Đề tài Hỗ trợ xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam: Hiện trạng và giải pháp

Thành quả đạt được qua những năm đổi mới, nhất là 10 năm gần đây, đã tạo thế và lực mới; công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đã có những bước tiến cơ bản; các mặt xã hội, trình độ dân trí, chất lượng nguồn lực và tính năng động trong xã hội được nâng lên; tình hình chính trị xã hội cơ bản được ổn định. Những kết quả trên có sự đóng góp không nhỏ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay để phát huy vai trò của khu vực kinh tế này thì sự hỗ trợ của Chính phủ đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Qua phân tích thực trạng và tác động của các chính sách kinh tế đến hoạt động của các SME ở Việt Nam trong thời gian vừa qua có thể thấy được những tác động tích cực của những giải pháp mà Chính phủ đề ra. Tuy nhiên, trong thời gian tới, để tạo sự bình đẳng trong hoạt động xuất nhập khẩu giữa các loại hình doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và tiến trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Vì vậy, việc tiếp tục cải tạo và đổi mới các chính sách kinh tế nhằm hỗ trợ các SME đối với hoạt động xuất nhập khẩu là một vấn đề cấp bách hiện nay.

doc89 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1137 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hỗ trợ xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam: Hiện trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hằm hỗ trợ cho việc mua nguyên liệu và các sản phẩm trung gian để sản xuất hàng xuất khẩu. Lãi suất cho vay đối với xuất khẩu từ 6-10%, trong khi mức lãi suất chung là 17-23%. Từ cuối những năm 1980, sự chênh lệch lãi suất mới được xoá bỏ. Nếu xem xét mức lãi suất trên thị trường tài chính phi chính thức tại thời điểm đó vào khoảng hơn 30%, thì sự ưu đãi đối với xuất khẩu qua tín dụng lãi suất thấp thật lớn. Hầu như mọi khoản tín dụng xuất khẩu đều được hỗ trợ thông qua cơ chế tạo tiền của Ngân hàng Trung ương dưới hình thức chiết khấu. Trong khoảng thời gian từ 1976-1986 tỷ lệ tín dụng của Ngân hàng Hàn Quốc trong tổng số khoản vay của Ngân hàng nội địa là 79,4%, đặc biệt vào những năm 1973-1981 tỷ lệ này lên tới 90,1%. 3.3 Các chính biện pháp hỗ trợ khác Ngoài ra còn có rất nhiều biện pháp hỗ trợ khác của Chính phủ đối với hoạt động xuất nhập khẩu của các SME như chiết khấu thuế ra khỏi giá mua thiết bị và phương tiện đầu tư để sản xuất; trợ cấp cho việc cải tiến đóng gói và mẫu mã sản phẩm, mở rộng các phương tiện cung cấp dịch vụ kiểm tra hàng xuất khẩu, mở các trung tâm đào tạo tiếng nước ngoài, gửi các đoàn đến hội trợ triển lãm ở nước ngoài, tổ chức các cuộc triển lãm ở nước ngoài, tổ chức các cuộc triển lãm thương mại tại Hàn Quốc. Chính phủ Hàn Quốc cũng theo dõi chặt chẽ kết quả hoạt động xuất khẩu và hàng tháng hoặc hàng quý cung cấp các thông tin về các vấn đề kinh tế trong nước, về xu hướng của thị trường nước ngoài. Thông qua các cuộc họp thường kỳ do Tổng thống làm chủ tọa với sự tham dự của các quan chức cấp cao của Chính phủ để thực hiện xem xét kết quả hoạt động xuất khẩu. Nếu kết quả hoạt động xuất khẩu là yếu kém, thì Tổng thống sẽ thúc giục các quan chức có liên quan của Chính phủ và các nhà ngân hàng phải cung cấp hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa đối với xuất khẩu nhằm đạt được khối lượng xuất khẩu đề ra theo kế hoạch. Bằng cách đó, những cản trở đối với xuất khẩu được xoá bỏ một cách kịp thời phục vụ cho việc hỗ trợ SME. Một đặc điểm khác trong chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Chính phủ Hàn Quốc là sự hỗ trợ của Chính phủ cho xuất khẩu căn cứ vào kết quả xuất khẩu thực sự đạt được. Các nhà xuất khẩu được quyền nhận hỗ trợ chỉ là những doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu hàng năm vượt một mức nhất định. Để nhận được sự ưu đãi lớn hơn, các nhà xuất khẩu phải làm việc chăm chỉ và chuyên cần hơn, để cạnh tranh với nhau và với nước ngoài. Chiến thuật buộc các doanh nghiệp Hàn Quốc phải cạnh tranh với các công ty nước ngoài đã mang lại những lợi ích lớn trong việc đẩy mạnh sự học hỏi, tiếp thu kiến thức mới qua làm việc, qua đó rút ngắn thời gian cần thiết cho học tập. Chính sách hỗ trợ xuất nhập khẩu toàn diện nói trên đã đóng vai trò cơ bản để các SME của Hàn Quốc được mở rộng nhanh chóng và thu được kết quả mong muốn. Trên đây là những kinh nghiệm hỗ trợ cho các SME trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của một số nước trong khu vực Châu Á. Trên cơ sở những bài học kinh nghiệm của các nước đã trình bày ở trên, có thể làm bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hỗ trợ xuất nhập khẩu cho các SME trong điều kiện hiện nay, tuy nhiên, chúng ta áp dụng những bài học này một cách có chọn lọc không dập khuân máy móc. Trong chương III của chuyên đề này tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị nhằm hỗ trợ hiệu quả hoạt động kinh doanh XNK cho SME ở Việt Nam hiện nay. CHƯƠNG III- MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XNK CỦA SME Ở VIỆT NAM I- Cơ hội và những thách thức của SME trong hoạt động kinh doanh XNK trong cơ chế thị trường hiện nay 1. Cơ hội của SME trong hoạt động kinh doanh XNK Với việc ban hành Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990 ở Việt Nam, sự tồn tại của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt nam chính thức được pháp luật thừa nhận. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (hầu hết là các SME) đã được hình thành, phát triển và đóng góp một phần đáng kể cho sự tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam trong suốt thập kỷ qua. Tuy nhiên, theo nhận định của nhiều nhà kinh tế, các SME hiện nay chưa phát huy được hết tiềm năng của mình, còn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh đặc biệt là kinh doanh xuất nhập khẩu với điều kiện hội nhập hiện nay. Hiện tượng này, một phần là do bản thân các SME chưa có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường, chưa đủ năng động và sáng tạo trong kinh doanh, mặt khác, quan trọng hơn, là do chưa có một khung khổ chính sách rõ ràng của Nhà nước trong việc đưa ra những biện pháp hữu hiệu tạo điều kiện cho các SME phát huy hết khả năng của mình trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Những ưu thế của loại hình SME không chỉ được đưa ra trong lý luận mà còn được thể hiện một cách rõ ràng và thuyết phục trong thực tiễn ở nhiều nước trên thế giới. Theo nhìn nhận của một số chuyên gia, khu vực SME ở Việt Nam sẽ trở thành một động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế trong thời gian tới. Nếu được Nhà nước hỗ trợ một cách thoả đáng, khu vực này sẽ có một vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội