Tuy nhiên, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam vẫn còn một số mặt tồn tại về hoạt động xúc tiến thương mại cần khắc phục. Trong thời gian thực tập ở Phòng em đã tiến hành nghiên cứu một số biện pháp để nhằm hoàn thiện hơn hoạt động xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp Việt Nam. Do phạm vi nghiên cứu rộng, giới hạn về thời gian và trình độ bản thân còn nhiều hạn chế chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu sót, kính mong nhận được sự chỉ bảo và đánh giá của thầy giáo PGS. TS Nguyễn Duy Bột và cô giáo Th.s Nguyễn Thị Tuyết Mai.
93 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1272 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện các hoạt động xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp tại Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơng trình xúc tiến quy mô lớn phục vụ doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, chủ yếu do thiếu nguồn lực về tài chính, hiện nay, ngân sách hoạt động Phòng thương mại còn khá hạn hẹp. Nguồn kinh phí do Nhà nứơc cấp không đáng kể. Ngân sách hoạt động của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chủ yếu từ hai nguồn:Thu từ đóng góp của hội viên và các hoạt động của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Tháng 8/2001 thực hiện chủ trương của Chính phủ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã tiến hành miễn thu phí cấp C/O cho các doanh nghiệp do đó nguồn ngân sách sẽ bị giảm đi một phần đáng kể. Thu phí hội viên thì quá thấp. Trong khi đó chi phí cho các hoạt động khảo sát thị trường nước ngoài là rất tốn kém.
3.3. Số lượng hội viên tham gia.
Với sự nỗ lực của các cán bộ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trong việc thúc đẩy thu hút hội viên nên năm 2001 số hội viên tăng 45 % so với năm 2000 với số lượng là 750 hội viên. Nhưng tốc độ tăng trưởng như vậy còn thấp hơn nhiều so với tốc độ phát triển doanh nghiệp, sở dĩ có sự hạn chế trên là do: Trong cộng đồng doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp mới thành lập, đăng ký bổ sung ngành nghề. Sự hiểu biết về Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, về nội dung các hoạt động của Phòng còn hạn chế. Các tài liệu giới thiệu về Phòng Thương mại chưa nhiều và phong phú cả về hình thức và nội cung. Việc cung cấp các văn bản pháp quy, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đáp ứng các nhu cầu sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp vẫn chưa có nguồn cấp thường xuyên, chính xác, đầy đủ và kịp thời. Vì thế nên số lượng doanh nghiệp tham gia hội viên của Phòng chưa cao. Điều đó ảnh hưởng đến hoạt động của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, ảnh hưởng đến uy tín, vai trò của phòng. Ngân sách thu được từ phí của hội viên chưa cao chỉ bằng 10% tổng ngân sách dẫn đến việc tiến hành tổ chức các hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại đem lại hiệu quả không cao và không toàn diện.
2.4. Chính sách của Chính phủ.
Là tổ chức xúc tiến thương mại, phi lợi nhuận, theo quy định của chính phủ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam được Nhà nước hỗ trợ về kinh phí để đầu tư dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và triển khai các chương trình xúc tiến thương mại. Nhưng do nhu cầu ngày càng tăng hoạt động kinh khá sôi động đòi hỏi Phòng phải tổ chức nhiều chương trình xúc tiến thương mại, trong khi đó phần tài trợ của Nhà nước không thể đủ để phòng trang trải cho hoạt động của mình,cơ quan Phòng phải tự tạo nguồn thu. Chính sách của chính phủ trong việc khuyến khích hoạt động xuất khẩu và thu hút đầu tư chưa đạt hiệu quả cao dẫn đến công việc hỗ trợ xúc tiến thương mại của Phòng gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam với các cơ quan, tổ chức của Nhà nước vẫn còn một số tồn tại. Quyền hạn của Phòng chưa được xác định rõ ràng. Phòng chưa được tạo điều kiện tham gia thường xuyên vào quá trình xây dựng và triển khai chiến lưọc kinh tế, luật pháp, chính sách kinh tế, cải cách hành chính. Về nhiệm, nội dung xúc tiến thương mại của các cơ quan chính phủ vẫn chưa có các quy định rõ ràng, cụ thể. Luật tổ chức chính phủ, các nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức bộ máy của các Bộ (ví dụ Bộ thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư là hai bộ chủ chốt cũng như các Bộ quản lý chuyên ngành khác như Bộ Công nghiệp, Thuỷ sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn mới chỉ quy định rất chung chung về vấn đề này). Trong các nghị định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ thì duy nhất chỉ có nghị định về hoạt động quản lý xúc tiến thương mại. Tuy nhiên tại nghị định này cũng chỉ ghi một cách chung chung như sau:"Xây dựng trình Chính phủ ban hành và ban hành theo thẩm quyền các quy chế về quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu: Quản lý Nhà nước về hoạt động tư vấn, môi giới, hội chợ và quảng cáo thương mại hàng hoá và xúc tiến thương mại khác trong nước và ngoài nước ...Sự hỗ trợ về cơ sở vật chất và tài chính không đủ để triển khai các chương trình xúc tiến thương mại rộng rãi trong nước và ngoài nước nhằm phục vụ cho cộng đồng doanh nghiệp.
3.5. Một số yếu tố khác.
Xúc tiến thương mại cần phải được thực hiện trên cả hai mặt: Thương mại đầu tư trong nước và thương mại đầu tư quốc tế. Thương mại đầu tư quốc tế bao gồm xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ thương mại, đầu tư FDI vào Việt Nam và đầu tư Việt Nam ra nước ngoài. Nhận thức một cách đầy đủ và toàn diện phạm vi hoạt động của xúc tiến thương mại đầu tư để định hướng phát triển xúc tiến trong thời gian tới là rất quan trọng, nhất là khi Việt Nam đang sắp phải thực hiện nghĩa vụ thành viên của ASEAN, thực hiện các hiệp định thương mại song phương và đàm phán gia nhập WTO. Trong thời gian qua Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế nên đầu tư trong và ngoài nước tăng lên rất nhanh, hoạt động thương mại diễn ra khá sôi nổi. Tổng đầu tư trong toàn xã hội có nguồn gốc từ nước ngoài(FDIvà ODA) vào khoảng 50% tổng vốn đầu tư, kim ngạch xuất khẩu chiếm khoảng 30% GDP do đó ảnh hưởng của kinh tế thế giới đối với Việt Nam tương đối lớn. Liên tục trong thời gian gần đây kinh tế Nhật Bản và Mỹ có dấu hiệu suy thoái tác động mạnh đến thị trường xuất khẩu Việt Nam, đồng thời sức ép cạnh tranh giành thị phần của các nước đặc biệt là các nước sản xuất các mặt hàng xuất khẩu tương tự với Việt Nam ngày càng khốc liệt. Các nước này cũng ra sức thu hút đầu tư nước ngoài. Vì vậy đây là một cản trở mà Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phải cố gắng cùng với Nhà nước tìm cách tháo gỡ
Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do đó để tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại thực sự là rất khó, các doanh nghiệp chưa coi trọng đến vấn đề xúc tiến thương mại, nhận thức của doanh nghiệp về hiệu quả hoạt động hội chợ triển lãm còn mơ hồ, chưa đánh giá được hết tầm quan trọng của nó. Trong điều kiện chung như thiếu thông tin, thiếu môi trường pháp lý, thiếu vốn và công nghệ, các doanh nghiệp phải bươn chải và chật vật để trụ được tại thị trường trong nước đã là một cố gắng. Việc vươn ra thị trường quốc đối với họ hãy còn rất khó khăn. Phần lớn các doanh nghiệp đó không có kế hoạch thị trường, kế hoạch phát triển trung và dài hạn. Đây là một thách thức lớn không chỉ với Phòng thương mại mà cả đối với nền kinh tế Việt Nam, nhất là khi Việt Nam phải thực hiện các cam kết mở cửa thị trường.
