Các cơ chế chính sách của Nhà nước ban hành cần đồng bộ, phối kết hợp với các cấp, các ngành; phối hợp cơ chế chính sách liên quan tới KH&CN với cơ chế chính sách kinh tế-xã hội vĩ mô nhằm tạo những điều kiện thuận lợi cho đổi mới công nghệ. Cơ chế, chính sách thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ và ứng dụng công nghệ cao ở Việt Nam trong thời gian tới phải gắn liền với những đổi mới khác trong cơ chế quản lý kinh tế- xã hội, gắn với việc nâng cao trình độ quản lý doanh nghiệp và năng lực công nghệ của lực lượng làm khoa học công nghệ của nước ta. Nói cách khác, có công nghệ phải đi liền với có nguồn nhân lực hợp lý để sử dụng công nghệ thì mới bảo đảm hiệu quả của yếu tố công nghệ đối với nâng cao năng lực cạnh tranh.
Để cụ thể hóa hơn nữa chính sách hỗ trợ phát triển khoa học công nghệ, trong thời gian tới, các Bộ, ngành cần khẩn trương xây đựng và ban hành những thông tư hướng dẫn cho những Nghị định, Quyết định đã được Chính phủ ban hành.
Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực đổi mới công nghệ cho DN, tạo điều kiện và môi trường pháp lý đầy đủ để hình thành và phát triển các loại hình doanh nghiệp dịch vụ công nghệ, thông tin công nghệ, hình thành mạng lưới thông tin công nghệ và đổi mới công nghệ ở trung ương và địa phương phục vụ các doanh nghiệp.
75 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1716 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Hà Nội: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
227/NHNN-CSTT (24/10/2001)
.
- Hai là, mặc dù các quy định của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các TCTD đã quy định rằng ngân hàng có quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay bằng một trong hai hình thức hoặc là cho vay có bảo đảm bằng tài sản và cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, nhưng trên thực tế rất ít ngân hàng áp dụng việc cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Vả lại, nếu có áp dụng, thì cũng khó có DN thuộc KVKTTN nào được xếp vào danh sách được cung cấp tín dụng theo phương thức này.
- Ba là, phần lớn các tài sản thế chấp để vay vốn là quyền sử dụng đất, thế nhưng các văn bản pháp quy liên quan đến đất và quyền sử dụng đất, cũng như việc thế chấp các quyền này còn rất phức tạp và không rõ ràng. Ngoài ra, vẫn chưa có một hệ thống đăng ký công khai thống nhất cho các quyền sử dụng đất, cho thuê và thế chấp. Cho dù đã xin được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp thì giá trị quyền sử dụng đất các DN còn phải chịu sự định giá “đơn phương” và “áp đặt” của các ngân hàng cung cấp tín dụng.
Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN, một công cụ trợ giúp phát triển DNVVN đó cú đầy đủ quy định pháp lý để ra đời. Nhưng cho đến nay, ở hầu hết các tỉnh, Quỹ này vẫn chưa xuất hiện do các quy định thiếu tính khả thi và qui chế tổ chức, vận hành chưa hợp lý.
Chính sách lao động, tiền lương, đào tạo và khoa học và công nghệ
- Chính sách bảo hiểm xã hội: Luật BHXH được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2006. Đây là đạo luật có hiệu lực thi hành khá đặc biệt với ba thời điểm hiệu lực khác nhau. Đó là, từ ngày 1/1/2007 các quy định của luật nói chung; từ ngày 1/1/2008 chế độ bảo hiểm tự nguyện và từ ngày 1/1/2009 chế độ bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực thi hành. Luật gồm 11 chương, 141 điều, trong đó nội dung cốt lõi nhất (cũng là tư tưởng chỉ đạo then chốt nhất) gồm ba vấn đề. Một là, mở rộng diện đối tượng tham gia BHXH; hai là, tăng quy mô của quỹ bảo hiểm xã hội và ba là, thực hiện tốt hơn các chế độ đối với người lao động tham gia bảo hiểm.
Bên cạnh bảo hiểm bắt buộc, Luật BHXH và Nghị định 190/2007/NĐ-CP hướng dẫn một số điều về BHXH tự nguyện đã mở rộng đối tượng được tham gia vào các hình thức bảo hiểm xã hội ra hầu khắp lực lượng lao động có việc làm.
Bắt đầu từ 1/1/2009, người lao động sẽ được hưởng trợ cấp thất nghiệp là 3 tháng nếu có đủ 12 tháng đến dưới 36 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp; 6 tháng nếu có từ đủ 36 tháng đến dưới 72 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp; 9 tháng nếu có đủ từ 72 tháng đến dưới 144 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp; 12 tháng nếu có từ đủ 144 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trở lên.
Nhìn chung, Luật BHXH đã quy định cụ thể về điều kiện hưởng và mức hưởng của người lao động trên cơ sở thời gian đóng BHXH, tuổi đời, mức suy giảm khả năng lao động, tính chất công việc và điều kiện làm việc của người lao động. Các chế độ bảo hiểm đã được cải tiến, hoàn thiện và được quy định rõ ràng, phù hợp tình hình thực tiễn hơn trước đây.
- Chính sách đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Nhà nước đã dành những khoản kinh phí cho công tác đào tạo nguồn nhân lực cho các DNNVV. Chương trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho các DNNVV giai đoạn 2004-2008 theo Quyết định số 143/2004/QĐ-TTg ngày 10/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ đang được triển khai tích cực ở các địa phương và các hiệp hội. Thông tư liên tịch số 65/2004/TTLT/BTC-BLĐTBXH ngày 02/7/2004 của Bộ Tài chính và Bộ LĐTBXH hướng dẫn thực hiện kinh phí hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn.
Hầu hết các địa phương đều xây dựng và thực hiện chương hỗ trợ đào tạo nghề mặc dù có sự khác nhau về biện pháp, mức hỗ trợ, đối tượng hỗ trợ. Nhưng chủ yếu vẫn là hỗ trợ về tài chính giao động từ 300.000đ-1.000.000đ/lao động là người địa phương, làm việc trong các làng nghề, trong doanh nghiệp nhỏ và vừa. Một số sở được giao nhiệm vụ mở các lớp đào tạo quản lý, nghiệp vụ kinh doanh cho các đối tượng chủ doanh nghiệp tư nhân nhằm nâng cao trình độ kiến thức về pháp luật, quản lý để họ nắm bắt và áp dụng trong tình hình mới.
- Chính sách khoa học và công nghệ
Ngày 20/11/2007, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá thay thế cho Pháp lệnh chất lượng hàng hoá năm 1999 nhằm điều chỉnh toàn diện các vấn đề liên quan đến công tác quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá, tránh rủi ro cho các doanh nghiệp và thiệt hại cho người sử dụng. Bên cạnh đó Bộ KHCN đang xây dựng “Chương trình hỗ trợ DNNVV nâng cao năng suất chất lượng”; và tiếp tục thực hiện “Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp” theo Quyết định số 68/2005/QĐ-TTg ngày 4/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ với mục tiêu nhằm: (i) nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam về bảo hộ sở hữu trí tuệ để các doanh nghiệp chủ động xây dựng, khai thác, phát triển và bảo vệ tài sản trí tuệ; (ii) nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường trong và ngoài nước thông qua việc hỗ trợ xác lập, khai thác, bảo vệ và phát triển tài sản trí tuệ, trong đó ưu tiên các doanh nghiệp có sản phẩm chiến lược, có tiềm năng xuất khẩu.
Ngoài ra nhiều hoạt động khác đang được thực hiện như: xúc tiến việc thiết lập thị trường công nghệ, giúp các doanh nghiệp tiếp cận với công nghệ mới; nghiên cứu các chính sách khuyến khích phát triển các doanh nghiệp khoa học và công nghệ, xây dựng quy định về thể chế để đưa Quỹ Phát triển KHCN quốc gia vào hoạt động.
