng chi trả cho khách hàng. Các ngân hàng phải ký gửi một mức vốn tối đa là 20% tổng số vốn huy động thực tế của quý trước.
Sau khi có hai pháp lệnh ngân hàng ra đời đã quy định việc áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các ngân hàng như sau :
NHNN có quyền bắt buộc các tổ chức tín dụng duy trì tỷ lệ tối thiểu dự trữ bắt buộc ở mức 10%và tối đa ở mức 35% trên toàn bộ tiền gửi ở tổ chức tín dụng và trong trường hợp cần thiết có thể tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc >35% và phải trả lãi cho mức tăng đó.
6-1992, NHNN xây dựng và ban hành quy chế dự trữ bắt buộc thay thế quy định số 16/NH-QĐ.
2-1994 đến 9-1995 là thời kỳ nới lỏng dự trữ bắt buộc trong đó quy định là cơ cấu dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng được chia làm ba phần:
-Tiền gửi tại NHNN tối thiểu là 55% tổng số tiền gửi dự trữ bắt buộc.
-Tiền mua tín phiếu kho bạc nhà nước tối đa là 15% tổng số tiền dự trữ bắt buộc.
-Tiền mặt tại quỹ và ngân phiếu thanh toán tại tổ chức tín dụng có giá trị lưu hành tối đa là 30% tổng số tiền phải dự trữ bắt buộc.
Đối với tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 13%. Đối với tiền gửi có kỳ hạn đến 12 tháng là 7,5%.
Việc thực hiện dữ trữ bắt buộc có tiến bộ và dần đi vào nề nếp. Số tổ chức tín dụng thực hiện quy định dự trữ bắt buộc tăng dần đến tháng 9-1995 đã có 25/46 tổ chức tín dụng thực hiện dự trữ bắt buộc.
Thời kỳ 9-1995 đến 1997: cơ chế dự trữ bắt buộc có những thay đổi sau:
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng là 10% tính cho số dư bình quân các loại tiền gửi và huy động tổ chức tín dụng bằng Việt Nam đồng và ngoại tệ không kỳ hạn đến 12 tháng.
Cơ cấu dự trữ bắt buộc gồm tiền dự trữ bắt buộc gửi tại NHNN tối thiểu là 70% tổng số tiền dự trữ bắt buộc là tiền mặt và ngân phiếu thanh toán còn giá trị lưu hành tại tổ chức tín dụng.
1-12-1997: Thống đốc NHNN ban hành quy chế dự trữ bắt buộc
đối với các tổ chức tín dụng kèm theo quyết định số 396/1997/QĐ-NHNN.
- Dự trữ bắt buộc tính trên cả tiền gửi có kỳ hạn bằng nội tệ và ngoại tệ tiền gửi của NHNN tại tổ chức tín dụng.
-Khi số dư tiền gửi của tổ chức tín dụng tại NHNN vượt qua mức dự trữ bắt buộc phải duy trì được hưởng lãi suất 0,2%/tháng.
1-10-1998:khi luật NHNN có hiệu lực thi hành thì tỷ lệ dự trữ bắt
buộc hạ thấp xuông dưới 10%(luật NHNN cho phép dao động từ 0-20%)
Trong năm 2000 tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định là 5% trên
tổng số dư tiền gửi dưới 12 tháng đối với các tổ chức tín dụng đô thị và 1% đối với các tổ chức tín dụng ở nông thôn.
Từ 10-2000, riêng tiền gửi dự trữ bằng ngoại tệ được nâng từ 5% lên 8% và 1-12-2000 được điều chỉnh lên mức 12% trên tổng số dư tiền gửi thanh toán bằng ngoại tệ dưới 12 tháng.
NHNN tiếp tục tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ lên 15% vào 5-2001 và giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng Việt Nam đồng xuống 3%.Đến 11-2001 NHNN đã thực hiện việc điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng tiền gửi ngoại tệ từ 15% xuống 10%.
4. Nghiệp vụ thị trường mở.
Nghiệp vụ thị trường mở ra đời tại Việt Nam ngày 12-7-2000 đánh dấu bước phát triển mới trong điều hành chính sách tiền tệ từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp và theo tín hiệu của thị trường.
Theo quy định của NHNN thì chỉ có những giấy tờ có giá sau được giao dịch thông qua thị trường mở:
-Tín phiếu kho bạc.
-Tín phiếu NHNN
-Các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác do thống đốc NHNN quy định cụ thể trong từng thời kỳ.
Các công cụ này đã hình thành ngay từ năm 1992, chúng được coi là những công cụ tạo tiền đề, chuẩn bị cho việc ra đời một thị trường mở chính thức.
Năm 2000 tổng số đã có 14 ngân hàng thương mại đăng ký và được chấp nhân là thành viên của thị trường. Bình quân 10 ngày tổ chức 1 phiên giao dịch. Đến đầu tháng 12 –2000 NHNN đã tổ chức được 13 phiên giao dịch với tổng khối lượng tín phiếu mua bán là 1428 tỷ đồng (trong đó mua 878tỷ, bán ra 550 tỷ đồng). Lãi suất giao dịch từ 4,95% lên đến 5,58%.