ở Việt Nam. Chính vì vậy, nhiều công trình nghiên cứu đề tài SME đã được thực hiện ở Việt Nam với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu với sự hỗ trợ của một số tổ chức quốc tế. Thông qua những công trình nghiên cứu này, vai trò của khu vực SME ngày càng được nhận thức một cách rõ ràng và đầy đủ hơn. Hiện nay, trong thống kê vẫn chưa phân biệt được kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các SME nói chung và hoạt động thương mại quốc tế nói riêng. Do đó, không có số liệu cụ thể nhưng sự tăng trưởng xuất khẩu của khu vực này trong những năm qua không thể phủ nhận được. Mặc dù không có số liệu cụ thể để nói nên triển vọng của khu vực SME ngoài quốc doanh, nhưng những số liệu do cuộc khảo sát của CIEM và MPDF tiến hành vừa qua đối với 457 SME cũng phản ánh phần nào sự định hướng xuất khẩu của khu vực này trong thời gian tới. Theo số liệu của cuộc khảo sát thì khoảng 2/3 doanh nghiệp cho rằng đến năm 2005 trị giá xuất khẩu của họ sẽ tăng từ 10- 20%. Các ngành chế biến thực phẩm, may mặc, nội thất và sản phẩm từ gỗ dự liệu xuất khẩu hơn 80%, thậm chí là 100% giá trị sản lượng của mình. Không có gì phải ngạc nhiên khi các ngành đòi hỏi "công nghệ kỹ thuật cao" và nhiều vốn như máy móc, dụng cụ, ôtô dự kiến tăng trưởng xuất khẩu vào nhóm 40%. Trong thời kỳ 2001-2005, thị trường xuất khẩu chủ yếu của các SME là Châu Âu, thị trường tiếp đến là thị trường Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng kông và Singapo. Điều này có nghĩa là xuất khẩu sang thị trường các nước phương tây sẽ chiếm ưu thế hơn so với thị trường Châu Á. Theo kết quả điều tra của CIEM và MDPF về các SME khảo sát thì tỷ lệ xuất khẩu sang các thị trường trong thời kỳ 2001-2005 như sau: Bảng 11: Thị trường xuất khẩu của các SME 2001-2005. Tỷ trọng (%) 1. Thị trường Châu Âu 2. Thị trường Mỹ 3. Thị trường Nhật Bản 4. Thị trường Đài Loan 5. Thị trường Hồng kông 24,6 22 12,4 10 5 6. Thị trường singapo 5 7. Thị trường Châu Á khác 21 Nguồn: Cải cách SME ngoài quốc doanh- CIEM. Nhìn chung, nếu có sự hỗ trợ thích hợp của nhà nước trong công tác thúc đẩy hoạt đông kinh doanh xuất khẩu cho các SME ngoài quốc doanh thì khu vực này sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng thương mại trong thời gian tới. 2. Những thách thức mà SME Việt Nam gặp phải trong hoạt động kinh doanh XNK Qua các chính sách, biện pháp hỗ trợ của Chính phủ cho các SME trong thời gian qua kết hợp với tình hình xuất nhập khẩu được trình bày ở trên, có thể rút ra những thách thức mà SME gặp phải như sau: 2.1 Khó khăn về vốn hoạt động Khó khăn về vốn hoạt động, đặc biệt là vốn để đổi mới công nghệ, cơ sở vật chất, vốn để thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu đã ký kết. Song việc vay vốn ngân hàng với những quy định ngặt nghèo về thế chấp làm cho doanh nghiệp khó vay vốn được.Việc hỗ trợ tín dụng của Chính phủ cho các SME gặp rất nhiều khó khăn, do các doanh nghiệp này không tiếp cận được nguồn tín dụng đó. Các quỹ hỗ trợ xuất khẩu, quỹ khen thưởng xuất khẩu thì chủ yếu dành cho DNNN, còn SME để có được sự hỗ trợ từ các quỹ này cực kỳ khó khăn. Theo kết quả điều ta của CIEM, ở Hà Nội, Hải Phòng và Đồng Nai có 44,29% số doanh nghiệp và 68,57% công ty trong tổng số được điều tra nêu ra khó khăn về vốn. Theo điều tra của Bộ Lao động-Thương binh và xã hội thì ở miền Đông Nam Bộ có 69% số doanh nghiệp vừa và 47,9% số doanh nghiệp nhỏ nêu khó khăn về vốn. Trong bối cảnh đó, hầu hết các SME đều phải dùng vốn tự có và vốn huy động từ các nguồn không chính thức với lãi suất cao hơn nên có quy mô không lớn. Điều này đã làm cho SME hoạt động sản xuất kinh doanh trong phạm vi nguồn vốn eo hẹp của mình. 2.2 Khó khăn về tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Đa phần các doanh nghiệp xuất khẩu ngoài quốc doanh đều phải tự tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Trong khi đó, Nhà nước chưa có một hệ thống xúc tiến thương mại hoàn chỉnh, mang tính quốc gia để hỗ trợ doanh nghiệp từ khâu nghiên cứu phong tục, tập quán kinh doanh đến việc xúc tiến bán hàng tại các thị trường trên thế giới. Hệ thống chuyên cung cấp thông tin về thị trường trong và ngoài nước phục vụ cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu do Nhà nước cung cấp hiện nay còn mang tính chất rời rạc, không đáp ứng được nhu cầu của các SME kinh doanh xuất nhập khẩu. Qua số liệu điều tra vừa qua ở Hà Nội, Hải Phòng và Đồng Nai thì có tới 26,4% số doanh nghiệp tư nhân và công ty tư nhân trong tổng số doanh nghiệp và 37,6% số công ty tư nhân trong tổng số công ty tư nhân gặp khó khăn về thị trường. Còn ở miền Đông Nam Bộ, theo điều tra của Bộ Lao động- Thương binh và xã hội thì có 44,4% số doanh nghiệp nhỏ và 29,2% số doanh nghiệp vừa gặp phải khó khăn về thị trường. 2.3 Khó khăn trong việc tiếp cận nguồn thông tin Việc các SME ngoài quốc doanh không thể tiếp cận với thông tin đang là một trở ngại chính đối với các hoạt động kinh doanh của họ. Khó nhất là thông tin từ cơ quan quản lý nhà nước. Theo một tờ báo Hỗ trợ và phát triển ra ngày 6/01/2000, thì một chủ doanh nghiệp cho biết nhiều lần ông đến phòng kinh tế của một quận nhờ tìm địa chỉ sản xuất để đặt hàng làm xuất khẩu nhưng không được đáp ứng, vì các phòng kinh tế cho rằng làm như vậy sẽ là " tiết lộ bí mật quốc gia". Tìm kiếm từ cấp quận đã khó khăn như thế nữa là cấp cao hơn. Như vậy, về cơ bản, thông về thị trường và đối tác cạnh tranh vẫn do các SME tự chủ động tìm kiếm thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, sách báo, tạp chí, Hiệp hội sản phẩm. Số doanh nghiệp nhận được sự hỗ trợ về thông tin của các tổ chức nhà nước như Bộ Thương mại và Sở Thương mại chiếm tỷ lệ nhỏ, vả lại nội dung thông tin nghèo nàn, giá trị thấp, không cập nhật thường xuyên và lạc hậu so với sự biến động cuẩ thị trường, thêm vào đó là Nhà nước chưa thực sự quan tâm đến việc cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp xuất khẩu ngoài quốc doanh, chỉ chú trọng phục vụ đối tượng là các DNNN. 2.4 Sự cản trở của các quy chế thương mại Quy chế thương mại trong thời gian qua đã thông thoáng hơn rất nhiều, nhưng một điều dễ nhận thấy rằng các quy chế này mới chỉ thông thoáng đối với các DNNN, còn các SME nằm ngoài sự hỗ trợ này. Điều này được thể hiện ở việc các SME tiếp cận với hạn ngạch xuất khẩu còn bị hạn chế, gặp khó khăn trong việc chỉ định đầu mối xuất khẩu và dẫn tới một số SME phải xuất khẩu uỷ thác cho các DNNN. 2.5 Các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước đối với SME trong thời gian qua còn rất nhiều hạn chế Các chính sách ưu đãi của Nhà nước ban hành được thể hiện trong các bộ luật chưa được triển khai đối với các SME ngoài