3.5.1. Những thành công
Thứ nhất là chính sách này đã tạo môi trường pháp lý cho những hỗ trợ về KH&CN cho KVKTTN với việc ban hành một loạt văn bản pháp quy về khuyến khích đầu tư vào KH&CN và hỗ trợ tài chính cho hoạt động KH&CN.
Thứ hai là chính sách này đã khuyến khích một số DN thuộc KVKTTN đầu tư vào các hoạt động KH&CN hoặc ứng dụng công nghệ cao thông qua các ưu đãi theo luật.
Thứ ba là chính sách này mở đường cho sự hình thành một thị trường KH&CN, hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN thuộc KVKTTN nói riêng và DN thuộc mọi thành phần kinh tế nói chung.
3.5.2. Những yếu kém và tồn tại
- Cơ chế kinh tế vĩ mô chưa khuyến khích được doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ.
Cơ chế quản lý hiện hành chưa tạo dựng được môi trường cạnh tranh thực sự để buộc DN phải chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ. Nhìn chung, trong môi trường kinh doanh hiện nay, công nghệ chưa được coi là yếu tố cơ bản quyết định năng lực cạnh tranh của các DN Việt Nam. Hàng loạt yếu tố như chính sách bảo hộ bất hợp lý, môi trường kinh doanh chưa bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, chế độ bao cấp và những đặc quyền cho các DNNN đã tạo ra sự méo mó trong định hướng đầu tư và kinh doanh của DN.
- Thị trường công nghệ mới ở mức độ manh nha, các yếu tố cấu thành của thị trường chưa được hình thành đầy đủ.
Hàng hoá trên thị trường công nghệ còn rất nghèo nàn. Một trong những điều kiện cần thiết để tạo nguồn hàng hoá cho thị trường công nghệ là xác định rõ ràng quyền sở hữu tài sản trí tuệ. Tuy nhiên, hiện nay các chủ thể của Việt Nam trong giao dịch trên thị trường này (như nhà khoa học, cơ quan nghiên cứu-triển khai (R&D) và doanh nghiệp) chưa quen với "văn hoá" sở hữu trí tuệ.
Mặt khác, các chi phí để có được quyền sở hữu công nghiệp hiện nay tương đối cao, một phần do các chủ thể cung cấp loại hình dịch vụ này chưa nhiều và chưa được khuyến khích tham gia. Thêm vào đó, một khi đã có quyền sở hữu trí tuệ, những chi phí để bảo vệ quyền sở hữu của các chủ thể cũng không mấy thuận lợi (quá trình xử lý tranh chấp còn phức tạp và tốn kém).
- Chưa có cơ chế chính sách đủ mạnh và thiết thực hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc KVKTTN đầu tư đổi mới công nghệ và ứng dụng công nghệ cao.
Do qui mô nhỏ, vốn ít và nguồn lực con người hạn chế, hầu hết DN thuộc KVKTTN khó có thể dành đầu tư đổi mới công nghệ. Những cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ và ứng dụng công nghệ cao hiện hành chưa tạo điều kiện hỗ trợ để các DN có khả năng được tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước.
- Thiếu những điều kiện tiền đề và hệ thống dịch vụ hỗ trợ đầu tư đổi mới công nghệ và ứng dụng công nghệ cao, đó là:
+ Kết cầu hạ tầng kỹ thuật, hệ thống các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, các phòng thí nghiệm, cơ sở vật chất của các tổ chức R&D còn kém;
+Thiếu lao động có tay nghề và kỹ năng cao, nhất là trong những ngành công nghệ mũi nhọn cộng thêm sự phân bổ không hợp lý (chủ yếu nằm tại các viện nghiên cứu);
+ Hệ thống thông tin công nghệ và đổi mới công nghệ còn yếu, chưa đa dạng và chưa thuận lợi;
+ Các tổ chức dịch vụ hỗ trợ đổi mới công nghệ và ứng dụng công nghệ cao chưa phát triển và chưa đa dạng;
+ Nhà nước chưa có chính sách rõ ràng khuyến khích các ngành kinh tế ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất kinh doanh và dịch vụ.
- Công cụ khuyến khích về thuế, tín dụng chưa có tác động rõ rệt trong việc thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ, cụ thể là:
+ Nhà nước đã ban hành tương đối nhiều loại ưu đãi nhưng chưa phổ biến đầy dủ và kịp thời đến các đối tượng được hưởng ưu đãi nên tác động của các chính sách này còn hạn chế;
+ Các chính sách ưu đãi về thuế không có tác dụng đối với đối tượng không có tiềm lực tài chính (vốn) để thực hiện dự án đầu tư đổi mới công nghệ;
+ Các chính sách ưu đãi tín dụng cho đổi mới công nghệ chưa đi vào thực tế do thủ tục tín dụng rườm rà, cũng như tâm lý của ngân hàng thương mại không muốn thực hiện chính sách này vì tính rủi ro cao.
Chính sách hỗ trợ phát triển kinh doanh
Chính phủ đã giao cho Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương) chủ trì thực hiện một số chương trình lớn về xúc tiến thương mại, điển hình như:
+ Chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia. Đây là chương trình xúc tiến thương mại nhằm phát triển xuất khẩu và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, tập trung cho các hàng hoá và thị trường trọng điểm. Ngày 03/11/2005, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 2006-2010 kèm theo Quyết định số 279/2005/QĐ-TTg tạo điều kiện cho các DN thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia Chương trình.
+ Chương trình phát triển thương hiệu quốc gia: được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 253/2003/QĐ-TTg ngày 25/11/2003. Mục tiêu của chương trình là xây dựng năng lực làm thương hiệu cho doanh nghiệp, đồng thời quảng bá thương hiệu sản phẩm (hàng hóa, dịch vụ) của doanh nghiệp Việt Nam thông qua Biểu trưng thương hiệu quốc gia (Vietnam Value Inside).
+ Chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng xúc tiến thương mại trong và ngoài nước: Chính phủ đã phê duyệt một số chương trình thành lập trung tâm giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại Hoa Kỳ, Các Tiểu Vương quốc A rập thống nhất (Đubai) và phê duyệt nguyên tắc dự án trung tâm hội chợ triển lãm và hội nghị quốc gia tại Hà nội.
Ngoài ra, Bộ Công Thương đã thành lập một số đơn vị hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; tổ chức các hội chợ, các chuyến khảo sát mở rộng thị trường cho doanh nghiệp; xây dựng chương trình phát triển chợ đầu mối, kho bãi; tổ chức các lớp tập huấn về công tác xuất nhập khẩu; phối hợp với bộ, ngành có liên quan giải quyết các vướng mắc cho doanh nghiệp trong việc phân bổ hạn ngạch; hướng dẫn doanh nghiệp tiếp cận với cơ quan quản lý của nước ngoài, doanh nhân nước ngoài trong lĩnh vực dệt may, nuôi trồng thủy sản.
3.6.1. Những thành công
Thứ nhất, các chính sách hỗ trợ DVPTKD đã góp phần tạo thêm sự trợ giúp nhất định cho DN trong quá trình kinh doanh, đặc biệt các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu, hỗ trợ kinh phí đào tạo, v.v....
Thứ hai, các chính sách này đã góp phần hình thành nên một thị trường DVPTKD. Sự phát triển của thị trường này mở ra nhiều tiềm năng phát triển mới cho DN. Các DN có thể tham gia cung cấp DVPTKD. Đồng thời họ cũng có thể phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh hiện thời của mình nhờ có DVPTKD mà các DN khác cung cấp.
