Đề tài Hoàn thiện các biện pháp bảo đảm an toàn trong Thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam

Nghiệp vụ TTQT là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện TTQT trên. Các điều kiện này cần được nghiên cứu kỹ lưỡng để có thể vận dụng chúng một cách tốt nhất trong việc ký kết và thực hiện các hợp đồng mua bán ngoại thương, các hiệp định thương mại, các hiệp định trả tiền ký kết giữa các nước. Các điều kiện trên khi được vận dụng một cách hợp lý sẽ đem lại hiệu quả kinh tế, tránh được những rủi ro, tổn thất cho các bên áp dụng. Trong đó, phương thức thanh toán là một nội dung khá quan trọng. Người ta có thể dùng nhiều phương thức thanh toán khác nhau, nhưng việc lựa chọn phương thức nào phải xuất phát từ yêu cầu của người bán là thu tiền nhanh, đầy đủ, đúng hạn và từ yêu cầu của người mua là nhập khẩu đủ số lượng, chất lượng, đúng hạn. Chuyên đề xin đề cập đến ba phương thức đang được sử dụng phố biến:

doc64 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1240 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện các biện pháp bảo đảm an toàn trong Thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỷ giá niêm yết, buộc khách hàng mua USD thông qua EUR để hợp lý hoá việc chênh lệch tỷ giá. Các doanh nghiệp không chấp nhận được mức tỷ giá VNĐ/USD cao đột biến dao động từ 17.500 đến 18.500 nên không đồng ý mua ngoại tệ để thanh toán dù đã nhận chứng từ hoặc chứng từ phù hợp nhưng không chịu nhận để NH thanh toán cho nước ngoài bởi nếu mua ngoại tệ với tỷ giá đó hàng nhập về sẽ bị lỗ. Một bên doanh nghiệp không thể mua ngoại tệ tỷ giá cao, một bên NH không thể bán ngoại tệ theo tỷ giá công bố nên nhiều bộ chứng từ đã tồn đọng ở NH vài tuần không được xử lý ảnh hưởng lớn đến uy tín của NH. 2.2.2.4. Rủi ro pháp lý: Cơ sở để thực hiện hoạt động TTQT của các NHTM Việt Nam cũng như các nước trên thế giới trước hết phải dựa vào các văn bản pháp lý mang tính quốc tế. Các quy tắc và văn bản hướng dẫn thực hiện liên quan đến TTQT do ICC phát hành là văn bản pháp lý quốc tế mà các nước thường lựa chọn để điều chỉnh nhất trong giao dịch quốc tế. Tuy nhiên, mỗi quốc gia lại có môi trường pháp lý và luật pháp khác nhau nên ở từng nước, giao dịch TTQT còn bị điều chỉnh và chi phối bởi hệ thống pháp luật quốc gia. Mức độ vận dụng các tập quán quốc tế vào thực tiễn của từng nước lại rất khác nhau, phụ thuộc vào hệ thống pháp luật nước đó. Luật quốc gia thuờng tôn trọng và ít khi đối đầu với thông lệ quốc tế nhưng không phải không có mâu thuẫn. Nếu có sự khác biệt, thậm chí đối nghịch thì luật quốc gia thường được tôn trọng. Ở Việt Nam hiện nay chưa có luật quy định chặt chẽ về TTQT nói chung và phương thức tín dụng chứng từ nói riêng nên trong nhiều trường hợp doanh nghiệp và các NHTM Việt Nam gặp phải rủi ro do xung đột pháp lý. Nếu căn cứ theo UCP thì NH sẽ phải thanh toán cho phía nước ngoài nhưng các cơ quan pháp luật trong nước thì lại không cho trả tiền. Đã từng có thời kỳ một số NHTM theo lệnh của các cơ quan trong nước không trả tiền và gây hậu quả là cả hệ thống NHTM Việt Nam bị mất uy tín, xếp loại kém trong TTQT. Trong trường hợp khác, để đảm bảo đúng cam kết và giữ uy tín của mình, NH ở Việt Nam vẫn thanh toán cho phía NH bạn và bị quy kết là cố ý làm trái và phải gánh chịu phiền phức. Luật pháp một số nước như Đức, Trung Quốc,… cho phép toà án áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm bảo đảm sự công bằng trong TTQT, bất kể quyết định đó trái ngược với thông lệ quốc tế. Chính điều này đã dẫn tới xung đột pháp luật trong quá trình tiến hành các giao dịch thanh toán L/C mà thiệt hại có thể xảy ra cho các bên. Một ví dụ điển hình là Công ty lương thực xuất khẩu gạo cho một khách hàng Đức thanh toán bằng L/C do NH Đức phát hành. Khách hàng lập bộ chứng từ hoàn hảo và xuất trình tại chi nhánh của NHNT và chi nhánh đã tiến hành chiết khấu chứng từ cho khách theo uỷ quyền của NH phát hành. Khi nhận được bộ chứng từ hoàn hảo và chuẩn bị thanh toán cho Việt Nam thì NH Đức nhận được lệnh của toà án giam giữ toàn bộ số tiền của L/C này để giải quyết nợ cũ của công ty bên Đức. NH Đức trả lời chi nhánh NHNT rằng họ không thể làm khác được vì đây là phán quyết của toà án quốc gia. Hậu quả là Công ty lương thực không thu được tiền hàng từ phía khách hàng nước ngoài và phải hoàn lại tiền cho chi nhánh NHNT theo cam kết chiết khấu có truy đòi. Khi đó chi nhánh NHNT phải đứng ra thu xếp với NH nước ngoài để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình. Cho đến nay, việc thanh toán L/C này đã được hai bên thương lượng và giải quyết mà không phụ thuộc vào các điều khoản của L/C. 2.2.2.5. Rủi ro đạo đức: Rủi ro đạo đức trong phương thức thanh toán nhờ thu thường thể hiện dưới hình thức chây ì kéo dài thời gian thanh toán hoặc NH nhờ thu cố tình thực hiện sai chỉ thị thanh toán nhờ thu hoặc có sự câu kết giữa người nhập khẩu với NH gây tổn thất cho người xuất khẩu trong nước và NH phía Việt Nam. Trong thời gian qua, có nhiều doanh nghiệp Việt Nam xuất hàng theo phương thức thanh toán D/A đã bị NH nước ngoài chiếm dụng vốn trong thời gian khá dài. Mặc dù người xuất khẩu đã chấp nhận thanh toán và NH Việt Nam đã chiết khấu bộ chứng từ nhưng đến ngày đáo hạn người nhập khẩu không thanh toán mà thường kéo dài một vài tháng sau mới trả tiền làm ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động thanh toán của các NHTM Việt Nam. Trong phương thức thanh toán L/C, việc thanh toán chỉ căn cứ trên chứng từ mà không căn cứ vào thực tế hàng hoá được giao nên nhiều người xuất khẩu đã lợi dụng khe hở này để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của người nhập khẩu và NH Việt Nam. Khi người xuất khẩu không giao hàng hoặc cố ý giao hàng không đúng số lượng và quy cách phẩm chất như hợp đồng đã ký nhưng lại xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo thì NH phát hành ở Việt Nam buộc phải thanh toán. Người nhập khẩu chỉ có thể kiện người bán trên cơ sở hợp đồng thương mại chứ không thể từ chối thanh toán L/C và NH chỉ có thể đình chỉ việc thanh toán khi có phán quyết của toà án hoặc các cơ quan pháp luật sở tại. Trong thực tiễn hoạt động TTQT, các NH đã gặp khá nhiều trường hợp giả mạo chứng từ khiến cho cả doanh nghiệp và NH mất rất nhiều công sức và thời gian theo kiện tại toà mới bảo vệ được quyền lợi của người nhập khẩu Việt Nam cũng như uy tín của mình trong TTQT. Về phía người nhập khẩu Việt Nam, nhiều khi do chỉ quan tâm đến lợi trước mắt nên không chịu giữ chữ tín để còn quan hệ kinh doanh lâu dài nên họ cố tình không thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với