+ Quy định về tài trợ đối với NK (về thanh toán trước và sự tồn tại của quy định về đặt cọc). Đặc biệt quan trọng là các quy định về chứng từ để bán ngoại tệ cho các hoạt động NK hàng hoá, dịch vụ. Cụ thể như quy định về nghĩa vụ tiến hành GD với một định chế tài chính chỉ định, kiểm tra trước khi gửi hàng nhằm đảm bảo tính xác thực của GD NK về mặt số lượng, chất lượng và giá cả; nghĩa vụ thanh toán bằng phương thức thư tín dụng, yêu cầu xuất trình giấy phép NK để được mua ngoại tệ cho việc thanh toán hàng NK. Ngoài ra còn mô tả thêm về giấy phép NK và các biện pháp phi thuế quan khác. Ví dụ như danh mục hàng hoá được NK, hàng hoá hạn chế NK và các hàng hoá cấm NK.
- Về các quy định liên quan đến hoạt động XK và tiền thu từ XK: Phần này chỉ ra các hạn chế đối với việc sử dụng tiền thu từ XK cũng như quy định đối với hoạt động XK. Đặc biệt có ý nghĩa về quy định chuyển tiền về nước, đề cập đến nghĩa vụ của người XK phải chuyển tiền thu được từ XK về nước hoặc bằng cách bán trên TT ngoại hối hoặc gửi vào TK. Quy định này thường được các nước áp dụng là kết hối, đề cập tới các quy định yêu cầu người nhận tiền thu từ XK phải bán mọi khoản thu ngoại tệ lấy nội tệ, đôi khi với tỷ giá quy định cho NHTW, NHTM hoặc người GD ngoại hối được uỷ quyền thực hiện việc này.
75 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1172 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện chính sách Quản lý Ngoại hối ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h hình cho vay bằng ngoại tệ ở trong nước khó khăn hơn. Suy luận này phù hợp với thực tế là cho vay ngoại tệ trong nước có xu hướng giảm đi (trong thời gian gần đây).
Có quan điểm cho rằng, một số NHTM Việt Nam gửi quá nhiều tiền ở nước ngoài. Tuy nhiên, nếu so sánh tỷ lệ gửi tiền ở nước ngoài giữa hai khối NHTM Nhà nước và khối NHNN ta thấy có một khoảng cách khá xa (10%). Sự khác biệt này có thể giải thích rằng các NHTM trong nước còn kém năng động hơn các NHNN trên phương diện quản lý danh mục đầu tư ở phạm vi toàn cầu; và cũng kém ngân hàng nước ngoài về khả năng, mức độ tiếp cận và hội nhập với hệ thống tài chính quốc tế.
* Chính sách đầu tư gián tiếp của nhà đầu tư nước ngoài
Hiện nay, Việt Nam đã cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các trái phiếu, cổ phiếu của các DN Việt Nam với một tỷ lệ tối đa nhất định. NHNN đã ban hành văn bản hướng dẫn về QLNH trong lĩnh vực đầu tư CK của các nhà đầu tư nước ngoài.
* Chính sách đầu tư ra nước ngoài
Cho đến nay, do Việt Nam vẫn còn thiếu vốn để đầu tư phát triển nên hoạt động đầu tư ra nước ngoài còn hạn chế và với quy mô nhỏ. Các DN có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài phải được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép trên cơ sở được Chính phủ chấp thuận. Trên cơ sở từng trường hợp và chưa có văn bản pháp quy quy định rõ điều kiện được đầu tư ra nước ngoài. Tuy nhiên, khi các DN này được phép đầu tư ra nước ngoài thì được phép mua ngoại tệ tại hệ thống NHTM và chuyển vốn ra để đầu tư ở nước ngoài.
c/ Kiểm soát việc sử dụng ngoại tệ trong nước
Để tiến tới biến dồng Việt Nam thành đồng tiền tự do chuyển đổi, hạn chế tối đa các GD trong nước sử dụng bằng ngoại tệ, NĐ63 quy định trên lãnh thổ Việt Nam nghiêm cấm người cư trú, người không cư trú thanh toán, mua bán, chuyển nhượng với nhau bằng ngoại tệ và niêm yết giá hàng hoá dịch vụ bằng ngoại tệ, trừ một số trường hợp đặc biệt như các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực hàng không, bưu điện, bảo hiểm, du lịch... được phép thu ngoại tệ từ một số nghiệp vụ.
Tuy nhiên trong thực tế, việc mua bán, thanh toán, chuyển nhượng giữa người cư trú với nhau một cách bất hợp pháp còn xảy ra, đặc biệt là với các GD có giá trị lớn như mua bán bất động sản, xe máy, ô tô.
Gần đây, tiền gửi ngoại tệ của người cư trú tại hệ thống ngân hàng giảm đáng kể do việc điều hành nhịp nhàng hơn giữa chính sách lãi suất và tỷ giá tạo điều kiện thực hiện nguyên tắc cân bằng lợi tức tiền gửi VND và ngoại tệ, hạn chế nguồn vốn chuyển từ VND sang ngoại tệ, như giai đoạn cuối những năm 90. Cụ thể, do lãi suất VND luôn cao hơn lãi suất ngoại tệ và tỷ giá giữa VND và ngoại tệ được duy trì khá ổn định nên các DN có xu hướng chuyển đổi từ ngoại tệ sang VND, góp phần giảm tình trạng đôla hoá.
