Đề tài Hoach toán xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh tại Công ty đầu tư, xuất nhập khẩu nông lâm sản chế biến - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn

Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để xem xét, phân tích các vấn đề một cách khoa học và khách quan. *Phương pháp duy vật biện chứng. Là phương pháp nghiên cứu đánh giá sự vật hiện tượng kinh tế xã hội trên cơ sở nhìn nhận, xem xét mọi vấn đề trong mối quan hệ hữu cơ gắn bó và ràng buộc lẫn nhau trong quá trình tồn tại và phát triển, phương pháp này tạo khả năng hạch toán kế toán, xây dựng phương pháp thu thập, xử lý thông tin ban đầu. Tạo cho hạch toán kế toán có cơ sở để giải quyết nhiệm vụ của hạch toán kế toán. Ở đề tài nghiên cứu, chúng tôi đánh giá và xem xét mối quan hệ ràng buộc của các khoản thu - chi - giảm trừ với kết quả kinh doanh cuối cùng của Công ty. * Phương pháp duy vật lịch sử. Là phương pháp quan trọng khi nghiên cứu và đánh giá sự vật hiện tượng, phải coi trọng các quan điểm lịch sử, các sự vật tương đồng đã xảy ra trước đó. Ở đề tài nghiên cứu chúng tôi đã sử dụng các tài liệu kinh tế kế toán đã có trước đây và hiện tại.

doc79 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1474 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoach toán xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh tại Công ty đầu tư, xuất nhập khẩu nông lâm sản chế biến - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
măng, nấm bị trả lại trong năm 60.693.000 Chi trả bằng tiền mặt Biểu 10: Tổng hợp hàng bán bị trả lại (ĐVT: Nghìn đồng) Diễn giải Ghi nợ TK 531 Các TK đối ứng ghi "có" 111 112 131 1. Chi trả bằng tiền mặt 60.693 60.693 2. Chi trả bằng chuyển khoản 44.395 44.395 3. Giảm phải thu cho khách hàng 70.250 70.250 Cộng 175.338 60.693 44.395 70.250 Hàng bán bị trả lại năm 1999 của Công ty với tổng số tiền là 175.338 nghìn đồng, do có lượng lớn hàng bán bị trả lại nên khoản tiền mặt của Công ty giảm 60.693 nghìn đồng, giảm 34,61% so với tổng số tiền hàng bán bị trả lại. Số tiền ở ngân hàng của Công ty cũng bị giảm vào việc này, tuy số tiền bị giảm không lớn (25,32%) nhưng cũng ảnh hưởng tới uy tín và sự phát triển của Công ty. Sở dĩ có số lượng hàn bị trả lại là do thời tiết, do việc thuê thêm công nhân, do sơ suất của người quản lý trong việc điều hành công việc nên đã để lại hậu quả mà ta không thể lường trước được. Qua vấn đề trên, Công ty cần có những biện pháp thiết thực để khắc phục tình trạng này. 4.3.2.Hạch toán giảm giá hàng bán. ở bất kỳ một doanh nghiệp nào khách hàng cũng có quyền trả lại hàng hóa mà họ không bằng lòng mua do chất lượng và chủng loại không đúng trong hợp đồng. Cũng có thể khách hàng vẫn giữ lại hàng hóa đó và được giảm giá nếu họ chấp thuận. Do vậy, giảm giá hàng hóa bán là khoản tiền người bán hàng chấp nhận 1 cách đặc biệt trên cơ sở giá đã thoả thuận vì lý do nào đó (kém phẩm chất, không đúng quy định trong hợp đồng). Năm 1999, Công ty chỉ hạch toán vào TK 532 - giảm giá hàng bán số tiền giảm trừ cho khách hàng do việc chấp thuận giảm giá ngoài hóa đơn bán hàng. Nguyên nhân của việc giảm trừ này là do hàng kém phẩm chât, không đúng mẫu mã, giao hàng không đúng thời hạn, địa điểm quy định trong hợp đồng... Ngoài ra, tính vào khoản giảm giá hàng bán còn bao gồm khoản trả cho khách hàng (hồi khấu) do trong khoảng thời gian nhất định đã tiến hành mua một khối lượng lớn hàng hóa (tính theo tổng số hàng đã mua trong thời gian đó). Công ty sẽ có khoản giảm trừ trên giá bán thông thường cho người mua vì họ đã mua khối lượng lớn hàng hóa trong cùng một đợt. Năm 1999, Công ty gặp rất nhiều khó khăn trong việc vận chuyển hàng hóa, sản phẩm tới nơi tiêu thụ, có rất nhiều Công ty đã ký hợp đồng nhưng không lấy hàng đúng hạn (lý do bận, chưa đến kịp...) nên sản phẩm ứ đọng quá nhiều. Vì là mặt hàng nông lâm sản nên nếu để quá thời hạn hoặc bảo quản không tốt sẽ gây ra những biến cố khó có thể khắc phục được (măng tươi, nấm mầm, các loại giống tre...). Vì những lý do trên nên năm qua Công ty phải chịu một khoản giảm giá rất lớn 164.611 nghìn đồng, các khoản giảm giá trên được kế toán Công ty phản ánh vào bên nợ TK 532 - Giảm giá hàng bán và được hạch toán qua sơ đồ sau: Sơ đồ hạch toán TK 532 - Giảm giá hàng bán 111 112 131 68.720.000 Giảm giá bằng tiền mặt 49.215.000 Giảm giá bằng chuyển khoản 46.676.000 Giảm phải thu của khách hàng 532 164.611.000 Biểu 11: Tổng hợp giảm giá hàng bán (ĐVT: Nghìn đồng) Diễn giải Ghi nợ TK 532 Các TK đối ứng ghi có 111 112 131 1. Giảm giá chi trả bằng tiền mặt 68.720 68.720 2. Giảm giá chi trả bằng chuyển khoản 49.215 49.215 3. Giảm số phải thu của khách hàng 46.676 46.676 Cộng 164.611 68.720 49.215 46.676 4.3.3 Hạch toán thuế xuất khẩu(XK), thuế tiêu thụ đặc biệt(TTĐB). Như chúng ta đã biết, thuế là nguồn thu chủ yếu của chính phủ, do đó nộp thuế là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tập thể, cá nhân, cũng như các đơn vị kinh tế. Trong năm qua, Công ty đầu tư, xuất nhập khẩu nông lâm sản chế biến cũng như các công ty khác, đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong quá trình sản xuất kinh doanh đối với Nhà nước đó là nộp thuế. *Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng (GTGT) có 2 phương pháp: Phương pháp khấu trừ Phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên GTGT Để tính được số thuế GTGT phải nộp, Công ty đã sử dụng phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên GTGT. Số thuế GTGT phải nộp được xác định như sau: Số thuế GTGT phải nộp GTGT của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế bán ra Thuế suất, thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ tương ứng x = Căn cứ tính thuế ở đây là phần GTGT của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT và được xác định theo công thức: Giá thanh toán của dịch vụ, hàng hóa bán ra GTGT của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế bán GTGT Giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ tương ứng ------ = Khi tính thuế với các khoản thu bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ra tiền Việt Nam tại thời điểm tính doanh thu theo tỉ giá mua vào do Ngân hàng Nhà nước công bố (nếu có) hoặc tỷ giá thị trường. Quy định về thuế suất: Do công ty vừa sản xuất, vừa kinh doanh các mặt hàng nông lâm sản và các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt nên thuế suất tuỳ vào các mặt hàng khác nhau. Thuế suất của công ty được quy định như sau: + Mua các loại thùng để đóng