quốc doanh, các biện pháp hỗ trợ còn chưa đến được các doanh nghiệp này, việc thực hiện các biện pháp này còn nhiều vướng mắc, các thủ tục hành chính còn phức tạp, nội dung hỗ trợ chưa phong phú nên rất ít các doanh nghiệp được hưởng các biện pháp hỗ trợ này. Trong thực hiện các chính sách ưu đãi và hỗ trợ còn thiếu thống nhất giữa các cơ quan Nhà nước dẫn đến nhiều thủ tục gây phiền hà cho các SME. Nguy hiểm hơn là chưa có sự phối hợp và thống nhất giữa cơ quan chức năng trong việc giải quyết cho các SME được nhận hỗ trợ. Điều này gây tâm lý hoang mang, không tin vào các biện pháp hỗ trợ do nghĩ rằng chi phí để nhận được sự hỗ trợ còn cao hơn. * Ngoài các khó khăn đã nêu trên thì trình độ kiến thức và kinh nghiệm về ngoại thương còn thấp cũng là một nguyên nhân quan trọng kìm hãm xuất khẩu của các SME ở Việt Nam hiện nay. Trong giai đoạn trước đây xuất khẩu chủ yếu do các Tổng công ty đảm nhận, các SME chỉ đảm nhận khâu sản xuất, do vậy họ không đủ thông tin về thị trường quốc tế cũng như thiếu hẳn kiến thức và đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Để có thể từng bước nắm được kinh nghiệm, nhiều doanh nghiệp đã phải trả giá trong việc giao dịch thương mại hoặc thuê các chuyên gia hoặc phải trả khoản chi phí cao cho các công ty môi giới. Điều này làm cho tình hình tài chính của các SME đã khó khăn lại càng thêm khó khăn. Trên đây là những đánh giá, nhận xét sơ bộ về khó khăn trong công tác xuất khẩu của SME trong thời gian qua. Những hạn chế trên, làm cho kết quả xuất khẩu của SME còn rất khiêm tốn, nhỏ bé so với tiềm năng và triển vọng đang mở ra đối với SME ngoài quốc doanh. Sự cần thiết phải đẩy nhanh tốc độ và mở rộng quy mô xuất khẩu là đòi hỏi cấp bách và có thể thực hiện được, nếu trong thời gian tới, Nhà nước có những biện pháp hỗ trợ tích cực cho các SME để tháo gỡ những khó khăn trên, tạo ra một môi trường thông thoáng cho hoạt động xuất nhập khẩu. Từ những tác động của các chính sách ưu đãi hỗ trợ SME trong hoạt động xuất nhập khẩu và những thách thức khó khăn mà các SME gặp phải nói riêng thì phần II của chuyên đề này tôi xin được trình bày một số kiến nghị để hỗ trợ hiệu quả hoạt động XNK cho SME ở Việt Nam hiện nay. II- Một số kiến nghị nhằm hỗ trợ hiệu quả hoạt động XNK cho SME ở Việt Nam 1. Kiến nghị đối với Nhà nước 1.1. Nâng cao và kiện toàn bộ máy quản lý Nhà nước đối với SME Hiện nay nền kinh tế nước ta đang trong quá trình đổi mới. Tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng, song cũng đã bộc lộ những mặt yếu kém trong đó có vấn đề thuộc quản lý Nhà nước. Trong lĩnh vực quản lý Nhà nước hiện nay còn đan xen giữa cơ chế cũ và cơ chế mới, giữa nhận thức và phương thức tổ chức chỉ đạo thực hiện, giữa cách nghĩ và cách làm của đội ngũ các bộ quản lý Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Trong thời gian qua, chúng ta một mặt buông lỏng quản lý, thiếu định hướng chiến lược, chậm phát hiện, ngăn chặn và sử lý những sai phạm trong sản xuất kinh doanh đã đẩy tới xu thế tuỳ nghi, chồng chéo, trung lặp, kém hiệu quả. Mặt khác tình trạng can thiệp vào vào quyền tự chủ kinh doanh của nhân dân, doanh nghiệp khá nặng nề, những thủ tục hành chính rườm rà, phác tạp chậm được cải tiến, sửa đổi, nạn chũng nhiễu, cơ chế xin-cho, ban phát vẫn còn được kéo dài trong mối quan hệ giữa các cơ qian của Nhà nước và các doanh nghiệp. Trong thời gian tới, quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp đặc biệt là khối SME cần theo hướng là mối quan hệ hợp tác giữa các thành viên thuộc một cộng đồng trách nhiệm trước yêu cầu chung của sự nghiệp phát triển đất nước. Quản lý Nhà nước là sự tác động của Nhà nước vào toàn bộ hoạt động của nền kinh tế quốc dân nói chung và các doanh nghiệp nói riêng bằng hệ thống luật pháp, chính sách, tổ chức, các chế tài kinh tế-tài chính và các công cụ quản lý để thực hiện chứcc năng quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, ổn định kinh tế - chính trị - xã hội. Nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi từ không có thị trường sang có thị trường, từ xu hướng thiên về quy mô lớn sang quy mô đa dạng. Vì vậy vai trò của Nhà nước trong buổi giao thời này rất quan trọng, đặc biệt là tạo lập thị trường, khuyến khích tự do làm ăn công khai, hợp pháp, khuyến khích các nỗ lực phát triển SME, nhằm khai thác những khả năng tiềm ẩn trong dân chúng. Như vậy việc vận hành cơ chế quản lý nhà nước ở nước ta đối với nền kinh tế quốc dân nói chung, SME nói riêng, không nằm ngoài nguyên lý cơ bản về vai trò quản lý của nhà nước nói chung đối với mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, song nó có những đặc điểm kinh tế – chính trị – xã hội khác với các nước khác. Điều đó đòi hỏi sự nhận thức, vận dụng các quy luật kinh tế về quản lý nhà nước đối với nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường, phải xuất phát từ thực tiễn nước ta, theo định hướng và mục tiêu lâu dài đang hướng tới mà xác định mục tiêu, cơ chế, chính sách phù hợp với các bước đi, vừa không chệch khỏi mục tiêu định hướng, vừa thúc đẩy được nền kinh tế thị trường ở nước ta đi lên. Đây là vấn đề phức tạp và khó khăn vì nền kinh tế nước ta có đặc điểm là từ nền kinh tế nông nghiệp, lại bị chiến tranh tàn phá và trong nhiều năm sống trong cơ chế kế hoạch hoá, tập trung bao cấp nặng nề... nhưng phải được phát triển liên tục, phải ổn định vững chẵc. Điều đó chỉ có thực hiện được trên cơ sở phát huy những kết quả, thành tựu và khắc phục nhanh, có hiệu quả những khuyết nhược điểm trong cơ chế quản lý và chính sách kinh tế của những năm đổi mới, để khơi dậy tối đa nguồn nội lực vốn, lao động, trí tuệ, tài nguyên đang tiềm ẩn trong nội bộ nền kinh tế thông qua khuyến khích hỗ trợ SME. Từ thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay, những mục đích yêu cầu đặt ra trong quá trình thực thi chức năng quản lý của nhà nước đối với doanh nghiệp SME hướng vào hai nội dung cơ bản dưới đây: Một là, tập trung sức để phát triển mạnh và xã hội hoá lực lượng sản xuất, từng bước chuyển nền kinh tế nước ta từ kém phát triển lên phát triển ổn định, vững chắc theo hướng CNH - HĐH đất nước mà khởi đầu bằng các SME. Vai trò của nhà nước trong giai đoạn hiện nay là tạo lập thị trường, tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng cho SME đẩy mạnh hoạt động XK của mình ra nước ngoài. Hai là, tập trung xây dựng nội lực trong xu hướng hội nhập. Đây là tiền đề và là điều kiện để quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN khi mà các yếu tố thuận, nghịch của nêng kinh tế thị trường thế giới đã và đang tác động vào nền kinh tế Việt Nam bằng nhiều hình thức khác nhau. Chỉ như vậy thì chủ quyền quốc gia mới được giữ vững. Điều cần nhấn mạnh là việc xây dựng nền kinh tế tự chủ chẳng những không đối lập với việc hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới mà ngược lại, nền kinh tế có tự chủ vững mạnh thì hội nhập kinh tế thế giới mới có hiệu quả. Kinh tế vững mạnh sẽ tập hợp được tất cả các lực lượng kinh tế trong nước, hình thành sức mạnh tổng hợp để nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh tế trong các mối quan hệ với hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. Sự lồng ghép xâu chuỗi giữa các SME và các doanh nghiệp lớn thành một hệ thống là một đảm bảo chắc chắn trong việc khai thác nội lực và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển các SME rất cần có sự hỗ trợ từ phía nhà nước. Trong cơ chế cũ, nhà nước ta vừa trực tiếp chỉ huy, điều khiển các hoạt động kinh tế, tham gia vào quá trình kinh tế. Các doanh nghiệp chỉ là người chấp hành lệnh của nhà nước chứ không có quyền quyết định các chỉ tiêu và kết quả kinh tế của đơn vị. Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp được trao quyền tự chủ, tự do hoạt động kinh doanh theo pháp luật và nhà nước thực sự chỉ đóng vai trò điều tiết, hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Như vậy đối với nền kinh tế, đặc biệt là đối với các SME chức năng của nhà nước thể hiện ở các mặt sau: - Tạo lập môi trường kinh doanh an toàn và thuận lợi cho các SME hoạt động. Đó là, xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ chặt chẽ tạo ra hành lang luật pháp rõ ràng, xây dựng một cơ cấu hạ tầng hiện đại nhằm phục vụ đắc lực cho sản xuất và đời sống của mọi tầng lớp dân cư. Xây dựng các chính sách vĩ mô hợp lý nhằm tạo môi trường kinh tế – xã hội thuận lợi cho sự phát triển của các ngành kinh tế như: chính sách tiền tệ, tín dụng, lãi suất, lạm phát, chính sách tài chính đầu tư, thuế, bảo hiểm, chính sách nhập khẩu,... - Định hướng và hướng dẫn cho các doanh nghiệp hoạt động. Nhà nước chỉ là người hỗ trợ chứ không trực tiếp thực hiện các hoạt động, chính các SME mới là hạt nhân. Nhà nước sẽ đưa ra các chủ trương, biện pháp giúp các SME hoạt động theo đúng mực tiêu chung đồng thời đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. - Điều tiết và hỗ trợ các doanh nghiệp ở những khâu cần thiết. Mỗi doanh nghiệp lại có những khó khăn, vướng mắc ở những khâu khác nhau vì vậy không thể đổ đông tất cả các doanh nghiệp. Có những doanh nghiệp cần hỗ trợ về vốn, có doanh nghiệp yếu ở khâu tìm hiểu thông tin thị trường,... như vậy vai trò của nhà nước là phải có một chiến lượng hỗ trợ bao quát nhưng lại phù hợp cho từng doanh nghiệp. - Kiểm soát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bằng việc xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, chặt chẽ, tạo hành lang pháp lý cho SME hoạt động kinh doanh hiệu quả. Thông qua đó nhà nước có thể tiến hành kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp, giúp họ sản xuất kinh doanh công bằng. Trên thực tế, SME có quá nhiều mối “quản”, các cơ quan chính quyền, các tổ chức xã hội, thậm trí các tổ chức đoàn thể... gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do vậy việc lập ra các cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước đối với SME là vấn đề cần thiết. Cần nghiên cứu xem xét để thành lập một cơ quan quản lý thống nhất thụôc cấp nhà nước đối với SME chứ không phân tán như hiện nay. 1.2. Đối sử công bằng giữa các khu vực kinh tế Do vai trò to lớn của SME nên nhà nước Việt Nam cũng như Chính phủ nhiều nước rất quan tâm khuyến khích, có các chính sách và chương trình hỗ trợ phát triển SME rất đa dạng, phong phú. Mặc dù đã tạo ra khối lượng GDP lớn hơn, tạo tăng trưởng tốc độ kinh tế của đất nước, nhưng khu vực kinh tế tư nhân chưa được đối xử bình đẳng so với khu vực kinh tế quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vẫn bị kỳ thị, phân biệt đối xử nên chưa giải toả được tâm lý e ngại, không phát huy được năng lực của khu vực kinh tế này. Điều này thể hiện rất rõ khi nhiều doanh nghiệp SME chưa được tham gia XNK trực tiếp mà phải uỷ thác qua các công ty khác. Luật lệ đối với khu vực kinh tế tư nhân không rõ ràng, không ổn định, khong đồng bộ, thiếu tính thực tế, đang là trở ngại to lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo cơ hội cho những tiêu cực nảy sinh. Các chuyên gia nhấn mạnh rằng, chỉ khi nào xác định rõ vai trò, vị trí của SME trong nền kinh tế thì các chính sách khuyến khích hỗ trợ mới thực sự có hiệu quả. Lâu nay do quan điểm không thông suốt về vấn đề này mà hàng loạt các vướng mắc kéo dài về cơ chế, vốn, đất đai, thuế, đào tạo của SME chưa được giải quyết thấu đáo, gây tâm lý thân phận “con nuôi” đối với các chủ doanh nghiệp. Vì thế phải khắc phục ngay cả trong nhận thức, cách đặt vấn đề cũng như trong các văn bản pháp luật và hoạ động thực tiễn của bộ máy hành chính Nhà nước. 1.3. Đổi mới hoạt động hỗ trợ tín dụng cho SME để có vốn tham gia vào XNK Trong những năm vừa qua, hoạt động hỗ trợ tín dụng đã đạt được những kết quả đáng mừng, tuy vậy, đó mới chỉ xảy ra đối với các DNNN còn các SME vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Để tạo ra sự công bằng giữa các doanh nghiệp, cần có một cơ chế, chính sách tín dụng hợp lý, phù hợp với thực tế ở nước ta hiện nay. Trong thời gian sắp tới, cần chú ý một số giải pháp đổi mới chính sách tín dụng nhằm hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển của SME nói chung và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng, cụ thể như sau: Thứ nhất: Chính sách tín dụng trong việc giải quyết khó khăn về vốn trong việc sản xuất kinh doanh xuất khẩu. Bên cạnh khó khăn về thông tin, các SME cũng đang gặp khó khăn rất lớn về vốn để sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Theo MPDF thì 80% SME dựa vào nguồn tiết kiệm của mình hoặc vay từ bạn bè người thân. Điều này đồng nghĩa với lãi suất lớn hơn lãi suất của ngân hàng, trong khi đó quỹ hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước chưa đáp ứng được nhu cầu này từ các doanh nghiệp. Vì vậy, nhằm giúp các SME tiếp cận được nguồn vốn trung hạn và dài hạn bằng cách tạo ra một "sân chơi bình đẳng" để tất cả các doanh nghiệp tiếp cận với nguồn tín dụng hỗ trợ này đều tuân thủ những thể lệ giống nhau cần xem xét để: sửa đổi và ban hành các Luật, các quy định nhằm xây dựng một khung pháp luật toàn diện và hiện đại tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các SME vay tín dụng ưu đãi như vấn đề thực hiện và thực thi tài sản cầm cố thế chấp. Ngoài ra, để hỗ trợ tín dụng cho SME trong hoạt động xuất nhập khẩu, Nhà nước có thể cho phép các Ngân hàng thương mại dành từ 20-25% tiền hoạt động tín dụng của mình để cho các SME vay. Thứ hai: Hoạt động hỗ trợ tín dụng thương