Về thanh toán bằng ngoại tệ ở các khu vực biên giới: Cùng với chính sách hội nhập nền kinh tế, xoá bỏ hàng rào thuế quan với các nước trong khu vực, thúc đẩy XK hàng hoá phát triển và nâng cao tính chuyển đổi đồng Việt Nam, VND đã được sử dụng làm đồng tiền thanh toán hàng hoá ở khu vực biên giới của Việt Nam với Lào, Campuchia và Trung Quốc. Song song với nó, đồng CNY của Trung Quốc, Kíp Lào, đồng Riel của Campuchia và cả USD cũng được sử dụng. Do quan hệ đại lý giữa các ngân hàng của các nước có cùng biên giới chưa được cải thiện nhiều, đồng thời với thói quen sử dụng tiền mặt của người dân nên tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt tại các khu vực biên giới chiếm tỷ trọng cao trong tổng lượng thanh toán biên mậu. Đây cũng là môi trường cho buôn lậu và phát triển TT ngoại hối phi chính thức, làm tăng thêm quy mô của tình trạng đôla hoá ở Việt Nam.
d/ Quản lý đối với hoạt động kinh doanh vàng và TT vàng
Quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo tinh thần NĐ36/CP được phân thành hai mảng. Vàng khối, vàng thỏi theo tiêu chuẩn quốc tế có tính chuyển đổi cao và dễ được sử dụng trong thanh toán, mua bán được quy định trong khái niệm ngoại hối. Việc quản lý loại vàng này rất chặt chẽ từ khâu XNK cho đến lưu thông trong nước. Còn lại, mảng vàng nguyên liệu, vàng trang sức mỹ nghệ được coi là hàng hoá và được tự do hơn trong XNK. Cụ thể, việc XNK vàng trang sức thực hiện tự do, không cần giấy phép của NHNN; chỉ có XNK vàng nguyên liệu mới cần sự cho phép của NHNN. Quy định này đã khuyến khích phát triển sản xuất vàng trang sức hướng tới XK.
Về TT vàng trong thời gian qua đã có những biến động không nhỏ, giá vàng trong nước tăng cao hơn tốc độ tăng của giá vàng quốc tế quy đổi khoảng 150.000 đồng/lượng vàng. Nguyên nhân chính của sự chênh lệch qúa cao giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới không phải do sức cầu về vàng trong nước quá lớn mà do tâm lý đầu cơ trên TT. Thời gian qua, lượng tiền Việt Nam gửi vào ngân hàng tăng rất mạnh do lãi suất cao, ổn định. Nhưng do giá vàng tăng cao và kéo dài đã dẫn đến tâm lý bắt đầu chuyển tiền đồng sang vàng. Bên cạnh đó, rất nhiều người tỏ ra lo lắng khi có những tin đồn thất thiệt như cơ cấu mệnh giá đồng tiền của Việt Nam lớn sẽ gây ra lạm phát, sẽ đổi tiền... Đó là những tin đồn hoàn toàn sai sự thật nhưng đã tác động không nhỏ vào tâm lý người dân. Vì thế, nhiều người dù không có nhu cầu thực song vẫn bỏ tiền ra mua vàng dự trữ dẫn đến sự khan hiếm vàng và làm giá vàng tăng lên. Lợi dụng cơ hội này, nhiều kẻ đầu cơ trục lợi NK vàng lậu qua biên giới, vơ vét ngoại tệ mạnh để thanh toán, đẩy giá USD trong nước tăng cao.
e/ Quản lý DTNH Nhà nước
Theo NĐ86/CP về quản lý DTNH Nhà nước được ban hành năm 1999, dự trữ không còn được sử dụng để cho vay ngân sách hay bán trực tiếp cho DN mà chủ yếu được đầu tư ở nước ngoài để sẵn sàng can thiệp TT ngoại hối trong nước và bù đắp thiếu hụt cán cân thanh toán khi cần thiết. Trong quan hệ với ngân sách, DTNH chỉ còn được tạm ứng trong năm ngân sách khi có quy định của Chính phủ và phải hoàn trả trong năm ngân sách đó. Về đầu tư DTNH ở nước ngoài, NHNN đã ưu tiên nguyên tắc an toàn, thanh khoản hơn nguyên tắc sinh lời. Dự trữ được gửi ở các NHTW, NHTM có hệ số tín nhiệm cao hoặc mua trái phiếu Chính phủ và một phần uỷ thác đầu tư để thu lợi nhuận.
Nhờ một loạt trong công tác đổi mới quản lý DTNH, DTNH Nhà nước đã liên tục tăng trong những năm qua, đạt khoảng 9 tuần NK vào cuối năm 2002 và đến nay đã đạt khoảng 4.5 tỷ USD tương đương gần 10 tuần NK.