nấm, măng thuế xuất 5% + Giống tre là sản phẩm được ưu tiên nên không phải chịu thuế + Kinh doanh khác: Bia, nước giải khát có ga... thuế suất 47% (thuế TTĐB) Thuế xuất khẩu (hoặc nhập khẩu phải nộp) Số lượng từng mặt hàng trong tờ khai hàng hóa Giá tính thuế bằng đồng Việt Nam x = Thuế suất tính nhóm hàng, mặt hàng x *Hạch toán thuế xuất nhập khẩu phải nộp Công ty đã hạch toán thuế xuất nhập khẩu bằng cách tính trên, trong đó giá tính thuế được quy định như sau: Đối với các mặt hàng Nông lâm sản hiện nay đang được khuyến khích xuất khẩu nên Công ty không phải chịu thuế xuất khẩu ( thuế xuất bằng o ) Giá tính thuế nhập khẩu là giá mua tại cửa khẩu đến, kể cả phí vận tải, phí bảo hiểm theo hợp đồng (giá CIF) Trường hợp mua, bán hàng theo các phương thức khác thì giá tính thuế phải dựa vào các chứng từ hợp lệ (biên lai, vận đơn, LC… ) hoặc tính theo sự thoả thuận riêng về thuế giữa chính phủ Việt Nam với nước ngoài. Tỷ giá hối đoái để quy đổi ngoại tệ thành "VNĐ" là tỷ giá mua vào do ngân hàng Nhà nước công bố. SL hàng hóa tiêu thụ Thuế nhập khẩu phải nộp Giá tính thuế bằng đồng Việt Nam x = Thuế suất (5%) x Trong hoạt động xuất nhập khẩu, Công ty phải chịu mức thuế nhập khẩu là 5%. Do vậy, việc tính thuế nhập khẩu phải nộp được tính như sau: Tổng số thuế nhập khẩu phải nộp năm 1999 là 73.220 nghìn đồng, kế toán ghi Nợ TK 156: 73.220 nghìn đồng Có TK 333(333.3) : 73.220 nghìn đồng Năm 1999, Công ty kinh doanh một số mặt hàng phải chịu thuế TTĐB (Bia, nước giải khát có ga) nên số thuế TTĐB trong năm qua phải nộp được tính theo công thức: Thuế TTĐB phải nộp Doanh thu tiêu thụ 1 + Thuế suất Thuế suất (47%) = x Với công thức trên, tổng số thuế TTĐB phải nộp năm 1999 là 61.966 nghìn đồng, ghi Nợ TK 511: 61.966 nghìn đồng Có TK 333(333.2): 61.966 nghìn đồng Trên thực tế, tổng số thuế TTĐB của các mặt hàng nông lâm sản, bia, nước giải khát có ga thực hiện là 65.216 nghìn đồng. Do số hàng bán của Công ty bị trả lại là 175.338 nghìn đồng nên đã làm giảm số thuế phải nộp (3.250 nghìn đồng), kế toán ghi Nợ TK 131: 3.250 nghìn đồng Có TK 511: 3.250 nghìn đồng Vậy tổng số thuế TTĐB Công ty phải nộp trong năm 1999 là 61.966 nghìn đồng. Kế toán tiến hành ghi sổ theo định khoản Nợ TK 511: 61.966 nghìn đồng Có TK 333: 61.966 nghìn đồng Do Công ty tính thuế VAT theo phương pháp trực tiếp nên sản phẩm của hoạt động sản xuất kinh doanh tại Công ty được hạch toán vào chi phí quản lý doanh nghiệp (TK 642) nên số thuế VAT không được tính vào khoản giảm trừ kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Biểu 12: Tổng hợp thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt (ĐVT: Nghìn đồng) Diễn giải Ghi có TK 333 . Ghi nợ các TK 156 511 Cộng có 1. Thuế TTĐB phải nộp 61.966 61.966 2. Thuế NK phải nộp 73.220 73.220 Cộng 73.220 61.966 135.186 Năm 1999, Công ty đã sản xuất kinh doanh những mặt hàng phải chịu các loại thuế khác nhau( thuế NK, thuế TTĐB). Tổng số thuế phải nộp trong năm qua là 135.186 nghìn đồng, trong đó thuế NK chiếm 54,16%, qua đó chứng tỏ rằng Công ty rất có khả năng phát triển và chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước. Do đó, tổng số thuế và các khoản phải nộp NSNN của Công ty được dùng làm căn cứ để tính số thuế đã nộp, còn phải nộp, lập báo cáo kết quả kinh doanh và tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước trong năm của Công ty. 4.4 Hạch toán các khoản thu 4.4.1 Hạch toán doanh thu bán hàng Trong nền kinh tế quốc dân, sự cạnh tranh diễn ra trên thị trường ngày càng gay gắt, nhiều tổ chức kinh doanh tìm mọi cách giảm giá bán để chiếm lĩnh thị trường. Trong khi đó giá vốn hàng bán ngày càng tăng. Đứng trước tình hình đó, Công ty phải có biện pháp thiết thực để có thể đứng vững và phát triển được trên thị trường hiện nay. Kết quả trong năm 1999 mà Công ty đạt được là các đơn vị vẫn giữ được mối quan hệ với các bạn hàng cũ và mở rộng hơn với các đơn vị mới . Một số mặt hàng chủ yếu được thực hiện vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra như: Nấm muối các loại, nấm hộp, măng hộp.. . Tuy nhiên, một số mặt hàng(chính và phụ) thực hiện còn thấp do nhu cầu, giá cả trên thị trường biến động thất thường như:Tre giống các loại, hạt điều, hạt lương khô.. . Cũng có một số mặt hàng thiếu nguồn do hàng đôi lúc không về kịp như: Nấm, măng, các loại hộp dùng để đóng hàng.. . nên nhiều đơn vị đã mất rất nhiều thời gian vào việc này, điều đó dẫn tới việc vi phạm hợp đồng, hàng bị ẩm mốc và không đảm bảo chất lượng. Về hàng hoá xuất khẩu: Trong năm qua Công ty đã cố gắng mở rộng thị trường, tìm bạn hàng, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Tuy không đạt tới kế hoạch đề ra song tăng 112,5% so với năm 1998. Để thu được lợi nhuận cao trong kỳ bán hàng, Công ty đã bán hàng theo các phương thức chính sau: *Bán hàng thu tiền mặt (bán thu tiền ngay). Đây là phương thức bán hàng thuận tiện nhất, ít gây khó khăn, ít ứ đọng vốn , các hình thức giao, nhận hàng nhanh chóng. Với phương thức bán hàng này, trong năm 1999 Công ty đã bán được số sản phẩm và hàng hoá lớn. *Bán trả chậm. Đây là phương thức của Công ty thực hiện theo chỉ thị 27CTUB ngày 6/8/97 của UBND Thành phố Hà Nội, chỉ thị về đổi mới phương thức phục vụ nông dân trên địa bàn Hà Nội. Đây thực chất là phương thức ứng trước hàng hoá (giống tre, nấm) cho các xí nghiệp, hộ nông dân.. . Thông qua hệ thống tiêu thụ của Công ty là các cửa hàng, đại lý, các HTX ký hợp đồng với Công ty theo giá thoả thuận và nhận hàng hoá từ khâu đầu đến khâu cuối rồi mới tiến hành thanh toán với Công ty. Công ty bán hàng theo phương thức này có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nông dân, xí nghiệp, các doanh nghiệp khác, nhưng bán hàng theo phương thức này rất khó khăn cho Công ty về vốn trong kinh doanh. *Bán chuyển khoản. Công ty bán hàng theo hợp đồng với các đơn vị khác bằng phương thức thanh toán vào tài khoản tiền gửi ngân hàng của Công ty. Các đơn vị hợp đồng mang phương tiện tới Công ty vận chuyển và nhận hàng về, sau đó thanh toán với Công ty thông qua ngân hàng. Trên cơ sở các phương thức bán hàng, hoá đơn bán hàng, doanh thu của Công ty được xác định tại thời điểm bán được hàng(có thể thu được tiền ngay hoặc chịu). Cũng như các đơn vị khác, doanh thu thu bán hàng của Công ty được kế toán Công ty theo dõi và hạch toán trên TK 511 của hệ thống kế toán mới áp dụng cho các doanh nghiệp của bộ tài chính. Căn cứ để kế toán Công ty hạch toán doanh thu bán hàng là các hoá đơn kiêm phiếu xuất kho, hoá đơn bán hàng, phiếu