Đến đầu năm 2001 thì thị trường hoạt động mới tập trung chủ yếu của một số ngân hàng thương mại quốc doanh.
Đến 12-2001đã có 21 tổ chức tín dụng tham gia vào thị trường mở. NHNN đã thực hiện 61 phiên đấu thầu nghiệp vụ thị trường mở với doanh số giao dịch là 5536 tỷ đồng. Có 24 phiên thực hiện đấu thầu lãi suất, 37phiên đấu thầu khối lượng trong đó các giấy từ có giá NHNNđã mua trị giá 4466tỷ đồng,bán là 1070 tỷ đồng. Lãi suất hình thành trên thị trường mở bám sát với lãi suất thị trường (giao động từ 4,9% đến 5,3%/ năm). Đưa định kỳ giao dịch lên 1 phiên / 1 tuần thay cho một phiên 10 ngàu như trước đây. thời hạn thanh toán và giao nhận các giấy tờ có giá ngắn hạn giữa các tổ chức tín dụng và NHNN trước đây là 2 ngày xuống còn 1 ngày.
Tái cấp vốn.
NHNN thực hiện việc tái cấp vốn với tư cách là người cho vay cuối
cùng trên thị trường tiền tệ cho hệ thống các tổ chức tín dụng. Thông qua việc tái cấp vốn NHNN điều tiết khối lượng tiền trung ương cung ứng cho các tổ chức tín dụng và lãi suất của các khoản NHNN cấp cho các tổ chức tín dụng.
Chính sách tái cấp vốn ra đời từ đầu năm1991 khi pháp lệnh NHNNcó hiệu lực .
Quy địnhvề tái cấp vốn đối với các tổ chức tín dụng được NHNN quy định tại QĐ 285-QĐ/NH14 ra ngày 10-11-1994 của Thống đốc NHNN . NHNN cho vay tái cấp vốn đối với các tổ chức tín dụng tham gia trên thị trường liên ngân hàng , hoạt động có lãi … NHNN cho vay tái cấp vốn dưới các hình thức: cho vay thế chấp chứng từ và cho vay theo đối tượng chỉ định. Trên thực tế ngoài hai hình thức này ra còn hình thức cho vay bù trừ- một hình thức tái cấp vốn ngắn hạn đối với các ngân hàng thương mại. Việc tái cấp vốn chủ yếu là việc cho vay theo tối đa là 6 tháng. Thời gian chỉ địnhđã hạn chế đã hạn chế tính năng động của công cụ này do NHNN mới chỉ tập trung cho 4 ngân hàng thương mại quốc doanh. Lãi suất tái cấp chưa được sử dụng linh hoạt. nó được tính theo tỷ lê phần trăm trên lãi suất cho vay áp dụng đối với các dự án cho vay tổ chức tín dụng (bằng 60% đến 100% lãi suất cho vay ghi trên khế ước). Từ quý 1 năm 1994 đến 1997 lãi suất tái cấp vốn mới được điều chỉnh 2 lần nhưng cả khi ta áp dụng chính sách hạn mức tín dụng thì lãi suất tái cấp vốn cũng không vượt quá lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại.
Đến năm1997 công cụ tái cấp vốn đã từng bước được đổi mới theo hướng nâng cao hiệu quả điều tiết của công cụ này. Cho đến nay cơ chế tái cấp vốn đã được sửa đổi bao gồm các hình thức tái cấp vốn theo quy định của Luật NHNN như: cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác, cho vay có đảm bảo bằng cầm cố các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Theo quy định số 285/QĐ-NH14 ngày 10/11/1994 của thống đốc ngân hàng nhà nước thì ban đầu chứng từ thế chấp chỉ bao gồm tín phiếu kho bạc chưa đến hạn thanh toán, khế ước cho vay ngân hàng .Đến năm1997 NHNN bổ sung hình thức cho vay thế chấp bằng ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi của tổ chức tín dụng tại NHNN. Lãi suất tái cấp vốn từ cuối 5-1997 được xác định mức cụ thể để phù với thông lệ quốc tế. Kể từ năm 1999 lãi suất tái cấp vốn đã được điều chỉnh linh hoạt hơn .
Cho đến cuối năm 2001 lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu đã được điều chỉnh giảm 2 lần từ 0,5%/ tháng và 0,45%/ tháng xuống 4,4% và 0,35%/ tháng.
Công cụ tỷ giá
Nhiều nước không xếp tỷ giá là công cụ của chính sách tiền tệ mà coi đó là 1 yếu tố thị trường. Nhưng ở VN tỷ giá đã và đang là công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ .Các giai đoạn phát triển của chính sách tỉ giá:
Từ 1989 đến 9-1991.