2.3.2 Chính sách tỷ giá và hoạt động của TT ngoại hối
Ngày 26/2/1999, NHNN đã bãi bỏ việc công bố tỷ giá chính thức và công bố tỷ giá GD bình quân trên TTNTLNH. Các NHTM chủ động quy định tỷ giá theo biên độ quy định trên cơ sở tỷ giá do NHNN công bố và yêu cầu kinh doanh của mình. Biên độ quy định tỷ giá các NHTM được phép GD không ngừng được điều chỉnh. Trong giai đoạn đầu 1999-2000, khi mới thực hiện cơ chế này, NHNN còn quy định quá chi tiết các mức biên độ và biên độ quá hẹp, được coi là vẫn can thiệp quá sâu vào công việc kinh doanh của các NHTM, thì giai đoạn sau được dần dần chỉnh sửa theo hướng nới rộng hơn và ít kỳ hạn chi tiết hơn. Từ 1/7/2002 đến nay, NHNN quy định có 5 kỳ hạn, với các mức biên độ tiếp tục được nới rộng: tăng lên +/- 0.25% so với mức +/- 0.1% trước đó đối với nghiệp vụ giao ngay; lên +/- 0.5% so với mức +/- 0.4% của nghiệp vụ kỳ hạn 30 ngày, lên +/- 0.25% so với mức 2.35% của nghiệp vụ kỳ hạn trên 90 ngày... Việc điều chỉnh tăng này đáp ứng được yêu cầu của các TCTD cũng như các DN có nhu cầu mua bán ngoại tệ với các ngân hàng không bị gò bó trong khuôn khổ chật hẹp như trước đây.
Việc công bố tỷ giá bình quân trên TTNTLNH có ý nghĩa sâu sắc vì nó chuyển từ cơ chế tỷ giá xác định chủ quan sang cơ chế tỷ giá xác định trên cơ sở cung cầu TT. Tác dụng của cơ chế tỷ giá mới đã làm cho mức chênh lệch giữa tỷ giá TT chính thức và TT tự do được thu hẹp một cách rõ nét. Lượng ngoại tệ trên TT được tập trung vào ngân hàng ngày một tăng mặc dù cuối năm 1999 TT có một số biến động do sự cố máy tính Y2K và hiện tượng buôn lậu vẫn diễn ra sôi động. Thời kỳ 1999-2000, tỷ giá tương đối ổn định. Các NHTM luôn đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho các GD vãng lai và các GD được phép khác. Đã có lúc tỷ giá mua, bán chuyển khoản bằng nhau hoặc tỷ giá mua ngoại tệ tiền mặt của một vài ngân hàng còn thấp hơn tỷ giá NHNN công bố. Thời điểm cuối năm 2000, tỷ giá NHNN công bố vẫn tăng nhưng tỷ giá TT tự do vẫn trong xu thế giảm do lượng kiều hối được chuyển về nhiều, đưa mức chênh lệch tỷ giá giữa hai TT chỉ còn khoảng hơn 40 VND/USD.
Trong điều hành chính sách lãi suất, NHNN cũng có những thay đổi cơ bản theo hướng từng bước tự do hoá lãi suất trên cơ sở cung cầu vốn của TT. Năm 1999, do ảnh hưởng của TT Tài chính quốc tế, NHNN đã 5 lần giảm lãi suất trần cho vay đồng Việt Nam từ 1.25%/tháng (loại cho vay trung dài hạn) và 1.2%/tháng (loại cho vay ngắn hạn) xuống còn mức 0.85%/tháng ở khu vực thành phố và 1%/tháng đối với khu vực nông thôn. Đồng thời, giai đoạn từ tháng 4/2000 hầu hết các NHTM đều tăng lãi suất tiền gửi USD thời hạn 6 tháng còn cao hơn tiền gửi VND cùng thời hạn (NHNT). Từ tháng 12/2002, NHNN ra quyết định nâng mức lãi suất áp dụng đối với tiền gửi ngoại tệ của các TCTD và Kho bạc Nhà nước tại NHNN lên mức 1.35%/năm. Trong xu thế lãi suất trên TT quốc tế ở mức thấp, mức lãi suất này đã khuyến khích các NHTM rút vốn từ nước ngoài về gửi tại NHNN để hưởng lãi suất cao hơn. NHNN thì tiếp tục gửi số ngoại tệ này ra nước ngoài và hưởng lãi suất thấp hơn 0.35%/năm. Như vậy, NHNN sẽ phải gánh chịu một mức chi phí do chênh lệch lãi suất. Việc NHNN đưa ra giải pháp này hy vọng có thể làm cho lãi suất ngoại tệ trong nước tăng lên theo tín hiệu của NHNN mà không thấp xuống theo xu hướng lãi suất trên TT quốc tế, nhưng thực tế cho thấy lãi suất ngoại tệ trong nước không mấy tăng lên. Như vậy, xét về lợi ích tổng thể nền kinh tế chính sách này không mấy hiệu quả nhưng lại có tác dụng hỗ trợ cho các TCTD trong nước khỏi phải gánh chịu rủi ro giảm lãi suất trên TT tài chính quốc tế. Chính sách này chỉ là giải pháp tình thế và sớm được điều chỉnh: NHNN đã ra quyết định hạ lãi suất tiền gửi ngoại tệ của TCTD và Kho bạc Nhà nước tại NHNN xuống 1.25%/năm vào giữa tháng 6/2003.