NH phát hành L/C. Do không dự đoán được biến động của thị trường nên khi hàng hoá nhập về đến Việt Nam, giá cả hàng hoá có xu hướng hạ xuống, họ lại muốn NH tìm mọi cách để trì hoãn thanh toán, gây sức ép yêu cầu NH phát hành cố tìm bất đồng của bộ chứng từ nhằm gây sức ép với công ty nước ngoài để họ phải giảm giá, thậm chí nhiều doanh nghiệp còn từ chối thanh toán và không chịu nhận hàng ngay cả khi hàng hoá đã được giao đúng phẩm chất, quy cách, đầy đủ về số lượng và bộ chứng từ xuất trình hoàn toàn phù hợp. Trong nghiệp vụ bảo lãnh L/C trả chậm, do chưa phải thanh toán ngay với nước ngoài, các doanh nghiệp nhập khẩu có tâm lý xem thường việc quản lý tiêu thụ hàng hoá hoặc khi tiêu thụ được hàng song chưa đến hạn phải thanh toán, doanh nghiệp lợi dụng vốn để kinh doanh mặt hàng khác mong kiếm lời cao mà không tính đến thời hạn và nghĩa vụ thanh toán. Rủi ro thường gặp đối với L/C xuất khẩu là bị NH nước ngoài cố tình trì hoãn thanh toán, hoặc người nhập khẩu và NH phát hành cố tình bắt lỗi những sai sót không hợp lý tạo điều kiện cho người mua nước ngoài ép người bán Việt Nam phải giảm giá hàng. Đó cũng là rủi ro về đạo đức của NH phát hành. Ngoài ra, có trường hợp khách hàng mang L/C thật nhưng đã đòi tiền rồi đến NH xin chiết khấu. Do một sơ suất nào đó, NH thông báo đã không thu hồi lại L/C gốc của đơn vị khi đòi tiền NH nước ngoài nên nếu không kiểm tra lại phía NH thông báo thì sẽ phát sinh rủi ro cho NH. 2.2.2.6. Rủi ro công nghệ: Công nghệ là một vấn đề nan giải hiện nay của tất cả các NHTM. Công nghệ góp phần làm tăng hiệu quả làm việc, tăng sức cạnh tranh, đảm bảo độ an toàn chính xác cho các giao dịch. Riêng trong TTQT, hiện nay phần mềm còn nhiều trục trặc phải cải tiến. Có nhiều điện do chi nhánh lập ra nhưng Hội sở chính lại không nhận được hoặc lưu lại trên hệ thống nhiều ngày gây ảnh hưởng đến hoạt động của NH và các doanh nghiệp. Vì thế, giữa Hội sở chính và chi nhánh của các NH mất nhiều chi phí điện thoại cho việc xác nhận tổng số điện chi nhánh gửi lên và số điện Hội sở chính nhận được. Nếu không làm vậy thì có thể sẽ dẫn đến tình trạng những điện mở, sửa đổi L/C, thanh toán L/C hay nhờ thu, điện chuyển tiền của chi nhánh không kịp thời gửi đi trong ngày trong khi chi nhánh vẫn yên tâm là Hội sở chính đã nhận được. Hậu quả là L/C đến NH nước ngoài và người hưởng lợi chậm khiến cho người hưởng lợi không giao hàng đúng tiến độ đã cam kết trong hợp đồng, cũng có thể giá hàng hoá biến động người hưởng lợi không muốn giao hàng; tiền thanh toán chậm cho người hưởng lợi, NH nước ngoài sẽ phạt lãi chậm trả và NH trong nước bị mất uy tín. Việc xử lý điện khi nhận điện đến cần có một sự cẩn trọng thích đáng, do những lý do kỹ thuật mà các bức điện có thể bị trùng hai lần, nếu không có chế độ kiểm soát chặt chẽ rất có thể các chi nhánh sẽ chi trả thừa tiền cho khách hàng, điều này đã từng xảy ra ở nhiều chi nhánh NHNT khi tiếp nhận điện. Cũng có trường hợp do trục trặc hệ thống mạng và đường truyền, chi nhánh phải fax điện chuyển tiền, L/C… để Hội sở chính đánh lại, điều này không đảm bảo tính chính xác và an toàn trong quá trình mở, thanh toán L/C, nhờ thu và chuyển tiền. Nếu không chi nhánh phải để lại công việc đó đến hôm sau mới giải quyết khiến cho L/C chậm mở, tiền hàng chậm thanh toán… ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của NH và có thể bị khách hàng khiếu nại. 2.2.2.7. Rủi ro ngân hàng đại lý: So với các NHTM khác trong nước, lượng NH nước ngoài liên kết với NHNT nhiều hơn song các quan hệ với các NH đại lý nước ngoài chưa thực sự phát triển. NHNT cũng phải đối mặt với rủi ro trong quan hệ đại lý. Khi mở L/C, NH luôn chọn NH thông báo là NH đại lý của mình, nhưng đôi khi theo sự thoả thuận trên hợp đồng, NH thông báo được chỉ định không phải là NH đại lý với NH Việt Nam nên việc thông báo sẽ phải chuyển tiếp qua 2 NH (NH đại lý và NH thông báo thứ nhất), từ đó NH thương lượng thường sẽ là NH thông báo thứ hai. Điều này có nhiều bất lợi trong thanh toán hoặc sẽ thiếu độ tin cậy về bộ chứng từ giao hàng khi xuất trình tại một NH ít quan hệ quen biết. Các L/C chỉ định NH thông báo như vậy thường là đối với các giao dịch nhập khẩu từ các nước Đông Âu, Tây Âu, Trung Á, Châu Úc… nơi mà mạng lưới ngân hàng đại lý của NHNT còn mỏng. 2.2.2.8. Rủi ro khác: Bên cạnh đó, hoạt động TTQT còn có thể gặp những rủi ro khác như về chính trị, kinh tế, chính sách đối ngoại… khiến cho người xuất khẩu có thể không nhận được tiền hàng hoặc người nhập khẩu không nhận được hàng hoá. Một biến động nhỏ trong cơ chế quản lý kinh tế, chính trị sẽ ảnh hưởng đến khả năng và sự sẵn sàng thực hiện các cam kết của các bên, làm cho quá trình thanh toán bị ngưng trệ, thậm chí bị huỷ bỏ, gây thiệt hại cho các bên. 2.2.3. Nguyên nhân gây nên rủi ro - mất an toàn trong hoạt động thanh toán quốc tế: 2.2.3.1. Nguyên nhân khách quan: Từ phía Nhà nước Hành lang pháp lý cho hoạt đông TTQT còn nhiều bất cập và chưa đồng bộ. Mặc dù đã có luật Ngân hàng, nhưng các Nghị định của Chính phủ và các Thông tư hướng dẫn thực hiện chậm được đưa ra. Hơn nữa, chúng ta chưa có văn bản pháp quy công nhận và hướng dẫn việc áp dụng các thông lệ quốc tế vào Việt Nam cũng như chưa có một quy chế riêng, văn bản pháp lý hướng dẫn thực hiện giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu, quy định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên khi xảy ra tranh chấp. Chính sách thương mại không ổn định, các văn bản quy định về công tác xuất nhập khẩu, thuế quan thay đổi thường xuyên gây khó khăn cho NH và doanh nghiệp. Có những mặt hàng năm nay cho phép nhập, nhưng năm sau lại không cho phép nhập nữa làm cho các doanh nghiệp đã ký. Thị trường ngoại tệ chưa phát triển, tỷ giá ngoại tệ mạnh không ổn định. Hiên nay, Việt Nam mới chỉ có thị trường ngoại tệ liên NH, hoạt động của thị trường này còn kém sôi động, nghiệp vụ còn giản đơn và chủ yếu là mua bán giao ngay, chưa phát triển các nghiệp vụ như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hoán đổi tiền tệ, quyền mua, quyền bán… là những công cụ chủ yếu để hạn chế rủi ro về tỷ giá cho doanh nghiệp và NHTM Việt Nam. Quy chế cầm cố, thế chấp, bảo lãnh tài sản vay vốn NH còn nhiều vướng mắc. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, Luật Doanh nghiệp chỉ quy định doanh nghiệp Nhà nước được quyền dùng tài sản Nhà nước để thế chấp, song chưa có quy định về việc xử lý những tài sản này để thu hồi nợ, vì thế gây khó khăn cho NH. Hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước được thành lập lâu năm, tài sản cố định lạc hậu và đã khấu hao gần hết và giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp Nhà nước quá nhỏ so với nhu cầu vay vốn. Vì vây, các NH vẫn chủ yếu cho vay tín chấp đối với doanh nghiệp Nhà nước. Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoặc hộ cá thể, việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất hiện nay rất chậm. Khi khách hàng mất khả năng thanh toán, không trả được nợ cho NH thì việc xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ còn gặp nhiều khó khăn. Thông tin tín dụng chưa đầy đủ. Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của NHNN cung cấp số liệu thiếu cập nhật, thiếu tính đầy đủ và chính xác. Sự phối kết hợp giữa các NHTM còn hạn chế trong việc cung cấp thông tin, do vậy tạo kẽ hở cho khách hàng lợi dụng để xin bảo lãnh và vay vốn nhiều nơi; pháp lệnh kế toán thống kê chưa đủ hiệu lực buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán thống kê chính xác, kịp thời. Do chưa thực hiện chế độ kiểm soát bắt buộc nên số liệu quyết toán và báo cáo tài chính không phản ánh chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp, mà đây lại là một trong những căn cứ để NH quyết định bảo lãnh cho doanh nghiệp. Từ phía khách hàng: Thiếu thông tin và thiếu các mối quan hệ với đối tác nước ngoài là một nguyên nhân khiến cho các doanh nghiệp Việt Nam không lựa chọn được những khách hàng tốt, có tín nhiệm trong quan hệ thương mại quốc tế. Vì vậy, sau khi xảy ra rủi ro, mới nhờ các cơ quan chức năng xác minh tư cách các đối tác nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong công tác tiếp cận thị trường, thiếu thị trường xuất khẩu và đói thông tin, chưa tìm được bạn hàng lớn, tin cậy, có quan hệ thanh toán sòng phẳng dẫn tới bị phía nước ngoài ép giá, bắt bí hoặc bị lừa đảo. Do trình độ nghiệp vụ còn yếu kém, làm việc theo cảm tính và thiếu nhạy bén trong kinh doanh. Nhiều giám đốc và cán bộ chủ chốt trong các doanh nghiệp này chưa sử dụng thành thạo ngoại ngữ, trình độ nghiệp vụ ngoại thương, hiểu biết về tập quán quốc tế còn non yếu nên dễ dẫn đến những sơ suất khi ký kết hợp đồng ngoại thương. Ngoài ra còn là sự yếu kém trong khâu quản lý, điều hành nguồn vốn, điều hành sản xuất. Sự thiếu trung thực của các khách hàng Việt Nam. Một số khách hàng vì lợi ích trước mắt mà đã vi phạm những cam kết với NH. Hàng hoá đã bán hết nhưng họ không nộp tiền vào trả nợ NH mà dùng vào mục đích khác. Hoặc lại dùng chính những lô hàng nhập khẩu về để thế chấp vay vốn ở NH khác. Nhiều trường hợp khách hàng cố tình chây ì, từ chối thanh toán trái với thông lệ quốc tế làm ảnh hưởng không ít tới uy tín của NH. 2.2.3.2. Nguyên nhân chủ quan: Trình độ nghiệp vụ còn nhiều hạn chế: Mặc dù là NH giàu kinh nghiệm trong kinh doanh đối ngoại nhưng NHNT vẫn còn thiếu các chuyên gia về TTQT. Nhiều cán bộ thanh toán và tín dụng chưa có đủ kiến thức cần thiết về chuyên môn nghiệp vụ và kinh tế thị trường, không nắm chắc và tuân thủ tập quán quốc tế. Chưa có cơ chế quản lý thống nhất, đồng bộ để đảm bảo khả năng thanh toán như thành lập quỹ dự phòng rủi ro TTQT, dự trữ nguồn ngoại tệ, cơ chế quản lý hoạt động ngoại bảng về cam kết thanh toán với NH nước ngoài, cơ chế phát triển và quản lý rủi ro NH đại lý. Sự phối hợp giữa các bộ phận, các phòng chức năng còn lỏng lẻo, chưa tạo nên một khâu khép kín giữa thanh toán, tín dụng và kinh doanh ngoại tệ. Kinh doanh ngoại tệ chưa đáp ứng được yêu cầu nghiệp vụ. Dự án “Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán” do World Bank tài trợ mang lại hiệu quả đáng kể cho các NHNT song vẫn còn những hạn chế. Công nghệ hiện đại chưa cho phép xử lý tự động các giao dịch, chưa đồng bộ và phát triển kịp thời so với xu thế phát triển và nhu cầu TTQT, làm ảnh hưởng đến tốc độ thanh toán. Sự nơi lỏng các công tác thẩm định, quản lý tín dụng của NH. Công tác thẩm định tính khả thi của phương án kinh doanh, khả năng tài chính của doanh nghiệp vẫn còn mang tính cảm tính, chủ quan, chưa có các công cụ phụ trợ như phần mền phân tích. Công tác kiểm tra kiểm soát kém hiệu quả, mang tính hình thức, không phát hiện kịp thời những vi phạm mà nặng về giải trình, thậm chí có nơi phát hiện sai sót song không được xử lý hoặc không có biện pháp xử lý hữu hiệu. 2.3. Thực trạng các biện pháp Ngân hàng cổ phần Ngoại thương Việt Nam thực hiện để phòng ngừa các rủi ro nêu trên và bảo đảm an toàn trong thanh toán quốc tế: 2.3.1. Ban hành mới, sửa đổi và bổ sung quy trình tác nghiệp: Để phù hợp với sự vận động của thương mại quốc tế và TTQT, NHNT đã kịp thời sửa đổi các quy trình tác nghiệp, bổ sung các quy định chặt chẽ đảm bảo tính anh toàn cho NH. Với từng nghiệp vụ, NHNT đã ban hành các quy định riêng rạch ròi và có văn bản hướng dẫn thực hiện cụ thể đối với từng quy trình. Trong quá trình sửa đổi quy trình, Hội sở chính đều tham khảo, lấy ý kiến của từng chi nhánh rồi tập hợp lại nghiên cứu và chọn lọc các đề xuất đáng lưu tâm nhằm đưa ra được những quy định vừa chặt chẽ cho NH vừa thuận tiện cho khách hàng. Trong quy trình nghiệp vụ TTQT mới đã bao quát toàn bộ các nghiệp vụ thanh toán hàng xuất nhập khẩu, quy định chặt chẽ từng bước các thao tác nghiệp vụ, giúp các chi nhánh tránh được các rủi ro không đáng có trong việc khởi tạo và kiểm soát các bức điện đi, xử lý chứng từ và các bức điện đến… đã đáp ứng được nhu cầu phát triển ngày càng phong phú và đa dạng của hoạt động TTQT. Với xu hướng hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay nhu cầu giao dịch của khách hàng ngày càng đa dạng, để có thể đáp ứng được NHNT đã và đang thực hiện giao dịch với các thị trường mới, các thị trường có tình hình chính trị bất ổn hoặc nằm trong danh sách cấm vận của Mỹ. Rủi ro tiềm ẩn của các thị trường này rất lớn và khó lường. Để hạn chế rủi ro, NHNT đã đưa ra các biện pháp hữu ích là xây dựng giới hạn tín dụng quốc gia, giới hạn tín dụng đối với từng tổ chức tín dụng trong quốc gia đó nhằm kiểm soát chặt chẽ giao dịch với các thị trường này và kịp thời ngăn chặn nguy cơ rủi ro. NHNT cũng kịp thời bổ sung văn bản hướng dẫn xử lý và luân chuyển chứng từ TTQT giữa chi nhánh cơ sở và chi nhánh đầu mối. 2.3.2. Thay đổi mô hình hoạt động: Trong vài năm qua, NHNT đã tiến hành thay đổi mô hình hoạt động TTQT – tín dụng theo hướng bộ phận tín dụng hoàn toàn chịu trách nhiệm trong việc thẩm định, xem xét khả năng tài chính của doanh nghiệp khi phát hành L/C, chiết khấu L/C… phòng TTQT chỉ đảm nhận trách nhiệm tác nghiệp theo thông báo tài trợ thương mại của phòng tín dụng. Theo mô hình này, mức độ chuyên sâu về nghiệp vụ được nâng lên rõ rệt, hạn chế được phần nào rủi ro nghiệp vụ. Ngay trong bản thân bộ phận tín dụgn cũng được tách thành các phòng có chức năng độc lập nhau. Sự tách biệt này đã cải thiện được tình trạng một cán bộ thực hiện trọn gói từ lập hồ sơ đến cho vay, hạn chế được nguy cơ rủi ro đạo đức. Chất lượng nghiệp vụ được tăng lên đáng kể nhờ chia quá trình thực hiện nghiệp vụ thành những giai đoạn độc lập. Ở NHNT, khối tín dụng được chia thành hai phòng là Phòng Quan hệ khách hàng có trách nhiệm thu thập thông tin và Phòng Quản lý rủi ro tín dụng chịu trách nhiệm kiểm tra thông tin. Trên cơ sở đánh giá của hai phòng trên, Hội đồng tín dụng sẽ đưa ra hạn mức tín dụng cho từng khách hàng và duyệt từng phương án kinh doanh cụ thể. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực TTQT, hệ thống NHNT chia thành hai loại có chức năng khác nhau là chi nhánh đầu mối và chi nhánh cơ sở. Chi nhánh đầu mối chịu trách nhiệm tiếp nhận giao dịch của một số lượng nhất định các chi nhánh cơ sở. Các chi nhánh cơ sở thuần tuý tiếp nhận hồ sơ từ khách hàng sau đó hồ sơ này được chuyển lên chi nhánh đầu mối qua fax, scan trong nội bộ hệ thống. Sự phân chia này xuất phát từ yêu cầu thực tiễn cán bộ thanh toán của các chi nhánh mới thành lập, chi nhánh nhỏ, chi nhánh mới được nâng cấp từ cấp 2 lên cấp 1 thường có ít kinh nghiệm, không thành thạo nghiệp vụ nên dễ xảy ra sai sót trong quá trình tác nghiệp hoặc không có khả năng phát hiện các giao dịch có dấu hiệu lừa đảo. Bằng kinh nghiệm lâu năm của mình, các chi nhánh đầu mối không chỉ có khả năng phát hành những L/C rõ ràng và chặt chẽ, tránh được những quy định mơ hồ mà còn tư vấn khách hàng sao cho có lợi và đảm bảo nhất cho họ, qua đó tránh được nguy cơ rủi ro trong khâu thanh toán về sau. Mô hình này sẽ giúp NHNT thu hẹp phạm vi xử lý giao dịch nhờ đó có thể phần nào hạn chế rủi ro. 2.3.3. Xây dựng chính sách khách hàng hợp lý: NH chỉ có thể thành công khi gắn bó và hợp tác chặt chẽ với khách hàng. NHNT đang từng bước xây dựng chính sách khách hàng với mục tiêu củng cố và mở rộng quan hệ khách hàng, thu hút thêm khách hàng từ mọi thành phần kinh tế. Ta có thể khái quát chính sách khách hàng của NHNT như sau: Nâng cao chất lượng và đổi mới phong cách phục vụ, giao tiếp văn minh, lịch sự đồng thời tạo ra nhiều sản phẩm mới phục vụ khách hàng. Củng cố và phát triển khách hàng truyền thống, khách hàng có tín nhiệm, thu hút những khách hàng kinh doanh có hiệu quả, có vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân. NHNT đặc biệt quan tâm đến khách hàng trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn, các khách hàng có tiềm năng xuất khẩu mạnh, đề ra nhiều chính sách để thu hút nhóm khách hàng này tạo nguồn ngoại tệ cho NH ví dụ như áp dụng biểu phí hợp lý và ưu đãi lãi suất cho vay cho từng nhóm khách hàng. Quy định hạn mức tín dụng, hạn mức mở L/C, hạn mức chiết khấu… cho từng đối tượng khách hàng. Đối với khách hàng có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng và tình hình tài chính lành mạnh, NHNT sẽ xem xét miễn ký quỹ hoặc cho mở L/C bằng vốn vay. Đối với những L/C mở bằng vốn vay hay vốn tự có nhưng ký quỹ dưới 100% NH quy định vận đơn lập theo lệnh của NH để đảm bảo quyền kiểm soát chứng từ và quyền định đoạt hàng hoá của NH thông qua việc ký hậu vận đơn. 2.3.4. Hiện đại hoá công nghệ thông tin: Vừa qua, World Bank đã tài trợ cho bốn NH hàng đầu Việt Nam trong đó có NHNT và một số NH cổ phần dự án “Hiện đại hoá Ngân hàng và hệ thống thanh toán”. Dự án đã mang lại hiệu quả đáng kể cho NHNT trong việc kiểm tra kiểm soát, thu thập thông tin về bất cứ khách hàng nào từ trung ương đến chi nhánh, làm tăng độ chính xác và hiệu quả trong công tác báo cáo thống kê. NHNT cũng chú trọng đầu tư nâng cấp và mở rộng mạng SWIFT, đẩy mạnh việc triển khai dự án, củng cố và phát triển lực lượng cán bộ công nghệ thông tin để tiếp nhận công nghệ NH hiện đại. Các chương trình phần mềm TTQT được cải tiến và hoàn thiện. Chương trình mới được xây dựng thay thế các chương trình cũ đã lỗi thời không còn phù hợp với đòi hỏi thực tiễn, tốc độ xử lý nhanh chóng và chính xác, đáp ứng các dịch vụ đa dạng về TTQT. Các chứng từ thông qua mạng nội bộ sẽ đến tay chi nhánh đầu mối nhanh chóng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các chi nhánh, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng và tăng cường khả năng cạnh tranh của NHNT với các tổ chức tín dụng trong nước và nước ngoài đóng trên lãnh thổ Việt Nam. 2.3.5. Nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ: Nhận thức được tầm quan trọng của yếu tố nhân lực, NHNT thời gian qua đã rất chú trọng đến công tác đào tạo cán bộ. Trung tâm đào tạo của NHNT thường xuyên tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ TTQT như Hội nghị tập huấn TTQT, Hội thảo TTQT… Trước thời điểm hiệu lực của UCP 600, NHNT đã tổ chức rất nhiều buổi tập huấn giúp cho cán bộ TTQT nắm vững được những thay đổi của UCP 600. Các hội nghị tập huấn hàng năm cũng là dịp để các cán bộ TTQT trao đổi và học hỏi, cập nhật các kiến thức mới. Bên cạnh đó, các cán bộ thanh toán cũng được khuyến khích tham gia các buổi hội thảo TTQT do các NH nước ngoài tổ chức. Họ được học hỏi thêm các kinh nghiệm làm việc và kỹ năng phòng ngừa rủi ro của các NH uy tín trên thế giới từ các chuyên gia lão luyện và hàng đầu về thanh toán. Không chỉ chú trọng công tác đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ thanh toán, NHNT còn quan tâm đến việc nâng cao kỹ năng cho các cán bộ tín dụng trong công tác cấp tín dụng liên quan đến TTQT, giúp họ nhận biết các rủi ro tín dụng có thể gặp phải trong quá trình tác nghiệp để phối hợp cùng bộ phận TTQT phòng tránh có hiệu quả. Song song với việc triển khai các chương trình phần mềm TTQT mới, các cán bộ thanh toán cũng được hướng dẫn cụ thể về thao tác trên chương trình mới sao cho công việc đạt được hiệu quả cao nhất. 2.3.6. Sử dụng các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro: Trên thực tế, NHNT bắt đầu sử dụng các công cụ phái sinh trong hoạt động kinh doanh nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tuy nhiên các giao dịch này không nhiều và kém đa dạng. Các hợp đồng phái sinh đầu tiên được ký kết vào năm 1997, chủ yếu là các hợp đồng kỳ hạn mua bán ngoại tệ giữa NHNT với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Có thể thấy thị trường công cụ phái sinh đã hình thành ở Việt Nam nhưng còn rất nhỏ bé và chưa phổ biến do nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân chủ yếu là do mức độ phát triển của thị trường tiền tệ còn thấp, thị trường vốn đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển. 