Trong bối cảnh nền kinh tế dự trữ ngoại tệ hầu như không có, việc xoá bỏ chế độ tỉ giá cố định (tỉ gái hối đoái chính thức do NHNN công bố hoàn thành cách biệt so với tỷ giá của thị trường ), chính phủ đẫ chủ trương điều hành tỉ giá theo chế độ tỉ giá linh hoạt có nhiều điều tiết của nhà nước và gắn với một đồng tiền .
Từ 1989 đến 1991, căn cứ vào tỉ giá chính thức do NHNN công bố, các NHTM đựoc phép xác định tỉ giá giao dịch trong phạm vi cộng trừ 5% so với tỉ giá chính thức chính vì vậy đồng Việt Nam giảm giá so với USD như sau:
1989 : 20%
1990 : 54,6%
: 84,3%
4-1991 chính phủ quết định thành lập quỹ điều hành ngoại tệ do Thống đốc NHNN quản lí và điều tiết ngoại tệ nhằm ổn định tỉ giá hối đoái.
8-1991 đến 1994 : mục tiêu quan trọng hàng đầu của tỷ giá là ổn
địng tương đối tỷ giá của đồng Việt Nam ,góp phần kềm chế lạm phát ,ổn định và phát triển kinh tế và phản ánh sức mua của nội tệ. NHNN đã thành lập hai trung tâm giao dịch ngoại tệ. Các NHTM được phép sửa đổi tỷ giá bán ngoài tệ tong biên độ cộng trừ 0,5% so với tỷ giá chính thức NHNN công bố hàng ngày. Trong giai đoạn này NHNN liên tục bán ngoại tệ ra nhằm làm giảm giá ngoại tệ xuống và dần đi vào ổn định ,tạo điều kiện cho kinh tế phát triển.
Mức biến động tỷ giá hối đoái qua các năm:
: 84,3%
: -9,8%
: 3,7%
: 1,8%
Từ năm 1994 cùng với sự ra đời của thị trường ngoài tệ liên ngân
hàng NHNN đã bắt đầu thực hiện điều hành tỉ giá cơ chế mới thay cho chế độ đa tỷ giá trước đây . Theo đó NHNN bắt đầu công bố tỷ giá chính thức giữa ngoại tệ và đồng VN, tỷ giá mua bán trên tiền tệ được phép dao động trong biên độ cho phép.
Từ 1997 đến 1998 NHNN chủ động điều chỉnh biên bộ giao dịch
và tiếp theo tiến hành việc ấn định tỷ giá chính thức trên cơ sở tỉ giá mua bán trên tiền tệ ngoại tệ liên ngân hàng.
Từ1999 đến nay, NHNN đã thực hiện bước đổi mới cơ bản về điều hành tỷ giá theo các nguyên tắc thị trường bằng việc hàng ngày công bố tỷ giá chính thức là tỷ giá giao dịch bình quân trên tiền tệ ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch trước đó. Các tổ chức tín dụng được qui định tỷ giá giao dịch giữa VNĐ và USD không vượt quá 0,1% so với tỷ giá NHNN trên thị trường ngoại tệ.
Đến cuối 2000 tỷ giá trên cả ba thị trường đã tăng so với đầu năm như sau:
- Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tăng: 31% (14.450/14.016 đồng).
- Thị trường mua bán của các NHTH tăng 2,9% (14.460/14042 đồng).
- Thị trường tự do tăng 3,96%(147.000/14.139 đồng).
Từ 5-2001 đến nay tỷ giá có xu hướng tăng, mức tăng tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng 6 tháng đầu năm là 2,2% so với tỷ giá cuối năm 2000, tỷ giá trên thị trường tự do tăng khoảng 2,8%.
II. Hiệu quả sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ.
Nhờ nắm chắc và sử dụng triệt để tác động của các công cụ của chính sách tiền tệ trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Các công cụ chính sách tiền tệ đã góp phần đắc lực trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao, kiềm chế và kiểm soát lạm phát thành công, ổn định và giữ vững sức mua của đồng Việt Nam. Sau một thời gian lạm pháp phi mã hiện nay chúng ta đã kiềm chế giảm tỷ lệ lạm pháp đến mức phù hợp và tạo đà tăng trưởng kinh tế ngày càng cao. Dưới đây là một số số liệu về tăng trưởng kinh tế và tộc độ lạm phát ở Việt Nam:
Thời gian
GDP theo giá hiện hành
Tốc độ lạm phát(%)
1995
228.892
12,7
1996
272.036
4,5
1997
313.623
3,6
1998
361.468
9,0
1999
399.942
0,1
2000
444.139
-0,6
2001
484.492
0,8
Ngoài ra thì các công cụ đã góp phần tạo lập và phát triển thị trường tiền tệ, đảm bảo cho NHNN kiểm soát và định hướng thị trường tiền tệ ở tầm vĩ mô.
Hiệu quả sử dụng của từng công cụ như sau:
Hạn mức tín dụng.