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng việc điều chỉnh lãi suất trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của các NHTM trong giai đoạn này đã thể hiện sự nhạy bén đối với thay đổi của TT nhằm thu hút nguồn vốn ngoại tệ từ luồng ngoại tệ trôi nổi của dân cư trên TT, đáp ứng cho các nhu cầu cần thiết của nền kinh tế; nhưng lại làm gia tăng hiện tượng đôla hoá nền kinh tế.
Trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều biến động đặc biệt là ảnh hưởng của việc điều chỉnh liên tục hạ lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Hoa kỳ (FED) (năm 2001 hạ lãi suất 12 lần từ mức 6.5% vào tháng 10/2000 xuống 1.75% vào tháng 12/2001) đã tác động mạnh mẽ đến việc điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam.
Một điểm mới trong việc quản lý trạng thái ngoại tệ đối với các TCTD là Quyết định số 1081 ngày 7/10/2002 nâng giới hạn tổng trạng thái ngoại tệ lên gấp đôi từ 15% vốn tự có lên 30% vốn tự có, trong đó không biệt đồng USD. Quyết định này đã tạo điều kiện cho các NHTM được sử dụng nguồn ngoại tệ của mình nhiều hơn giải quyết được tình trạng căng thẳng trong những tháng cuối năm 2002.
* TT ngoại hối nước ta trong thời gian qua tương đối ổn định, tỷ giá có xu hướng giảm và ổn định. Nếu như trong năm 1997 tỷ giá tăng 14.2% thì năm 1998 mức tăng tỷ giá giảm xuống còn 9.6%, năm 1999 tăng 1.1%, năm 2000 tăng 3.4%, năm 2001 tăng 3.8%, năm 2002 chỉ tăng 2% và năm 2003 tăng 0.8%. Tình hình đó có tác động tích cực đến hoạt động XK, thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát.
2.3.3 Những kết quả đạt được của chính sách QLNH từ năm 1998 đến nay
* Hệ thống văn bản pháp quy về QLNH được hình thành và bước đầu phát huy tác dụng
Chính sách QLNH được đổi mới triệt để về tư duy lẫn điều hành. Mục tiêu, đối tượng, nôi dung, phạm vi kiểm soát ngoại hối được nới lỏng một cách thận trọng. Hoạt động ngoại hối ngày càng được chấn chỉnh và kiểm soát từ khâu hoạch định, tổ chức, thực hiện đến kiểm tra, giám sát. Đây là sự thay đổi lớn trong tư duy cũng như trong QLNH của Chính phủ.
Hoạt động QLNH đã dần dần được chuẩn hoá bằng hệ thống văn bản pháp quy tương đối phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Từ năm 1998 đến nay, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp quy quan trọng nhằm chấn chỉnh, quản lý và kiểm soát nguồn ngoại hối quốc gia để ổn định tỷ giá, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng và hội nhập KTQT.
Các biện pháp QLNH được sử dụng tương đối hiệu quả: Bên cạnh thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá, NHNN đã có nhiều nỗ lực trong việc sử dụng các biện pháp QLNH như thay đổi tỷ lệ kết hối của các DN có nguồn thu ngoại tệ, điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc, thay đổi mức ngoại tệ được phép chuyển ra nước ngoài, sửa đổi quy chế mở L/C trả chậm, quy định về việc vay trả nợ nước ngoài, quản lý trạng thái ngoại hối của các NHTM...
* Củng cố DTNH và huy động tiềm lực ngoại tệ phục vụ phát triển kinh tế đất nước
Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế và do những ảnh hưởng tích cực của cơ chế QLNH trong thời gian qua, DTNH quốc gia đã có những tăng trưởng mạnh mẽ, đạt khoảng 10 tuần NK (khoảng 4.5 tỷ USD) so với vài chục triệu USD những năm 1985-1986.
Chính sách QLNH đã góp phần thu hút và tập hợp một lượng lớn ngoại tệ tích tụ trong nền kinh tế và phục vụ cho các nhu cầu xây dựng và phát triển kinh tế.
* Thực hiện quản lý tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn
Cơ chế điều hành tỷ giá được thay đổi căn bản: Cơ chế tỷ giá cố định, đa tỷ giá được thay thế bằng cơ chế tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước. Tỷ giá VND/USD đã được điều chỉnh một cách thận trọng phù hợp với diễn biến lạm phát trong nước và thay đổi tỷ giá giữa các đồng tiền mạnh, hạn chế được những ảnh hưởng bất lợi gây ra tâm lý công chúng khi giảm giá nội tệ.
* Đã có sự kết hợp giữa chính sách QLNH với các bộ phận khác của chính sách tiền tệ
Trong những năm qua, NHNN đã nhiều lần thay đổi tỷ giá kết hợp với điều chỉnh lãi suất VND và USD theo hướng vừa phù hợp với thay đổi của TT tiền tệ quốc tế, vừa hài hoà với mục tiêu cả chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ; đồng thời hạn chế hiện tượng “chảy máu” ngoại tệ ra nước ngoài.