chương III
một số biện pháp hòan thiện hoạt động xúc TIếN THươNG MạI Cho các doanh nghiệp tại Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
I. Phương hướng hoạt động xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đến năm 2010.
Là tổ chức đại diện, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cũng là tổ chức liên kết ở tầm cở quốc gia của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Trước sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp, của các tổ chức liên kết hỗ trợ doanh nghiệp của môi trường kinh tế v.v... để có thể hòan thành vai trò của mình. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần tiếp tục đổi mới về tổ chức và phương hướng hoạt động theo hướng tăng cường liên kết các doanh nghiệp và các hiệp hội trong một thể thống nhất.
Để đạt được mục tiêu đề ra cũng như có thể tiến hành tốt hơn, hiệu quả hơn các hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại, thì yêu cầu đặt ra đối với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam là phải trở thành một tổ chức quốc gia mạnh của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, đủ sức thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phải trở thành trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam hội nhập với kinh tế thế giới, bảo vệ quyền lợi của mình, tạo vị thế ngày càng tốt hơn trong nước và quốc tế.
Để đạt được yêu cầu trên, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần tập trung hoạt động theo hướng sau:
- Xây dựng và phát triển hệ thống thống nhất các tổ chức đại diện và hỗ trợ doanh nghiệp ở Việt Nam, trong đó Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đóng vai trò trung tâm để phối hợp và nâng cao hiệu quả của cả hệ thống vì quyền lợi chung của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam .
- Giúp thành lập và vận động các hiệp hội và các tổ chức hỗ trợ, xúc tiến kinh doanh khác gia nhập Phòng Thương mại và Công nghiệp để phối hợp hoạt động, phát huy vai trò và sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn lực cạnh tranh của doanh nghiệp ở trong và ngoài nước tăng cường tiếng nói của doanh nghiệp.
- Phối hợp tốt giữa Phòng thương mại và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các hiệp hội và các tổ chức khác của doanh nghiệp để tham gia tích cực có hiệu quả vào các tổ chức hữu quan ở nước ngoài.
Nghiên cứu để xuất khẩu với nhà nước những vấn đề mà các doanh nghiệp quan tâm như: Thuế quan, luật pháp, thông tin..
- Tăng cường hợp tác với các tổ chức khu vực và quốc tế, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Tích cực tham gia và hợp tác có hiệu quả, bảo đảm những nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi trong các tổ chức Phòng thương mại ASEAN, hội nghị Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tiểu vùng sông Mêkông mở rộng, Phòng thương mại quốc tế(ICC), Hội đồng hợp tác kinh tế Thái Bình Dương (PECC), Hội đồng kinh tế vùng lòng chảo Thái Bình Dương(PBEC), các tổ chức tương ứng của Hội đồng hợp tác kinh tế châu á Thái Bình Dương (APEC), tổ chức Thương mại thế giới (WTO), các tổ chức quốc tế và khu vực khác. phổ biến thông tin, hướng dẫn cho các doanh nghiệp tham gia chương trình hợp tác trong các tổ chức đó.
Khai thác tốt những cơ hội, hạn chế những bất lợi trong quá trình hội nhập, nhằm phát triển quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp ta với các nước và tổ chức liên quan, bảo đảm quyền lợi của các bên. Tích cực tranh thủ các nguồn trong và ngoài nước để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt nam nâng cao năng lực cạnh tranh và kinh doanh, vươn lên tạo thế tốt hơn trong quá trình hội nhập.
- Mở rộng các hoạt động xúc tiến và hỗ trợ doanh nghiệp để đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp trong giai đoạn mới.
Xây dựng quan hệ phân công, hợp tác tốt giữa Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam với các Hiệp hội kinh doanh và tổ chức xúc tiến thương mại khác nhằm phát triển mạng lưới phục vụ rộng khắp và có hiệu quả cho các doanh nghiệp, đặc biệt trong các lĩnh vực xuất khẩu, đầu tư trong nước, chuyển giao công nghệ, kinh doanh với nước ngoài.
Là tổ chức xúc tiến thương mại cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, phòng sẽ tập trung phát triển , nâng cao chất lượng chuyên môn và tính cạnh tranh trong các hoạt động như:
+ Xây dựng mạng lưới thông tin và ấn phẩm về kinh tế thương mại có chất lượng cao, phát hành rộng trong và ngoài nước đảm bảo cung cấp kịp thời thông tin cho doanh nghiệp.
+ Mở rộng hoạt động tư vấn pháp lý, tư vấn kinh doanh , đào tạo chuyên môn cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
+ Giúp các doanh nghiệp xây dựng mạng lưới quan hệ bạn hàng và đối tác kinh doanh vững mạnh trong và ngoài nước, xây dựng và phát triển thị trường cho các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam.
+ Tổ chức các hội chợ triển lãm, hội nghị, hội thảo và các hình thức hoạt động khác nhằm phục vụ yêu cầu xúc tiến quan hệ hợp tác kinh tế nói chung cũng như các lĩnh vực các chuyên đề quan trọng.
+ Tăng cường hoạt động bảo hộ sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, chứng nhận xuất xứ hàng hóa, giải quyết tranh chấp bảo vệ môi trường, nâng cao năng suất lao động xây dựng tiêu chuẩn và nâng cao chất lượng sản phẩm theo yêu cầu quốc tế.
- Phát triển các chương trình xúc tiến thương mại cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tích cực góp phần xây dựng môi trường pháp lý, chính sách kinh tế và xã hội thuận lợi, hỗ trợ phát triển nâng cao hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thị trường trong và ngoài nước.
Tổ chức tốt các chương trình thông tin, đào tạo chuyên môn tư vấn và chính xác hoạt động hỗ trợ khác phù hợp với yêu cầu của loại hình doanh nghiệp này.
Tranh thủ sự hợp tác của các cơ quan Chính phủ, các ngân hàng và các tổ chức quốc tế để tiến hành hình thành quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Ngoài ra Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phải là chiếc cầu nối giữa các doanh nghiệp với các giai tầng khác trong xã hội. Là đại diện và là tổ chức bảo vệ quyền lợi trong các hoạt động kinh doanh trong và ngoài nước. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam không chỉ giúp đỡ, hỗ trợ các doanh nghiệp mà còn phải hướng dẫn các doanh nghiệp thực thi nghiêm chỉnh pháp luật. Đồng thời vận động, hướng dẫn các doanh nghiệp xây dựng các quan hệ lao động lành mạnh, tham gia vào các hoạt động xã hội khác như: Bảo vệ môi trường bảo vệ an ninh quốc gia phòng thương mại còn làm nhiệm vụ giúp các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế xích lại gần nhau, hợp tác hỗ trợ cho nhau cùng phát triển. Với tư cách là tổ chức đại diện cho quyền lợi của các doanh nghiệp Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần phải tạo điều kiện để các doanh nghiệp có liên kết nhất trí với nhau. Bởi trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần có sự góp sức của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Vì vậy Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phải thiết lập được những quan hệ chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, tất cả cùng nhắm tới mục tiêu chung là phát triển kinh tế, xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp. Và đặc biệt Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam không được phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp hội viên.