3.6.2. Những khiếm khuyết và yếu kém
Thứ nhất, các quy định còn chưa đủ cụ thể, rõ ràng và chưa hợp lý (Ví dụ như quy định về dịch vụ tư vấn pháp lý cho DN) làm cho nhiều chính sách hỗ trợ đã không được thực hiện, đặc biệt là các chính sách quy định tại Nghị định 90/2001/NĐ-CP.
Thứ hai, các chính sách chưa được thực hiện một cách liên tục, triệt để. Chẳng hạn như các hỗ trợ về đào tạo và xúc tiến thương mại hiện không còn được thực hiện như trước đây. Các DN lại phải quay lại tự lo nguồn đào tạo cán bộ/công nhân cho DN mình.
Thứ ba, thiếu các chương trình hỗ trợ cụ thể. Các chương trình hỗ trợ có được thực hiện hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào ngân sách của địa phương. Vì vậy, có địa phương thực hiện chính sách hỗ trợ, có địa phương thì không. Ngoài ra, các địa phương có thể đưa ra nhiều mức độ và loại hình hỗ trợ khác nhau tuỳ theo điều kiện của địa phương mình. Chính điều này tạo nên sự không đồng đều về chính sách.
Chính sách hỗ trợ thông tin
Nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế thông qua việc khắc phục những thiếu hụt về thông tin của DN, nhiều bộ, ngành, địa phương đã tích cực triển khai hoạt động cung cấp dịch vụ thông tin bằng các phương tiện như cổng thông tin doanh nghiệp, báo in, truyền hình…Tiêu biểu trong thời gian qua là Cổng thông tin doanh nghiệp Việt Nam do Cục Phát triển Doanh nghiệp-Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng tại địa chỉ www.business.gov.vn nhằm cung cấp những thông tin về các tổ chức và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, quy định pháp lý và lời khuyên thiết thực cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; trang Database Online Thông tin phục vụ DNNVV tại địa chỉ của Trung tâm Thông tin-Tổng Cục tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Bộ KHCN với mục tiêu cung cấp cho cộng đồng các DNNVV Việt Nam những thông tin khái quát về một số thị trường trọng điểm ở Châu Mỹ, châu Âu, Châu á, và Châu Phi; các thông tin về pháp luật có liên quan đến sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ; dữ liệu về công nghệ và thiết bị trong sản xuất, dịch vụ kinh doanh được sản xuất trong nước và nước ngoài; và Cổng thông tin doanh nghiệp ngành nghề nông thôn tại địa chỉ www.agro.gov.vn với cơ sở dữ liệu giá nông sản cung cấp thông tin về giá của các mặt hàng nông sản chính hiện nay của Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế.
Đánh giá chung
Có thể thấy rằng hầu hết chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN được ban hành từ cuối những năm 90 của thế kỷ trước trở lại đây. Nếu so sánh với một số kết quả thể hiện sự phát triển của DNVVN (số lượng, đóng góp cho ngân sách, kim ngạch xuất khẩu, v.v…), thì có thể thấy có một sự tăng trưởng mạnh mẽ từ năm 2000 (từ khi Luật DN có hiệu lực). Điều này cho thấy một số chính sách được ban hành đã phát huy tác dụng, tạo động lực cho sự phát triển mạnh mẽ DNVVN Việt Nam.
4.1. Những chính sách thành công
Qua phân tích từng chính sách, ta có thể nhận thấy một số chính sách có hiệu quả hơn so với những chính sách khác.
Trước hết, cải cách thủ tục hành chính trong khâu thành lập DN và ĐKKD có thể được coi là chính sách thành công nhất. Luật DN với những quy định thông thoáng và cởi trói cho DN đã đóng góp đáng kể cho cải cách thủ tục hành chính. Một thành công lớn khác là việc xóa bỏ các rào cản hành chính trong hoạt động xuất nhập khẩu. Nghị định 57/1999/NĐ-CP hướng dẫn Luật Thương mại đã bãi bỏ các yêu cầu tối thiểu doanh nghiệp phải có để được tham gia xuất nhập khẩu như : phải có 200.000 USD vốn lưu động, có cán bộ nghiệp vụ tốt nghiệp đại học ngoại thương, có cán bộ thông thạo tiếng Anh
Nhờ cải cách này, số DN tham gia xuất nhập khẩu đó tăng vọt từ chưa đến 1000 trước năm 1999 lên hàng chục nghìn như hiện nay.
Chính sách thứ hai cũng có thể được coi là thành công nhất định là chính sách thuế. Quy định chặt chẽ hơn về hóa đơn thuế đã buộc các DN phải tiến hành ĐKKD và đăng ký mã số thuế. Nhờ vậy, số lượng các DN hoạt động chính thức tăng lên vào những năm 2000. Luật thuế TNDN và những ưu đãi thuế theo Luật KKĐTTN cũng góp phần kích thích DN thuộc KVKTTN tham gia sản xuất kinh doanh. Mức thuế suất hợp lý và những ưu đãi thuế đã làm cho các DN thấy được lợi ích của việc hoạt động kinh doanh chính thức. Nhờ đó, doanh thu thuế từ KVKTTN cũng tăng lên.
Chính sách thứ ba cần kể tới là chính sách tín dụng. Sau một loạt cải cách của hệ thống ngân hàng, khả năng tiếp cận tín dụng của DN thuộc KVKTTN đã được cải thiện đáng kể. Những phân biệt đối xử giữa KVKTTN và khu vực kinh tế nhà nước đã giảm nhiều. Thị trường tín dụng chính thức đang ngày càng rộng mở cho KVKTTN.
4.2. Các chính sách kém hiệu quả
- Chính sách đất đai đang được coi là kém hiệu quả nhất. Hiện thời, thị trường bất động sản đang bị đóng băng, trong khi nhiều DN thì không có mặt bằng để tiến hành kinh doanh. Cũng rất nhiều bất cập trong khâu giải phóng mặt bằng, trong quy hoạch đất đai, trong việc di dời các cơ sở kinh doanh ô nhiễm, trong các chính sách ưu đói tiền sử dụng đất, thuế đất, tiền thuê đất cho nhà đầu tư và nhiều chính sách khác. Cho dự Luật Đất đai (2003) đó chặt chẽ và hợp lý hơn, nhưng thị trường đất đai vẫn nằm ngoài sự kiểm soát của Nhà nước, thị trường bất động sản không chính thức vẫn áp đảo và chưa có dấu hiệu thu hẹp nhường chỗ cho thị trường chính thức.
- Chính sách hỗ trợ DVPTKD cũng không mấy thành công. Một số văn bản pháp quy đã đề cập đến một lọat dịch vụ hỗ trợ cho DN. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, các văn bản này chưa hoàn thiện, thiếu cụ thể và tớnh khả thi thấp. Bên cạnh đó, việc thực hiện những chính sách này lại không toàn diện và liên tục. Những DN hưởng lợi thường là những DN lớn, hoàn toàn có đủ khả năng tự đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Trong khi đó, chính những DN còn non trẻ mới thực sự là đối tượng cần nâng đỡ để phát triển thỡ hầu như không được hưởng lợi. Yếu kém tồn tại ở hầu hết các dịch vụ từ tư vấn, đào tạo, cung cấp thông tin thị trường, quảng bá thương hiệu, thiết kế sản phẩm… đến xúc tiến thương mại.