Để hạn chế tốc độ đôla hoá nền kinh tế và ngăn ngừa rủi ro tỷ giá của các NHTM, NHNN đã điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo hướng nâng cao mức dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ và hạ mức dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi VND. Để mở rộng đối tượng sử dụng ngoại tệ, NHNN đã mở rộng đối tượng được cấp tín dụng ngoại tệ, tự do hoá lãi suất.
* Công tác thông tin, thống kê về QLNH được chú trọng
NHNN đã thực hiện chức năng đầu mối thống kê, nắm thông tin GD ngoại hối một cách có hệ thống phục vụ công tác quản lý, giám sát của Ngành cũng như phối hợp với các ngành hữu quan trong điều hành chính sách vĩ mô của nền kinh tế.
2.3.4 Những tồn tại trong chính sách QLNH từ năm 1998 đến nay
* Tỷ giá chưa thực sự phản ánh đúng tình hình cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế
Từ tháng 2/1999, tỷ giá đã được xác định trên cơ sở tỷ giá bình quân trên TTNTLNH, nhưng trong thực tế NHNN vẫn chưa thực hiện triệt để nguyên tắc này. Việc quy định biên độ trong cơ chế điều hành tỷ giá mua bán làm cho việc niêm yết giá của các NHTM bị cứng nhắc, chưa phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ trên TT. Việc tỷ giá VND được xác định trên cơ sở “rổ” tiền tệ với trọng số quá cao của USD (hơn 95%) trong một thời gian dài là không hợp lý (vì hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam khá đa dạng với các đối tác khác như EU và Nhật Bản) khiến tỷ giá thực của VND không chính xác, VND bị đánh giá cao.
* Sự kết hợp giữa chính sách QLNH với các chính sách quản lý vĩ mô khác chưa hài hoà
Tỷ giá VND/USD luôn có xu hướng tăng đều nhưng các NHTM lại duy trì mức chênh lệch giữa USD và VND nhỏ. Điều này làm gia tăng hiện tượng đôla hoá nền kinh tế và lãng phí nguồn ngoại tệ, gây ra hiện tượng đầu cơ lớn bằng đồng USD.
Trong khi hệ thống ngân hàng Việt Nam nắm giữ một lượng lớn ngoại tệ (khoảng 9 tỷ USD) ở nước ngoài thì nền kinh tế Việt Nam lại thu hút một lượng lớn vốn nước ngoài khiến gánh nợ nước ngoài của Việt Nam ngày càng tăng lên.
Việc phối hợp quản lý dự trữ ngoại tệ quốc gia giữa NHNN và Bộ Tài chính đôi khi còn bộc lộ những bất cập đặc biệt trong những tình huống có sức ép tăng tỷ giá trong khi Nhà nước vẫn có thể điều tiết cung cầu ngoại tệ.
* TTNTLNH hoạt động kém hiệu quả
NHNN chưa thực hiện tốt chức năng là người đặt lệnh mua, lệnh bán cuối cùng để điều chỉnh TT. NHNN chưa tập trung được các nguồn ngoại tệ trong nền kinh tế.
Mặc dù kim ngạch XK luôn tăng, nguồn vốn nước ngoài, kiều hối chuyển về nước khá phong phú nhưng một lượng lớn ngoại tệ được lưu giữ trong dân cư, trên TK của DN XNK, hoặc tại kho quỹ của các NHTM nên tại nhiều thời điểm, nhiều nơi, Nhà nước không có nguồn để thoả mãn nhu cầu hợp lý của nền kinh tế. Cung cầu ngoại tệ thực tế thường xuyên mất cân đối, tạo áp lực xấu lên cán cân thanh toán và làm cho tỷ giá luôn có xu hướng tăng.
Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ trên TT như kỳ hạn, hoán đổi tiền tệ chưa linh hoạt. Nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ đang trong giai đoạn thí điểm, nghiệp vụ tương lai chưa được phép thực hiện đã làm hạn chế tính linh hoạt của TT ngoại hối.
* TT ngoại tệ “chợ đen” vẫn tồn tại ngoài tầm kiểm soát của Chính phủ
Ngoại tệ mạnh, cụ thể là USD, còn chiếm vị trí quan trọng trong tính toán, dự trữ, chi trả các hàng hoá có giá trị lớn, các GD bất động sản, buôn lậu... Điều này không chỉ làm ảnh hưởng đến việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN mà còn làm phương hại đến chủ quyền quốc gia về tiền tệ, không phù hợp với tập quán quốc tế.
* Bất cập trong việc phân bổ ngoại tệ
- Tình trạng một khối lượng ngoại tệ không nhỏ bị găm giữ trên TK của Bộ Tài chính thay vì được bán cho NHNN để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của các khu vực khác trong nền kinh tế. Điều này khiến cung cầu ngoại tệ bị bóp méo, làm tăng áp lực giảm giá VND và tăng tâm lý tích trữ ngoại tệ ở tất cả các khu vực trong nền kinh tế.
- Lượng ngoại tệ thặng dư chỉ tập trung khoảng trên 60% vào NHNN trong những năm 1997-1999 và giảm xuống dưới 50% trong 3 năm gần đây, trong khi đó hệ thống NHTM vẫn nắm giữ một lượng lớn ngoại tệ thặng dư của nền kinh tế.