mại cho các SME. Việc mở thư tín dụng thương mại bị hạn chế do yêu cầu phải đặt cọc trước một khoản tiền 0-80% trị giá L/C đã gây ra khó khăn không nhỏ trong hoạt động xuất khẩu. Chính vì vậy, cần phải có hoạt động tín dụng thương mại trong việc hỗ trợ xuất khẩu. Tuy nhiên, cũng cần phải xác định rõ từng loại hàng hoá xuất nhập khẩu, từng loại hình doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu để có biện pháp hỗ trợ tín dụng thương mại phù hợp. Hoạt động hỗ trợ tín dụng thương mại được hình thành và hoàn thiện theo loại hình sau: - Tín dụng thương mại hỗ trợ SME xuất khẩu hàng hoá. Đây là loại tín dụng do người nhập khẩu ứng trước cho người có hàng hoá xuất khẩu nhằm tạo điều kiện thuận tiện cho việc nhập khẩu hàng hoá. Vì vậy còn gọi là tín dụng nhập khẩu. Để các SME xuất khẩu thuận tiện và có lợi, Nhà nước cần hỗ trợ tín dụng thương mại xuất khẩu hấp dẫn đối với nhà nhập khẩu nước ngoài, sao cho họ ứng vốn trước cho các nhà xuất khẩu Việt Nam, song các nhà xuất khẩu Việt Nam không ở vào thế bị chèn ép, bất lợi như ràng buộc về thời hạn trả, giao hàng xuất khẩu, lãi suất cao hoặc vi phạm hợp đồng xuất khẩu(nếu có) với tỷ lệ cao,..Muốn vậy, điều kiện quan trọng ràng buộc pháp lý là Nhà nước phải có khung luật pháp rõ ràng với những quy phạm pháp luật chặt chẽ cho cả hai bên xuất khẩu và nhập khẩu. - Tín dụng thương mại hỗ trợ cho SME nhập khẩu hàng hoá. Đó là loại tín dụng do người xuất khẩu ứng trước cấp cho nhà nhập khẩu để tăng cường khả năng xuất khẩu hàng hoá của nhà xuất khẩu. Do vậy còn gọi là tín dụng xuất khẩu. Thực chất đây là quan hệ tín dụng mua bán chịu. Thời hạn thanh toán phụ thuộc vào thoả thuận của hai bên. Song các quốc gia vẫn thường can thiệp bằng pháp luật để tránh rủi ro cho các nhà xuất nhập khẩu. Mỗi quốc gia có quy định thời hạn thanh toán khoản tín dụng này rất khác nhau, từ 1 đến 3 tháng (ở Anh, Pháp), trong khi ở Mỹ quy định 180 ngày, còn ở Nhật Bản là 6 tháng đến 1 năm thậm chí tới 720 ngày. Với Việt Nam, SME rất cần nhập khẩu, trong khi chúng có rất ít khả năng để thanh toán cho các nhà xuất khẩu nước ngoài. Nhằm đảm bảo tạo điều kiện khả năng nhập khẩu cho SME, tạo luồng thông tin cho các nhà xuất khẩu nước ngoài, Nhà nước cần phải có chính sách hỗ trợ tín dụng cho SME nhập khẩu hàng hoá thiết bị, nguyên vật liệu, công nghệ...cần thiết. Hỗ trợ với tỷ lệ lãi suất ưu đãi- tuỳ loại. Thứ ba: Mở rộng, phát triển thị trường thuê mua. Trong điều kiện hiện nay, trong việc hỗ trợ các SME thúc đẩy xuất khẩu, thì Nhà nước mở rộng hình thức tín dụng thuê mua hỗ trợ cho các doanh nghiệp này. Loại hình tín dụng thuê mua này là biện pháp thay thế vốn ngân hàng. Tín dụng thuê mua có đặc điểm của hoạt động tín dụng, nhưng các SME ít vốn có thể vay vốn tín dụng mà không phải thế chấp để tiến hành ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu cũng như sản xuất hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, các tổ chức thuê mua sẽ hỗ trợ, đào tạo và hướng dẫn kỹ thuật cho người thuê để đạt được hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Tóm lại, hỗ trợ tín dụng đối với các SME là một yêu cầu khách quan, rất cấp bách hiện nay, nhưng để hoạt động có hiệu quả, đòi hỏi sự tác động đồng bộ của các loại chính sách hỗ trợ khác. Cần có sự phân loại, tập trung hỗ trợ cho SME thuộc khu vực ngoài quốc doanh có tính hiệu quả và thiết thực, tạo ra một môi trường thuận lợi cho các SME hoạt động. 1.4 Tiếp tục đổi mới chính sách thuế theo hướng hỗ trợ cho SME. Mặc dù, chính sách thuế trong thời gian qua đã có sự hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và SME nói riêng. Nhưng thực sự vẫn chưa khuyến khích SME. Trong thời gian tới chính sách thuế tiếp tục đổi mới đảm bảo sự công bằng bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, không phân biệt kinh tế ngoài quốc doanh với kinh tế quốc doanh. Chính sách thuế phải xác định đúng đối tượng được ưu đãi, cho đến nay, trong các chính sách thuế của Nhà nước, loại đối tượng được ưu đãi thường mang tính chính sách xã hội như: ưu đãi các doanh nghiệp ở miền núi, hải đảo, một số doanh nghiệp trong ngành chế biến nông sản. Trong chính sách thuế, chưa quan tâm ưu đãi theo quy mô, chưa tạo điều kiện để SME vượt lên sự yếu ớt của họ để đứng vững và kinh doanh có hiệu quả. Do đó, trong chính sách thuế ưu đãi hỗ trợ cho các doanh nghiệp cần xác định đúng đối tượng và tiêu thức ưu đãi, thực hiện theo quy mô để hỗ trợ cho các SME ngoài quốc doanh kinh doanh xuất nhập khẩu. Tăng mức ưu đãi cho các SME, trong thời gian qua, mức ưu đãi còn rất dè dặt, chỉ miễn giảm thuế cho SME 1- 2 năm (trong khi các nước khác là 4-5 năm. Miễn thuế cho SME đầu tư công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch, đầu tư vào sản xuất các sản phẩm mới xuất khẩu. Đối với các ngành chế biến thuỷ sản xuất khẩu, việc thuế khấu trừ 5% đối với đầu vào nguyên liệu chỉ khuyến khích doanh nghiệp mua bán nguyên liệu, thì trong thời gian tới có thể đổi mới thành hai mức: 3% đối với hàng có chứng từ, 2% đối với hàng không có chứng từ nhưng phải lập bảng kê. Bên cạnh đó, thời hạn 3 tháng chờ thoái thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp là quá lâu làm cho "mất sức" các SME. Do đó, cần có biện pháp tích cực hơn để hỗ trợ trong thời gian tới. Giảm đáng kể các mức thuế suất cao, làm lành mạnh hoá trong cơ cấu thuế theo hướng giảm dần tỷ trọng thuế xuất nhập khẩu và tăng dần tỷ trọng thuế trực thu, nhất là thuế thu nhập cá nhân. Chính sách thuế đổi mới phải đảm bảo tính ổn định trong một thời gian tối thiểu là hai năm, ngoài ra còn cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan hải quan và các cơ quan tài chính nhằm tránh tình trạng xấu xảy ra trong công tác hoàn thuế (Một ví dụ cụ thể: Do việc trao đổi thông tin giữa cơ quan thuế và cơ quan hải quan kém, nên nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các SME đã nộp thuế nhưng vẫn bị các cơ quan hải quan "cưỡng chế nhầm" vì cơ quan tài chính vẫn chưa thông báo cho hải quan biết doanh nghiệp đã hoàn thành nghĩa vụ thuế7. Nhìn chung, chính sách thuế đối với SME cần được đặt trong hệ thống chính sách hỗ trợ SME nói chung, tạo nên sự tổng hợp thúc đẩy sự phát triển của SME trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở nước ta. 1.5 Thành lập các Quỹ hỗ trợ SME trong hoạt động kinh XNK: Hiện nay tại Việt Nam, tài trợ xuất khẩu vẫn chưa được quan tâm đúng mức, các hệ thống bảo hiểm thương mại và tín dụng xuất khẩu chưa hoạt động một cách có hiệu quả. Do vậy, khu vực SME vẫn phải phụ thuộc vào thư tín dụng trả chậm và hoạt động tài trợ thông thường. Để mở rộng các cơ hội xuất khẩu, cần phải có sự bảo đảm về tài trợ xuất khẩu và quỹ phục vụ nhu cầu về vốn.Trong