2.3.7. Định kỳ kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh doanh: Công tác kiểm tra, kiểm soát của NHNT trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến tích cực cả về số lượng và chất lượng. Việc kiểm soát được tiến hành thường xuyên ở tất cả các khâu nghiệp vụ và tập trung vào các hoạt động nghiệp vụ trọng yếu. Nghiệp vụ kiểm tra nội bộ một mặt được tăng cường, mặt khác đang được xem xét chuyển đổi mô hình để nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát. Hệ thống kiểm toán được hình thành và đi vào sử dụng. Hiện nay số lượng cán bộ làm công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ tăng hơn nhiều so với các năm trước. Trình độ cán bộ cũng được nâng lên đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về nghiệp vụ, cán bộ có trình độ đại học chiếm tỷ lệ 90%, nhiều cán bộ đã có hai bằng: bằng chuyên môn và bằng pháp lý. Chính vì thế, chất lượng công tác kiểm tra kiểm soát trong toàn hệ thống ngày càng được nâng cao, công tác tư vấn pháp luật đã thu được kết quả tốt. Bên cạnh đó, bộ phận kiểm soát nội bộ của NH còn tư vấn trong nội bộ NH, đề xuất các kiến nghị để hoàn thiện và nâng cao tính hiệu quả, an toàn trong khi thực hiện các quy trình nghiệp vụ của NH. 2.4. Đánh giá công tác bảo đảm an toàn trong thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam: 2.4.1. Các kết quả đạt được: Công tác bảo đảm an toàn trong hoạt động TTQT của NHNT nhìn chung đã được quan tâm và đang thực hiện. Nhờ có các quy định chặt chẽ, NHNT đã kiểm soát được tình hình mở L/C nhập khẩu của các doanh nghiệp tại các chi nhánh trong hệ thống, tránh tình trạng mở L/C tràn lan, vượt quá khả năng thanh toán của một doanh nghiệp làm xuất hiện rủi ro tín dụng của khách hàng, đồng thời hạn chế được những rủi ro, mất an toàn vì thiếu nguồn ngoại tệ thanh toán. Trong thanh toán L/C nhập khẩu, tỷ trọng nợ quá hạn đã có chiều hướng giảm xuống. Tỷ lệ sai sót trong kiểm tra chứng từ hàng xuất và hàng nhập có xu hướng giảm chứng tỏ chất lượng chuyên môn của các thanh toán viên đã được chú trọng nâng cao rõ rệt. 2.4.2. Các hạn chế và nguyên nhân: NHNT chưa có chiến lược hợp lý để quản lý rủi ro tổng thể nói chung và bảo đảm an toàn cho hoạt động TTQT nói riêng. Tình trạng cán bộ của NHNT còn thao tác nghiệp vụ theo thói quen, người trước hướng dẫn người sau chứ không tự nghiên cứu và nắm vững các quy định pháp lý. Trừ Hội sở chính, Sở giao dịch và một số chi nhánh ở các thành phố lớn có cán bộ thành thạo nghiệp vụ còn phần lớn ở các chi nhánh trình độ cán bộ còn thấp. Việc đào tạo nghiệp vụ cho các chi nhánh còn phiến diện, bản thân các giáo viên tham gia giảng dạy cũng chưa được đào tạo chính quy mà chỉ thông qua thực tiễn rút ra kinh nghiệm sau đó truyền đạt lại. Việc duyệt hợp đồng tín dụng cho vay nhập khẩu được phép xem xét trong 3 ngày làm việc nhưng khách hàng lại rất cần điện phát hành L/C ngay để thông báo cho bên xuất khẩu giao hàng, nếu chậm trễ theo hiệu lực hợp đồng thì bên mua có thể mất cơ hội nhập hàng. Trong trường hợp này nếu không khéo léo phối hợp rất dễ gây khó khăn cho khách hàng hoặc ngược lại gây rủi ro, mất an toàn cho NH. Sự phối hợp giữa ba bộ phận tín dụng - thanh toán - kinh doanh ngoại tệ còn lỏng lẻo. Điều này ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán của NH khi đến hạn. Nhiều bộ chứng từ xuất trình L/C, nhờ thu dù đã quá hạn thanh toán nhưng phòng tín dụng vì lý do nào đó chưa cho nhận nợ hoặc phòng kinh doanh ngoại tệ không lo được ngoại tệ để bán cho khách hàng. Việc chậm thanh toán gây ảnh hưởng đến hình ảnh và uy tín của NHNT với đối tác. NHNT đã có hệ thống thông tin nội bộ cung cấp thông tin kinh tế - xã hội liên quan đến hoạt động NH song chất lượng thông tin không đầy đủ và cập nhật. Việc khai thác các nguồn thông tin khác nhau để phòng chống rủi ro và điều hành kinh doanh vẫn gặp hạn chế lớn. Thời gian qua, công tác kiểm soát nội bộ tại NHNT thường chú trọng đến công tác tín dụng, công tác kế toán song chưa có chương trình kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất chuyên sâu trên lĩnh vực TTQT. CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN MỘT SỐ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM AN TOÀN TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 3.1. Định hướng phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam: NHNN Việt Nam đã xây dựng chương trình hành động cho quá trình hội nhập toàn ngành NH. Trên cơ sở đó, NHNT cũng đã xây dựng và đang triển khai chiến lược hoạt động kinh doanh đến năm 2010 trên toàn hệ thống. Trong đó, chiến lược đảm bảo an toàn và hiệu quả cho hoạt động TTQT là một trong những chiến lược đang được NHNT quan tâm, đầu tư nhân lực và công nghệ. Định hướng chiến lược phát triển hoạt động TTQT của NHNT được tập trung trên một số mặt sau: Cơ cấu lại mảng hoạt động TTQT theo mô hình NH tiên tiến hiện đại gồm các khối tài trợ thương mại quốc tế, khôi trung tâm chuyển tiền, khối định chế tài chính phù hợp với chiến lược và đề án tái cơ cấu của NHNT. Ứng dụng công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng hoạt động TTQT, nâng cao tính an toàn và bảo mật trong hoạt động TTQT. Đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ TTQT cho cán bộ NHNT theo kịp các chuẩn mực và tập quán NH quốc tế trong từng lĩnh vực. Tiếp tục mở rộng mạng lưới NH đại lý, tập trung vào các thị trường Asean, Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, Châu Phi, Trung Đông, Mỹ La tinh. Từng bước mở rộng hoạt động NH đến các vùng biên giới có tiềm năng về biên mậu, phát triển mạng lưới đến các trung tâm NH tài chính quốc tế lớn như Hongkong, Singapore, Mỹ. Thiết kế hệ thống cung ứng dịch vụ thanh toán trọn gói, gắn liền hoạt động tín dụng – TTQT – kinh doanh ngoại tệ. Tập trung nâng cao kỹ thuật quản trị rủi ro trong thanh toán bao gồm quản trị rủi ro tín dụng, rủi ro ngoại hối, rủi ro khách hàng, rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp. Xây dựng quy trình thanh toán thống nhất toàn hệ thống. 