Trong thời kỳ tiếp theo này, khối lượng nhiêm vụ và yêu cầu đặt ra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam là rất lớn tình hình kinh tế trong nước và thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. sau sự kiện khủng khoảng kinh tế 1997 của khu vực và Châu á, sự suy giảm kinh tế của thế giới trong những năm gần đây đã làm thay đổi rất nhiều nền kinh tế của thế giới. Do đó giai đoạn tiếp theo là giai đoạn khôi phục kinh tế dẫn đến sự cạnh tranh trên thị trường quốc tế sẽ trở nên gay gắt và quyết liệt hơn. Để giữ vững và có được tốc độ phát triển cao và bền vững, nhiệm vụ hàng đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam là giữ vững vĩ mô, phát huy tính sáng tạo, chủ động và linh hoạt của các doanh nghiệp, giữ vững tốc độ đổi mới nhằm nâng cao tổng thể sức cạnh tranh của toàn nền kinh tế. Đưa Việt Nam sớm hòa nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Như vậy nhiệm vụ trọng tâm của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trong thời gian tới là tích cực tham gia kiến nghị với Đảng và nhà nước kiên quyết thực hiện lộ trình đổi mới tăng cường hợp tác quan hệ với các cơ quan trong và ngoài nước tiến hành hoạt động xúc tiến thương mại, giữ
vững thị trường đã có, phát triển thị trường mới đặc biệt là thâm nhập thị trường Mỹ, mở rộng tuyên truyền thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam .
Như vậy trong thời gian tiếp theo nhiệm vụ của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam khá nặng nề. Nó đòi hỏi không chỉ sự cố gắng của riêng Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam mà các doanh nghiệp, Nhà nước cũng phải tích cực tạo điều kiện để phòng hòan thành tốt công việc của mình.
II. Một số biện pháp hoàn thiện hoạt động xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
1. Biện pháp của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Trong những năm tiếp theo này khối lượng, nhiệm vụ và yêu cầu đặt ra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam là rất lớn. Là một tổ chức chuyên về hỗ trợ xúc tiến thương mại , đầu tư cho các doanh nghiệp, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cũng phải xây dựng và đặt ra những phương hướng và nhiệm vụ phát triển phù hợp với yêu cầu mới. Để làm những công việc và nhiệm vụ của mình Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần phải đặt ra cho mình những phương hướng hoạt động cụ thể và có những biện pháp để khắc phục những hạn chế mà Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam còn gặp phải.
Những biện pháp để hoàn thiện hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp Việt Nam của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam là những biện pháp để phát triển hội viên và hỗ trợ doanh nghiệp: tư vấn, góp ý, xây dựng chính sách, tham mưu cho Chính phủ vì các hoạt động xúc tiến thương mại, hoàn thiện và nâng cao chất lượng của công tác xúc tiến thương mại, đầu tư, công tác thông tin tư vấn.;
1.1. Biện pháp cho công tác phát triển hội viên.
Như chúng ta đã biết Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trong thời gian qua đã có những thành công rất nhiều trong việc thực hiện chức năng hỗ trợ xúc tiến thương mại. Mà trong đó công tác phát triển hội viên của phòng và hỗ trợ doanh nghiệp cũng như đóng góp đáng. Từ 93 hội viên ban đầu đến nay tổng số hội viên của phòng là 4500 đơn vị, đặc biệt là đã
kết nạp được một số hội viên doanh nghiệp, tuy nhiên việc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có làm tốt công tác xúc tiến thương mại của mình hay không lại phụ thuộc vào phần nào vào số hội viên tham gia Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Bởi càng có nhiều hội viên thì kinh phí của phòng sẽ tăng lên, do đó có nhiều dự án lớn và có hệ thống mở. Trong khi đó đến nay số doanh nghiệp cả nước đã lên đến 200.000 doanh nghiệp. Nếu không có biện pháp cụ thể để từng số lượng hội viên thì sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Vì thế cần phải coi đây là công tác có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Với chức năng đại diện cộng đồng doanh nghiệp của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam .
Phòng chỉ có thể phát huy tốt khi phòng có tỉ lệ hội viên tương ứng với số lượng và tốc độ phát triển của các doanh nghiệp, trong năm 2002 Phòng Thương mại và Công nghiệp phấn đầu kết nạp được khoảng 1000 hội viên mới. Và trong những năm tới sẽ cố gắng tăng cường số lượng hội viên kết nạp. phòng sẽ chủ trọng phát triển kết nạp hội viên là hiệp hội doanh nghiệp, các doanh nghiệp thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Nhằm đáp ứng xu hướng doanh nghiệp ngày càng tăng, phòng cần tập trung đổi mới công tác phục vụ và thu hút hội viên cụ thể là:
- Triển khai điều tra, khảo sát doanh nghiệp thường xuyên và theo định kỳ các loại hình doanh nghiệp theo dõi sát tình hình hoạt động của doanh nghiệp vừa để đánh giá tác động của các chính sách pháp luật và môi trường kinh doanh đối với doanh nghiệp , vừa chủ động đặt ra định hướng kế hoạch hỗ trợ doanh nghiệp một cách thích hợp.
- Tăng cường và đổi mới hoạt động tập hợp, trao đổi, gặp gỡ ý kiến doanh nghiệp để kịp thời phản ánh, tham mưu cho Đảng và Chính phủ trong việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế.
- Mở rộng đội ngũ công tác viên và đội ngũ tình nguyện viên nhằm nâng cao chất lượng tư vấn, cung cấp thông tin, đào tạo doanh nghiệp, đồng thời chú trọng nhiều hơn đến việc bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp.
- Chú trọng nhiều hơn đến việc thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia vào hoạt động của phòng, đa dạng hoá các hình thức sinh hoạt của hội viên đặc biệt là hội viên liên kết.
- Mở rộng công tác tuyên truyền về vai trò chức năng của phòng nhất là đối với chính quyền cơ sở và các doanh nghiệp ở vùng sâu, vùng xa, tăng cường tiếp xúc trực tiếp với các doanh nghiệp để vận động, thu hút hội viên.
- Một trong những đối tác quan trọng mà phòng thương mại cần mỡ rộng quan hệ hợp tác và phối hợp hoạt động trong thời gian tới là các hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài, các tổ chức xúc tiến thương mại khác. cần coi đây là hướng đi chiến lược qua đó phòng có thể tăng cường và mỡ rộng phạm vi hỗ trợ cho doanh nghiệp thông qua các tổ chức này.