Tóm lại, sau hơn 20 năm đổi mới, DNVVN ngày càng được thừa nhận và được tạo điều kiện phát triển. Những chính sách hỗ trợ kinh doanh của Nhà nước đã và đang đóng góp vào sự lớn mạnh nhanh chóng của DNVVN Việt Nam. Trong số 6 chính sách lớn được phân tích trong nghiên cứu này, chính sách cải cách thủ tục hành chính tạo điều kiện cho DN gia nhập thị trường có thể được coi là thành công hơn cả. Chính sách thuế và chính sách tín dụng thành công trong một chừng mực nhất định. Chính sách đất đai và hỗ trợ DVPTKD vẫn còn nhiều bất cập cần giải quyết. Cũng cần phải khẳng định rằng không có chính sách nào là không có khiếm khuyết. Vấn đề là phải xác định những khiếm khuyết, yếu kém của bản thân từng chính sách và của việc thực hiện chính sách để có biện pháp khắc phục kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách đó.
Chương III
Một số giải pháp hỗ trợ
Đổi mới quan điểm , phương thức hỗ trợ
Đổi mới quan điểm hỗ trợ
a. Quan điểm hỗ trợ DN cần đặt trên cơ sở quan điểm , mục tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế đất nước
Hỗ trợ các DN phải được đặt trong tổng thể các giải pháp phát triển nền kinh tế cả nước.
Để có thể đổi mới quan điểm hỗ trợ các DN , trước hết cần nhận thức đúng vai trò quan trọng của các DN trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường và chiến lược kết hợp qui mô lớn trong sự đan xen qui mô. Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định: “Trong phát triển mới, ưu tiên qui mô, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việ ,làm thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình qui mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả”. Đây là một quan điểm chiến lược rất quan trọng vừa có ý nghĩa định hướng cho DN phát triển đúng đắn vừa định hướng hoạt động hỗ trợ cho các doanh nghiệp này từ phía các ngành các cấp. Như vậy, hỗ trợ cho các DN không phải là sự ban ơn mà là trách nhiệm của các tổ chức Đảng, chính quyền và toàn xã hội , trong đó có các doanh nghiệp lớn.
b. Quan điểm hỗ trợ trên cơ sở lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm thước đo
Vấn đề này tưởng như là hiển nhiên nhưng trên thực tế ở Việt Nam vẫn chưa được thực hiện đúng mức.
Hỗ trợ DN theo quan điểm hiệu quả kinh tế – xã hội thể hiện: một mặt, hỗ trợ nhằm đạt được mục đích làm cho các DN kinh doanh hiệu quả hơn ; mặt khác cần tính đến hiệu quả của việc hỗ trợ. Trong điều kiện nguồn lực có hạn, nhu cầu hỗ trợ thì vô hạn nên cần phải xác định thứ tự ưu tiên. Dưới đây là một số nét chính:
- Hỗ trợ trước hết đối với doanh nghiệp ngành, lĩnh vực có hiệu quả kinh tế: suất sinh lợi cao cả trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
- Hỗ trợ các DN nhằm đặt hiệu quả kinh tế – xã hội cao, bao gồm cả hiệu quả kinh tế và cả ý nghĩa xã hội trong từng giai đoạn phát triển, góp phần thực hiện các mục đích xã hội như giải quyết việc làm, công bằng xã hội, xoá đói, giảm nghèo…
- Hỗ trợ DN làm ăn hiệu quả đồng thời gắn với việc bảo vệ môi trường sinh thái. Như vậy, hiệu quả không chỉ đơn thuần là hiệu quả kinh tế mà cả hiệu quả sinh thái ( hiện nay, khái niệm “hiệu quả xanh”- green productivity đang khá phổ biến ở nhiều nước). Qua nghiên cứu thực tế ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng, tình trạng ô nhiễm môi trường đang rất nghiêm trọng, trong đó, các DN đã “góp phần to lớn” vào việc làm ô nhiễm đó (do công nghệ của các doanh nghiệp này quá lạc hậu, các sơ quan chức năng chưa có biện pháp hữu hiệu để kiểm soát nhằm hạn chế việc gây ô nhiễm). Nhà nước đã chi rất nhiều công sức, tiền của để khắc phục nhưng kết quả đạt được không đáng kể.
- Hỗ trợ theo phương thức hiệu quả nhất : xu hướng hỗ trợ ở nhiều nước là giản những tác động trực tiếp, tăng những giải pháp gián tiếp; tác động ít nhưng hiệu quả cao và hiệu ứng rộng. Hiện nay ở các nước có rất nhiều cách thức có hiệu quả: chẳng hạn, thay vì cấp vốn lãi suất ưu đãi hoặc bắt buộc các ngân hàng cho các doanh nghiệp vay thì chỉ cần trợ cấp lãi suất (nhà nước bù chênh lệch lãi suất giữa lãi suất thị trường và lãi suất cho vay ưu đãi đối với DN).
- Kết hợp hỗ trợ của nhà nước với hỗ trợ của cộng đồng, thông qua các hiệp hội nghề nghiệp, sự hỗ trợ của các doanh nghiệp lớn, sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức trong và ngoài nước.
c. Hỗ trợ DN cần thiết thực và gắn với thực tế
Điều đó có nghĩa là hỗ trợ những mắt khâu mà doanh nghiệp rất cần mà tự doanh nghiệp không thể giải quyết được, đồng thời việc hỗ trợ cần gắn với điều kiện cụ thể của từng địa phương, trong từng thời kỳ nhất định. Ngoài ra, cần tìm những phương thức phù hợp để các nguồn lực hỗ trợ đến đúng đối tượng, tránh thất thoát có thể xảy ra.
d. Hỗ trợ DN nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng ngành nghề
Trong chính sách hỗ trợ cần có những vấn đề chung, nhưng đồng thời cần có những điểm riêng biệt để phát huy lợi thế của từng vùng, từng ngành nghề. Chẳng hạn, cần chú trọng đặc điểm phát triển và những khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp ở nông thôn ở miềm núi khác với ở các đô thị; việc khuyến khích các làng nghề truyền thống khác với việc phát triển các nghề mới, phát triển các ngành cần nhiều lao động khác với các nghề cần nhiều vốn… Hiện nay, nhiều tiềm năng trong dân, như: Vốn, lao động, tay nghề tinh xảo, trí tuệ, kinh nghiệm kinh doanh… cũng như các tiềm năng tự nhiên như khả năng phát triển du lịch, dịch vụ… chưa được khai thác tốt. Việc khuyến khích doanh nghiệp không nên dàn đều mà căn cứ vào lợi thế của từng nơi, từng ngành nghề để có giải pháp hỗ trợ đúng lúc, đúng cách.
e. Hỗ trợ doanh nghiệp nhằm làm cho các doanh nghiệp này phát triển theo hướng công nghiệp hoá, kinh doanh ngày càng văn minh, hiện đại.
Để thực hiện mục đích công nghiệp hoá, hiện đại hoá , cần đặc biệt chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp trong các khâu quan trọng như công nghệ, đào tạo chủ doanh nghiệp, cung cấp thông tin thị trường và dự báo xu hướng phát triển trong nước và quốc tế… Đồng thời, cần có những giải pháp để khuyến khích đầu tư công nghệ sạch, công nghệ mới, tìm kiếm các giải pháp cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất,… Để thúc đẩy các doanh nghiệp kinh doanh ngày càng văn minh, cần khuyến khích các doanh nghiệp này kinh doanh đúng luật, làm ăn công khai… Cùng với việc hỗ trợ, cần thiết phải có biện pháp tốt để kiểm soát việc sử dụng các công nghệ, đặc biệt là công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường.
Đổi mới phương thức hỗ trợ:
Việc lựa chọn phương thức hỗ trợ có ý nghĩa quan trọng, quyết dịnh tính thực thi và hiệu quả của các hình thức hỗ trợ. Phương thức hỗ trợ doanh nghiệp trên thực tế ở Việt Nam hiện nay thường theo hai hướng: đối với các doanh nghiệp Nhà nước quy mô trong thời kỳ đầu thì thiên về hỗ trợ trực tiếp (cấp vốn, cấp mặt bằng, đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp) với nhiều chính sách ưu đãi hơn; đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, phương thức hỗ trợ chủ yếu là gián tiếp dưới dạng giảm thuế, cho vay với lãi suất ưu đãi… Tuy nhiên, mức độ hỗ trợ còn ít ỏi so với nhu cầu của các doanh nghiệp.