thu. Hàng ngày kế toán ghi chép các nghiệp vụ phản ánh doanh thu vào số chi tiết tiêu thụ dùng chung cho các TK 511, TK 531, TK 532.. . ghi vào cột có của TK 511 tại sổ chi tiết TK 511 và cuối kỳ kế toán chuyển cho kế toán tổng hợp ghi vào sổ cái TK 511 sau đó kết chuyển sang TK 911( XĐKQKD). Trong qúa trình hạch toán doanh thu bán hàng, kế toán Công ty sử dụng các sổ sách kế toán như sau: - Sổ chi tiết tiêu thụ dùng chung cho các TK 511, 531, 532. - Sổ chi tiết TK 511 Hàng ngày, kế toán của Công ty căn cứ vào các chứng từ bán hàng, các phương thức bán hàng tiến hành ghi chép và theo dõi TK 511 của Công ty theo các bút toán, tuỳ vào phương thức bán hàng của Công ty. Trong năm 1999, căn cứ vào các sổ sách kế toán có liên quan, tổng doanh thu bán hàng của Công ty được tổng hợp theo sơ đồ sau: Sơ đồ hạch toán tổng hợp"DTBH" năm 1999 của Công ty 531 175.338.000 Trị giá hàng bán bị trả lại 532 164.611.000 Giảm giá hàng bán 333 61.966.000 Số thuế TTĐB 911 18.106.543.000 Doanh thu thuần 2.193.817.000 Bán hàng theo phương thức trả chậm 111 3.620.548.000 Số tiền bán hàng do chuyển khoản 112 511 131 SPS: 18.508.458.000 18.508.458.000 8.750.638.000 Số tiền bán hàng thu tiền mặt 3.943.455.000 Số tiền phải thu nội bộ 136 Biểu 13: Tổng hợp doanh thu bán hàng (ĐVT: Nghìn đồng) Diễn giải Ghi có TK 511 Các TK đối ứng ghi nợ 136 111 131 112 1. Doanh thu bán hàng thu nội bộ 3.943.455 3.943.455 2. Bán hàng thu tiền mặt 8.750.638 8.750.638 3. Khoản thu do bán hàng trả chậm 2.193.817 2.193.817 4. Thu chuyển khoản 3.620.548 3.620.548 Tổng doanh thu bán hàng 18.508.458 3.943.455 8.750.638 2.193.817 3.620.548 Qua sơ đồ hạch toán TK 511 và biểu 13 cho ta thấy: Tổng doanh thu bán hàng của Công ty tương đối lớn 18.508.458 nghìn đồng, trong đó doanh thu bán hàng thu tiền mặt là 8.750.638 nghìn đồng chiếm 47,30% tổng doanh thu bán hàng. Với phương thức bán hàng này, chứng tỏ Công ty đã tiêu thụ được một khối lượng hàng hoá lớn và Công ty rất chú trọng tới việc luân hồi vốn không để ứ đọng quá lâu đặc biệt là với tình hình tài chính như hiện nay của Công ty. Tổng doanh thu bán hàng nông lâm sản trả chậm của Công ty là 2.193.817 nghìn đồng chiếm 11,86% so với tổng doanh thu bán hàng của Công ty. Phương thức bán hàng này không có lợi cho Công ty bởi vì nó làm cho sự luân chuyển vốn của Công ty giảm và gây ra tình trạng nợ kéo dài cho nên Công ty rất hạn chế bán hàng theo phương thức này. Năm 1999, doanh thu bán hàng thu bằng chuyển khoản của Công ty ở mức trung bình, doanh thu này chỉ đạt 3.620.548 nghìn đồng, đạt 19,56% so với tổng doanh thu . Mặc dù phương thức này cũng tạo cho Công ty một khoản tiền lãi của số tiền bán hàng do Công ty bán cho các đơn vị phải trả bằng lãi suất ngân hàng nhưng với phương thức này cũng làm giảm tiền vốn kinh doanh của Công ty. Do vậy Công ty không xác định đây là phương thức bán hàng chính của mình. Tổng doanh thu bán hàng phải thu nội bộ trong năm 1999 đạt 3.943.455 nghìn đồng với tỷ lệ 21,30% so với tổng số doanh thu bán hàng. Nhìn chung, qua phần hạch toán doanh thu bán hàng của Công ty năm 1999, chứng tỏ cho ta thấy chiến lược kinh doanh của Công ty và qua đó xác định được đâu là mục tiêu không có lợi, từ đó có các phương thức bán hàng phù hợp, mang lại hiệu quả kinh tế cho Công ty. 4.4.2 Hạch toán các thu nhập khác. *H ạch toán thu nhập hoạt động tài chính(TK 711). Hoạt động tài chính là những hoạt động có liên quan đến việc huy động quản lý và sử dụng nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp . Vì thế, những khoản thu nhập có liên quan đến hoạt động đầu tư về vốn tạo thành chỉ tiêu thu nhập của hoạt động tài chính. Thu nhập hoạt động tài chính trong các doanh thu rất đa dạng và phong phú, trong đó chủ yếu là thu nhập từ hoạt động tham gia liên doanh, đầu tư chứng khoán, cho thuê tài sản, kinh doanh bất động sản, mua bán ngoại tệ. Trong những năm qua Công ty đầu tư, xuất nhập khẩu nông lâm sản chế biến chỉ tập trung vào sản xuất kinh doanh chứ không chú trọng kinh doanh về vốn. Do đó, không có các hoạt động góp vốn tham gia liên doanh. Từ năm 1997, Công ty đã không sử dụng đến những nhà kho mà trước kia dùng để ủ nấm, chứa phế liệu. Lý do của việc không sử dụng đến là công ty đã đầu tư vốn để mua dây chuyền ủ nấm, do đó Công ty đã dành 1.152m2 nhà kho trong Công ty để cho Công ty TNHH Bình Minh, Công ty Thái á thuê. Hai Công ty này thuê với mục đích sản xuất chủ yếu các loại giấy và kinh doanh các mặt hàng khác nhau. Việc cho thuê nhà này đã đem lại cho Công ty nguồn thu nhập hàng tháng là 18.494 nghìn đồng. Kế toán phản ánh theo bút toán, ghi: Nợ TK 111: 221.928 nghìn đồng Có TK 711: 221.928 nghìn đồng Cuối năm,Công ty đã bán một số phế liệu doviệc sản xuất kinh doanh.Hoạt động này đã đem lại thu nhập cho Công ty, kế toán phản ánh theo bút toán sau: Nợ TK 138: 36.258 nghìn đồng Có TK 711: 36.258 nghìn đồng Sơ đồ hạch toán TK 711 theo các nghiệp vụ sau. 711 221.928.000 111 36.258.000 138 258.186.000 * Hạch toán thu nhập bất thường (TK 721). Các khoản thu nhập bất thường là các khoản thu nằm trong hoạt động không diễn ra thường xuyên, đơn vị không dự tính trước hoặc có dự tính nhưng ít có khả năng thực hiện. Các khoản thu nhập bất thường của Công ty thường là các khoản thu hồi nợ khó đòi đã xử lý, xoá sổ trước đó, các khoản tiền đươc phạt do vi phạm hợp đồng, thanh lý TSCĐ, được miễn giảm thuế. Để theo dõi khoản thu bất thường, kế toán sử dụng TK 721. Kế toán hạch toán TK 721 theo các nghiệp vụ sau: Thu hồi nợ khó đòi đã xử lý xoá sổ trước đây là 12.965 nghìn đồng, kế toán ghi Nợ TK 111: 12.965 nghìn đồng Có TK 721: 12.965 nghìn đồng Các khoản thu khác là 14.353 nghìn đồng, kế toán ghi Nợ TK 138: 14.353 nghìn đồng Có TK 721: 14.353 nghìn đồng Sơ đồ hạch toán TK 721 theo các nghiệp vụ sau 721 12.965.000 111 14.353.000 138 27.318.000 Dựa vào sổ cái, chúng tôi đã tổng hợp được bảng thu nhập hoạt động tài chính và hoạt động bất thường như sau: Biểu 14: Tổng hợp thu nhập hoạt động tài chính và hoạt động bất thường (ĐVT: Nghìn đồng) Diễn giải Ghi nợ các TK TK ghi có 711 721 I. Thu hoạt động tài chính 258.186 1. Bằng tiền mặt 111 210.240 2. Nợ phải thu 138 47.946 II. Thu bất thường 27.318 1. Bằng tiền mặt 111 12.965 2. Nợ phải thu 138 14.353 Qua biểu 14 chúng ta thấy, thu nhập hoạt động tài chính và hoạt động bất thường đã đem lại cho Công ty số vốn không nhỏ, đặc biệt là hoạt động tài chính. Việc cho thuê nhà kho đã đem lại cho Công ty hàng tháng với số tiền nhất định. Công ty cần tăng cường