- Triển khai và áp dụng thông tin hiện đại, triển khai đăng ký gia nhập hội viên qua mạng, tạo điều kiện thuận lợi, tránh đi lại nhiều lần gây phiền hà cho doanh nghiệp. Khai thác thông qua việc doanh nghiệp giới thiệu lôi kéo bạn bè tham gia, tổ chức phối hợp công tác kết nạp hội viên và phục vụ hội viên qua các diễn đàn hội thảo, giới thiệu văn bản pháp quy, đào tạo giới thiệu doanh nghiệp
Tóm lại trong thời gian tới quyết tâm của phòng trong vấn đề kết nạp hội viên và hỗ trợ doanh nghiệp là ngày càng có thêm nhiều doanh nghiệp kêt nạp vào hội viên của phòng và phòng sẽ cố gắng làm tốt công việc hỗ trợ doanh nghiệp của mình.
1.2. Đối với công tác tư vấn, góp ý, xây dựng chính sách tham mưu cho Chính phủ.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phải tích cực nâng cao chât lượng của các hoạt động tư vấn cho doanh nghiệp, đáp ứng kịp thời những yêu cầu cần thiết, cấp bách của doanh nghiệp, Hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện các nghị quyết, nghị định của Chính phủ, về chính sách luật pháp kinh doanh, các giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp đặc biệt là các diễn đàn, hội thảo chuyên đề bức xúc của doanh nghiệp phát huy tốt cả chi phối hợp với các Bộ ngành tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị, diển đàn lấy ý kiến của doanh nghiệp để xây dựng và ban hành các văn bản chính sách pháp luật kinh doanh. Tích cực tham gia các chương trình đề án hoàn thiện pháp luật của nhà nước đặc biệt là chương trình liên quan đến cải cách hành chính, xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tạo môi trường kinh doanh thông thoáng và thuận lơị, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế: tư nhân doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tuyên truyền, giới thiệu rộng rải các chính sách, thông tin kinh tế và pháp luật cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước bằng nhiều hình thức khác nhau trực tiếp hoặc gián tiếp qua các ấn phẩm, các phương tiên thông tin đại chúng, qua đó góp phần nâng cao hiểu biết và ý thức pháp luật cho doanh nghiệp, tạolập nên môi trường kinh doanh ngày càng thông thoáng thuận lợi.
Góp ý xây dựng chiến lược phát triển kinh tế trong đó có chiến lược xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, sửa đổi và ban hành chính sách thông thoáng hơn cho doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho các hoạt động dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp. Tuyên truyền, giới thiệu rộng rãi chính sách và thông tin kinh tế cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước
1.3. Công tác xúc tiến thương mại đầu tư.
Cải tiến công tác tổ chức đoàn thương mại ra nước ngoài khảo sát tìm kiếm thị trường và đối tác kinh doanh xuất nhập khẩu và đón tiếp các đoàn nước ngoài vào Việt Nam theo hướng tập trung vào các chương trình dự án và các hoạt động xúc tiến đem lại kêt quả cụ thể cho doanh nghiệp. Cần xác định rõ mục tiêu yêu cầu cụ thể của doanh nghiệp, tổng hợp và lập chương trình làm việc, hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện các thoả thuận hợp tác sau các chuyến đi hoặc các cuộc gặp gỡ. Khai thác và hỗ trợ các thông tin trên mang tính chất định hướng, dự báo cho doanh nghiệp về thị trường các nước. Tranh thủ tuyên truyền, giới thiệu về môi trường đầu tư kinh doanh và các sản phẩm tiềm năng của doanh nghiệp trong các chuyến đi khảo sát, nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước.
Tiếp tục triển khai và nâng cao năng lực thực hiện các chương trình dự án về xúc tiến thương mại , đây là một hướng đi đúng và đã nhận được sự ủng hộ và kinh phí từ phía Nhà nước và các tổ chức đối tác. Tăng cường hợp tác và phối hợp đồng bộ với các tổ chức xúc tiến thương mại khác như Cục, Vụ, Viện và các Bộ, các hiệp hội doanh nghiệp trong nước và các Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các tổ chức xúc tiến thương mại nước ngoài. Tích cực nghiên cứu kinh nghiệm của các tổ chức xúc tiến thương mại nước ngoài, các quy định , luật lệ của các tổ chức thương mại quốc tế để nâng cao hiệu qủa hỗ trợ doanh nghiệp. Thực hiện chiến lược ngoại giao kinh tế bằng việc đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các đại sứ quán các nước và sứ quán nước ta ở nước ngoài tăng cường khai thác thông tin thị trường và đối tác tiềm năng vào các thị trường mới và nhiều triển vọng như: Mỹ, TQ, Nga, ASEAN, hưỡng dẫn và hổ trợ các doanh nghiệp chủ động tìm kiếm khai thác và mở rộng xuất khẩu vào những thị trường này.
Đối với các hoạt động chắp mối kinh doanh. Đa dạng hoá các hình thức chấp mối kinh doanh cho doanh nghiệp, có thể trực tiếp thông qua các cuộc gặp gỡ, trao đổi gián tiếp thông qua các phương tiện như ấn phẩm, sách báo của phòng sách báo qua Mạng Internet trong đó chú trọng khuýến khích doanh nghiệp tham gia ứng dụng thương mại điện tử như xây dựng các trang Web quảng cáo doanh nghiệp, đưa thông tin lên mạng đồng thời khuyến khích Chính phủ nhanh chóng xây dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam. Tiếp tục cập nhật và hoàn thiện hồ sơ thị trường các nước hồ sơ sản phẩm và danh bạ doanh nghiệp Việt Nam để các đơn vị tự tra cứu và theo dõi.
Công tác đào tạo cần gẵn với chương trình, dự án của Chính phủ về đào tạo doanh nhân, doanh nghiệp đủ năng lực cạnh tranh khi hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời tranh thủ được nguồn tài trợ kinh phí nâng cao hơn chất lượng của hoạt động đào tạo thường xuyên, trực tiếp nâng cao kiến thức kinh doanh và năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp cần tiếp tục mở rộng hoạt động đào tạo giảng viên để nhân rộng mô hình đào tạo đến khắp các điạ phương trong cả nước trong đó có các nhóm đối tượng cần nhiều sự hỗ trợ như: phụ nữ, đồng bào dân tộc thiểu số vv...
Đối với các hoạt động hội chợ triển lãm nâng cao chất lượng tổ chức hội chợ triển lãm theo hướng chủ trọng vào các nơi thiết thực đồng thời hội chợ triển lãm còn là dịp để các doanh nghiệp tìm hiểu thông tin, thị trường. Do đó tăng cường triển khai hội chợ, triển lãm hàng Việt Nam chất lượng cao ở các thị trường trọng điểm như: Mỹ, EU, Trung quốc ...
1.4. Công tác thông tin, tư vấn .
Triển khai và hoàn thiện hệ thống mạng thông tin nội (LAN) trong năm 2002 của toàn bộ hệ thống Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, tiết kiệm chi phí hành chính và đổi mới phương thức tổ chức công việc của phòng. Đào tạo và nâng cao kỹ năng sử dụng các phương tiện thông tin hiện đại cho các bộ của phòng. Các ban, chi nhanh, trung tâm, văn phòng đại diện, các công ty đơn vị trực thuộc tăng cường hợp tác trao đổi, khai thác thông tin và vận dụng thế mạnh của nhau để nâng cao hiệu quả hoạt động và hỗ trợ doanh nghiệp.