Có nhiều phương thức hỗ trợ doanh nghiệp: hỗ trợ trực tiếp, hỗ trợ gián tiếp, kết hợp cả trực tiếp và gián tiếp, hỗ trợ dẫn đường (đi tiên phong), hỗ trợ thông qua trung gian…
Hỗ trợ trực tiếp bao gồm:
- Đơn giản hoá thủ tục cấp giấy phép, rút giấy phép, kiểm tra.
- Cấp vốn
- Xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Đào tạo chủ doanh nghiệp,
- Cung cấp thông tin
- Cung cấp ưu đãi về mặt bằng sản xuất kinh doanh.
Hỗ trợ gián tiếp chủ yếu là tác động thông qua môi trường kinh doanh nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển. Các giải pháp chủ yếu là:
- Hình thành môi trường kinh doanh ổn định, an toàn và bảo hộ quyền lợi hợp pháp cho các doanh nghiệp (bao gồm môi trường thể chế, môi trường luật pháp, môi trường thị trường, môi trường cơ sở hạ tầng…)
- Ưu đãi về thuế (giảm , miễn thuế).
- Bảo hộ sản xuất trong nước hợp lý, chống nhập lậu hàng ngoại
- Tạo điều kiện để các doanh nghiệp hợp tác liên doanh với nước ngoài. Hỗ trợ dẫn đường: Nhà nước có vai trò đi tiên phong trong những lĩnh vực khó để mở đường cho đến lúc các doanh nghiệp có thể đứng vững.
Hỗ trợ thông qua trung gian: thông qua các trung tâm hỗ trợ, các công ty tư vấn, các viện nghiên cứu…
Ở Việt Nam hiện nay, để hỗ trợ có kết quả tốt, cần chú trọng một số phương thức sau:
Kết hợp hỗ trợ trực tiếp với hỗ trợ gián tiếp. Trong đó, cần đặc biệt chú trọng các giải pháp: Đơn giản hoá thủ tục hành chính; hỗ trợ thông qua chiến lược, chính sách đồng thời với hỗ trợ trực tiếp thông qua cung cấp cơ sở hạ tầng, trợ cấp lãi suất, miễn, giảm thuế; hỗ trợ đào tạo chủ doanh nghiệp; cung cấp thông tin về công nghệ, thị trường trong và ngoài nước, khuyến khích các hình thức hỗ trợ mang tính cộng đồng, liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp bởi cơ cấu sản xuất nhiều tầng…
Ngoài ra, cần chú ý tới cách thức hỗ trợ bằng quy hoạch phát triển, tạo lập cơ sở hạ tầng, xây dựng các cơ sở kinh tế làm tiên phong trong một số lĩnh vực đòi hỏi nhiều vốn như công nghệ cao; hỗ trợ thông qua các tổ chức trung gian như ngân hàng, các trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp cũng như có biện pháp cụ thể, thiết thực khuyến khích hình thành và phát triển các công ty dịch vụ tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp (thay vì Nhà nước phải đứng ra thành lập các cơ sở hỗ trợ thì chỉ cần hỗ trợ một phần cho các trung tâm này hoạt động).
Các giải pháp hỗ trợ DNNVV
Tháng 6-2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định 56/2009/NĐ-CP quy định cụ thể chính sách trợ giúp phát triển DNNVV về tài chính, mặt bằng sản xuất; đổi mới năng lực công nghệ... Chính phủ cũng cho phép DNNVV tham gia kế hoạch mua sắm, cung ứng dịch vụ công nhằm hỗ trợ DNNVV phát triển mảng dịch vụ.
Khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu gây tác động tiêu cực đến Việt Nam, Chính phủ đã kịp thời ban hành những giải pháp tài chính, hỗ trợ DNNVV vượt qua khó khăn: thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng (BLTD) hỗ trợ DNNVV; thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất 4% cho DN vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh; hỗ trợ 50% lãi suất khi vay vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội,...
Nhiều tổ chức cũng đã tăng cường hỗ trợ cho các doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn. Ngân hàng TNHH Một thành viên HSBC (Việt Nam) đã cam kết sẽ tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp trong giai đoạn khó khăn này với nhiều sản phẩm và dịch vụ ngân hàng đa dạng và được thiết kế riêng cho thị trường Việt Nam.
Tuy nhiên, dường như chưa có chính sách và chương trình hỗ trợ cụ thể nào dành riêng cho các doanh nghiệp. Thêm vào đó với các điều kiện để tiếp cận với những hỗ trợ, đặc biệt là đối với gói kích thích kinh tế thì dường như đối tượng chủ yếu lại vẫn là các doanh nghiệp lớn với đầy đủ thủ các yêu cầu hơn so với các DNNVV. Theo ông Vũ Xuân Tiền - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Tư vấn quản lý và Đào tạo VFAM Việt Nam, không có những giải pháp chung nhất nhằm hỗ trợ DNNVV trước những thách thức lớn mới phát sinh. Một trong những giải pháp cụ thể nhất là thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP thì việc thực hiện lại rất hạn chế. Trên thực tế, mới chỉ có 9/63 tỉnh, thành trên cả nước lập quỹ BLTD. Thống kê cho thấy, đến hết quý III-2009, Ngân hàng Phát triển Việt Nam mới phát hành được 813 chứng thư bảo lãnh với giá trị 4.908 tỷ đồng, quá khiêm tốn so với nhu cầu vay vốn phát triển sản xuất của DNVVN trong bối cảnh nền kinh tế trên đà khôi phục tăng trưởng. Theo ông Nguyễn Hoàng Lưu, Phó Chủ tịch Hiệp hội DNNVV Việt Nam, có nhiều nguyên nhân khiến cộng đồng thờ ơ với việc thành lập quỹ như: quy định ngân sách địa phương phải đóng góp tối thiểu 30% vốn điều lệ là rất khó, bởi nhiều địa phương còn nghèo, có nhiều DNVVN cần hỗ trợ nên không đáp ứng xuể; mục đích hoạt động phi lợi nhuận cũng khiến quỹ này khó đi vào hoạt động. Bởi để quỹ có nguồn vốn dồi dào, ngoài vốn ngân sách, phải huy động vốn từ cộng đồng doanh nghiệp và các nguồn vốn khác.
2.1. Chính sách hỗ trợ gia nhập thị trường
- Đối với tên DN, cần hoàn tất kho dữ liệu tên DN và nối mạng quốc gia để mỗi khi lập hồ sơ, doanh nhân có thể tra cứu, tránh sự trùng lắp hoặc nhầm lẫn tên, tránh tình trạng chờ đợi. Triển khai thực hiện nộp hồ sơ, sửa hồ sơ qua mạng, nhà đầu tư chỉ mất một lần đến trực tiếp ký nhận giấy chứng nhận ĐKKD. Bằng cách này, người dân có thể lập hồ sơ và sửa hồ sơ tại nhà, giảm tối đa chi phí đi lại và thời gian ĐKKD.
- Đối với chi phí khắc dấu, cần thay đổi tư duy quản lý con dấu theo cơ chế như các nước khác: DN tự qui định con dấu, tự khắc dấu với những ký hiệu do mình sáng tạo, nhưng trước khi sử dụng phải đăng ký mẫu dấu với cơ quan ĐKKD và cơ quan công an để quản lý mẫu dấu. Phương pháp này chắc chắn sẽ rút ngắn được thời gian có được con dấu.