3.2. Quan điểm và mục tiêu trong việc đưa ra biện pháp: 3.2.1. Quan điểm của đề xuất: 3.2.1.1. Phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế: Xu thế toàn cầu hoá buộc các NH phải từng bước quốc tế hoá mọi hoạt động về nghiệp vụ NH để bước vào sân chơi bình đẳng với các NH nước ngoài. Hoạt động TTQT là một lĩnh vực nghiệp vụ có ưu thế của các NH nước ngoài cả về loại hình và chất lượng dịch vụ. Vì vậy, để chấp nhận sự cạnh tranh không tương sức này, các NHTM nói chung và NHNT nói riêng phải tìm ra giải pháp vận hành vào công tác TTQT vừa đạt chất lượng dịch vụ vừa an toàn và hiệu quả nhằm đủ sức tồn tại và phát triển trong quá trình hội nhập quốc tế về NH. 3.2.1.2. Phù hợp với thông lệ quốc tế: Hoạt động ngoại thương là việc thực hiện buôn bán giữa các chủ thể hoặc các nước khác nhau, mỗi nước có những luật lệ riêng. Chính vì vậy để tránh tranh chấp do hiểu lầm, hoặc cố ý vi phạm trong TTQT cũng như đảm bảo được an toàn cho các bên tham gia hoạt động TTQT, Phòng Thương mại Quốc tế đã ban hành các quy tắc để hướng dẫn cho các bên khi tham gia thực hiện TTQT. Các bên tham gia phải nắm vững và tuân thủ các thông lệ đó. Trong đó, NH người thực hiện các dịch vụ TTQT theo yêu cầu của khách hàng phải là người am hiểu hơn hết các quy tắc này để từ đó trong xử lý nghiệp vụ có thể tránh được rủi ro cho bản thân NH và khách hàng, có thể tư vấn cho khách hàng trong khi ký hợp đồng, tạo được uy tín với khách hàng, thu hút được nhiều khách hàng đến với NH, tạo được an toàn và hiệu quả cao trong hoạt động TTQT. 3.2.1.3.Thực hiện cạnh tranh lành mạnh về kinh doanh dịch vụ ngân hàng: Quá trình thực hiện hoạt động TTQT của NH gắn liền với quá trình phát triển kinh tế đối ngoại của đất nước. Đây là một trong những dịch vụ phục vụ nhu cầu thanh toán xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế, là một dịch vụ thanh toán đối ngoại của NHTM trên thương trường quốc tế, là một mảng nghiệp vụ quan trọng trong tạo doanh thu và lợi nhuận NH. Thông qua hoạt động TTQT để phát triển các hoạt động khác của NH nhằm thu lợi nhuận và đạt hiệu quả kinh tế tối ưu. Muốn phát triển dịch vụ này thì nó phải được thực hiện nhanh nhạy, chính xác, an toàn với giá cả cạnh tranh, đáp ứng được nhu cầu đa dạng hoá các giao dịch trong hoạt động kinh tế đối ngoại. Khi hoạt động này được thực hiện an toàn sẽ tạo niềm tin cho khách hàng tìm đến NH. Điều này vừa nâng cao uy tín vừa nâng cao hiệu quả kinh doanh cho NH. 3.2.2. Mục tiêu của đề xuất: - Đưa ra các giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ nhằm nâng cao an toàn trong TTQT tại NHNT. - Nâng cao chất lượng dịch vụ và uy tín của NHNT trên thuơng trường quốc tế. - Góp sức cùng ngành NH thực thi có hiệu quả chiến lược hội nhập và kế hoạch hội nhập quốc tế của ngành NH Việt Nam, tạo ra một hệ thống NH hiện đại, an toàn, hiệu quả, đạt được chuẩn mực quốc tế và khu vực. 3.3. Một số biện pháp cụ thể: 3.3.1. Đạo tạo đội ngũ cán bộ thanh toán quốc tế từ nghiệp vụ chuyên môn đến phẩm chất đạo đức: Con người luôn là nhân tố giữ vai trò quyết định trong mọi hoạt động. Hạn chế về nghiệp vụ, bất cập trong sử dụng nguồn nhân lực cũng như sự xuống cấp đạo đức của họ đã và sẽ gây nhiều tổn thất cho NH. Do đó, NHNT cần thực hiện cơ chế, chính sách tuyển dụng, bố trí, bổ nhiệm, đào tạo và đào tạo lại một cách phù hợp, tránh tình trạng đạo tạo mang tính hình thức, giải quyết chính sách. NHNT cần đề ra định hướng cụ thể cho nguồn nhân lực. - Tiêu chuẩn hoá cán bộ thanh toán quốc tế. Cán bộ TTQT trước hết phải vững về pháp lý, am hiểu tường tận các văn bản, thông lệ quốc tế như UCP600, URR525, ISBP681… đồng thời phải hiểu biết về luật pháp, tập quán và thực tiễn hoạt động NH của từng nước, từng vùng, từng khu vực để vừa có khả năng tư vấn cho khách hàng, vừa tránh được rủi ro cho NH. Các văn bản pháp luật của Việt Nam hiện chưa đầy đủ và thường xuyên thay đổi đòi hỏi các cán bộ trực tiếp xử lý giao dịch phải tinh thông nghiệp vụ, nắm chắc quy trình. Bên cạnh đó, phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm và tinh thần cầu thị cũng là yếu tố không thể thiếu của cán bộ TTQT. - Sắp xếp đúng người đúng việc theo năng lực, kiên quyết bố trí những cán bộ không đáp ứng chuyên môn, tư cách đạo đức và thiếu tinh thần trách nhiệm với công việc. Mạnh dạn sử dụng và đề bạt cán bộ trẻ, có năng lực, sắp xếp đúng người, đúng việc theo năng lực và tinh thần trách nhiệm đối với công việc. - Có quy chế sát hạch và thi chất lượng cán bộ TTQT định kỳ để chọn lọc và đánh giá tiêu chuẩn cán bộ, từ đó đề bạt, bố trí sắp xếp công việc cho phù hợp. - Có chính sách tuyển dụng và điều chuyển cán bộ giữa các chi nhánh một cách hợp lý để có thể lựa chọn được những cán bộ thực sự có trình độ. Đội ngũ cán bộ TTQT cần được trẻ hoá để có tính năng động, sáng tạo cao thích ứng được với cơ chế thị trường và tiếp cận nhanh với những cái mới, tiên tiến của NH các nước trong nghiệp vụ này. - Đào tạo và bồi dưỡng về mọi mặt, cập nhật cho thông tin và kiến thức mới. NHNT cần tổ chức các lớp học nghiệp vụ ngắn hạn để đào tạo sâu hơn về chuyên môn bởi nhiều cán bộ chuyển từ bộ phận khác sang làm TTQT nên không được trang bị đầy đủ kiến thức về ngoại thương và TTQT… Hoạt động TTQT không chỉ liên quan đến phương thức và phương tiện thanh toán mà còn liên quan đến vận tải, giao nhận, bảo hiểm… do vậy việc bổ sung kiến thức về nghiệp vụ này cũng quan trọng không kém. Bên cạnh đó, NH cần đào tạo chuyên sâu cho một số cán bộ TTQT trở thành chuyên gia về TTQT có trình độ cao, đạt tầm quốc tế để có thể tư vấn và đào tạo cho toàn hệ thống. Đối với cán bộ trẻ nên có chế độ khuyến khích học ngoài giờ, tự trang bị thêm ngoại ngữ, vi tính… kết hợp đào tạo cán bộ tại chỗ với cử đi học tập trong và ngoài nước. Tranh thủ sự giúp đỡ đào tạo của các NH đại lý hay tổ chức nước ngoài. - Ngoài ra, NH cần thường xuyên tổ chức hội thảo học tập kinh nghiệm lẫn nhau trong nội bộ NH và với các NH bạn. Những khoá học này mở rộng cho mọi nhân viên có điều kiện tham gia. Lựa chọn các giảng viên trong nước và quốc tế nhiều kinh nghiệm tham gia giảng dạy các lớp huấn luyện chuyên sâu. 3.3.2. Nâng cao kỹ thuật quản trị rủi ro, bảo đảm an toàn trong thanh toán quốc tế: Rủi ro trong TTQT là tác nhân gây mất an toàn trong TTQT và làm giảm uy tín của NH trên thương trường quốc tế. Vì vậy, để bảo đảm an toàn trong hoạt động này, NHNT cũng như các NHTM khác cần phải có những biện pháp cụ thể để quản trị rủi ro trong hoạt động này. - Thực hiện phân loại, xếp hạng khách hàng để cấp hạn mức mở L/C và hạn mức bảo lãnh miễn ký quỹ hoặc áp dụng tỷ lệ ký quỹ thấp. Kiên quyết trong việc áp dụng ký quỹ với các khách hàng mới có quan hệ, khách hàng thiếu uy tín, tránh cả nể, dễ dãi, mở tràn lan L/C trả chậm mà thiếu sự cân nhắc, tính toán kỹ. - Thực hiện phân loại thị trường để có biện pháp ứng phó với các thị trường tiềm ẩn rủi ro và tìm thị trường tốt để mở rộng mối quan hệ. Phát triển mối quan hệ NH đại lý đến những thị trường mới, thị trường mà hàng hoá Việt Nam đã có mặt tại đó. - Thực hiện phân loại xếp hạng các NH đại lý để chọn NH có quan hệ tài khoản tốt và tập trung nguồn vốn về đó. Đóng dần tài khoản