Đầu tư và phát triển Website của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trở thành công cụ hữu ích tăng cường hoạt động xúc tiến, chắp mối kinh doanh cho doanh nghiệp quảng bá vai trò hoạt động của phòng và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và tiến tới coi Website của phòng trở thành địa chỉ cung cấp thông tin chủ yếu và tiện ích cho việc tra cứu về thị trường và doanh nghiệp trong nước và các thị trường trọng điểm có hiệu quả.
Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động của các công cụ thông tin ấn phẩm truyền thông như báo diễn đàn doanh nghiệp, các bản tin kinh tế.
1.5. Biện pháp nâng cao đội ngũ cán bộ
Khi chúng ta có một đội ngũ cán bộ tốt, có một kho thông tin giàu mạnh thì vấn đề xây dựng cho được một cơ chế hợp lý có thể động viên, phát huy tối đa khả năng của từng cán bộ, từng bộ phận sẽ là yếu tố quyết định thành công. Chúng ta thường nói đến phát huy nội lực. Nhưng để phát huy nội lực, cần có một chính sách đúng đắn, động viên được mọi người tìm tòi, suy nghĩ và phấn đấu làm việc. Cơ chế pháp lý đó bao gồm tổng thể từ cơ chế tiền lương, tiền thưởng chính sách đào tạo, đề bạt và khuyến khích vật chất . Cụ thể là:
- Chính sách tiền lương, tiền thưởng và các khuyến khích vật chất: Mặc dù đây không phải là đòn bẩy duy nhất để động viên mọi người làm việc nhưng nó có vị trí quan trọng trong việc động viên cán bộ. Chính sách tiền lương của ta dựa theo thang lương của Nhà nước nên mang nặng tính bình quân chủ nghĩa, không gắn với hiệu quả công việc. Mặc dù công việc của VCCI là xúc tiến nhưng chúng ta hoàn toàn có thể định lượng công việc và hiệu quả của nó. Từ đó nên có chính sách gắn thu nhập của cán bộ với khối lượng và hiệu quả công việc của họ
- Chúng ta có một chính sách để đào tạo và bồi dưỡng một số cán bộ chủ chốt. Hàng năm VCCI cần tổ chức nhiều lớp đào tạo kể cả cử nhiều cán bộ tham dự nhiều chương trình đào tạo nước ngoài, bồi dưỡng bổ sung cho họ những mảng còn yếu kém .Hình thành việc xây dựng một đội ngũ cán bộ cốt cán.
- Cần đầu tư nhiều cho lĩnh vực nghiên cứu và phát triển kể cả nghiên cứu phát triển từng hoạt động cũng như cho toàn bộ VCCI, nghiên cứu sâu về các thị trường như: nghiên cứu về thị trường may mặc trên thế giới, từ đó đưa ra các khuyến nghị cho các doanh nghiệp sản xuất gia công hàng may mặc về thị trường nào mà họ có thể tiếp cận, khó khăn thuận lợi của từng thị trường đối thủ là ai ...Nếu làm tốt lĩnh vực này chúng ta có thể phát triển các dịch vụ về tư vấn, điều tra thị trường ...mặt khác có thể khẳng định uy tín và nâng cao khả năng hợp tác với các hiệp hội ngành hàng .
- Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần xây dựng các chương trình cụ thể, sau đó phân công cho từng bộ phận thực hiện, có chế độ trao đổi thông tin, báo cáo với nhau. Các chương trình và cơ chế phối hợp này cần có chỉ đạo tập trung và thống nhất, chứ không chỉ đơn thuần là xây dựng mạng thông tin nội bộ.
1.6. Biện pháp cải tiến ngân sách cho Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Để phù hợp với cơ cấu ngân sách chung của các Phòng Thương mại trên thế giới( Thu từ hội phí hội viên:40%, thu từ các hoạt động:30-35%, thu Nhà nước và các tổ chức khác:25-30%) và có đủ kinh phí tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại với quy mô thì Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần phải tăng thu hội phí. Nguồn thu hội phí cần phải chiếm một tỷ lệ nhất định trong ngân sách hoạt động của Phòng vì đó là khoản thu ổn định. Cụ thể:
- Tăng mức thu hội phí tối thiểu từ 200000đ/ năm lên 500000đ/ năm. Điều này là cần thiết vì 200000đ chưa đủ gửi báo Diễn đàn doanh nghiệp cho hội viên chưa nói tới các hoạt động khác. Hơn nữa khá nhiều hiệp hội thu phí với cá nhân cũng khoảng 300000đ - 500000đ/ người/ năm
- Cần hợp tác mạnh với các địa phương để triển khai một số hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp và tuyên truyền về VCCI. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nên chú trọng các doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp không tham gia xuất nhập khẩu ( trước đây chúng ta quá chú trọng đến các doanh nghiệp xuất khẩu) bởi vì số lượng doanh nghiệp này rất lớn nếu làm tốt sẽ làm tăng khối lượng hội viên của Phòng
- Cần làm tốt công tác quản lý và đôn đốc thu hội phí, cố gắng đẩy tỷ lệ thu hội phí lên khoảng 70 – 80%. Cần có sự phân biệt với hội viên nộp đầy đủ hội phí với hội viên không nộp hội phí
Một số khoản thu từ hoạt động khác. VCCI nên tập trung vào phát triển mạnh các hoạt động có giá trị tăng cao và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh như tư vấn và cung cấp thông tin về thị trường, giá cả, sản phẩm và đầu tư. Tăng cường trao đổi dịch vụ môi giới cho xuất khẩu. Hiện nay Nhà nước đã có cơ chế riêng môi giới cho xuất khẩu nhằm khuyến khích cho xuất khẩu những dịch vụ này tuy khó khăn nhưng VCCI có nhiều lợi thế cả về cán bộ, nguồn thông tin và quan hệ. Để phát triển được các hoạt động dịch vụ cần xây dựng một cơ chế khuyến khích hợp lý. Phòng nên khuyến khích các cá nhân, bộ phận tìm tòi suy nghĩ và phát triển những dịch vụ hoạt động có thu. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần tách bạch các hoạt động làm hai loại. Một loại các hoạt động động xúc tiến sẽ được bao cấp từ ngân sách chung của Phòng, ngân sách này được xét duyệt hàng năm, căn cứ vào nhiệm vụ của từng bộ phận được ban thường trực phê duyệt. Còn một loại hoạt động áp dụng theo cơ chế dịch vụ
Tăng cường tiết kiệm những khoản chi: Việc tiết kiệm các khoản chicó thể thực hiện được nếu đó là công việc của mọi cá nhân, mọi bộ phận, bên cạnh đó VCCI nên nghiên cứu và đưa ra chế độ khoán chi hành chính. Chế độ khoán chi có mục đích tiết kiệm các khoản chi lãng phí chứ không đơn thuần là cắt giản ngân sách, nếu xây dựng chế độ khoán chi cũng như áp dụng cơ chế khuyến khích phát triển dịch vũ sẽ phải chấp nhận thu nhập cá nhân của các bộ phận khác nhau sẽ khác nhau...