- Cuối cùng, để thực sự thúc đẩy các DN của KVKTTN phát triển, cần phải thay đổi trên nhiều mặt từ tư duy ý thức hệ, luật pháp, chính sách đến năng lực, thái độ và phương thức làm việc của bộ máy nhà nước. Yêu cầu xuyên suốt từ xây dựng chủ trương, chính sách, luật pháp đến thực thi là mở tối đa cho dân làm và phải có lòng tin ở dân, bảo đảm an toàn về lợi ích chính đáng và hợp pháp của dân.
2.2. Chính sách thuế
Ngành thuế cần triển khai thực hiện những giải pháp sau:
- Trong việc ban hành các văn bản pháp quy về thuế, cần cú cơ chế tham gia rộng rãi của các đối tượng chịu thuế. Cơ chế này phải thu hỳt sự tham gia của người dân, đặc biệt là doanh nhân và sự phản biện của xã hội, để các doanh nhân có tiếng nói của mình ngay từ quá trình lập pháp. Chỉ khi đó các văn bản pháp quy về thuế mới là sự thoả thuận xã hội mà các bên liên quan, kể cả cơ quan công quyền và DN đều phải chấp hành nghiêm chỉnh.
- Nghiên cứu bỏ chế độ khoán thuế; áp dụng rộng rãi biện pháp đăng ký và DN tự in hóa đơn, tiến tới áp dụng việc DN tự khai và tự nộp thuế trên phạm vi toàn quốc.
- Hoàn thiện thuế GTGT theo hướng giảm bớt số lượng nhóm hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế tạo điều kiện cho việc tính thuế, khấu trừ thuế được liên hoàn giữa các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh; áp dụng một mức thuế suất để đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế và đơn giản trong việc tính thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ; hoàn thiện phương pháp tính thuế, tiến tới xác định ngưỡng doanh thu chịu thuế GTGT để thực hiện một phương pháp tính thuế khấu trừ, phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Hoàn thiện thuế TNDN theo hướng giảm mức thuế suất, giảm diện miễn, giảm thuế, thống nhất mức thuế suất và ưu đãi thuế giữa các thành phần kinh tế để khuyến khích đầu tư và đảm bảo bình đẳng trong cạnh tranh.
- Sớm ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) ỏp dụng đối với người có thu nhập theo hướng mở rộng đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, xoá bỏ sự khác biệt giữa đối tượng nộp thuế là người Việt Nam và người nước ngoài.
2.3. Chính sách tín dụng
Việc cần làm ngay là nhanh chóng củng cố hệ thống tài chính. Sau đây là một số biện pháp mang tính khái quát:
- Nhanh chóng hiện đại hoá mạng lưới công nghệ thông tin trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là cần triển khai việc nối mạng máy tính trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Biện pháp này giúp ngân hàng tăng hiệu quả hoạt động, giảm thiểu tối đa các rủi ro nhờ việc thu thập chính xác các thông tin cần thiết về khách hàng và hạn chế được các sai lầm khi đưa ra quyết định tín dụng.
- Xây dựng hệ thống đăng ký thế chấp, tiến tới nối mạng toàn quốc để tạo thuận lợi cho DN, phòng chống hành vi lạm dụng, lừa đảo trong hoạt động thế chấp. Thực tế đã cho thấy hình thức cho vay có đảm bảo bằng cầm cố các giấy tờ có giá như thương phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi... của các TCTD là một hình thức rất linh hoạt, thuận tiện cho cả người đi vay và người cho vay vì thủ tục đơn giản, nhanh chóng. Hơn thế nữa, hình thức này tương đối an toàn và độ rủi ro được hạn chế ở mức thấp nhất. Các TCTD không cần quan tâm hay không phải quan tâm nhiều lắm đến khả năng tài chính của khách hàng mà chỉ cần tập trung đánh giá tình hình tài chính của các đơn vị phát hành.
- Nhà nước cần có những biện pháp để mở rộng, phát triển thị trường cho thuê tài chính. Tín dụng thuê mua là một hình thức quan trọng của đầu tư, là biện pháp thay thế vốn ngân hàng giúp cho các DN ít vốn hoặc không có tài sản thế chấp dễ dàng có được tài sản để tiến hành sản xuất kinh doanh.
- Cần xây dựng và mở rộng hoạt động của các Quỹ đầu tư rủi ro, các công ty kinh doanh và khai thác nợ. Các định chế này có thể do tư nhân quản lý.
- Cần có Chương trình hỗ trợ vốn cho các DN thuộc KVKTTN. Trước thực trạng thiếu vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của KVKTTN Việt Nam, Nhà nước cần xác lập và triển khai càng sớm càng tốt chương trình hỗ trợ vốn cho các DN thuộc KVKTTN, trước hết là các DNVVN. Trong đó, hỗ trợ vốn cho cả hai loại: hỗ trợ vốn đầu tư ban đầu để hình thành DN và hỗ trợ vốn vay khi DN kinh doanh thiếu vốn, có nhu cầu đầu tư mở rộng quy mô kinh doanh.
- Cần xem xét việc xây dựng chương trình bảo lãnh tín dụng. Chương trình này cung cấp những bảo đảm cho các khoản vay cho các ngân hàng, thực hiện mục tiêu bù đắp cho bên cho vay (ngân hàng) phần lớn chi phí rủi ro, trong trường hợp bên vay (các DN) không hoàn trả được khoản vay của mình. Việc thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng ở các địa phương theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP là một biện pháp quan trọng cần được triển khai rộng khắp.
2.4. Chính sách đất đai
Về lâu dài, các chính sách tài chính về đất đai phải được hoàn thiện tập trung vào:
- Tạo lập và hoàn thiện có chế tài chính cho thị trường bất động sản. Định hướng, điều tiết và kiểm soát thị trường bất động sản, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia thị trường.
- Hoàn thiện chính sách xử lý quỹ đất tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng bằng cách hướng dẫn đấu giá quyền sử dụng đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng gắn với thu chi NSNN theo Luật Ngân sách Nhà nước.
- Nhà nước xây dựng kế hoạch và có biện pháp thực hiện triệt để việc thu hồi đất đã được giao hay cho tổ chức thuê đang để hoang hoá, không sử dụng, hoặc sử dụng sai mục đích, ...
- Triển khai thực hiện tốt công tác quy hoạch đất, công bố rộng rãi, công khai các hạng mục, diện tích kêu gọi đầu tư hoặc cho đấu thầu diện tích đất.
- Tách việc cho thuê đất nguyên thổ và hoạt động kinh doanh hạ tầng các KCN, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Như vậy mới thực hiện được việc ưu đãi đầu tư cho DN một cách thích đáng.
- Để tạo lập và phát triển thị trường bất động sản chính thức, cần khuyến khích người sử dụng đất đăng ký, kê khai giao dịch đất đai tại cơ quan nhà nước. Các tỉnh, thành phố cần khẩn trương thành lập cơ quan quản lý quỹ đất với chức năng đăng ký, cho thuê, giao và thực hiện các giao dịch về đất như đấu giá, đấu thầu đất cũng như các giao dịch khác có liên quan.
2.5. Chính sách hỗ trợ phát triển kinh doanh
Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực DN đã thúc đẩy sự phát triển của thị trường DVPTKD. Các quy định liên quan đến DVPTKD còn thiếu và hạn chế do thị trường này phát triển muộn hơn các thị trường khác. Vì vậy, việc hoàn thiện và nâng cao hệ thống pháp lý nói chung và khu vực DVPTKD nói riêng là rất cần thiết để thị trường này phát triển phù hợp với vai trò và vị trí của nó trong nền kinh tế. Cụ thể là:
- Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến phát triển thị trường DVPTKD.