năm 1999, Bộ tài chính và Ngân hàng nhà nước đã công bố đề xuất thành lập Quỹ tín dụng xuất khẩu. Căn cứ vào Nghị định 51/NĐ-CP ban hành vào tháng 7/1999, việc thành lập Quỹ hỗ trợ xuất khẩu đã được công bố. Nhưng việc sử dụng Quỹ hỗ trợ này đối với SME vẫn gặp nhiều khó khăn: có doanh nghiệp làm đơn xin vay từ Quỹ tín dụng xuất khẩu, sau 14 tháng chờ đợi, vẫn không có hồi âm gì8. Do vậy, trong thời gian tới Nhà nước nên thành lập và triển khai rộng rãi thêm các quỹ hỗ trợ SME như: Thứ nhất: Thành lập và triển khai rộng rãi mô hình "Quỹ bảo lãnh tín dụng SME" nhằm hỗ trợ cho SME có điều kiện tiếp cận với các ngân hàng và vay bảo lãnh ở ngân hàng. Quỹ này giúp cho SME không đủ tài sản thế chấp vay vốn của các tổ chức tín dụng, và hoạt động không vì mục đích lợi nhuận trên nguyên tắc bảo toàn vốn, tự bù đắp chi phí và được miễn các khoản thuế. Thực tế cho thấy Quỹ bảo lãnh tín dụng SME được thực hiện thành công ở một số nơi mà điển hình là trung tâm tư vấn SME Bắc Giang. Với nguồn vốn 100.000 USD do Đức tài trợ, trung tâm đã thực hiện hơn 40 lượt vay trong 4 năm từ 1994-1998 với tổng số vốn cho vay lớn gấp 3 lần vốn của Quỹ. Khoản vay lớn nhất là 80 triệu đồng và ít nhất là 30 triệu 7 Theo báo cáo của MECANIMEX SAIGON trong buổi gặp mặt với thủ tướng Chính phủ (3/2000) 8 Theo thời báo Sài Gòn, số 13-2001 ngày 25/3/2001, trang11 đồng trong thời hạn từ 1 năm đến 3 năm. Nên chăng mô hình này được nhân rộng trong toàn quốc dựa trên điều kiện cụ thể của từng vùng. Thứ hai: Nhà nước có thể thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm hỗ trợ SME trong việc tiếp cận các nguồn vốn đầu tư giúp các SME trong việc sản xuất kinh doanh xuất khẩu. Hiện đã có 6 Quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động ở Việt Nam với tổng vốn đầu tư là 68 triệu USD. Tuy nhiên, các quỹ này mới chi hỗ trợ 18 triệu USD cho các SME. Đó là các quỹ Beta, Veil, Vietnam Frontier, và Quỹ Việt Nam, còn hai Quỹ Lazard và Templeton đã chuyển trọng tâm hoạt động sang các nước trong khu vực. Ngoài ra, Chính phủ cần có biện pháp nhằm tạo điều kiện về mặt tài chính cho SME như trợ cấp vốn không hoàn lại cho các dự án của SME ở các vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, các lĩnh vực độc hại... Thứ ba: Trong điều kiện hiện nay thành lập Quỹ bảo hiểm xuất khẩu cho SME là cực kỳ cần thiết. Hầu hết các quốc gia bên xuất khẩu đều có hệ thống bảo hiểm xuất khẩu do Chính phủ bảo trợ mà trong đó bên xuất khẩu có thể mua bảo hiểm rủi ro tín dụng và các rủi ro khác của bên nhập khẩu và ngược lại. Các nghiệp vụ bảo hiểm cần được nghiên cứu áp dụng bao gồm: bảo hiểm xuất khẩu toàn diện, trong đó bên xuất khẩu được bảo hiểm từ khi ký kết hợp đồng xuất khẩu đến khi thanh toán xong; bảo hiểm hoá đơn xuất khẩu, các tổ chức bảo hiểm sẽ bảo vệ quyền lợi của bên xuất khẩu khi bên nhập khẩu không chịu thanh toán. Thứ tư: Nhà nước có thể triển khai và khuyến khích các hiệp hội ngành nghề thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu (có sự tham gia của đối tác nước ngoài). Quỹ này sẽ cấp tín dụng ưu đãi hoặc bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp đã có hợp đồng xuất nhập khẩu. Nhà nước cũng có thể tổ chức riêng Ngân hàng phá triển SME, mọi hoạt động của Ngân hàng này nhằm đáp ứng hỗ trợ cho SME trong sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. Thành lập các Quỹ hỗ trợ xuất khẩu nhằm hỗ trợ cho các SME trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là rất cần thiết mà Nhà nước cần quan tâm chú ý đến. 2. Kiến nghị đối với các Bộ ngành 2.1 Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại đối với SME Đây là một hoạt động thiết thực, ý nghĩa nhất trong tình hình thương mại Việt nam hiện nay, nhờ nó các SME có thể có được cơ hội thu thập thông tin các loại cần thiết cho mình về thị trường, giá cả, cung cầu, mẫu mã, chất lượng, chủng loại sản phẩm hàng hoá, cả trong lẫn ngoài nước. Xúc tiến thương mại là một điều kiện quan trọng để hỗ trợ cho SME hoạt động xuất nhập khẩu một cách có hiệu quả. Xúc tiến thương mại được thực hiện bằng nhiều phương thức quy mô khác nhau. - Hỗ trợ và tạo điều kiện cho các SME ra nước ngoài, kể cả các đoàn cấp cao của Đảng, Nhà nước để thâm nhập thị trường, tiếp cận cơ hội xuất khẩu, phát triển kinh doanh; - Phối hợp và hỗ trợ các SME thực hiện chiến lược maketing cho từng ngành hàng, mặt hàng quan trọng và tham gia các hội trợ, triển lãm và các hoạt động xúc tiến thương mại khác ở nước ngoài. - Có cơ chế tiếp xúc và tham vấn định kỳ giữa Bộ thương mại và các doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề về các vấn đề có liên quan đến xuất nhập khẩu. - Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác xúc tiến thương mại cho các Sở thương mại và các doanh nghiệp. Mở rộng các quan hệ hợp tác đa phương và song phương với nước ngoài trong công tác xúc tiến thương mại. - Bước đầu xây dựng cơ sở pháp lý cho thương mại điện tử, tổ chức đào tạo nhân lực trong lĩnh vực này. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và đặc biệt là các SME nói riêng tiến hành xuất nhập khẩu đã gặp phải không ít những khó khăn về thị trường nước ngoài, về đối tác nước ngoài,...do đó, hỗ trợ các SME đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại là cần thiết. 2.2 Xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ xuất nhập khẩu. Thông tin thị trường là một trong những nhân tố quan trọng đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Cho đến nay, tại Việt Nam vẫn còn ít những trung tâm thông tin hỗ trợ xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp. Việc tìm hiểu các thông tin về thị trường, luật pháp của các nước khác đối với SME là điều hoàn toàn khó khăn. Hệ thống thương vụ của Việt Nam tại các quốc gia hoạt động chưa có hiệu quả để cung cấp những thông tin thị trường và quy định thương mại của nước đó. Việc xây dựng và khuyến khích thành lập các trung tâm thông tin hỗ trợ xuất khẩu một cách thông suốt từ các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, Bộ thương mại đén các Sở thương mại và các doanh nghiệp là việc mà Nhà nước nên xem xét xúc tiến khẩn trương trong thời gian tới. Biện pháp này sẽ được thay thế đắc lực và hiệu quả cho biện pháp định hướng sản phẩm xuất khẩu, trợ giá xuất khẩu mà Nhà nước vẫn thực hiện cho đến nay. Các trung tâm này có thể do một hiệp hội ngành nghề hoặc do Tổ chức chức phi chính phủ thành lập, Nhà nước có thể hỗ trợ một phần tài chính, đặc biệt trong thời gian đầu, phần còn lại là thu lệ phí từ các doanh nghiệp. Các trung tâm này tổ chức tốt việc thu thập, xử lý và cung cấp định kỳ hàng năm, hàng quý các ấn phẩm về thị trường hàng hoá thế giới cho các doanh nghiệp. Ngoài việc cung cấp thông tin theo phương thức hỗ trợ của nhà nước cho các doanh nghiệp, cần thực hiện thương mại hoá thông tin và áp dụng các phương thức linh hoạt khác nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể, kịp thời cho SME. 2.3 Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận với thị trường thế giới. Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận với thị trường thế giới là biện pháp cần thiết để giúp doanh nhiệp tìm kiếm và mở rộng thị trường của mình. Không có sự hỗ trợ của Nhà nước, SME khó có thể có điều kiện để tham dự những hội trợ, triển lãm ở nước ngoài. Cho đến nay, thông qua một số dự án, Nhà nước đã hỗ trợ một phần tài chính cho doanh nghiệp trong việc tham gia các cuộc triển lãm, hội trợ quốc tế. Tuy vậy, biện pháp này cần được mở rộng cả về phạm vi lẫn hình thức hỗ trợ. Ví dụ: hỗ trợ thêm một phần tài chính nếu doanh nghiệp ký kết được hợp đồng cho sản phẩm mới hoặc thị trường mới, khấu trừ một phần thuế thu nhập doanh nghiệp theo một tỷ lệ nhất định với chi phí tham dự triển lãm, hội trợ ở nước ngoài. Bên cạnh đó, Nhà nước có thể khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng ở nước ngoài mạng lưới đại lý, phân phối hàng, kho ngoại quan, trung tâm trưng bày sản phẩm; áp dụng các phương thức mua bán linh hoạt như gửi bán, thanh toán chậm, đổi hàng phù hợp với từng mặt hàng, từng thị trường.. Đây là biện pháp đối với khả năng của các SME hiện nay là cực kỳ khó khăn, nhưng cũng nên áp dụng dần dần để sau này sẽ hiệu quả hơn trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp này xuất khẩu. 2.4 Tăng cường hỗ trợ khả năng cạnh tranh cho SME trên thị trường thế giới. Khả năng cạnh tranh là mối quan ngại đầu tiên của tất cả những ai quan tâm đến sự phồn vinh của nền kinh tế nước nhà, đặc biệt là khả năng cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu có vai trò quyết định trong sự phát triển kinh tế. Trong khi các SME ngoài quốc doanh vẫn chưa sẵn sàng cạnh tranh với các hãng nước ngoài một khi Việt Nam tham gia quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá. Điều đáng lưu ý là cạnh tranh hiện nay là một trong những vấn đề lớn nhất, không chỉ đối với những hãng lớn mà còn đối với các hãng nhỏ. Nói đến khả năng cạnh tranh người ta thường nói đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giá cả...xem xét trong mối tương quan so sánh với các doanh khác. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào khả năng cạnh tranh. Vì vậy, nâng cao khả năng cạnh tranh phải được coi là nhiệm vụ hàng đầu của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và SME nói riêng. Các SME trông chờ vào khả năng cạnh tranh xuất khẩu sẽ tăng lên nhờ cắt giảm thuế nhập khẩu đối với nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, một số doanh nghiệp cũng có ý kiến cho rằng sẽ không ảnh hưởng gì do cạnh tranh mạnh trong nước hoặc do mối quan hệ lỏng lẻo giữa xuất khẩu và nhập khẩu với các nước ASEAN. Trong thời gian tới, có thể tăng cường hỗ trợ khả năng cạnh tranh cho SME bằng việc khuyến khích hỗ trợ cải tiến công nghệ và trang thiết bị thông qua trợ giúp xúc tiến nghiên cứu và phát triển kỹ thuật. Tuy nhiên, nếu chỉ cải tiến công nghệ, trang thiết bị thì chưa đủ bởi vì với những trang thiết bị như nhau nhưng hai doanh nghiệp vẫn có thể có năng suất lao động khác nhau, hay nói cách khác là khả năng cạnh tranh khác nhau. Do đó, bên cạnh sự hỗ trợ đó thì Nhà nước cần phải quan tâm đến vấn đề hỗ trợ tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động, hỗ trợ đào tạo cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu giúp SME, hỗ trợ tư vấn quản lý cho các SME. Sự hỗ trợ này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho SME tiến hành áp dụng phương thức quản lý theo tiêu chuẩn ISO 9000, và các tiêu chuẩn khác. Bởi vì đây chính là giấy thông hành cho các SME đưa sản phẩm của mình ra thị trường thế giới trong thời gian tới. Ngoài ra, chính sách hỗ trợ sản phẩm và sản phẩm xuất khẩu giúp đỡ các SME nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm của mình trên thương trường. Trong thời gian qua, các sản phẩm xuất khẩu của SME mới chỉ dựa trên lợi thế cạnh tranh "tĩnh". Hầu như các SME ở Việt Nam mới đang dừng lại ở chỗ có gì gọi là thế mạnh đem chào bán. Vì thế, chính sách sản phẩm trong thời gian tới cần có sự quan tâm sát sao nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu là phải tạo ra lợi thế cạnh tranh "động" cho các mặt hàng xuất khẩu. 3. Kiến nghị đối với các nhà quản lý doanh nghiệp Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, nhà quản lý nào biết tạo dựng một chiến lược để phát triển lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm, dịch vụ của mình và thực hiện hiệu quả chiến lược đó thì doanh nghiệp đó sẽ tồn tại và phát triển, nếu không thì sẽ thất bại. Lợi thế cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp được hiểu là khả năng sản xuất, cung ứng ra thị trường những sản phẩm, dịch vụ tốt hơn đối thủ cạnh tranh. Cụ thể, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được xem xét trên bốn khía cạnh: - Sự linh hoạt: Khả năng đáp ứng nhu cầu khác nhau của khách hàng, ví dụ: chủng loại, cách thức, cung ứng dịch vụ đi kèm... - Chất lượng của sản phẩm, dịch vụ: đặc tính kỹ thuật, độ tin cậy, dịch vụ hậu mãi, kiểu dáng,... - Tốc độ phản ứng trên thị trường: thời gian từ khi khách hàng đặt hàng cho đến khi được phục vụ, tốc độ phát triển sản phẩm mới,... - Chi phí: chi phí sản xuất của doanh nghiệp thấp hơn của đối thủ cạnh tranh.  Doanh nghiệp muốn đạt được các lợi thế cạnh tranh này cần phải có ba nguồn lực quan trọng: nhân lực, vốn, công nghệ. Nguồn nhân lực tham gia trực tiếp toàn bộ quá trình đánh giá, lựa chọn và phát triển lợi thế của doanh nghiệp. Qua hoạt động XNK, các doanh nghiệp phải đương đầu với sự cạnh tranh trên thị trường thế giới trong bối cảnh toàn cầu hoá, các nhà quản lý doanh nghiệp cần phải có trình độ, biết đưa ra những giải pháp cho doanh nghiệp của mình như: - Mặt hàng sản cuất ra phải đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, với các DNNN có thế mạnh là mặt hàng phong phú đa dạng. - Mặt hàng phải có khả năng cạnh tranh để XK, đúng quy cách, phẩm chất khi XK đòi hỏi cao hơn và giá cả phải hợp lý, đôi khi phải thấp hơn so với những mặt hàng tương tự nhưng do các doanh nghiệp lớn sản xuất. - Có kiến thức kinh doanh XNK, kinh nghiệm quản lý và tổ chức, thiết lập được các mối quan hệ bạn hàng rộng rãi, nắm bắt được những thông tin thiết thực phục vụ cho công tác kinh doanh của mình. - Tránh sự cạnh tranh không bình đẳng, chèn ép lẫn nhau nhằm đạt hiệu quả cao hơn trong kinh doanh XNK. Nâng cao sự uy tín và độ tin cậy của doanh nghiệp mình với đối tác. Trên