1.7. Một số biện pháp khác.
Tăng cường mở rộng hợp tác với các cơ quan trong nước: Đâỷ mạnh hoạt động hỗ trợ xúc tiến Phòng Thương mại khó có thể có đủ tiềm lực về tài chính , về cán bộ để tự triển khai tất cả các hoạt động xúc tiến tại mọi miền tổ quốc. Vì thế sự hợp tác với các chính quyền địa phương, các tổ chức hiệp hội ngành hàng, các cơ quan xúc tiến địa phương sẽ là giải pháp hữu hiệu cho Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam mở rộng được quy mô hoạt
động và nâng cao uy tín với doanh nghiệp, thể hiện được vai trò của một tổ chức có tầm quốc gia, đồng thời Phòng lại nắm được tình hình của từng địa phương, từng ngành hàng một cách tốt hơn và sâu sát hơn với công tác hỗ trợ xúc tiến thương mại của VCCI.
Hợp tác quốc tế: Một số tổ chức quốc tế thường xuyên gửi tạp chí cho Phòng, nhưng Phòng vẫn chưa tận dụng tốt các thông tin này. Hơn thế nữa ít khi chúng ta yêu cầu và trao đổi với họ các chương trình cung cấp thông tin với quy mô lớn và chất lượng cao. do đó VCCI cần tăng cường giao lưu trao đổi thông tin.Với các Phòng thương mại nước ngoài; Phòng thương mại các nước tại Việt Nam; Phòng thương mại khu vực, ICC, các tổ chức quốc tế khác Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần phải khai thác triệt để các nội dung trong các bản hợp tác, nhất là các thị trường chủ yếu và thị trường mới có triển vọng đồng thời cung cấp thông tin về Việt Nam cho họ. Các ấn phẩm của Phòng phải được gửi cho họ và ngược lại yêu cầu họ gửi ấn phẩm cho ta. Tiến tới Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cần có các thành viên hiệp hội hỗn hợp giữa doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. Bên cạnh đó Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nên tận dụng các nguồn tài trợ từ các tổ chức quốc tế. phòng nên chủ động tìm kiếm và kêu gọi tài trợ, xây dựng chương trình trước sau đó vận động tìm kiếm tài trợ cho dự án vì nếu VCCI có sự chuẩn bị trước như vậy sẽ giúp các nhà tài trợ dẽ dàng phân tích các dự án khả thi. Tăng cường liên kết, hợp tác với tổ chức xúc tiến thương mại
2. Các biện pháp của Chính phủ.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam là một tổ chức phi Chính phủ, phi lợi nhuận "phi Chính phủ " là vì nó tập hợp của các doanh nghiệp không làm quản lý Nhà nước. " Phi lợi nhuận" vì nó không phải là tổ chức kinh doanh lấy lời như các hội viên của nó. Mặc dù Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đều có những hoạt động tạo nguồn thu để bù đắp các chi phí hoạt động của mình và đầu tư phát triển. Do đó Nhà nước cần tăng cường hỗ trợ kinh phí để Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có điều kiện tổ chức các dự án lớn, bên cạnh đó Nhà nước cần tăng cường sự quản lý của mình đối với hoạt động xúc tiến thương mại trên các phương diện:
2.1. Hoàn thiện hành lang pháp luật.
Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về xúc tiến thương mại. Xúc tiến thương mại của doanh nghiệp thì chịu sự quản lý của doanh nghiệp , còn xúc tiến thương mại nói chung lại chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Điều đó được thể hiện thông qua các văn bản do Chính phủ hoặc cơ quan chức năng ban hành. Cho đến nay, các văn bản pháp luật quy định về xúc tiến thương mại có Luật thương mại (Điều 38 qui định về xúc tiến thương mại); ngày 5.5.1999 Nhà nước ban hành Nghị định 32-CP để hướng dẫn thực hiện quảng cáo, khuyến mãi và hội chợ triển lãm theo luật doanh nghiệp. Chủ tịch HĐBT đã ra chỉ thị 36-CP ngày 5.11.99 quy định về biểu hiện của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động xúc tiến thương mại đã được xem xét và được điều chỉnh dần, nhằm tứng bước dần đưa xúc tiến thương mại và qui củ. Tuy nhiên, cho đến bây giờ vẫn còn những vấn đề sau cần phải được Nhà nước quan tâm và làm rõ như:
+ Qui định rõ trách nhiệm cụ thể của từng sai phạm trong xúc tiến thương mại .
+ Làm rõ phạm vị quyền hạn của từng tổ chức tham gia vào công tác quản lý Nhà nước về xúc tiến thương mại.
+ Sự phối hợp của các tổ chức trong quản lý Nhà nước về xúc tiến thương mại cần phải được đồng đều và nhất quán.
+ Cần có sự qui định rõ ràng hơn về thủ tục hải quan đối với hàng hoá đi dự hội chợ triển lãm ở nước ngoài cũng như hàng hoá được đem đi dự hội chợ triển lãm.
Khi hoàn thiện hệ thống văn bản được hoàn chỉnh thì Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam mới có thể làm tốt việc hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp .
Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về xúc tiến thương mại .
Hiện nay, nhà nước giao cho bộ thương mại là cơ quan quản lý Nhà nước về các hoạt động xúc tiến thương mại như quảng cáo, hội chợ triển lãm, khuyến mãi. Tuy nhiên Bộ thương mại mới chỉ quản lý được hoạt động khuyến mãi, hoạt động hội chợ triển lãm và việc quản lý này còn mang tính hình thức bởi Bộ thương mại không trực tiếp theo dõi hoạt động quảng cáo của doanh nghiệp (hội đồng quảng cáo chịu sự quản lý của Bộ thông tin ). Do đó Bộ thương mại rất khó thay mặt Nhà nước để quản lý hoạt động xúc tiến thương mại một cách chặt chẽ do đó Nhà nước cần phải hoàn thiện Bộ máy quản lý của mình để xúc tiến thương mại để các tổ chức xúc tiến thương mại nói chung và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nói riềng thực hiện nhiệm vụ của mình tốt hơn.
Chính phủ cần phải tăng cường chỉ đạo hợp tác giữa Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam với các Bộ, các ngành, các hiệp hội ngành hàng. Điều này sẽ tạo điều thuận lợi cho hoạt động của phòng như: hoạt động tập trung thông tin để từ đó chắt lọc ra những thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp, thu thập ý kiến kiến nghị... nhà nước cần phải làm cho các bộ, ngành hiểu rằng việc hợp tác giữa họ với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam không chỉ là trách nhiệm của mỗi bên mà còn mang laị quyền lợi cho nhau.