Trong điều kiện NHNN chưa thể sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở NHNN đã sử dụng công cụ hạn mức tín dụng để hạn chế hệ số nhân tiền qua đó kiểm soát được sự gia tăng tổng phương tiện thanh toán.
Từ 1994-1997 hạn mức tín dụng đã góp phần kiểm soát mức gia tăng tổng phương tiện thanh toán, góp phần kiềm chế lạm phát.
Tuy nhiên từ 1998 đến nay trong điều kiện nhu cầu vốn đầu tư phát triển ở Việt Nam rất lớn, lạm phát có xu hướng giảm thấp thì việc sử dụng công cụ này một cách thường xuyên là không cần thiết nữa. NHNN chỉ sử dụng công cụ này khi cần phải hạn chế sự gia tăng tín dụng.
2. Lãi suất.
Lãi suất là một công cụ được vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thị trường Việt Nam.
Năm 1992 chính sách lãi suất thực dương có tác động mạnh mẽ
thúc đấy các tổ chức tín dụng huy động một lượng vốn rất lớn để mở rộng tín dụng, đầu tư cho nền kinh tế, có mức chênh lệch lãi suất hợp lý để đảm bảo khả năng tự lực về tài chính để mở rộng kinh doanh nhất là ở địa bàn nông thôn. Việc chuyển đổi sang lãi suất thực dương là bước khởi đầu, tạo cơ sở cho việc theo đuổi mục tiêu tự do hoá lãi suất, tạo đòn bẩy cho các ngân hàng thương mại chuyển hoạt động từ kinh doanh thua lỗ sang có lãi.
Từ cuối năm 1996 đến tháng 8-2000: NHNN chuyển sang trần lãi
suất cho vay. Nó có một số tác động tích cực sau: mặt bằng lãi suất trên thị trường đã cơ bản thống nhất quản lý trên phạm vi cả nước. Nhà nước không thu thuế doanh thu làm chi phí của tổ chức tín dụng làm cho lãi suất cho vay giảm đáng kể từ 0.35% xuống 1% thúc đẩy hoạt động của nền kinh tế trở nên sôi động hơn. Việc chỉ khống chế lãi suất cho vay tối đa, không quy định lãi suất tiền gửi nhằm hoàn thiện công cụ lãi suất tiến tới mục tiêu tự do hoá lãi suất.
Từ tháng 8-2000 đến tháng 5-2002:NHNN điều hành cơ chế lãi
suất theo lãi suất cơ bản đã làm giá cả đồng vốn gắn nhiều hơn với cung cầu vốn trên thị trường và với mức độ rủi ro của món vay. Lãi suất cơ bản được coi là phù hợp với mức độ phát triển của thị trường tiền tệ và khả năng kiểm soát của NHNN. Việc chuyển sang cơ chế lãi suất cơ bản thúc đẩy cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại, nó có lợi cho người gửi tiền và người vay vốn thúc đẩy chu chuyển vốn. Hình thức lãi suất bình quân hợp lý trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn của nền kinh tế. Nó đã xác lập quan hệ bình đẳng giữa các doanh nghiệp với ngân hàng. Các doanh nghiệp chủ động lựa chọn ngân hàng có mức lãi suất thấp để vay vốn, giữa hai bên có thoả thuận một mức vay vốn hợp lý. Cơ chế lãi suất buộc các ngân hàng thương mại phải tiết kiệm chi phí, có nghệ thuật sử dụng vốn khả dụng một cách linh hoạt, không để ứ động vốn.
Ngày 30-5-2002: NHNN lại ban hành quyết định về việc cho vay
theo lãi suất thoả thuận đối với Việt Nam đồng. Theo đó các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam trên cơ sở cung cầu vốn của thị trường. Như vậy là trong sự nghiệp đổi mới hoạt động ngân hàng, việc điều hành lãi suất cho vay thương mại theo cơ chế thị trường đã được thực hiện hoàn toàn đối với cả nội tệ và ngoại tệ(tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ được áp dụng từ tháng 6-2001). Đây là một bước tiến quan trọng trong sự nghiệp đổi mới hoạt động ngân hàng bởi lãi suất là công cụ quan trọng của NHNN để điều hành chính sách tiền tệ
3. Dự trữ bắt buộc.
Dự trữ bắt buộc đã có tác dụng khống chế được mức tăng quá mức của tổng phương tiện thanh toán, nó là mục tiêu trung gian để kiềm chế lạm phát.
Năm 1992 dự trữ bắt buộc ra đời đã đảm bảo khả năng thanh toán
và kiểm soát cung ứng tiền nhưng lại hạn chế NHNN dự báo nhu cầu tăng giảm dự trữ của các ngân hàng.
Năm 1995 công cụ dự trữ bắt buộc đã có một số đổi mới. Điều này giúp NHNN có thể dự báo nhu cầu dự trữ của các tổ chức tín dụng thông qua theo dõi mức dự trữ vượt. Tuy nhiên sự khống chế theo ngày cùng với sự phát triển của thị trường tiền tệ ở mức độ thấp khiến cho công cụ này trở nên cứng nhắc. Các tổ chức tín dụng luôn để dự trữ vượt, hạn chế khả năng sử dụng vốn hiệu quả của các tổ chức tín dụng.