việc sử dụng TSCĐ có hiệu quả hơn. Cũng như các khoản thu nhập khác, trong mấy tháng đầu năm, nhiều đơn vị khách hàng vẫn còn hàng hoá tồn kho nên việc tiêu thụ hàng hoá của Công ty có sự giảm sút. Các khoản thu nhập bất thường ít phát sinh, thậm chí không phát sinh. Năm 1999 có được kết quả trên là do cuối năm công ty phát sinh nhiều khoản thu nhập bất thường như: Thu được tiền nợ khó đòi của khách hàng đã xoá sổ trước đây là 12.965 nghìn đồng, đạt 47,45% so với tổng số tiền của hoạt động này, tiền phạt do đối tác vi phạm hợp đồng. Các khoản thu nhập trên đều tạo cho Công ty có thêm vốn để phục vụ cho qúa trình sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển. 4.5 Kế toán tổng hợp xác định kết quả kinh doanh . Trong qúa trình sản xuất kinh doanh, Công ty sản xuất kinh doanh chủ yếu các mặt hàng nông lâm sản theo đúng giấy phép kinh doanh của Công ty. Do vậy, công việc hạch toán kết quả kinh doanh của Công ty được kế toán thực hiện như sau: Đối với hoạt động bán hàng, cuối kỳ hạch toán để xác định được doanh thu thuần, kế toán ghi Nợ TK 511: 401.915 nghìn đồng Có TK 531: 164.611 nghìn đồng Có TK 532: 175.338 nghìn đồng Có TK 333: 61.966 nghìn đồng *Trị giá vốn của hàng bán được kết chuyển từ TK 632 sang TK 911 là 15.013.025 nghìn đồng, kế toán ghi Nợ TK 911: 15.013.025 nghìn đồng Có TK 632: 15.013.025 nghìn đồng *Kết chuyển chi phí bán hàng năm 1999 của Công ty sang TK 911 là 1.116.000 nghìn đồng, kế toán ghi Nợ TK911: 1.116.000 nghìn đồng Có TK 641: 1.116.000 nghìn đồng *Kết chuyển chi phí quản lý năm 1999 của Công ty là 1.874.120 nghìn đồng, kế toán ghi Nợ TK 911: 1.874.120 nghìn đồng Có TK 642: 1.874.120 nghìn đồng *Khoản chênh lệch (lãi) kế toán ghi Nợ TK 911: 303.063 nghìn đồng Có TK 421: 303.063 nghìn đồng *Đối với hoạt động tài chính, khi xác định các khoản thu nhập hoạt động tài chính, cuối kỳ kế toán ghi Nợ TK 711: 258.186 nghìn đồng Có TK 911: 258.186 nghìn đồng *Đối với hoạt động bất thường, cuối kỳ hạch toán kết chuyển toàn bộ thu nhập bất thường, kế toán ghi Nợ TK 721: 27.318 nghìn đồng Có TK 911: 27.318 nghìn đồng *Kết chuyển toàn bộ chi phí tài chính, chi phí bất thường sang TK 911- XĐKQKD là 85.839 nghìn đồng, ghi Nợ TK 911: 85.839 nghìn đồng Có TK 811: 62.215 nghìn đồng Có TK 821: 23.624 nghìn đồng *Kết chuyển doanh thu thuần năm 1999 của Công ty là 18.106.543 nghìn đồng, ghi Nợ TK 511: 18.106.543 nghìn đồng Có TK 911: 18.106.543 nghìn đồng Theo số liệu tổng hợp năm 1999, tổng thu của Công ty là 18.392.047 nghìn đồng lớn hơn tổng chi của Công ty là 199.665 nghìn đồng (sau khi đã trừ thuế), điều đó chứng tỏ Công ty hoạt động kinh doanh trong năm qua là có lãi. Để minh hoạ cho qúa trình hạch toán kết quả kinh doanh của Công ty ta nghiên cứu qua sơ đồ hạch toán và biểu 15. Sơ đồ hạch toán TK 911 " XĐKQKD" năm 1999 của Công ty 27.318.000 721 258.186.000 711 SPS: 18.392.047.000 18.392.047.000 303.063.000 421 23.624.000 821 62.215.000 811 1.874.120.000 642 18.106.543.000 511 TK 911 1.116.000.000 641 15.013.025.000 632 Biểu 15: Tổng hợp kết quả kinh doanh của Công ty năm 1999 (ĐVT: Nghìn đồng) Diễn giải Ghi "nợ" TK 911 - Ghi "có" các TK 632 641 642 811 812 421 Cộng 1.Giá vốn hàng bán 15.013.025 15.013.025 2.Chi phí bán hàng 1.116.000 1.116.000 3.Chi phí quản lý 1.847.120 1.847.120 4.Chi phí hoạt động tài chính 62.215 62.215 5.Chi phí hoạt động bất thường 23.624 23.624 6.Lợi tức trước thuế 303.063 303.063 Cộng 15.013.025 1.116.000 1.847.120 62.215 23.624 303.063 18.392.047 Diễn giải Ghi "có" TK 911 - Ghi "nợ "các TK 511 711 721 Cộng 1.Doanh thu thuần 18.106.543 18.106.543 2.Thu nhập hoạt động tài chính 258.186 258.186 3.Thu nhập hoạt động bất thường 27.318 27.318 Cộng 18.106.543 258.186 27.318 18.392.047 Tổng số thuế lợi tức phải nộp cả năm = Tổng số thuế lợi tức chịu thuế x Thuế suất Cuối kỳ, kế toán xác định thuế lợi tức phải nộp cho Nhà nước như sau: Tổng số thuế lợi tức phải nộp cả năm = 303.063 x 35% = 106.072 nghìn đồng Tổng số lợi tức chịu thuế là 303.063 nghìn đồng. Thuế suất được Nhà nước quy định cho Công ty là 35%. Do vậy, tổng số thuế lợi tức phải nộp cả năm 1999 của Công ty là. Từ kết quả trên ta có thể xác định được lợi tức sau thuế theo công thức sau: Lợi tức sau thuế = Tổng lợi tức trước thuế - thuế lợi tức phải nộp = 303.063 -106.072 =196.991 nghìn đồng Các khoản giảm trừ doanh thu Chiết khấu hàng bán Giảm giá hàng bán Hàng bán bị trả lại Thuế TTĐB, thuế XNK = + + + Cuối niên độ, kế toán xây dựng một số chỉ tiêu tính toán để đánh giá thực chất từng hoạt động trong Công ty . Các chỉ tiêu đó được thể hiện như sau: = 0 + 164.611 + 175.338 + 61.966 = 401.915 nghìn đồng * Doanh thu thuần = Tổng doanh thu - Các khoản giảm trừ doanh thu = 18.508.458 - 401.915 = 18.106.543 nghìn đồng * Lợi tức gộp = Doanh thu thuần - Giá vốn hàng bán = 18.106.543 - 15.013.025 Lợi tức gộp -(CP bán hàng + CPQLDN) = Lợi tức thuần từ hoạt động kinh doanh = 3.093.518 nghìn đồng = 3.093.518 - ( 1.116.000 + 1.874.120) = 3.093.518 - 2.990.120 = 103.398 nghìn đồng *Lợi tức HĐ tài chính = Thu nhập HĐTC - Chi phí HĐTC = 258.186 - 62.215 = 195.971 nghìn đồng * Lợi tức bất thường = Các khoản phải thu bất thường - CP bất thường = 27.318 - 23.624 = 3.694 nghìn đồng Qua sơ đồ hạch toán TK 911 và biểu 15 cho ta thấy Công ty đã hoàn thành tốt các chỉ tiêu, kế hoạch của thành phố giao, phục vụ thoả mãn các mặt hàng nông lâm cho thị trường trong và ngoài nước, giữ vững vai trò chỉ đạo của đơn vị kinh tế quốc doanh. Năm 1999 là năm có nhiều biến động, đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực nên ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của các doanh nghiệp trong cả nước. Công ty đầu tư, xuất nhập khẩu nông lâm sản chế biến cũng nằm trong xu hướng chung đó. Mặt khác, năm 1999 giá các loại nông sản của Công ty như : Nấm muối, nấm hộp, măng hộp.. . là những mặt hàng xuất, nhập khẩu nên mức độ ảnh hưởng là rất lớn. Khủng hoảng kinh tế khu vực còn gây ra tình trạng giá cả các loại nông sản nhập khẩu tăng trong khi đó giá trong nước lại giảm, sự cạnh tranh về mặt hàng nông - lâm trở nên gay gắt. Nhưng năm 1999, dưới sự chỉ đạo của thành phố và Bộ Nông nghiệp và PTNT cùng với sự gắn bó, đoàn kết, thống nhất với CBCNVC của Công ty. Công ty đầu tư, xuất nhập khẩu nông lâm sản chế biến đã chứng tỏ được sự vững mạnh và phát triển của mình, đó là việc năm 1999 Công ty đã hoạt động kinh doanh vẫn đẩm bảo có lãi, thu hồi được vốn và thực hiện nghĩa vụ của Công ty đối với Nhà nước, góp phần vào việc xây dựng phát