2.2. Phối hợp đồng bộ với các cơ quan trong việc tạo điều kiện xúc tiến thương mại.
Chính phủ cần có sự chỉ đạo để có sự phối hợp cung cấp thông tin chính xác cho các doanh nghiệp giữa Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam với các thương vụ ở nước ngoài. Lâu nay hoạt động của thương vụ ở các nước ngoài còn khá thụ động. Trong khi các doanh nghiệp vẫn còn non trẻ cả kinh nghiệm lẫn trình độ trên thị trường quốc tế. Không phải doanh nghiệp nào cũng đủ khả năng tham gia vào thị trường nước ngoài. Vì họ còn thiếu những kinh nghiệm, thông tin cần thiết giúp họ gia nhập thị trường quốc tế khỏi bị bỡ ngỡ và đặc biệt là tránh thất bại đáng tiếc. Vì vậy các thương vụ ở nước ngoài là đơn vị đóng vai trò quan trọng trong việc thu thập các thông tin về thị trường đó. Muốn nâng cao chất lượng hoạt động của các thương vụ nước ngoài và đạt hiệu quả tốt trong hợp tác giữa Phòng Thương mại và Công nghiệpViệt Nam với các thương vụ ở nước ngoài. Chính phủ có những biện pháp như:
+ Nhà nước phải thường xuyên hối thúc các thương vụ ở nước ngoài trong việc tạo sự thuận lợi cho Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trong việc tổ chức các đoàn doanh nghiệp đi tìm hiểu thị trường, theo dõi cung cấp những thông tin cần thiết cho phòng thương mại, các đồng chí lãnh đạo Nhà nước phải giám sát các hoạt động của các thương vụ, kịp thời đưa ra những quyết định, giải pháp những chỉ thị cho các thương vụ để họ làm tốt công việc của mình.
+ Nhà nước cần hỗ trợ đào tạo các cán bộ của phòng nhất là các cán bộ trực tiếp thực hiện công tác hỗ trợ xúc tiến thương mại.
+ Hỗ trợ và giúp đỡ các đoàn doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài khảo sát, nghiên cứu thị trường. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam tìm hiểu thị trường.
Bên cạnh các biện pháp trên Nhà nước cần tạo hành làng pháp lý thuận lợi cho các hoạt động xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp của phòng đặc biệt là việc đàm phán ký kết hiệp định thương mại với các nước. Đó là cơ sở để giải quyết những khó khăn còn tồn tại giữa hai phía, thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai bên, xác định những ưu đãi mà hai bên giành cho nhau. Tăng cường tham gia vào các tổ chức thương mại của khu vực và thế giới. Để kinh tế Việt Nam có điều kiện hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Và đó cũng là những thuận lợi, là cơ sở để Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có điểu kiện tiến hành cho các hoạt động xúc tiến thương mại của mình. Bởi thông qua các hiệp định thương mại,các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và thế giới sẽ thúc đẩy giao lưu trao đổi thương mại giữa các nước, mở rộng thị trường cho nhau cùng phát triển. Từ đó các hoạt động xúc tiến cũng phát triển và ngày càng được nâng cao về chất lượng.
2.3. Đối với các doanh nghiệp
Nhà nước cũng cần có những chính sách biện pháp để giải quyết các vấn đề vướng mắc cho doanh nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm của mình đáp ứng nhu cầu khách hàng.
Chính phủ cần phải thành lập trung tâm trình bày hàng mẫu tại các nước. trung tâm này nên được thành lập vơi sự phối hợp giữa Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam với bộ thương mại và các doanh nghiệp có nhu cầu trao đổi mua bán với thị trường nước ngoài. Trung tâm này có nhiệm vụ tiếp nhận và trưng bày hàng mẫu của doanh nghiệp trong nước gửi sang. Đồng thời nhận hàng của khách hàng và thu thập các mẫu mã gửi về Việt Nam, việc thành lập trung tâm này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệpViệt Nam giới thiệu sản phẩm của mình về mẫu mã giá cả, chất lượng...Mà không cần đến hội chợ hoặc các cuộc triển lãm. Từ đó có thể đàm phán ký kết hợp đồng mua bán giữa hai bên. cũng qua phòng trưng bày hàng mẫu,các doanh nghiệp Việt Nam có thể có được những ý kiến đóng góp trực tiếp của khách hàng những yêu cầu của khách hàng đối với những hàng hoá của Việt Nam. Bộ phận có liên quan tổng hợp và chuyển những thông tin cần thiết về Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và phòng sẽ chuyển cho các doanh nghiệp tham gia ở trung tâm. Nếu thành lập được trung tâm này hàng hoá Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội xuất khẩu sang thị trường các nước. Tuy nhiên việc chúng ta thành lập các trung tâm trưng bày hàng mẫu tại tất cả các nước có quan hệ thương mại với ta là một điều không đơn giản, bởi vì kinh phí của ta còn quá hạn hẹp. Ngay cả những nước giàu có, trên thế giới cũng không thể làm được điều đó bởi nó còn thuộc vào nhiều yếu tố nữa. Do đó vấn đề trước mắt là chúng ta nên đầu tư xây dựng các trung tâm này.Tại những nước có quan hệ thương mại vơi ta lâu dài, thị trường ổn định kim ngạch lớn.
Chính phủ cần có các biện pháp nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam. Hàng hoá của Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu dưới dạng thô chưa qua chế bíên, hoặc chì là sơ chế, hàng gia công. Các loại mặt hàng có hàm lượng cao xuất khẩu chưa được nhiều. Cơ cấu hàng xuất khẩu của ta tương tự nhiều nước trong vùng. Do đó sức cạnh tranh của hàng Việt Nam rất kém. Điều đó làm cho hoạt động xúc tiến TM tìm kiếm thị trường và bạn hàng gặp nhiều khó khăn. vì thế nhà nước cần có các chính sách biện pháp để khắc phục tình trạng này như:
+ Khuyến khích xuất khẩu các hàng hoá có hàm lượng chất xám cao, hàng hoá có lợi thê so sánh ở Việt Nam bằng cách giảm hoặc không thu thuế xuất khẩu, hoàn thuế VAT...
+ Ban hành các văn bản về hàng hoá nhập khẩu Nhà nước cần phải nghiêm khắc xử lý các hàng hoá nhập lậu, hàng hoá kém chất lượng, hàng cấm nhập khẩu.
+ Có chính sách đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ. Trước mắt là thiết lập các viện nghiên cứu tập trung ứng dụng, tuy nhiên về lâu dài cần phải đầu tư nghiên cứu cơ bản. Ưu đãi để lôi kéo những người tài tham gia vào nghiên cứu. Có như vậy thì chúng ta mới có điểu kiện phát triển, tăng cường chất lượng hàng hoá, tăng sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó Chính phủ cũng cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp để đầu tư vào công nghệ mới, nhập nguyên vật liệu có chất lượng cao bằng các biện pháp như: Giảm Thuế, cho vay với lãi suất ưu đãi... Đối với dự án đầu tư nước ngoài phải khuyên khích những dự án tập trung vào ngành công nghiệp chế biến, những dự án có chuyên giao công nghệ tiên tiến nhất có tỉ lệ chất xám cao. Hạn chế những dự án đâù tư vào việc khai thác sản phẩm thô để xuất khẩu. Để có thể thu hút vốn đầu tư nước ngoài Nhà nước cần ban hành các chính sách pháp luật thuận lợi và thông thoang hơn cho các doanh nghiệp nươc ngoài đầu tư vào Việt Nam cũng như các doanh nghiệp trong nước đầu tư sản xuất kinh doanh .