- Lượng ngoại tệ thặng dư của các cá nhân hàng năm còn lớn hơn lượng vốn ròng vào Việt Nam. Số ngoại tệ thặng dư này được người dân giữ dưới hai hai hình thức: gửi tại hệ thống NHTM và nắm giữ bằng tiền mặt. Người dân gửi tiền vào ngân hàng chủ yếu dưới dạng tiết kiệm ngoại tệ nên đã hạn chế các NHTM bán ngoại tệ trên TT ngoại hối hoặc bán cho NHNN.
* Một số phạm vi, đối tượng QLNH chưa được quan tâm đúng mức
Hoạt động thanh toán biên mậu vốn có vai trò quan trọng trong phát triển XNK với các nước láng giềng (Trung Quốc, Lào, Campuchia) và cũng là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam, còn rất nhiều ách tắc trong thời gian kéo dài mặc dù từ giữa năm 1990 NHNN đã có chủ trương phát triển thanh toán biên mậu qua hệ thống ngân hàng. Các NHTM không làm chủ được TT tiền tệ, thanh toán tại khu vực này, ảnh hưởng bất lợi đến việc hỗ trợ phát triển mảng hoạt động XNK quan trọng của đất nước, gây thất thu ngân sách, giảm hiệu lực QLNH...
Vàng miếng, ngoại tệ được dùng khá phổ biến trong thanh toán hàng hoá có giá trị cao làm ảnh hưởng đến hoạt động kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông của NHNN.
Việc kiểm soát ngoại hối đối với thẻ thanh toán quốc tế chưa chặt chẽ, QLNH trong các DN có VĐT nước ngoài còn nhiều sơ hở, tiềm tàng nguy cơ gây thất thoát tài sản quốc gia.
2.4 Nguyên nhân của những tồn tại trong chính sách QLNH
- Chính sách QLNH chưa hoàn chỉnh, việc hoạch định chính sách còn mang tính ngắn hạn và thiếu tính đồng bộ. Các cơ chế điều hành nguồn ngoại tệ của NHNN chưa được tập trung thống nhất.
- Các công cụ phục vụ cho điều hành chưa được phối hợp hài hoà, các quy định kiểm soát ngoại hối còn bất cập, một số yếu tố pháp lý chưa được cụ thể hoá, chưa theo kịp sự phát triển của các nghiệp vụ liên quan đến ngoại hối ngày càng đa dạng và phức tạp trong bối cảnh KTQT.
- Cán cân vãng lai thường xuyên thâm hụt kéo dài khiến việc luân chuyển các luồng ngoại tệ căng thẳng và diễn biến phức tạp. Các biện pháp quản lý kinh tế vĩ mô chưa được phát triển hài hoà và đúng mức, hạn chế trong quản lý và kinh doanh tiền tệ cũng làm giảm đáng kể hiệu lực QLNH theo các mục tiêu dự kiến.
- Các biện pháp phối kết hợp giữa các Bộ, ngành liên quan (Thanh tra NHNN, Tổng cục Hải quan, Tổng cục Thuế, Công an...) trong thực thi pháp luật về QLNH còn kém hiệu quả.
- Ngoài ra, một số hạn chế trong hoạt động QLNH còn phát sinh từ bản thân nền kinh tế như: ngân hàng chưa có biện pháp giải quyết dứt điểm và triệt để nạn buôn lậu, gian lận thương mại, hoạt động “ngầm” của nền kinh tế vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể trong xã hội.
Chương 3: Hướng hoàn thiện chính sách Quản Lý
Ngoại Hối của Việt Nam trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế
3.1 Định hướng chính sách QLNH trong xu thế hội nhập
3.1.1 Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập KTQT
* Toàn cầu hoá kinh tế: là đặc trưng cơ bản và xu thế chung trên thế giới chuyển các hoạt động kinh tế trong phạm vi một quốc gia hoặc khu vực sang phạm vi hoạt động trên toàn thế giới mà không có giới hạn về biên giới quốc gia.
Toàn cầu hoá, về góc độ kinh tế làm cho biên giới quốc gia các nước không còn ý nghĩa, biến động kinh tế ở một nước này có thể tác động lan truyền đến tình hình kinh tế các nước khác, lan truyền ra phạm vi toàn thế giới. Ví dụ mới nhất là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 lúc đầu xuất phát từ Thái Lan, sau đó lan truyền sang các nước Đông Nam á, tiếp đó lan truyền sang các nước Đông á, tác động lên TTCK Hoa Kỳ, Châu Âu... Hay việc cắt giảm lãi suất của Mĩ bắt đầu từ tháng 9/1998 đã kéo theo việc cắt giảm lãi suất của các nước công nghiệp Châu Âu, Trung Quốc và ngay cả ở Việt Nam thì lãi suất tiền gửi USD cũng giảm mạnh. Điều đó cho thấy trong xu hướng toàn cầu hoá, nền kinh tế các nước trên thế giới phụ thuộc lẫn nhau.