Sau khi có sự ra đời 2 pháp lệnh ngân hàng, dự trữ bắt buộc đã có
những thay đổi đáng kể. Điều này đã giúp các tổ chức tín dụng có thể điều hành vốn linh hoạt hơn trước đây đồng thời NHNN có thể dự đoán được nhu cầu dự trữ của các ngân hàng thương mại tăng khả năng kiểm soát tiền tệ của NHNN.
Năm 1999 tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã được điều chỉnh ngày càng linh
hoạt . Đặc biệt năm 2000 tỷ lệ dự trữ dự trữ bắt buộc bằng nội tệ thấp nhất từ trước đến nay đã khuyến khích các ngân hàng thương mại mở rộng tín dụng cho nền kinh tế. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ được tăng đã có tác dụng hạn chế chuyển đổi từ VNĐ sang USD khắc phục tình trạng khan hiếm VNĐ của các tổ chức tín dụng.
5-2001 việc nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ lên 15% và giảm
tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng nội tệ xuống 3% đã tác động làm cân bằng dần lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ, nhờ đó tốc độ tăng huy động vốn bằng VNĐ được cải thiện.
Tóm lại việc NHNNVN sử dụng linh hoạt công cụ dự trữ bắt buộc đã
kiểm soát được mức tăng lạm phát, làm thay đổi tổng phương tiện thanh toán một cách phù hợp với từng giai đoạn cụ thể.
4.Nghiệp vụ thị trường mở.
Nghiệp vụ thị trường mở ra đời ngày 12-7-2000 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp.
Sau hơn một năm triển khai thực hiện, nghiệp vụ thị trường mở ở nước ta đã vận hành một cách nhịp nhàng và đạt được những mục tiêu đề ra. NHNN bước đầu đã sử dụng thành công một công cụ mới để điều hành chính sách tiền tệ. Về cơ bản các quy định hiện hành về hoạt động nghiệp vụ thị trường mở là phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Công tác điều hành tổ chức nghiệp vụ thị trường mở thực hiện an toàn, việc giao dịch thông qua nối mạng giữa trung tâm giao dịch của thị trường với các thành viên được thực hiện trôi chảy. Hiện nay đã có 21 tổ chức tín dụng tham gia thị trường,thông qua 61 phiên đấu thầu nghiệp vụ thị trường mở đã cung ứng hơn 5000 tỷ đồng góp phần thực hiện chủ trương kích cầu củachính phủ.
Tuy nhiên thị trường mở ở nước ta còn nhiều tiền năng và nhiều tiềm năng và việc sử dụng các công cụ này còn nhiều hạn chế mà chúng ta còn tiếp tục quan tâm phát triển công cụ này và kết hợp nó với các công cụ khác.
5.Tái cấp vốn
Tái cấp vốn là kênh cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế hỗ trợ tích cực cho các ngân hàng thương mại đảm bảo vốn trong thanh toán.
Cung ứng khối lượng tín dụng cho các tổ chức tín dụng,đặc biệt là ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn,ngân hàng phục vụ người nghèo,mở rộng tín dụng ở vùng nông nghiệp,nông thôn hỗ trợ khối lượng vốn khá lớn cho các chương trình tín dụng của quốc phòng.
Dần dần thực hiện được vai trò người cho vay cuối cùng của ngân hàng trung ương, hướng các tổ chức tín dụng tận dụng các nguồn vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ trước khi đến vay ngân hàng trung ương.
Vừa qua trong điều kiện chỉ số giá tiêu dùng hạ thấp,để phát tín hiệu nới lỏng chính sách tiền tệ và tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng nhà nước,thống đốc ngân hàng nhà nước đã quyết định điều chỉnh hạ lãi suất tái cấp vốn,việc điều chỉnh hạ đã tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng hạ lãi suất cho vay đối với khách hàng,nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế,giảm tác động tiêu cực của kinh tế thế giới đến sự suy giảm kinh tế Việt Nam
6. Tỷ giá.
Từ năm 1989-1991,tỷ giá hối đoái củaVNĐ đã được điều chỉnh khá linh hoạt và gắn với tỷ lệ lạm phát của VNĐ. Dần dần tỷ giá chính thức của đồng Việt Nam so với USD đã được điều chỉnh sát với tỷ giá thị trường. NHNN đã điều hành và điều tiết thị trường một cách hiệu quả,tỷ giá tuy còn biến động nhưng đã đã đươc kiểm soát,tỷ giá có lợi cho nhà xuất khẩu,hạn chế nhập khẩu.
Thời kỳ 1991-1994, NHNN tiếp tục điều hành chính sách tỷ giá theo cơ chế linh hoạt. Cơ chế tỷ giá đã được xác định dựa trên cung cầu về ngoại tệ và sự can thiệp của NHNN với vai trò là ngươi mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại tệ đã tạo cho tỷ giá ổn định.