Ngoài ra chính phủ cần chú trọng đến các cơ quan quản lý có liên quan như: Cơ quan hải quan, cơ quan quản lý thị trường... để đốc thúc, giám sát giúp họ làm tốt công việc của mình. Hạn chế sự tiêu cực, qua đó ngăn chặn các hành vi như: buôn lậu, làm hàng giả... Bởi đây là những hoạt động vô cùng nguy hiểm ảnh hưởng đến hoạt động của toàn nền kinh tế, của từng doanh nghiệp làm ăn chân chính, làm giảm uy tín của các doanh nghiệp và vì những điều kiện khách quan, gián tiếp này sẽ làm cho hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trở nên khó khăn trong quá trình giúp các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm và tìm kiếm thị trường của mình.
Trên đây là những biện pháp mang tính chất vĩ mô là Nhà nước cần quan tâm, giúp đỡ để Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam làm tốt chức năng là thúc đẩy và đại diện quyền lợi cho các doanh nghiệp, hỗ trợ xúc tiến thương mại, đầu tư cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.
3. Biện pháp đối với các doanh nghiệp.
Chức năng của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam bao gồm hai chức năng chính "đại diện để thúc đẩy và bảo vệ quyền lợi của cộng đồng doanh nghiệp trong các quan hệ trong nước và quốc tế" chức năng thứ hai là :" hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư, hợp tác hoá khoa học công nghệ và các hoạt động kinh doanh khác của doanh nghiệp ở Việt Nam và ở nước ngoài".ở đây ta chỉ nghiên cứu chức năng thứ hai của phòng. Để phòng Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thực hiện tốt và có hiệu quả chức năng hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp của mình thì bên canh sự lỗ lực cố gắng không ngừng của phòng, sự đóng góp và ủng hộ của nhà nước thì các cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội kinh tế cũng phải tích cực giúp đỡ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ và đẩy lùi những hạn chế khó khăn của phòng.
Để có thể giúp đỡ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trong quá trình hỗ trợ xúc tiến thương mại các doanh nghiệp , các hiệp hội kinh tế ... cần phải:
Tham gia đầy đủ các hoạt động của phòng, đóng hội phí đầy đủ. Quảng cáo, tuyên truyền những ảnh hưởng của phòng đến các doanh nghiệp chưa là hội viên, giúp họ nhìn nhận được những lợi ích mà họ sẽ đạt được khi tham gia vào Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Bởi không ai khác mà chính những hội viên là người quảng cáo hiệu quả nhất cho phòng. Qua đó phòng sẽ có nhiều hội viên tham gia, hiệu quả công việc sẽ cao hơn.
Các doanh nghiệp cần đầu tư cho những người phụ trách công tác xúc tiến thương mại gưỉ họ học ở những khoá đào tạo của phòng hoặc ở nước ngoài. Từ đó kiến thức của họ về xúc tiến thương mại sẽ được nâng cao, dễ dàng nắm bắt những thông tin mà Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cung cấp cho ra nhiều, bởi người làm xúc tiến thương mại là người hiểu rất rõ về khách hàng ( người tiều dùng). Do đó họ sẽ phải biết là mình cần phải tiếp nhận những thông tin cần thiết nào mà Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam thông báo và xử lý thông tin đó như thế nào để đem lại hiệu quả tốt nhất.
Các doanh nghiệp cũng cần phải tăng cường đầu tư tài chính cho các hoạt động xúc tiến thương mại. Lựa chọn công cụ xúc tiến phù hợp. Ngân sách xúc tiến quá hạn hẹp sẽ làm cho doanh nghiệp có thể khó đạt được mục tiêu của xúc tiến thương mại , ngược lại ngân sách xúc tiến quá lớn gây lảng phí. Ngân sách xúc tiến càng cao, khả năng lựa chọn kỹ thuật xúc tiến thương mại cũng quy mô xúc tiến thương mại càng lớn. Giúp cho Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam hoàn tốt hơn chức năng hỗ trợ xúc tiến thương mại của phòng.
Doanh nghiệp cần đầu tư vào đổi mới công nghệ, khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh thị trường quốc tế. Do mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam bấy lâu nay phần lớn là hàng sơ chế nên giá trị xuất khẩu chưa cao. Vì thế các doanh nghiệp phải hợp tác với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tập trung vào thu thập những thông tin về lĩnh vực chuyển giao công nghệ để có được công nghệ tiên tiến.
Kết luận
Qua quá trình học tập, nghiên cứu tại trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân và quá trình thực tập tại Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam em thấy tầm quan trọng của hoạt động xúc tiến thương mại đối với các doanh nghiệp là rất lớn.
Kinh tế thị trường là phải đối phó với cạnh tranh, đó là một thách thức đòi hỏi các doanh nghiệp phải vượt qua. Chính vì vậy, là một tổ chức phi chính phủ, có chức năng xúc tiến và hỗ trợ hoạt động thương mại, đầu tư, hợp tác khoa học công nghệ và các hoạt động khác của doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài hơn ai hết Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã không ngừng phấn đấu nỗ lực để hoàn thành nhiệm vụ của mình và đã đạt được những thành tựu quan trọng không thể phủ nhận được tạo sự ổn định và phát triển lâu dài của nền kinh tế
Tuy nhiên, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam vẫn còn một số mặt tồn tại về hoạt động xúc tiến thương mại cần khắc phục. Trong thời gian thực tập ở Phòng em đã tiến hành nghiên cứu một số biện pháp để nhằm hoàn thiện hơn hoạt động xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp Việt Nam. Do phạm vi nghiên cứu rộng, giới hạn về thời gian và trình độ bản thân còn nhiều hạn chế chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu sót, kính mong nhận được sự chỉ bảo và đánh giá của thầy giáo PGS. TS Nguyễn Duy Bột và cô giáo Th.s Nguyễn Thị Tuyết Mai.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội: 6 / 2002
tài liệu tham khảo.
Philip kotle – Marketing căn bản – NXB thống kế
PGS. TS Nguyễn Duy Bột – Marketing quốc tế – NXB giáo dục 2000.
PGS. TS Nguyễn Duy Bột – Marketing thương mại quốc tế – NXB giáo dục 1999
PGS. TS Nguyễn Duy Bột – Thương mại quốc tế – NXB giáo dục 1999
PGS. TS. Nguyễn Bách Khoa – Marketing Thương mại – NXB giáo dục 1999
Văn kiện đại hội đảng VIII, Nghị quyết 12 NQ / TW ngày 03/01/1996, Nghị định 32/CP ngày 05/05/1999
PGS. TS. Trần Minh Đạo – Marketing căn bản – NXB thống kê 1998
PGS. TS. Nguyễn Duy Bột – PGS. TS. Đặng Đình Đào – Kinh tế thương mại – NXB Giáo dục 1997
Bộ luật thương mại nước CHXHCNVN – Học viện chính trị quốc gia 1999
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - Đối thoại và Hợp tác
Tạp chí thương mại, Tạp chí Tiếp thị quảng cáo, Tạp chí Kinh tế và phát triển, Tạp chí phát triển kinh tế, Tạp chí doanh nghiệp thương mại.
Thời báo kinh tế Việt Nam các kỳ.
Báo Diễn đàn doanh nghiệp các kỳ.
Các báo cáo năm của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Một số Catalogue và ấn phẩm khác của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- F0087.doc