Trong xu thế toàn cầu hoá, các vấn đề suy thoái kinh tế, khủng hoảng TT tác động lên nền kinh tế thế giới làm phát sinh yêu cầu phối hợp hành động trên phạm vi toàn cầu. Cuộc khủng hoảng ở Thái Lan cho thấy một mình IMF không đủ khả năng đứng riêng giải quyết quy mô cuộc khủng hoảng mà cần có sự tham gia của các nước công nghiệp, đặc biệt là Mĩ, Nhật Bản và các nước Châu Âu. Tuy vậy, sự phối hợp của các nước này và các tổ chức quốc tế như IMF, WB, ADB chưa thể hiện tính thống nhất tập thể trong hành động nên hiệu quả chưa cao. Điều này cho thấy các nước kém phát triển trong quá trình toàn cầu hoá phải tự mình đúc kết các kinh nghiệm và có biện pháp chủ động giải quyết các vấn đề khủng hoảng, không nên quá trông chờ vào sự trợ giúp bên ngoài.
Việt Nam không thể nằm ngoài xu thế hội nhập khu vực và toàn cầu hoá kinh tế, đã tham gia các thoả thuận song phương và đa phương như khu vực mậu dịch tự do (AFTA), WTO, Diễn đàn hợp tác Châu á Thái Bình Dương (APEC), Hiệp định Thương mại Việt-Mĩ. Trong bối cảnh đó, những thách thức mà hệ thống ngân hàng Việt Nam phải đối mặt lại càng trở nên khốc liệt hơn, đòi hỏi phải thực hiện cải cách cùng với xây dựng một hệ thống quản lý tài chính và cơ chế phòng ngừa rủi ro tài chính quốc tế, công khai và minh bạch trong hoạt động ngân hàng, quy định chặt chẽ hơn về nguyên tắc an toàn vốn. Chính sách tỷ giá phải dần được thay đổi bằng chính sách tỷ giả thả nổi, trong đó tỷ giá GD bình quân trên TTTNTLNH sẽ được ấn định theo quy luật cung cầu, can thiệp của NHNN chỉ được phép thông qua các công cụ gián tiếp.
* Hội nhập KTQT: là việc các nước cùng cam kết hoạt động kinh doanh thương mại theo luật chơi chung, được gọi là thông lệ quốc tế, như tham gia vào Hiệp định Thương mại, Kinh tế, Văn hoá trong khu vực hoặc tổ chức quốc tế. Hội nhập giúp các nước thành viên tăng cường trao đổi thông tin, hưởng các đặc quyền của thành viên. Xu hướng hội nhập đi theo hai hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá.
Khu vực hoá được hình thành để tạo ra một khu vực có lợi ích riêng về thương mại, đầu tư. Như Liên minh Châu Âu (EU) thành lập nhằm nhất thể hoá Châu Âu; gồm tự do hoá thương mại giữa các nước trong vùng, bảo hộ thương mại trong quan hệ với các nước ngoài khu vực, thành lập NHTW Châu Âu với đồng tiền chung Châu Âu (đồng EURO). Hoặc Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) được thành lập nhằm thúc đẩy thương mại, đầu tư giữa các nước trong khu vực. Khu vực hoá được thể hiện vì lý do muốn vươn lên làm đối trọng kinh tế với các cường quốc kinh tế, thoát ra khỏi sự lệ thuộc vào họ.
Xu thế hội nhập là xu thế nằm trong khuôn khổ của xu thế toàn cầu hoá với hai đặc trưng cơ bản, đó là xu thế đơn cực và xu thế đa cực đối kháng nhau. Toàn cầu hoá, hội nhập KTQT luôn luôn tiềm ẩn hai mặt thời cơ và thách thức, hợp tác và đấu tranh, vươn lên hoặc tụt hậu... Các khả năng đó diễn ra như thế nào tuỳ thuộc vào môi trường kinh tế thế giới và sự nỗ lực của từng quốc gia.
Đối với Việt Nam, hội nhập KTQT được thực hiện theo hai phương thức song phương và đa phương, với nhiều đối tác theo chủ trương đa phương hoá trong lĩnh vực trao đổi hàng hoá, đầu tư mở rộng quan hệ tài chính tín dụng, hợp tác khoa học kỹ thuật. Cụ thể, năm 1995 Việt Nam kí Hiệp định kinh tế với EU, bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Mĩ, gia nhập ASEAN, AFTA & APEC, nộp đơn gia nhập WTO & kí Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ năm 2000. Trong khuôn khổ AFTA, Việt Nam đã vạch kế hoạch giảm thuế theo chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung, gọi tắt là CEPT-AFTA. Trong khuôn khổ APEC, chúng ta thực hiện chương trình hành động quốc gia và tham gia chương trình hành động tập thể, đặc biệt là chương trình hợp tác kinh tế kỹ thuật.
3.1.2 Chiến lược hội nhập KTQTtrong lĩnh vực ngân hàng
Để chủ động hội nhập, Đảng và NHNN ta đã xây dựng “Chương trình hành động của ngành ngân hàng thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng IX” và ngành Ngân hàng đã đề ra “Chiến lược hội nhập KTQT của ngành ngân hàng”.