Chính sách tỷ giá đươc thực thi từ năm 1995 đến 6-1997 theo hướng mở rộng biên độ từ 0,5% lên 1% và tháng 2-1997 lên 5%,việc hình thành thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và việc quỹ điều hoà ngoại tệ mua vào để giảm áp lực lên giá của VNĐ đã đạt được mục tiêu khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, cải thiện cán cân thương mại.
Năm 1998 việc NHNN chủ động điều chỉnh biên độ giao dịch và ấn định tỷ giá chính thức khiến cho tỷ giá phù hợp với tương quan cung cầu ngoại tệ trên thị trường tăng khả năng điều tiết thị trường của tỷ giá, góp phần hạn chế ảnh hưởng bất lợi của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực đến Việt Nam, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô với tốc độ tăng trưởng 6% và kiềm chế lạm phát ở mức 9,2%.
Từ 1999 đến nay với cơ chế điều hành tỷ giá mới Tỷ giá giữa đồng Việt Nam và USD tương đối ổn định, qua đó cải thiện cán cân thanh toán tăng dự trữ ngoại tệ cho đất nước. Việc đưa tỷ giá bám sát giá thị trường đã có tác động tích cực tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ liên ngân hàng hoạt động sôi nổi và góp phần giảm bớt sức ép cung cấu ngoại tệ.
Phần III: Những tồn tại và giải pháp về điều hành công cụ chính sách tiền tệ trong thời gian tới.
Trong thời gian qua NHNN đã điều hành một cách linh hoạt và có hiệu quả các công cụ chính sách, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế. Chính vì vậy NHNN cần phải có giải pháp để khắc phục các hạn chế và đi vào hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ phù hợp với hoàn cảnh lịch sử.
Nghiệp vụ thị trường mở.
Nghiệp vụ thị trường mở bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định song vẫn còn bộc lộ một số hạn chế như thực tế hoạt động của thị trường mở chưa thực sự sôi động, mỗi phiên giao dịch mới chỉ có từ 1 đến 5 thành viên tham gia, các thành viên tham gia chủ yếu là các NHTM nhà nước, hàng hoá trên thị trường còn nghèo nàn, những giấy tờ có giá mới chỉ tập trung vào các tổ chức tín dụng có quy mô lớnđã tham gia giao dịch trên thị trường sơ cấpv…v. Những tồn tại trên cần có biện pháp khắc phục để nâng cao hiệu quả của công cụ này. Những giải pháp đó là:
Bổ sung và đa dạng hoá các cộng cụ tài chính giao dịch trên thị trường. Bên cạnh 2 công cụ chủ lực hiện nay, NHNN đang trình quốc hội cho phép sử dụng các giấy tờ có giá dài hạnđể giao dịch trên thị trường tiền tệ và thị trường mở với thời hạn dưới một năm v…v. Cải tiến phương thức đấu thầu, tăng khối lượng đấu thầu, mở rộng các phiên giao dịch lên 2 phiên/ một tuần thay cho 1phiên/ 1 tuần trước đây.
Củng cố và thúc đẩy các mảng thị trường khác phát triển để làm cơ sở cho hoạt động nghiệp vụ thị trường mở .
Từng bứơc cơ cấu lại các tổ chức tín dụngđể các tổ chức tín dụng có đủ khả năng cạnh tranhvà thực hiện nghiệp vụ ngân hàng trên thị trường tiền tệ hiện đại.
Từng bước nâng cao chất lượng của việc thu thập và dự báo thông tin về vốn khả dụng của hệ thống các tổ chức tín dụng làm cơ sở đưa ra các quyết định chính xác trên thị trường mở.
Ngoài ra còn cần phát triển các công tác thông tin tuyên truyền về hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở thị trường mở, đào tạo cán bộ nghiệp vụ, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.
Dự trữ bắt buộc.
Việc điều hành dự trữ bắt buộc trong thời gian qua là có hiệu quả song cũng có một số vấn đề như: quy định dự trữ bắt buộc chỉ áp dụng đối với tiền gửi dưới 12 tháng khiến cho khả năng kiểm soát M2 của NHNN còn hạn chế, việc quy định trả lãi cho tiền gửi dự trữ vượt không thực sự khuyến khích các NHTM sử dụng hiệu quả nguồn vốn. Việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc ngoại tệ lên quá cao từ 10% lên 12% rồi 15% đã làm một khối lượng ngoại tệ lớn bị đóng băng trong NHNN và tương ứng với đó là một khối lượng USD lãi suất tiền gửi về vốn đó không sinh lời. Đồng thời nó cũng ảnh hưởng tới tỷ giá làm cho tỷ giá tăng gây khan hiếm nội tệ.