triển nền kinh tế của Công ty đầu tư, xuất nhập khẩu Nông lâm sản chế biến nói riêng và của các Công ty cả nước nói chung. Để thấy rõ hơn về vấn đề này ta nghiên cứu biểu. Biểu 16: Tổng hợp kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 1999. (Theo mẫu B02 - DN) Phần I: Lãi - lỗ (ĐVT: Nghìn đồng) Diễn giải Mã số 1999 Tổng doanh thu 01 18.508.458 Trong đó: Doanh thu hàng xuất khẩu 02 14.959.627 Các khoản giảm trừ (04 + 05 + 06 + 07) 03 401.915 + Chiết khấu 04 + Giảm giá 05 164.611 + Giá trị hàng bán bị trả lại 06 175.338 + Thuế TTĐB, thuế XNK phải nộp 07 61.966 1. Doanh thu thuần (01 - 03) 10 18.106.543 2. Giá vốn hàng bán 11 15.013.025 3. Lợi tức gộp (10 - 11) 20 3.093.518 4. Chi phí bán hàng 21 1.116.000 5. Chi phí quản lý doanh nghiệp 22 1.874.120 6. Lợi tức thuần từ hoạt động sản xuất 30 103.398 KD [20- (21 + 22)] - Thu nhập hoạt động tài chính 31 258.186 - Chi phí hoạt động tài chính 32 62.215 7. Lợi tức hoạt động tài chính (31 - 32) 40 195.971 - Các khoản thu nhập bất thường 41 27.318 - Chi phí bất thường 42 23.624 8. Lợi tức bất thường (41 - 42) 50 3.694 9. Tổng lợi tức trước thuế (30 + 40 + 50) 60 303.063 10. Thuế lợi tức phải nộp (35%) 70 106.072 11. Lợi tức sau thuế (60 - 70) 80 196.991 Phần II: Tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước năm 1999 (ĐVT: Nghìn đồng) Diễn giải Số còn phải nộp năm 1998 Số phải nộp năm 1999 Số đã nộp năm 1999 Số còn phải nộp cuối năm 1999 (1) (2) (3) (4) (5) = 2+3- 4 1.Thuế VAT 17.579 57.971 70.135 5.415 2.Thuế tiêu thụ đặc biệt 61.966 61.966 3.Thuế XNK 73.220 73.220 4.Thuế lợi tức 15.262 106.072 99.620 21.714 5.Thuế trên vốn 27.151 198.248 197.685 27.714 6.Thuế nhà đất 53.303 41.230 12.073 7.Các loại thuế khác 13.120 13.120 Tổng cộng 59.992 563.900 556.769 66.916 Qua biểu 16 chứng minh cụ thể cho ta thấy: Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Trong năm 1999, Công ty sản xuất và kinh doanh không những đã bù đắp được các khoản chi phí bỏ ra mà còn đảm bảo có lãi. Tổng số lãi của Công ty năm 1999 sau khi đã trừ tất cả các khoản chi phí và thuế là 196.911 nghìn đồng, chiếm 1,06% so với tổng doanh thu của Công ty. Tổng doanh thu năm 1999 của Công ty là 18.508.458 nghìn đồng, trong đó doanh thu thuần là 18.106.543 nghìn đồng chiếm 97,83% tổng doanh thu, giá vốn của một số mặt hàng nông lâm là 15.013.025 ngìn đồng chiếm 81,11% so với tổng doanh thu, lợi tức gộp (chưa trừ chi phí kinh doanh) năm 1999 là 3.093.518 nghìn đồng đạt 16,71%... điều này chứng tỏ rằng, hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty có thể lấy thu bù được chi và có lãi là 103.398 nghìn đạt 0,56% doanh thu. Năm 1999, Công ty đã thực hiện và đóng góp vào ngân sách Nhà nước trên 1/2 tổng số thuế và nộp ngân sách Nhà nước. Tổng số thuế và nộp ngân sách Nhà nước Công ty phải nộp năm 1999 là 563.900 nghìn đồng, trong năm 1999 Công ty đã nộp được 556.976 nghìn đồng và còn phải nợ là 66.916 nghìn đồng chiếm 11.87% tổng số thuế và các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước năm 1999. Đây là điều đáng mừng bởi vì so với hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty với mức lãi chưa cao nhưng Công ty vẫn thực hiện nghiêm chỉnh các khoản thực hiện nghĩa vụ của một doanh nghiệp Nhà nước, góp phần vào việc tăng thu ngân sách của Chính phủ, tạo đà cho việc xây dựng và phát triển của nền kinh tế đất nước. 4.6 Những tồn tại và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao kết quả kinh doanh của Công ty. Thực tiễn cho thấy, nền kinh tế càng phát triển thì các doanh nghiệp phải tìm ra các biện pháp đổi mới và hoàn thiện phương pháp quản lý trong quá trình sản xuất kinh doanh để đạt hiệu quả cao. Trong nền kinh tế mở, các doanh nghiệp hoạt động phải tuân theo quy luật thị trường. Vì thế phải tạo ra cho mình một chỗ đứng để tồn tại trên thị trường. Trong năm 1999, Công ty đã đạt được nhiều thành tích quan trọng trong quá trình hoạt động nói chung và trong quá trình sản xuất kinh doanh nói riêng, song song với những thành tích đó, Công ty còn một số khiếm khuyết trong sản xuất kinh doanh.. Vì vậy, chúng tôi đưa ra những định hướng và giải pháp để hoàn thiện công tác của Công ty. 4.6.1: Một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của Công ty. Hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong năm qua chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như: vốn, thời tiết, thị trường... Do đó, phải có những giải pháp để Công ty có thể tăng lợi nhuận bằng các hình thức sau: (+) Hoàn thiện đổi mới, mở rộng quy mô sản xuất: Đối với mọi doanh nghiệp, để đảm bảo ổn định và đứng vững trên thị trường thì việc mở rộng sản xuất là yếu tố cần thiết, chính vì vậy Công ty cần hoàn thiện một số phân xưởng sản xuất (phân xưởng sản xuất nấm, giống tre, sơ chế măng...), lắp đặt dây chuyền sản xuất tiên tiến để tạo những sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu cần thiết của thị trường. Ngoài ra, còn tiết kiệm được chi phí (chi phí lao động) để tạo ra được sản phẩm có giá thành hạ so với sản phẩm cùng loại trên thị trường và vẫn đảm bảo chất lượng cao. Mặt khác, đối với những sản phẩm đóng hộp cần tạo ra trang trí bao bì, mẫu mã thật đẹp sao cho phù hợp, hấp dẫn người tiêu dùng và phù hợp được tính chất sử dụng theo đơn vị sản xuất, theo quy mô sản xuất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, điều này sẽ làm cho nhu cầu người tiêu dùng tăng một cách tự nguyện và lâu dài để mở rộng được thị trường xuất khẩu sang các nước bạn. Mục đích tới đây của Công ty là lắp đặt những dây chuyền chế biến nông lâm sản từ sản phẩm tươi sống có chất lượng thấp chuyển thành những sản phẩm tươi sống có chất lượng cao, phù hợp với việc xuất nhập khẩu và thị hiếu người tiêu dùng. (+) Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm: Mục tiêu trong sản xuất kinh doanh của bất kỳ nhà doanh nghiệp nào cũng là kiếm lời. Để đạt được mục tiêu đó Công ty phải tự tiêu thụ sản phẩm hàng hóa của mình, tiêu thụ ở đâu? Tiêu thụ như thế nào? Vì vậy, Công ty phải liên doanh, liên kết với các đơn vị bạn, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài để tự khẳng định mình. Công ty là một đơn vị sản xuất mặt hàng nông lâm là chủ yếu nên thị trường tiêu thụ càng rộng, càng giúp cho việc tiêu thụ sản phẩm nhanh chóng và đạt kết quả cao. Hiện nay, khách hàng tiêu thụ chủ yếu từ khắp mọi miền đất nước thậm chí còn xuất khẩu sang các nước phương Tây và các nước châu á. Sở dĩ có sự tiêu thụ rộng đó là do Công ty sản xuất những mặt hàng nông lâm