- Loại bỏ những rào cản không hợp lý làm cản trở hoặc hạn chế nhu cầu sử dụng các DVPTKD. Chẳng hạn, xem xét và loại bỏ những cản trở không hợp lý về vấn đề chi phí đối với việc sử dụng các DVPTKD; nên áp dụng mức thuế thấp hoặc miễn thuế đối với các nhà cung cấp DVPTKD.
- Nâng cao hiểu biết về chính sách đối với DVPTKD thông qua tuyên truyền, qua tổ chức các cuộc hội thảo, các khoá đào tạo, cũng như những hoạt động của các hiệp hội kinh doanh... nhằm giúp cho các doanh nhân nhận thức đầy đủ và rõ ràng hơn những lợi ích của việc sử dụng các dịch vụ bên ngoài so với hệ thống tự cung - tự cấp của DN.
- Nhà nước cần hỗ trợ cho các nhà cung cấp DVPTKD nhằm tăng cường khả năng cung cấp của họ, đặc biệt là hỗ trợ nguồn nhân lực, công nghệ, kỹ thuật và kỹ năng tiếp thị... để họ có thể đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng.
- Hàng năm, Nhà nước thông qua các tổ chức và bằng các cơ chế thích hợp cần đánh giá khả năng của các nhà cung cấp DVPTKD dựa trên các tiêu chuẩn và điều kiện đã đặt ra. Dựa trên đánh giá này Chính phủ lập ra một danh sách các nhà cung cấp đạt các yêu cầu của các khách hàng sử dụng DVPTKD và sau đó hỗ trợ cho các nhà cung cấp để họ có thể tăng khả năng cung cấp DVPTKD cho các DN, đặc biệt là các DNNVV.
- Tiến hành xây dựng các Chương trình chiến lược phát triển thị trường DVPTKD cho DNNVV ở Việt Nam sẽ là giải pháp quan trọng. Một trong những nội dung quan trọng của Chiến lược này là phải xác định được mục tiêu phát triển thị trường DVPTKD, xác định tỷ lệ tăng trưởng của thị trường này. Đồng thời trong Chiến lược này cũng phải đưa ra được các giải pháp chủ yếu để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ thị trường này trong giai đoạn 2006-2010 và tầm nhìn 2020. Chỉ khi xây dựng được một chiến lược như vậy thì việc hỗ trợ phát triển các DNNVV mới thực sự có hiệu quả.
- Các chương trình thưởng xuất khẩu, trợ giá xuất khẩu cần phải được thiết kế lại theo hướng không vi phạm các cam kết quốc tế.
2.6. Chính sách hỗ trợ công nghệ
Các cơ chế chính sách của Nhà nước ban hành cần đồng bộ, phối kết hợp với các cấp, các ngành; phối hợp cơ chế chính sách liên quan tới KH&CN với cơ chế chính sách kinh tế-xã hội vĩ mô nhằm tạo những điều kiện thuận lợi cho đổi mới công nghệ. Cơ chế, chính sách thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ và ứng dụng công nghệ cao ở Việt Nam trong thời gian tới phải gắn liền với những đổi mới khác trong cơ chế quản lý kinh tế- xã hội, gắn với việc nâng cao trình độ quản lý doanh nghiệp và năng lực công nghệ của lực lượng làm khoa học công nghệ của nước ta. Nói cách khác, có công nghệ phải đi liền với có nguồn nhân lực hợp lý để sử dụng công nghệ thì mới bảo đảm hiệu quả của yếu tố công nghệ đối với nâng cao năng lực cạnh tranh.
Để cụ thể hóa hơn nữa chính sách hỗ trợ phát triển khoa học công nghệ, trong thời gian tới, các Bộ, ngành cần khẩn trương xây đựng và ban hành những thông tư hướng dẫn cho những Nghị định, Quyết định đã được Chính phủ ban hành.
Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực đổi mới công nghệ cho DN, tạo điều kiện và môi trường pháp lý đầy đủ để hình thành và phát triển các loại hình doanh nghiệp dịch vụ công nghệ, thông tin công nghệ, hình thành mạng lưới thông tin công nghệ và đổi mới công nghệ ở trung ương và địa phương phục vụ các doanh nghiệp.
Phát triển KVKTTN ở Việt Nam là một quá trình lâu dài. Nhiều chính sách mang tính khuyến khích, hỗ trợ cho sự phát triển KVKTTN mới chỉ được ban hành trong khoảng 10 năm trở lại đây. Do đó, chúng vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Tuy nhiên, với sự năng động của các DN thuộc KVKTTN Việt Nam và những đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế thế giới, chắc chắn KVKTTN Việt Nam sẽ phát triển rất nhanh chóng và sẽ trở thành một động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế đất nước. Trong bối cảnh đó, các chính sách hỗ trợ của Nhà nước sẽ phải ngày càng được hoàn thiện để có thể là “bà đỡ” cho sự phát triển của KVKTTN Việt Nam./.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Tiếp tục cụ thể hoá và đẩy mạnh việc thực thi các quy định của Nghị định 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ về hỗ trợ các DNNVV liên quan đến các vấn đề: trợ giúp tài chính, trợ giúp về mặt bằng sản xuất kinh doanh, xúc tiến mở rộng thị trường, ưu tiên tham gia cung cấp các hợp đồng mua sắm, cung ứng dịch vụ công. Để triển khai các hoạt động liên quan đến việc hỗ trợ DNNVV, cần đẩy nhanh các công việc như:
Triển khai kịp thời và đồng bộ những biện pháp nhằm trợ giúp pháp lý cho các doanh nghiệp nói chung trong đó đặc biệt quan tâm tới các DNNVV. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến DNNVV, các văn bản hướng dẫn của các Bộ ngành liên quan đến các vấn đề về hỗ trợ DNNVV quy định tại Nghị định 56/2009/NĐ-CP. Thúc đẩy quá trình thực thi các quy định này một cách có hiệu quả.
Xây dựng các chương trình trợ giúp cụ thể từ cấp Trung ương đến địa phương trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế- xã hội, phát triển ngành, địa bàn và được bố trí trong kế hoạch hàng năm và 5 năm.
Các chương trình trợ giúp DNNVV trước khi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phải lấy ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương, cộng đồng các doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu để bảo đảm tính thống nhất, tính hiệu quả và kết hợp lồng ghép với các chương trình trợ giúp DNNVV khác của Nhà nước.
Đẩy nhanh việc thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng tại các địa phương để hướng dẫn và thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV. Tổ chức tập huấn và đào tạo cho các cán bộ của các quỹ bảo lãnh tín dụng tại các địa phương về kỹ năng, nghiệp vụ thực hiện bảo lãnh đối với các DNNVV.
Nhanh chóng thành lập Quỹ phát triển DNNVV để thu hút nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, từ các tổ chức trong nước, các khoản viện trợ, tài trợ của các tổ chức quốc tế. Theo quy định tại Nghị định 56/2009/NĐ-CP thì mục đích của Quỹ này tài trợ các chương trình giúp nâng cao năng lực cạnh tranh cho DNNVV, chú trọng hỗ trợ hoạt động đổi mới phát triển sản phẩm có tính cạnh tranh cao và thân thiện với môi trường; đầu tư, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến; phát triển công nghiệp hỗ trợ; nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp.
Để giúp các DNNVV tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tín dụng chính thức, cần phải thay đổi điều kiện cho vay, từ cho vay thế chấp sang cho vay tín chấp. Việc cho vay tín chấp sẽ làm tăng rủi ro đối với các ngân hàng và tổ chức tín dụng, vì vậy cần nâng cao năng lực đánh giá, thẩm định dự án của cán bộ ngân hàng nhằm đánh giá chính xác hơn khả năng sinh lời của dự án vay vốn từ đó lựa chọn cho vay đối với những dự án tiềm năng mà các DNNVV xây dựng. Việc hỗ trợ nên tập trung vào các DN đang có tiềm năng phát triển, sản phẩm tốt, thị trường tốt.