ở những thị trường ít hoạt động, tạo sức mạnh tập trung vốn toàn hệ thống. - Thực hiện quản trị rủi ro ngoại hối thông qua việc đánh giá sự biến động tỷ giá và phát triển nghiệp vụ forward với khách hàng ngay từ lúc phát sinh nghiệp vụ TTQT như ký hợp đồng mua ngoại tệ kỳ hạn ngay lúc mở L/C hoặc ký hợp đồng bán kỳ hạn trên cơ sở các hợp đồng xuất khẩu hàng hoá của khách hàng. - Xây dựng lại quy trình nghiệp vụ TTQT phù hợp với các chương trình đổi mới của NHNT trong quá trình tái cơ cấu để hội nhập quốc tế về NH. - Đa dạng hoá dịch vụ TTQT bằng việc phát triển các dịch vụ chưa phát triển ở Việt Nam như tư vấn cho nhà xuất khẩu áp dụng L/C có điều khoản đỏ cho phép đòi tiền hoàn trả ngay từ NH mở vì như thế nhà xuất khẩu mới tận dụng được nguồn vốn từ NH nước ngoài; mạnh dạn trong chiết khấu L/C miễn truy đòi… Tóm lại, việc am hiểu thông lệ quốc tế, nắm vững các loại L/C để tư vấn và xử lý nghiệp vụ TTQT sẽ giúp cho hoạt động TTQT được phát triển và mở rộng được nhiều loại hình nghiệp vụ và kết quả là an toàn và hiệu quả hoạt động TTQT tại NHNT được tăng lên. 3.3.3. Hoàn thiện các chương trình ứng dụng công nghệ Ngân hàng trong thanh toán quốc tế: Công nghệ là chìa khoá của nền kinh tế tri thức. Việc ứng dụng công nghệ NH đã và đang trở thành một xu thế tất yếu trong hoạt động NH. Trong giao dịch quốc tế, các NHTM Nhà nước và các NHTM cổ phần tham gia vào mạng thanh toán SWIFT toàn cầu. Nhờ đó góp phần rút ngắn thời gian giao dịch, nâng cao hiệu quả trong thanh toán nói chung và TTQT nói riêng. Tuy nhiên, nếu chỉ tham gia vào mạng SWIFT thôi thì chưa đủ, NH cần phải ứng dụng nhiều chương trình công nghệ khác như tài trợ thương mại, vi tính hoá hệ thống hạch toán kế toàn, hệ thống báo cáo thống kê TTQT, mọi yêu cầu, thông tin về hoạt động TTQT đều có thể khai thác trên hệ thống máy tính… mà hiện nay các chương trình ứng dụng cho các lĩnh vực này chưa có hoặc đang hoàn thiện. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, ngành NH Việt Nam nói chung và NHNT nói riêng phải cạnh tranh với các NH nước ngoài với quy mô và trình độ công nghệ hơn hẳn. Vì vậy, việc ứng dụng công nghệ vào hoạt động TTQT cần được quan tâm đúng mức. Để áp dụng công nghệ NH, đòi hỏi phải có nguồn vốn quỹ phát triển công nghệ và cần có sự năng động của ban lãnh đạo NH, mạnh dạn mua sắm máy móc thiết bị công nghệ hiện đại, mua phần mềm chương trình thanh toán xuất nhập khẩu, đào tạo chuyên gia tin học, chuyên gia TTQT, tiến dần đến NH điện tử, NH ảo nhằm giúp khách hàng có thể ngồi tại nhà mà vẫn có thể nắm các thông tin về tài khoản cũng như ra lệnh cho NH thực hiện các giao dịch cho mình như xem số dư tài khoản, mở L/C, ra lệnh thanh toán… Điều này sẽ góp phần đáng kể trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh cho cả NH và khách hàng. 3.3.4. Mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ tư vấn trong hoạt động thanh toán quốc tế: Hiện nay, đa số các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu còn thiếu kinh nghiệm trong thương lượng ký hợp đồng ngoại thương, nhất là các doanh nghiệp tư nhân. Chính vì thế, công tác tư vấn của NH là rất quan trọng. Với vai trò này, NH có thể tư vấn cho khách hàng những điều khoản cần ràng buộc trong hợp đồng, lựa chọn các điều kiện thanh toán phù hợp với từng phương thức thanh toán. Nếu có thể, NH còn tư vấn cho khách hàng ở những góc độ rộng hơn về hoạt động thương mại xuất nhập khẩu, về các điều kiện thương mại quốc tế, về kiến thức pháp luật liên quan của Việt Nam. Dịch vụ tư vấn càng phát triển, NH sẽ tạo được niềm tin với khách hàng và thu hút càng nhiều khách hàng đến với NH, nâng cao hiệu quả kinh doanh cho NH. Muốn thực hiện dịch vụ này, bản thân từng nhân viên NH cũng như lãnh đạo cần phải thường xuyên đào tạo và đào tạo lại để thích ứng với cơ chế thị trường đang thay đổi hàng ngày. Dịch vụ tư vấn càng phát triển, trình độ chuyên môn của khách hàng sẽ được nâng, sai sót sẽ giảm đi, rủi ro được hạn chế và mức độ an toàn trong TTQT sẽ cao hơn. 3.3.5. Thực hiện kiểm tra, kiểm toán hoạt động thanh toán quốc tế: Thời gian qua, công tác kiểm tra, kiểm soát cũng như kiểm toán nội bộ tại NH thường chú trọng đến công tác tín dụng, công tác kế toán, chưa có một chương trình kiểm tra định kỳ hoặc đột suất chuyên sâu lĩnh vực TTQT. Hoạt động TTQT là một trong những lĩnh vực quan trọng của một NH quốc tế. Do đó, hoạt động này cần có sự quan tâm kiểm tra, giám sát của NH. Bộ phận kiểm tra, kiểm soát tại NH cần được đào tạo toàn diện các mặt nghiệp vụ, đào tạo chuyên sâu trong lĩnh vực TTQT, được cọ sát thực tế thông qua luân chuyển cán bộ. Cán bộ trước khi bố trí vào bộ phận kiểm tra, kiểm soát phải được phân công làm công tác TTQT một thời gian để nắm bắt thực tế. Chỉ khi trang bị đầy đủ kiến thức về cả lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực này, bộ phận kiểm tra, kiểm soát mới mạnh dạn xây dựng chuơng trình kiểm toán cho hoạt động này. Đồng thời, cần bổ sung đủ lực cho bộ phận kiểm tra, kiểm soát để có thể phân bổ lực lượng kiểm tra toàn diện các mặt hoạt động NH. Khi hoạt động này được quan tâm, mức độ sai sót sẽ giảm đi và hiệu quả sẽ tăng lên. 3.3.6. Tạo dây chuyền khép kín giữa hoạt động tín dụng và hoạt động thanh toán quốc tế: Đa số các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu thường sử dụng nguồn vốn vay NH để thu mua hàng xuất khẩu, nguồn trả nợ là số ngoại tệ thu về từ nguồn hàng xuất khẩu đã vay, hoặc NH cho vay để các doanh nghiệp thanh toán tiền hàng nhập khẩu. Vì thế, rủi ro trong TTQT có thể ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của NH cả trong thanh toán hàng xuất lẫn hàng nhập. NH cho vay mở L/C và thanh toán hàng nhập theo bộ chứng từ hoàn toàn phù hợp nhưng hàng giao không đúng chất lượng gây tổn thất cho người mua trong việc thu hồi tiền hàng để trả nợ NH. Mọi sơ suất trong kiểm tra chứng từ gây bất hợp lệ và bị từ chối thanh toán khiến người bán không thu được tiền trả nợ NH. Điều này đã và đang ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng an toàn trong hoạt động kinh doanh NH rất nhiều. Vì vậy, cần có sự phối hợp giữa bộ phận tín dụng và TTQT để bảo đảm tính an toàn trong hoạt động NH. Vấn đề này đang được ban lãnh đạo NHNT quan tâm và điều hành vào thực tiễn. Tuy nhiên, nó chưa được triển khai và áp dụng đồng bộ ở tất cả các chi nhánh. Một số chi nhánh chưa quan tâm đến vấn đề này, đôi lúc còn thiếu kết hợp giữa các bộ phận nghiệp vụ. Vì vậy, nếu biện pháp này được phổ biến và quán triệt toàn hệ thống thì mức độ an toàn và hiệu quả sẽ được nâng lên. 3.3.7. Thiết lập mạng lưới, chân rết các chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương ở nước ngoài: Hiện nay, tuy NHNT có nhiều văn phòng đại diện hơn các NHTM Nhà nước khác, song vẫn còn ít so với các NH nước ngoài. Vì vậy, nhu cầu mở rộng chi nhánh ở nước ngoài trong xu thế toàn cầu hoá ngày nay là việc làm thiết thực với NHNT. Việc mở rộng chi nhánh ở nước ngoài, tạo một mạng lưới chân rết toàn cầu sẽ mang đến cho NH nhiều lợi ích như: + Chi nhánh NH tại nước ngoài là nơi nắm bắt thông tin về thị trường và thương nhân nước ngoài để tư vấn cho NH và khách hàng trong nước thực hiện kinh doanh có lợi nhất, phòng tránh được rủi ro trong kinh doanh, đảm bảo được sự an toàn trong TTQT và cả trong hoạt động NH. + Chi nhánh NH tại nước ngoài là đầu mối cho NH trong nước tiếp nhận các yêu cầu của khách hàng, thực hiện trọn quy trình thanh toán cho khách hàng trong và ngoài nước, nhờ đó sẽ rút ngắn thời gian thanh toán tiền hàng xuất nhập khẩu, tạo hiệu quả kinh doanh cho cả NH và khách hàng. 3.3.8. Thành lập trung tâm xử lý chứng từ xuất nhập khẩu: Việc tập trung hoá sẽ mang đến cho NH một số lợi ích sau: + Hạn chế rủi ro tác nghiệp vì một số chi nhánh mới thành lập hoặc không có cán bộ chuyên sâu về TTQT sẽ không thực hiện nghiệp vụ này. + Tiết kiệm nhân lực: những chi nhánh phát sinh nghiệp vụ TTQT ít sẽ không thực hiện nghiệp vụ TTQT hoặc nhân lực phục vụ công tác TTQT sẽ giảm bớt khi tập trung hoá về trung ương và các cán bộ này có thể chuyển làm công tác khác. + Tiết kiệm chi phí: những chi nhánh nhỏ, chi nhánh phát sinh ít nghiệp vụ này sẽ không phải thành lập một bộ phận TTQT, tiết kiệm được chi phí trả lương cho cán bộ TTQT. 3.3.9. Lập quỹ dự phòng rủi ro cho hoạt động thanh toán quốc tế: TTQT là một lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đặc biệt trong xu thế hội nhập quốc tế ngày nay, hoạt động thương mại quốc tế càng trở nên phức tạp. Mức độ lừa đảo trong TTQT ngày càng tinh vi hơn nên rủi ro sẽ nhiều hơn. Vì vậy, cần phải có quỹ dự phòng rủi ro riêng cho hoạt động TTQT và tỷ lệ trích lập rủi ro cho hoạt động này cần được quy định cụ thể cho từng nghiệp vụ. Việc trích lập rủi ro trên các số dư hiện hữu của các nghiệp vụ trên sẽ phù hợp hơn với thực tế phát sinh tại NH và phù hợp với thông lệ quốc tế hiện hành. KẾT LUẬN Xu thế mở cửa hội nhập kinh tế thế giới đã mở ra cho các NHTM Việt Nam nói chung và NHNT nói riêng nhiều cơ hội kinh doanh phát huy thế mạnh và vị thế của mình. Để có thể nâng cao được uy tín và vị thế của mình trong bối cảnh hội nhập, việc nâng cao chất lượng dịch vụ trong đó có nghiệp vụ Thanh toán quốc tế được đặt lên hàng đầu. Càng hội nhập sâu rộng trong giao dịch thương mại quốc tế thì vấn đề an toàn càng cần được đề cao. Với mục đích cung cấp một nhận thức toàn diện về an toàn cũng như những biện pháp đảm bảo an toàn trong thanh toán quốc tế, chuyên đề đã giải quyết được các vấn đề sau: Khái quát cơ sở lý luận chung về an toàn trong Thanh toán quốc tế. Phân tích và đánh giá tổng hợp thực trạng an toàn trong Thanh toán quốc tế; các biện pháp bảo đảm an toàn được NHNT áp dụng trong thời gian qua và những hạn chế trong việc thực hiện các biện pháp đó. Đề xuất một số giải pháp bảo đảm an toàn trong hoạt động Thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam. Chuyên đề thực tập không tránh khỏi sai sót trong quá trình thực hiện. Em hy vọng rằng nội dung được đề cập sẽ đóng góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao nhận thức về tầm quan trọng trong công tác bảo đảm an toàn trong hoạt động Thanh toán quốc tế và các biện pháp đề xuất sẽ được quý Ngân hàng lưu tâm. Em xin chân thành cảm ơn cán bộ nhân viên Sở giao dịch Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam đã giúp đỡ em rất nhiều trong việc thu thập số liệu, giảng giải quy trình nghiệp vụ... Đặc biệt, em cũng xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Đặng Anh Tuấn đã tận tình chỉ bảo và góp ý để em có thể hoàn thành chuyên đề thực tập này. NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ TẠI CƠ SỞ THỰC TẬP Hà Nội, ngày tháng năm Trưởng đơn vị MỤC LỤC DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU I. Danh mục sơ đồ: Sơ đồ 1.1: Quy trình nghiệp vụ tổng quát phương thức thanh toán L/C 9 Sơ đồ 1.2: Quy trình nghiệp vụ nhờ thu tổng quát 13 Sơ đồ 1.3: Quy trình nghiệp vụ chuyển tiền khi giao hàng 16 II. Danh mục bảng: Bảng 2.1:Dư nợ tín dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phầnNgoại thương Việt Nam (2003-2008) 21 Bảng 2.2: Doanh số Thanh toán quốc tế của Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam giai đoạn 2003 – 2007 24 III. Danh mục biểu: Biểu đồ 2.1: Tổng tích sản của Ngân hàng Thương mại cổ phầnNgoại thương Việt Nam giai đoạn 2003-2008 21 Biểu đồ 2.2: Chỉ số ROA của Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (2003-2008) 22 Biểu đồ 2.3: Chỉ số ROE của Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (2003-2008) 23 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT NH Ngân hàng NHTM Ngân hàng thương mại NHNN Ngân hàng Nhà nước NHNT Ngân hàng Ngoại thương L/C Letter of Credit (Thư tín dụng) TTD Thư tín dụng TTQT Thanh toán quốc tế UCP Uniform Customs and Practice for Documentary Credit (Quy tắc và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ) TÀI LIỆU THAM KHẢO Trần Thị Xuân Hương (2006), Thanh toán quốc tế, Nhà xuất bản Thống kê, Hồ Chí Minh. Nguyễn Văn Tiến (2003), Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội. Nguyễn Văn Tiến (2008), Giáo trình Thanh toán quốc tế, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội. Trần Hoàng Ngân, Nguyễn Minh Kiều (2008), Thanh toán quốc tế, Nhà xuất bản Thống kê, Hồ Chí Minh. Đinh Xuân Trình (2002), Giáo trình Thanh toán quốc tế trong ngoại thương, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. Lê Thị Phương Liên (2006), “Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại”, Tạp chí hoạt động khoa học, (11) Hoàng Xuân Quế (2006), “Về hoạt động Thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, (12) Đào Thị Thanh Tú (2008), “Yêu cầu về thiết lập cơ quan quản lý rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, (16) Lư Kim Ngân (2005), “Một số ý kiến góp phần hạn chế rủi ro thanh toán quốc tế”, Tạp chí Ngân hàng, (3) Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (2003, 2004, 2005, 2006, 2007), Báo cáo thường niên, Hà Nội. Ngân hàng Nhà nước (2003, 2004, 2005, 2006, 2007), Báo cáo thường niên, Hà Nội. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (2008), Báo cáo tài chính, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1863.doc
Tài liệu liên quan