sản chế biến mà những mặt hàng đó gắn liền với đời sống của con người. Muốn giữ được thị trường rộng lớn đòi hỏi Công ty phải đảm bảo chất lượng, số lượng các mặt hàng tốt. Ngoài ra, để mở rộng thị trường cần phải tổ chức tốt mạng lưới dịch vụ tiêu thụ như: mở đại lý giới thiệu sản phẩm, đồng thời làm địa điểm cố định để chuyển sản phẩm đến bán. Mặt khác, cần duy trì mối quan hệ với các đơn vị bạn (các đơn vị trong nước cũng như ngoài nước). Nếu ổn định và mở rộng các thị trường trên, Công ty sẽ có điều kiện phát triển sản xuất, tăng cường quy mô sản xuất ngày càng cao hơn. Tất nhiên, để đứng vững trong cơ chế thị trường, Công ty phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hóa sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Trong qúa trình bán hàng phải xác định rõ khách hàng nào, với lượng là bao nhiêu để có thể giảm giá, chiết khấu và lấy lòng tin từ người tiêu dùng. (+) Chiến lược tiêu thụ sản phẩm: So với việc mở rộng thị trường thì việc phát triển chiến lược tiêu thụ sản phẩm là rất cần thiết bởi vì nếu mở rộng thị trường mà tiêu thụ kém thì gây khó khăn cho việc sản xuất. Do đó, Công ty phải tổ chức tốt hệ thống bán hàng trên thị trường, đó là một trong những nội dung quan trọng trong chiến lược tiêu thụ sản phẩm. Mục đích của hoạt động này nhằm đảm bảo cho hàng hóa, dịch vụ lưu thông từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Những yêu cầu cơ bản phải đạt được của hệ thống bán hàng trên thị trường là đảm bảo khối lượng hàng hóa luân chuyển ngắn nhất với chi phí lưu chuyển ngắn và độ an toàn hàng hóa cao nhất, phù hợp với điều kiện của Công ty và mục tiêu trên thị trường kinh doanh. Công ty có thể lựa chọn hình thức phân phối rộng khắp và phân phối lựa chọn. Trên cơ sở đó có thể lựa chọn kiểu bán hàng trực tiếp hoặc cách tiêu dùng hàng hóa qua người trung gian. Trung gian phân phối chính là những người thay mặt nhà sản xuất thực hiện chức năng bán hàng, đẩy sâu qúa trình chuyên môn và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đội ngũ cán bộ trung gian bao gồm: người bán buôn, bán lẻ, hệ thống đại lý và môi giới. Như vậy, vấn đề gia tăng khả năng bán hàng không chỉ phụ thuộc vào tài nghệ bán hàng mà còn bao gồm cả mục tư duy hệ thống logic, xuyên suốt qúa trình tái sản xuất hàng hóa, bao gồm từ sản xuất đến tổ chức phân phối, bán hàng và các dịch vụ sau bán hàng. Vì vậy, Công ty phải nhận thức một cách đầy đủ và đúng đắn về vấn đề cơ bản của chiến lược tiêu thụ sản phẩm, như thế Công ty mới đảm bảo giải quyết một cách tốt nhất đầu ra cho qúa trình sản xuất kinh doanh, nâng cao uy tín của Công ty, tăng cường sức sống và khả năng cạnh tranh trên thị trường. (+) Bảo toàn và phát triển vốn tại Công ty: Bảo toàn và phát triển vốn là vấn đề sống còn của Công ty. Nếu Công ty để đủ vốn thất thoát dưới hình thức như: kinh doanh thua lỗ, cho vay không thu được nợ, bán không thu được tiền sẽ gây nguy cơ mất vốn là khó tránh khỏi. Để bảo toàn và phát triển vốn được thì: Công ty phải được mua bảo hiểm tài sản để phân tán rủi ro, tạo nguồn bù đắp các tổn thất xảy ra trong qúa trình sản xuất kinh doanh. Tiền mua bảo hiểm Công ty được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh. Một nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn đối với đơn vị sản xuất kinh doanh là phải có lãi, doanh thu đủ bù đắp chi phí và dư lãi. Phần lãi sẽ được phân phối theo quy chế tài chính hiện hành, trong đó phần chủ yếu để tái sản xuất mở rộng, còn lại được tăng cường cho các quỹ phúc lợi... nhằm nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của toàn Công ty. Nếu việc bảo toàn vốn và phát triển vốn được tốt thì sẽ tạo điều kiện cho xí nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển. 4.6.2 Một số tồn tại và giải pháp trong qúa trình hạch toán xác định kết quả sản xuất kinh doanh tại Công ty: Nhìn chung công tác hạch toán kết quả kinh doanh của Công ty được kế toán thực hiện tương đối tốt. Bộ phận kế toán được tổ chức phù hợp với yêu cầu công việc và phù hợp với trình độ chuyên môn của mỗi người, kế toán Công ty đã áp dụng một số ghi chép ban đầu tương đối đầy đủ, đúng theo chế độ kế toán quy định và thực hiện chế độ hạch toán chi phí, doanh thu và kết quả khá phù hợp với hoạt động kinh doanh của Công ty. Hệ thống sổ sách kế toán được sử dụng tương đối gọn nhẹ, đáp ứng yêu cầu công tác quản lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra hạch toán kết quả kinh doanh một cách thường xuyên và liên tục. Trong bộ phận kế toán có các cán bộ chủ chốt, có trình độ kinh nghiệm, thường xuyên chỉ đạo và uốn nắn các nhân viên kế toán, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau làm tốt công tác kế toán của mình. Bên cạnh những mặt đã đạt được của công tác hạch toán xác định kết quả kinh doanh của Công ty vẫn còn những tồn tại, thiếu sót xảy ra trong qúa trình hạch toán. Do đó, chúng tôi đưa ra các giải pháp sau: (+) Đối với hạch toán chi phí tại Công ty: - Đối với bộ phận kinh doanh: kế toán thu mua hàng hóa chưa theo dõi đường từng khoản như: khoản chi phí theo hóa đơn, khoản chi phí vận chuyển, các khoản khác phát sinh... Nếu tách được các chi phí này sẽ có tác dụng trong việc quản lý chặt chẽ hơn. Theo chúng tôi, kế toán muốn tách riêng cho từng khoản chi có sự chi tiết ngay từ đầu, sau đó mới tiền hành định khoản như sau: * Xuất tiền mặt mua hàng hoá kinh doanh, ghi sổ theo định khoản: Nợ TK 156: Hàng hóa Có TK 111: Tiền mặt * Những chi phí trong qúa trình vận chuyển hàng hóa về xí nghiệp như xăng, dầu, vé cầu đường, sửa chữa xe trong qúa trình vận chuyển... kế toán ghi sổ theo định khoản: Nợ TK 156: Hàng hóa Có TK 141: Tạm ứng Có TK 111: Tiền mặt * Những khoản giảm giá, chiết khấu khi mua hàng, kế toán ghi theo định khoản: Nợ TK 131: Phải trả cho người bán Có TK 156: Hàng hóa (chiết khấu được hưởng) - Đối với TK 642: Chi phí quản lý. Kế toán đã kết chuyển số chi phí bên quản lý vào TK 642 là đúng nguyên tắc. Tuy nhiên, trong các nội dung chi, kế toán đã gộp sổ chi tiếp khách, chi công tác phí, xăng dầu, vé cầu... dùng trong quản lý vào chung một bút toán theo định khoản như sau: Nợ TK 642: Chi phí quản lý Có TK 111: Tiền mặt Theo chúng tôi, việc kết chuyển như trên tuy con số không sai song gây khó khăn trong việc quản lý chi phí. Kế toán có thể tách ra để ghi sổ chi tiết như sau: - Đối với tiền thực chi theo nội dung quản lý như chi tiếp khách, chi công tác phí... được hạch toán theo định khoản: Nợ TK 642 (642.2): Chi phí quản lý doanh nghiệp Có TK 111: Tiền