Đẩy mạnh việc xã hội hóa trong việc huy động vốn cho quỹ BLTD tại địa phương. Theo đó, ngoài nguồn vốn ngân sách như quy định, nên huy động thêm các nguồn vốn từ địa phương, cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng,... tạo tiềm lực tài chính cho quỹ BLTD hoạt động. Đồng thời, cần có những chính sách hỗ trợ hợp lý như thuế, cho thuê mặt bằng làm trụ sở,... nhằm khuyến khích các tổ chức tham gia hoạt động BLTD cho DNNVV hiệu quả.
Dấu hiệu phục hồi kinh tế thế giới mang đến những cơ hội mới cho các DNNVV, tuy nhiên nó cũng kéo theo những khó khăn về lạm phát và tăng giá của nhiều mặt hàng trên thế giới. Điều này sẽ làm chi phí đầu vào của các DN tăng cao. Vì vậy trong thời gian tới Chính phủ và các địa phương, trong phạm vi quyền hạn của mình dựa trên tình hình thực tế của các doanh nghiệp cần đưa ra các chính sách miễn, giảm thuế cụ thể đối với một số doanh nghiệp trong một số ngành, lĩnh vực gặp nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó việc cải cách thủ tục hành chính cũng là một trong những vấn đề đáng quan tâm. Việc vay vốn của các DNNVV hiện nay vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc lập dự án (cả do chuyên môn cũng như yêu cầu từ phía tổ chức tín dụng). Trong khi đó, khả năng đánh giá tính khả thi và mức độ hiệu quả của các cán bộ của các tổ chức tín dụng, ngân hàng chịu trách nhiệm cho vay còn yếu, việc đánh giá dường như chưa tuân thủ theo những quy trình tốt nên nhiều dự án có tiềm năng vẫn bị bỏ qua. Vì vậy, nếu không cải cách thủ tục hành chính thì các DNNVV vẫn còn tiếp tục gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn.
Tiếp tục thực hiện Chương trình hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho các DNNVV cho giai đoạn 2009 – 2013. Việc hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho các DNNVV sẽ cho phép các DNNVV chuẩn bị tốt hơn cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong tương lai khi nền kinh tế thế giới phục hồi, đi vào ổn định và tăng trưởng cao. Khó khăn về lao động có kỹ năng và tay nghề cao sẽ trở lại mạnh mẽ hơn khi nền kinh tế phục hồi, các doanh nghiệp, tập đoàn lớn mở rộng sản xuất, kinh doanh vì khi đó các doanh nghiệp này sẽ thu hút một lượng lớn lao động để đáp ứng yêu cầu sản xuất mới.
Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các DNNVV tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại, học tập kinh nghiệm ở nước ngoài. Việc tham gia các hoạt động này sẽ giúp các DNNVV nâng cao kỹ năng về thương mại, mở rộng thị trường và tìm kiếm thị trường mới. Thêm vào đó các DNNVV khi tham gia các chuyến khảo sát, học tập nước ngoài sẽ tìm hiểu sâu hơn về văn hóa kinh doanh cũng như kinh nghiệm trong việc định hướng và phát triển kinh doanh theo hướng ổn định và lâu dài, giảm bớt các hoạt động kinh doanh theo sự vụ, thiếu ổn định mà nhiều doanh nghiệp Việt Nam nói chung và DNNVV nói riêng đã và đang áp dụng.
Kết luận
Sau hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã thu được những kết quả đáng khích lệ. GDP tăng trưởng với tốc độ bình quân 7%/năm. Thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên 640 USD/người/năm. Có được những thành tựu này là nhờ những chính sách huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế. Một trong những nguồn lực được huy động chính là từ các DNVVN.
Dự thảo Nghị quyết Đại hội Đảng 10 đã khẳng định “khu vực kinh tế tư nhân là một động lực của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Không có sự hỗ trợ nào tốt cho kinh tế tư nhân bằng việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho họ. Trong bối cảnh kinh tế thị trường trong nước và sự hội nhập vào kinh tế khu vực và quốc tế, các yếu tố khác quan của môi trường kinh doanh ngày càng có cơ hội tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tình trạng lên xuống đột biến của giá cả hàng hoá và dịch vụ, các hàng rào thương mại quốc tế dưới nhiều hình thức, sự bất ổn về chính trị và xã hội, bệnh dịch và thiên tai... luôn là các yếu tố thật khó lường đối với doanh nghiệp. Chính trong bối cảnh đó, sự nhanh nhạy trong các chính sách của chính phủ sẽ giúp doanh nghiệp phần nào khắc phục những hậu quả xấu do các yếu tố bất ngờ đó gây ra cho hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy, để cho DNVVN thực sự trở thành động lực của nền kinh tế, các chính sách của nhà nước phải thực sự tạo điều kiện cho sự phát triển lành mạnh của kinh tế tư nhân thông qua việc tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi cho họ. Cụ thể là các chính sách đó phải chú trọng vào việc tạo ra một môi trường kinh doanh, trong đó các chi phí về tài chính, về thời gian và sức lực liên quan đến việc tuân thủ pháp luật, các quy định và thủ tục hành chính phải phù hợp và không làm tổn hại đến lợi ích của doanh nghiệp và phải giúp doanh nghiệp khắc phục được các trở ngại khách quan trong môi trường kinh doanh.
Quá trình phát triển DNVVN ở Việt Nam là một quá trình lâu dài. Nhiều chính sách mang tính khuyến khích, hỗ trợ cho sự phát triển của DNVVN mới chỉ được ban hành trong khoảng 10 năm trở lại đây. Do đó, chúng vẫn còn nhiều khiếm khuyết do chúng ta “vừa làm vừa rút kinh nghiệm”. Tuy nhiên, với sự năng động của DNVVN và những đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế thế giới đang không ngừng vận động, chắc chắn rằng DNVVN Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng, sẽ phát triển rất nhanh chóng để trở thành một động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế đất nước. Trong bối cảnh đó, các chính sách hỗ trợ của nhà nước sẽ phải ngày càng được cải thiện để có thể là “bà đỡ” cho sự phát triển của DNVVN Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Kế hoạch kinh doanh – NXB Lao Động – Xã Hội 2005.
Tạp chí doanh nghiệp & Hội nhập.
Báo doanh nghiệp Việt Nam.
Giáo trình Quản trị doanh nghiệp – NXB Đại học kinh tế Quốc dân.
Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển DNV&N ở Việt Nam đến năm 2005 – NXB Chính trị Quốc gia.
CIEM. (2009). Khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu và việc chủ động ứng phó của Việt Nam. Unpublished Thông tin chuyên đề. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương.
Hỗ trợ tài chính cho DNV&N của Đài Loan - Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Hà Nội, 2001 số 37.
Nghị định về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa – Số: 56/2009/NĐ-CP.
Phạm Thái Quốc, Kinh tế Đài Loan - tình hình và chính sách, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội/1999.
CIEM. (2002). Một số định hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam giai đoạn 2001- 2010.
CIEM. (2004). Báo cáo 10 năm thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước.
KHĐT (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) (2003) Báo cáo mạnh yếu Luật Doanh nghiệp. Bộ Kế hoạch Đầu tư, 2003.
KHĐT (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) (2004) Báo cáo bốn năm thi hành Luật Doanh nghiệp. Bộ Kế hoạch Đầu tư, 2004.
Kinh tế và dự báo (2003) Kết quả thực hiện Luật Doanh nghiệp. Số 11/2003.
Lê Khắc Triết (2005) Đổi mới và phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25690.doc