Vậy có nên chăng là giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc xuống thấp hơn. Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ cần có những giải pháp hoàn thiện theo hướng mở rộng khả năng kiểm soát tiền tệ của NHNN và khuyến khích các tổ chức tín dụng sử dụng vốn linh hoạt và có hiệu quả. Phải xem xét điều chỉnh cách tính dự trữ bắt buộc theo số dư tiền gửi của các tổ chức tín dụng tại sở giao dịch NHNN và các chi nhánh NHNN, mở rộng dạng tiền gửi dự trữ bắt buộc từ 12 tháng lên 24 tháng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được điều chỉnh linh hoạt phù hợp với diễn biến thị trường trong nước và quốc tế, đảm bảo sự phối hợp đồng bộ với các công cụ như lãi suất, tỷ giá, tái cấp vốn v…v.
3.Tái cấp vốn.
Chính sách tái cấp vốn thời gian qua còn một số hạn chế sau: tái cấp vốn thực hiện chủ yếu đối với các NHTM quốc doanh theo hình thức chỉ định, việc tiếp cận của các ngân hàng thương mại khác với kênh tái cấp vốn từ NHNN còn hạn chế vì các đơn vị này thường không đủ điều kiện tham gia tái cấp vốn, lãi suất tái cấp vốn chưa thực sự phát huy hiệu quả điều tiết thị trường, kích thích tăng giảm nhu cầu tiền tệ.
Chính vì vậy cần có các giải pháp sau: công cụ tái cấp vốn cần được tiếp tục theo hướng thực hiện vai trò là công cụ cấp tín dụng ngắn hạn của NHNN. Cơ chế, quy chế về tái cấp vốn phải tiếp tục được hoàn thiện nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM tiếp cận các kênh hỗ trợ vốn của NHNN và nâng cao vai trò điều tiết tiền tệ của công cụ này. Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu phải được điều chỉnh linh hoạt và bám sát diễn biến thực tế thị trường và mục tiêu chính sách tiền tệ.
4.Lãi suất.
Lãi suất là một công cụ tiền tệ có hiệu quả nhất và được sử dụng linh
hoạt nhất ở nước ta. Hiện nay chúng ta đang theo đuổi việc tự do hoá lãi suất. Việc thay đổi lãi suất theo lãi suất thoả thuận đối với đồng Việt Nam là một dấu hiệu tích cực tuy nhiên nó cũng đã phát sinh một số vấn đề sau: nhiều NHTM đã tham gia cuộc chiến tăng lãi suất mới , lãi suất huy động của các NHTM tăng lên sẽ kéo theo một lượng khách hàng không nhỏ tham gia gửi tiền vào tiết kiệm thay cho đầu tư, và đến lúc nào đó tiền từ ngân hàng lưu thông ra ngoài thị trường sẽ tăng chậm hơn tiền vào ngân hàng . nguy cơ giảm phát giá cả tiêu dùng đang hiện hữu. Tất nhiên việc tăng lãi suất của các NHTM không chỉ do thay đổi cơ chế mà còn do tình hình cung cầu nguồn vốn cuả các NHTM nhưng NHNN cũng cần quan tâm và tìm các biện pháp cung ứng vốn cho các NHTM để giảm lãi suất nhằm tránh tình trạng giảm phát có nguy cơ quay lại.
Ngoài ra việc quy định lãi suất cơ bản trong QĐ547/2002/QĐ-NHNN không có tác dụng đến mỗi tổ chức tín dụng nên NHNN nên công bố lãi suất cơ bản đối với cho vay ngắn hạn, cho vay trung dài hạn riêng biệt. Làm như vậy sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng sẽ lành mạnh hơn nhất là NHTM cổ phần.
5. Tỷ giá
Hiện nay chúng ta thấy rằng việc điều hành tỷ giá ở Việt Nam là cơ chế thả nổi có điều tiết. Hiện nay thì vẫn còn có một số hạn chế sau:
Việc điều hành tỷ giá mới dựa vào quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng chưa phản ánh cân đối ngoại tệ của nền kinh tế. Mà quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng mới chỉ xác lập một phần ngoại tệ trong tổng số ngoại tệ dự trữ của nền kinh tế. Ngoài ra thì mới chỉ có 28 tổ chức tín dụng được phép giao dịch ngoại tệ còn lượng ngoại tệ giữa các doanh nghiệp với nhau và trên thị trường tự do thì chưa được phản ánh trong khi nó chiếm một tỷ trọng lớn.
Để xây dựng một chế độ tỷ giá hợp lý ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay chúng ta cần có một số định hướng như về mặt dài hạn tiến tới áp dụng tỷ giá thả nổi vì chế độ này phù hợp quy luật cung cầu ngoại tệ, xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Về mặt ngắn hạn thì nên áp dụng chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết do điều kiện của chúng ta chưa tiến hành tỷ giá thả nổi hoàn toàn được.
Chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của nhà nước phải được giảm dần theo thời gian tiến tới áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn. vì vậy, giai đoạn từ nay đến năm 2003 áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của nhà nước với biên độ cho phép là 10%. Từ 2003 đến 2005 có thể mở rộng biên độ đó lên 50%. Sau 2005 NHNN không ấn định tỷ giá mà chỉ can thiệp vào thị trường ngoại hối trong việc thiết lập và sử dụng Quỹ dự trữ ngoại tệ quốc gia. Muốn thực hiện được như vậy cần xây dựng một hệ thống ngân hàng đủ mạnh có khả năng tham gia vào thị trường ngoại tệ quốc tế, phải có hành lang pháp lý đồng bộ và đầy đủ để tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, xây dựng thị trường ngoại tệ hiện đại và một Quỹ dự trữ ngoại tệ quốc gia vững mạnh.
Ngoài ra chúng ta cần xây dựng chính sách đa ngoại tệ nhằm hạn chế sự ràng buộc vào đồng USD
Tóm lại, việc xây dựng các công cụ chính sách tiền tệ phải được thực hiện một cách đồng bộ, phải có sự phối kết hợp giữa các công cụ để đạt được hiệu quả cao nhất.
Kết luận
***
Thông qua việc đánh giá hiệu quả sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ trong thời gian qua chúng ta đã thấy tác dụng to lớn mà chính sách tiền tệ và các công cụ của nó mang lại. Đó là một nền tiền tệ ổn định và lành mạnh, kiềm chế và kiểm soát được lạm phát, nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và hơn nữa là chỉ số giá tiêu dùng đã được ổn định.
Hệ thống các công cụ chính sách tiền tệ ngày càng phát triển và đang trên đường tiến tới một hệ thống các công cụ hoàn thiện và đồng bộ. Hiệu quả sử dụng các công cụ trên là rất lớn, thể hiện sự phát triển vững mạnh của NHNNVN và của toàn bộ hệ thống ngân hàng trong tiến trình đổi mới đất nước.
Tuy nhiên việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ còn nhiều vấn đề cần phải xem xét và khắc phục. Chúng ta cần xây dựng một hệ thống ngân hàng phát triển lành mạnh, xây dựng một thị trường tiền tệ nói riêng và một thị trường tài chính hiện đại và phát triển để tạo một môi trường thuận lợi cho các công cụ tiền tệ phát triển.
Có như vậy thì nền kinh tế tiền tệ của Việt nam mới có thể rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển, tiến tới hội nhập quốc tế và khu vực. Nhiệm vụ
của NHNN ở đây vẫn còn hết sức nặng nề và to lớn. Mục lục
Lời mở đầu
Trang 1
Phần I: lý luận chung về chính sách tiền tệ và các công cụ của chính sách tiền tệ
2
I. Khái niệm chung về chính sách tiền tệ
II. Hệ thống các mục tiêu của chính sách tiền tệ
3
1. Mục tiêu cuối cùng
1.1 Mục tiêu ổn định giá cả
1.2 Mục tiêu tăng trưởng kinh tế
1.3 Mục tiêu tạo công ăn việc làm
4
1.4 Mối quan hệ giữa các mục tiêu
2. Mục tiêu trung gian
5
3. Mục tiêu hoạt động
III. Các công cụ chính sách tiền tệ
6
1. Công cụ trực tiếp
1.1 Lãi suất tiền gửi và cho vay
1.2 Hạn mức tín dụng
1.3 Tỷ giá
7
2. Công cụ gián tiếp
8
2.1 Dự trữ bắt buộc
2.2 Chính sách tái chiết khấu
2.3 Nghiệp vụ thị trường mở
9
Phần II: Hiệu quả sử dụng công cụ chính sách tiền tệ ở VN trong thập kỷ 90 và những năm đầu thế kỷ 21
10
I. Sự ra đời và phát triển của các công cụ chính sách tiền tệ
10
1. Hạn mức tín dụng
2. Lãi suất
11
3. Dự trữ bắt buộc
12
4. Nghiệp vụ thị trường mở
13
5. Tái cấp vốn
14
6. Tỷ giá
15
II. Hiệu quả sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ
16
1. Hạn mức tín dụng
2. Lãi suất
17
3. Dự trữ bắt buộc
4. Nghiệp vụ thị trường mở
18
5. Tái cấp vốn
19
6. Tỷ giá
Phần III. Những tồn tại và giải pháp về điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới
20
1.Nghiệp vụ thị trường mở
20
2. Dự trữ bắt buộc
3. Tái cấp vốn
21
4. Lãi suất
5. Tỷ giá
22
Kết luận
23
tài liệu tham khảo
***
Giáo trình Lý thuyết tiền tệ và ngân hàng – HVNH
Kinh tế học về tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính-FredericS Miskin
Hoàn thiện và phát triển tiếp chính sách tiền tệ và công cụ của nó ở Việt Nam trong thời gian tới.-ĐTNC:22
Báo cáo thường niên 2001.
Tạp chí ngân hàng.
Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ ngân hàng.
Tạp chí kinh tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35314.doc