mặt - Đối với nguyên vật liệu mà Công ty cấp cho bên quản lý sử dụng như xăng dầu, sửa chữa tài sản cố định bên quản lý... được hạch toán theo định khoản: Nợ TK 642: Chi phí quản lý doanh nghiệp Có TK 152: Nguyên vật liệu, vật liệu (+) Đối với hạch toán doanh thu tại Công ty: Doanh thu được xác định khi thu tiền của khách hàng. Tại Công ty có thể bán buôn hoặc bán lẻ (bán buôn là chủ yếu). Nếu khách hàng trả tiền mặt ngay tại chỗ thì kế toán hạch toán doanh thu tiền mặt là hợp lý. Nhưng nếu khách hàng hứa có bản cam kết sẽ thanh toán hoặc tiền mặt hoặc tiền gửi ngân hàng hoặc cả hai phương thức thanh toán đó thì kế toán phải ghi nợ cho khách hàng bằng cách sử dụng TK 131, coi đây là khoản nợ phải thu. Trong Công ty, việc sử dụng TK 131 đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc theo dõi công nợ và đôn đốc khách hàng thanh toán sớm, tránh tình trạng bị chiếm dụng vốn mà vẫn không xác định là bị chiếm dụng. Việc sử dụng TK 131 tại Công ty là thích hợp. Tuy nhiên, trong qúa trình bán hàng, kế toán vẫn chỉ xác định số doanh thu cuối cùng với giá bán cuối cùng. Cách xác định như vậy so với chế độ là không chính xác, vì thế khi phát sinh các khoản giảm trừ, người viết phải ghi rõ trên hóa đơn bán hàng hoặc có quyết định cụ thể của lãnh đạo Công ty. Mặt khác, để có mối quan hệ tốt với bạn hàng và quan trọng hơn cả là thu hồi vốn nhanh, Công ty cần thúc đẩy khách hàng thanh toán các khoản nợ. Muốn vậy cần có một số chính sách với khách hàng thanh toán trước hạn. Công ty có thể sử dụng một tỷ lệ chiết khấu nhất định với khách hàng thanh toán nhanh. Tài khoản phản ánh nghiệp vụ này là TK 521: "Chiết khấu bán hàng". TK 521 có thể sử dụng như sau: Bên nợ: Số tiền chiết khấu đã chấp nhận thanh toán cho khách hàng Bên có: Kết chuyển toàn bộ số chiết khấu bán hàng sang TK 511 để xác định doanh thu thuần của kỳ hạch toán. Theo chúng tôi về phần này nên định khoản như sau: Nợ TK 511: Doanh thu bán hàng Có TK 521: Chiết khấu bán hàng Có TK 532: Giảm giá hàng bán Tại Công ty kế toán chỉ sử dụng TK 511 cho phần thu của bên sản xuất và bên kinh doanh. Nếu gộp như vậy thì khi đối chiếu, so sánh rất khó xác định phần thu nào của sản xuất và phần thu nào của kinh doanh. Theo chúng tôi, để vừa đúng chế độ, vừa hợp lý với đặc điểm sản xuất kinh doanh tại Công ty, kế toán nên sử dụng 2 tài khoản cấp 2 là TK 511.2 cho bên sản xuất và TK 511.1 cho bên kinh doanh. Khi hạch toán, kế toán sử dụng các tài khoản hợp lý đó đối với các tài khoản có liên quan. Phần V: kết luận và kiến nghị 5.1 Kết luận Đất nước ta đang chuyển mình sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước và chúng ta không thể phủ nhận một nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường mà lại không có cạnh tranh "cơ chế thị trường được ví như cơ thể sống, trong đó cung - cầu là cốt vật chất, giá cả là diện mạo, cạnh tranh là linh hồn của cơ thể sống". Với điều kiện kinh tế như vậy, mục tiêu đặt ra cho tất cả các nhà doanh nghiệp là hoạt động sản xuất kinh doanh phải đảm bảo nguyên tắc lấy thu bù chi và có lãi. Công ty đầu tư, XNK nông lâm sản chế biến là một doanh nghiệp Nhà nước, hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu là các mặt hàng nông lâm sản chế biến. Trong đó nhóm mặt hàng nấm, măng, giống tre là những mặt hàng mũi nhọn hiện nay của Công ty. Chúng là những mặt hàng mũi nhọn bởi vì những mặt hàng này ngày càng được mở rộng và tiêu thụ rộng rãi trên thị trường, tương lai sẽ còn được mở rộng hơn và phát triển mạnh. Nó sẽ là nhu cầu chung cho các doanh nghiệp sản xuất cũng như một số ngành chế biến khác. Vì vậy, đòi hỏi Công ty phải có khối lượng sản phẩm lớn và chất lượng cao để cung cấp cho thị trường hiện tại và tương lai. Để đạt được điều đó đòi hỏi trình độ của cán bộ công nhân viên trong Công ty không ngừng được nâng cao, đặc biệt là giám đốc Công ty phải năng động sáng tạo hơn nữa để đạt được lợi nhuận tối đa, cải thiện đời sống của cán bộ công nhân viên ngày một tốt hơn. Năm 1999, nền kinh tế nước ta có những biến động đáng kể, đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực đã ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và của Công ty nói riêng. Song năm qua Công ty đã từng bước khắc phục khó khăn và luôn chú trọng tới chiến lược, phương thức sản xuất kinh doanh của Công ty. Năm 1999, Công ty hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn đảm bảo có lãi. Doanh thu năm 1999 của Công ty đạt 18.508.458 nghìn đồng, trong đó lãi ròng đạt 196.991 nghìn đồng chiếm 1,06% doanh thu. Qua đó chứng tỏ cho ta thấy Công ty sản xuất kinh doanh không những đạt hiệu qảu kinh tế cao mà còn thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước kế toán là một công cụ quan trọng phục vụ cho việc quản lý nền kinh tế cả về mặt vi mô và vĩ mô. Cơ chế thị trường với đặc trưng cơ bản là cạnh tranh, đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh phải thực hiện song song với việc thường xuyên quan tâm đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và công tác hạch toán kết quả kinh doanh của doanh nghiệp phải luôn luôn được coi là một trong những trọng tâm của công tác kế toán tại các doanh nghiệp. Để cùng hòa nhập với xu thế chung đó, Công ty rất chú trọng quan tâm tới kết quả kinh doanh của Công ty, kết quả kinh doanh năm 1999 của Công ty đã có bước nhảy vọt đáng kể, doanh thu năm 1999 tăng 124,76% so với năm 1998 và bằng 111,95% so với năm 1997. Trong những thành tựu mà Công ty đã đạt được đó phải kể đến vai trò to lớn của công tác hạch toán kết quả kinh doanh của bộ phận kế toán Công ty, bộ phận kế toán đã giúp cho Công ty thấy được quy mô về chi phí, doanh số đạt được, từ đóng góp những thông tin cần thiết phục vụ vào việc đưa ra những giải pháp, chiến lược kinh doanh của Công ty phải phù hợp hơn và có hiệu quả hơn, đặc biệt là những thông tin cần thiết về tình hình tài chính của Công ty. Điều đó cũng có ý nghĩa góp phần to lớn vào việc xây dựng và phát triển Công ty, giúp Công ty đứng vững trên thị trường và từng bước cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên chức trong Công ty cũng như việc góp sức xây dựng nền kinh tế Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung. Qua thời gian thực tập tại Công ty, với số lượng thu thập được qua việc hạch toán xác định kết quả kinh doanh, chúng tôi có một số kết luận sau: 1/ Công ty hạch toán chi phí sản xuất, doanh thu và kết quả kinh doanh tại Công ty đã đảm bảo đúng nguyên tắc và chế độ quy định, hạch toán chính xác kết