đây là những kiến nghị chính nhằm hỗ trợ cho các SME ở Việt Nam trong thời gian tới phù hợp với tiến trình hội nhập khu vực và thế giới. Tất nhiên, còn rất nhiều những biện pháp mà Nhà nước cần phải hỗ trợ cho các SME như việc hỗ trợ SME thầu phụ các doanh nghiệp lớn, hỗ trợ lãi suất đầu tư, hỗ trợ cơ sở hạ tầng, hình thành "vườn ươm" cho SME ( Một loại hình hỗ trợ SME đang có xu hướng phát triển ở các nước trên thế giới, song chưa thực sự phát huy tác dụng ở nước ta. Một mô hình rất mới đối với Việt Nam). Tuy nhiên, để thúc đẩy phát triển xuất khẩu cho các SME bên cạnh sự hỗ trợ từ bên ngoài thì các cố gắng nỗ lực của bản thân doanh nghiệp là một nhân tố quyết định. Nếu các doanh nghiệp không tự cố gắng thúc đẩy sự phát triển của chính mình thì không có ai có thể thay thế họ, mọi sự hỗ trợ về chính sách và cơ chế của Nhà nước, của tổ chức hỗ trợ khác...chỉ là tạo điều kiện thuận lợi hơn cho SME phát triển sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. Vì vậy, để gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu của khu vực SME cần phải có sự kết hợp đồng bộ giữa công tác hỗ trợ của Nhà nước và sự nỗ lực của bản thân từng doanh nghiệp. Kết luận Năm 2003, năm triển khai mạnh mẽ thực hiện các Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ IX, thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005 và chiến lược 10 năm phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 - Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá theo định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Thành quả đạt được qua những năm đổi mới, nhất là 10 năm gần đây, đã tạo thế và lực mới; công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đã có những bước tiến cơ bản; các mặt xã hội, trình độ dân trí, chất lượng nguồn lực và tính năng động trong xã hội được nâng lên; tình hình chính trị xã hội cơ bản được ổn định. Những kết quả trên có sự đóng góp không nhỏ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay để phát huy vai trò của khu vực kinh tế này thì sự hỗ trợ của Chính phủ đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Qua phân tích thực trạng và tác động của các chính sách kinh tế đến hoạt động của các SME ở Việt Nam trong thời gian vừa qua có thể thấy được những tác động tích cực của những giải pháp mà Chính phủ đề ra. Tuy nhiên, trong thời gian tới, để tạo sự bình đẳng trong hoạt động xuất nhập khẩu giữa các loại hình doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và tiến trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Vì vậy, việc tiếp tục cải tạo và đổi mới các chính sách kinh tế nhằm hỗ trợ các SME đối với hoạt động xuất nhập khẩu là một vấn đề cấp bách hiện nay. Thị trường XNK hàng hoá chắc chắn sẽ còn sôi động hơn rất nhiều trong thời gian tới, liệu các SME có tận dụng được thời cơ và đương đầu với những thách thức phía trước hay không, câu trả lời nằm ngay chính các doanh nghiệp. Hy vọng rằng cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, các Bộ ngành, các tổ chức trong và ngoài nước, các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ tìm được chỗ đứng vững chắc cho riêng mình. Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm 2003. TÀI LIỆU THAM KHẢO - Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế TW, Đánh giá tổng kết Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân và Nghị định 66/HĐBT, Hà Nội 4/1999 - Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế TW, Báo cáo kinh tế Việt Nam 2002 - Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế TW, Khuyến khích đầu tư và phát triển kinh tế, Hà Nội/1994 - Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế TW, Kết quả điều tra hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam và một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu - CIEM - MPDF, Tài liệu hội thảo về các dịch vụ phát triển kinh doanh tại Việt Nam, 4/2001 - FES - Hội Hữu Nghị Việt Đức TW, Các tập kỷ yếu hội thảo về DNV&N - MPDF, Các báo cáo trong chuyên đề nghiên cứu kinh tế tư nhân - Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê các năm 1999, 2000, 2001 - Dự án VIE/97/016, Dự thảo báo cáo điều tra doanh nghiệp, Hà Nội 5/2000 - Dự án US/VIE/95/004 (Lê Đăng Doanh, J. Bentley, Nguyễn Đình Cung, Trần Kim Hào, Trần Đình Thái, Lê Viết Thái, Hoàng Văn Thành, Phan Nguyên Toàn) Báo cáo nghiên cứu hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô và đổi mới các thủ tục hành chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của DNV&N tại Việt nam, Hà Nội 1/2000 - Chương trình nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan, Đề án " Đánh giá vai trò của các hình thức huy động vốn phi chính thức trong phát rtiển các DNV&N ở Việt Nam", Trần Kim Hào,1996 - Nguyễn Cúc, Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển DNV&N ở Việt Nam đến năm 2005, NXB Chính trị Quốc gia, 2000 - Lê Văn Tư, Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ- NXB Thống kê, 2001 - Phạm Thái Quốc, Kinh tế Đài Loan - tình hình và chính sách, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội/1999 - Biện pháp đề xuất nhằm tăng khả năng tiếp cận tín dụng chính thức cho các DNV&N - Tin kinh tế - xã hội, số 48/2000 - DNV&N ngoài quốc doanh cần có "sự tiếp" sức cần thiết - Tạp chí Thương Mại số 57/2001 - Hiện trạng phát triển của khu vực tư nhân- Tạp chí Kinh tế xã hội,2001 số 46 - Hỗ trợ tài chính cho DNV&N của Đài Loan - Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Hà Nội, 2001 số 37 - Quỹ đầu tư và thành lập quỹ đầu tư tại Việt Nam- Tạp chí Ngân hàng số 6, 2002 - Các giải pháp về kinh tế- tài chính để DNV&N phát triển- Tạp chí Cộng sản số 19 - Doanh nghiệp tư nhân cái nhìn bi quan- Thời báo ngân hàng, Hà Nội, 11/2001 - Tín dụng xuất khẩu hình thức áp dụng vào Việt Nam- Tạp chí thị trường tài chính - tiền tệ Hà Nội, 2001 số 5 - Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu- làm gì để tăng thị phần, Báo thương mại, Hà Nội 5/2001 số 20 - Dự án hợp tác nghiên cứu Việt Nam - Nhật Bản: Hội thảo về chính sách phát triển kinh tế, Hà Nội 8 - 9/12/2001 - Một số bài báo tham khảo đượ rút ra từ các báo Đầu tư, Thời báo Kinh tế, Lao động, Hải quan, Tài chính,... DANH MỤC VIẾT TẮT 1. SME : Doanh nghiệp vừa và nhỏ 2. MPDF : Chương trình Phát triển Dự án Mêkông 3. OECD : Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế 4. DNNN : Doanh nghiệp nhà nước 5. DNTN : Doanh nghiệp tư nhân 6. DNFDI : Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 7. Công ty TNHH: Công ty trách nhiệm hữu hạn 8. Cty CP : Công ty Cổ phần 9. CIEM : Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế TW 10. XNK : Xuất nhập khẩu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8386.doc
Tài liệu liên quan