quả sản xuất kinh doanh tại Công ty. 2/ Đề tài đã giải quyết được vấn đề về hệ thống các phương pháp luận trong hạch toán chi phí, doanh thu, nghiên cứu bản chất và nội dung các vấn đề trên. 3/ Tiến hành hạch toán xác định kết quả kinh doanh của Công ty và cho thấy Công ty đã phát huy được khá nhiều mặt, đã tổng hợp được chính xác các khoản thu, các khoản chi, xác định số lãi thu được trong năm 1999 tại Công ty. 4/ Phân tích các khoản thu - chi để giúp cho công tác quản lý chi phí được tốt hơn. Công tác hạch toán kế toán của Công ty tương đối tốt song bên cạnh đó cũng có một số vấn đề tồn tại không tránh khỏi. Để khắc phục được vấn đề này chúng tôi đưa ra một số ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện hơn nữa trong công tác hạch toán kết quả kinh doanh của Công ty. 5.2: Kiến nghị 1/ Đối với Nhà nước, đặc biệt là Bộ tài chính cần có những cải tiến trong công tác kế toán để giúp cho các doanh nghiệp thực hiện và phản ánh chính xác các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Đồng thời cần thường xuyên tiến hành kiểm tra, kiểm toán công tác hạch toán tại các đơn vị để từ đó phản ánh đúng được trách nhiệm và nghĩa vụ của các đơn vị kinh tế đó với Nhà nước. 2/ Đối với Công ty đầu tư, XNK nông lâm sản chế biến. *Về hạch toán giá vốn hàng bán: Chi phí thu mua phải được hạch toán và theo dõi theo từng lô hàng và đồng thời phải theo dõi chi phí thu mua trên sổ chi tiết theo từng yếu tố: Chi phí vận chuyển, công tác phí, bảo hiểm hàng hóa..., để biết được chính xác biến động của từng yếu tố chi phí. *Về hạch toán doanh thu: Kế toán Công ty cần theo dõi sổ chi tiết khoản thu bán hàng và phần làm đại lý kí gửi( theo phần trăm hoa hồng được hưởng) để Công ty có một báo cáo kết quả kinh doanh chính xác và cần phải phân loại từng mặt hàng cụ thể trước khi bán để từ đó phản ánh đúng, đầy đủ các khoản thuế và nộp NSNN của Công ty đối với Nhà nước. *Về hạch toán khấu hao TSCĐ của Công ty: Do phát sinh không thường xuyên nhưng lại bao gồm nhiều loại thuộc nhiều đơn vị sử dụng, do đó việc theo dõi chung trên sổ chi tiết TSCĐ là rất khó khăn, phức tạp. Bên cạnh đó, việc tính toán và phân bổ khấu hao lại không được phản ánh chính xác. Vì vậy, Công ty cần có bảng phân bổ khấu hao TSCĐ cho chính xác. *Mở rộng qúa trình tiêu thụ hàng hoá bằng cách thực hiện phương thức bán hàng giao đại lý. Để thực hiện được phương thức bán hàng giao đại lý, kế toán nên sử dụng TK 157 "Hàng gửi đi bán" để theo dõi số hàng xuất kho giao cho các đại lý. Hàng gửi đại lý chưa được coi là tiêu thụ đến thời hạn thanh toán hợp đồng, bên đại lý nhận sẽ lập quyết toán và gửi cho Công ty về số hàng đã bán, số tiền bán hàng và hoa hồng đại lý. Khi đó, số hàng gửi mới được coi là tiêu thụ và quyết toán của bên đại lý, sau đó ghi vào chứng từ ghi sổ và sổ chi tiết bán hàng như đối với các phương thức bán hàng mà Công ty đã áp dụng . Riêng đối với chi phí về hoa hồng cho đại lý sẽ được phản ánh vào TK 641. *Để tồn tại trên cơ chế thị trường, hạch toán kế toán luôn luôn đòi hỏi kế toán phải cung cấp thông tin, dữ liệu ngày một chính xác, kịp thời. Vì vậy, bộ phận kế toán của Công ty cần được trang bị thêm các thiết bị máy móc. Cụ thể là sử dụng máy vi tính để giảm bớt số liệu sổ sách kế toán của Công ty, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập số liệu, chuyển số liệu vào sổ sách tương ứng và tính toán chính xác các con số, tránh được nhiều sai sót so với sử dụng phương pháp thủ công. Cuối tháng chỉ việc kiểm tra lại các thông tin trong máy, theo dõi việc ghi số trong máy và cho in các biểu bảng cần thiết. Trên đây là toàn bộ nội dung của đề tài tôi nghiên cứu, sẽ góp phần tích cực vào việc đổi mới công tác hạch toán, kế toán của Công ty. Tuy nhiên, do thời gian thực tập để tìm hiểu thực tế không nhiều và kiến thức chưa được sâu, rộng nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý của thầy cô và những người quan tâm. Sau cùng tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa KT&PTNT, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của cô giáo TS. Nguyễn Thị Tâm và sự giúp đỡ của các bác, các chú, các anh chị trong phòng ban nghiệp vụ và phòng ban lãnh đạo Công ty đầu tư XNK nông lâm sản chế biến - Bộ Nông nghiệp & PTNT đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này ./. Hà nội, ngày 4 tháng 8 năm 2000 Sinh viên Vũ Thị Trang Tài liệu tham khảo 1. Kế toán tổng hợp và lập báo cáo tài chính doanh nghiệp NXB tài chính Hà nội 1996. 2. Hướng dẫn sử dụng kế toán doanh nghiệp (áp dụng cho các doanh nghiệp theo quyết định 1141-TC/QĐ ngày 1/11/1995 của bộ tài chính. 3. Lý thuyết hạch toán kế toán - NXB tài chính Hà nội 1997. 4. Hướng dẫn nghiệp vụ kế toán doanh nghiệp - NXB tài chính Hà nội 1997. 5. Kế toán doanh nghiệp trong cơ chế thị trường - NXB tài chính 1998. 6. Hạch toán kế toán doanh nghiệp vừa và nhỏ - NXB tài chính Hà nội 1998. 7. Hướng dẫn nghiệp vụ kế toán tài chính - NXB tài chính 1998. 8. Thuế và kế toán - NXB tài chính Hà nội 8/1998. 9. Các chuyên đề về hạch toán kết quả sản xuất kinh doanh của khoa kế toán trường ĐHTC Hà nội. 10. Lý thuyết hạch toán và thực hành kế toán tài chính - NXB tài chính 1999. 11. Các sổ sách kế toán, báo cáo tài chính, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty đầu tư XNK nông lâm sản chế biến - Bộ NN & PTNT. 12. Tạp chí kế toán - NXBTC 1999-2000 Lời cảm ơn! Để hoàn thiện luận văn tốt nghiệp, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các đoàn thể và cá nhân trong và ngoài trường. Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới cô giáo TS. Nguyễn Thị Tâm, người đã hướng dẫn tận tình trong suốt quá trình nghiên cứu. Tôi xin cám ơn các thầy cô giáo trong Khoa Kinh tế và Phát triển Nông thôn đã truyền thụ kiến thức từ trước đến nay. Tôi xin chân thành cám ơn ban lãnh đạo, các cán bộ trong Công ty đầu tư XNK nông lâm sản chế biến - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực tập. Tôi xin gửi lời cám ơn gia đình và bạn bè đã giúp đỡ, động viên trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài. Do thời gian thực tập để tìm hiểu thực tế không nhiều và kiến thức chưa được sâu rộng nên luận văn không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô, bạn bè, của những người làm công tác nghiên cứu và làm công tác kế toán để chuyên đề này ngày càng hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà nội, Ngày 4 tháng 8 năm 2000 Tác giả Vũ Thị Trang Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0576.doc
Tài liệu liên quan