Việc tự do hoá thương mại và mở cửa hơn nữa nền kinh tế Việt Nam, nhìn chung sẽ được thực hiện trên những lĩnh vực sau:
- Cải cách chế độ tỷ giá hối đoái phù hợp với quan hệ cung cầu ngoại tệ và tiến trình tự do hoá TK vãng lai và TK vốn, từng bước tiến tới áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi.
- Nới lỏng điều kiện tham gia các hoạt động thương mại
- Nới lỏng kiểm soát vốn đối với hoạt động XNK
- Xây dựng và hoàn thiện dần hệ thống XNK
- Thiết lập khuôn khổ pháp lý cho phép và khuyến khích đầu tư nước ngoài
- Tham gia các tổ chức thương mại quốc tế và khu vực, kí kết các Hiệp định song phương và đa phương
3.1.3 Định hướng chính sách QLNH trong tiến trình hội nhập KTQT
* Vạch ra lộ trình tự do hoá QLNH cùng với việc nâng cao năng lực quản lý thích hợp với lộ trình hội nhập kinh tế đã cam kết. Tự do hoá các GD vãng lai, đảm bảo đáp ứng đầy đủ các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp cho hoạt động của các chủ thể kinh tế. Từng bước tự do hoá có lựa chọn các GD vốn (đặc biệt là vay nợ nước ngoài của DN), xây dựng hệ thống các biện pháp kiểm soát luồng vốn quốc tế có hiệu quả, nhất là luồng vốn ngắn hạn.
* Xây dựng và điều hành tỷ giá linh hoạt phản ánh được mối quan hệ giữa cung cầu ngoại tệ trên TT, thúc đẩy XK, kiểm soát NK, tăng cường DTNH Nhà nước, đưa nền kinh tế đi đúng định hướng.
* Hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng đôla hoá, thực hiện tự do chuyển đổi VND một cách thận trọng, tiến tới trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng tiền Việt Nam.
* Thực hiện quản lý vĩ mô một cách linh hoạt và mềm dẻo, có tính đến quyền lợi chính đáng của các đối tượng quản lý, tránh tình trạng mệnh lệnh hành chính một chiều, kém hiệu quả thực tế.
* Không nên quá phụ thuộc ý kiến của IMF và WB khi hoạch định và thực thi chính sách QLNH mà nên căn cứ vào tình hình thực tế và đặc thù của kinh tế Việt Nam
3.2 Các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách QLNH
3.2.1 Tiếp tục hoàn thiện cơ chế nới lỏng QLNH
a/ QLNH đối với các GD vãng lai
Để đáp ứng yêu cầu hội nhập, cơ chế QLNH đối với các GD vãng lai cần tiếp tục các nguyên tắc quản lý chính đã được thể hiện trong NĐ63/CP và Thông tư 01/TT-NHNN, đồng thời tiếp tục hoàn thiện quy trình mua bán ngoại tệ phục vụ cho các GD vãng lai và dỡ bỏ các hạn chế ở mức có thể chấp nhận trong các cam kết với các tổ chức quốc tế.
* Đối với các GD thanh toán XNK
- GD thanh toán XK: Trong điều kiện của nền kinh tế các nước đang phát triển, nhu cầu ngoại tệ thường cao hơn nguồn cung, cán cân thanh toán quốc tế thường bội chi. Do đó, vấn đề tập trung nguồn thu ngoại tệ XK về nước và thực hiện biện pháp kết hối trong điều kiện mất cân đối nghiêm trọng cung cầu ngoại tệ trong nền kinh tế vẫn cần duy trì. Điều này liên quan đến việc tiếp tục hạn chế trong việc mở TK ngoại tệ ở nước ngoài của TCKT trong cơ chế QLNH thời gian tới.
- GD thanh toán NK: Các tổ chức, cá nhân được tiếp cận các NHTM để mua ngoại tệ để đáp ứng cho các GD thanh toán NK hàng hoá dịch vụ trên cơ sở xuất trình các chứng từ hợp lệ. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu hội nhập, tự do hoá thương mại thì các quy định về quyền mua ngoại tệ của tổ chức, cá nhân cần phải quy định một cách hết sức cụ thể, thông thoáng, đảm bảo không cản trở đối với việc thanh toán XNK hàng hoá giữa các nước.
Tự do hoá cán cân thương mại gắn liền với việc tự do thông thoáng trong mua bán, thanh toán XNK đặt ra yêu cầu đối với việc hoàn thiện cơ chế quản lý đối với luồng ngoại tệ vào và ra khỏi Việt Nam tương ứng với luồng hàng hoá dịch vụ XNK. Để giải quyết vấn đề này, cần đổi mới công nghệ thông tin báo cáo giữa NHTM với NHNN nối mạng với cơ quan Hải quan để kiểm tra kiểm soát có hiệu quả.
* Đối với chuyển tiền kiều hối
Hiện tại, cơ chế khuyến khích chuyển tiền kiều hối về nước hết sức thông thoáng, hầu như không có hạn chế. Tuy nhiên nên cân nhắc để giảm thiểu việc cấp phép cho các tổ chức làm đại lý chi trả kiều hối, bằng cách quy định phải đáp ứng các điều kiện cần thiết để làm dịch vụ này. Đồng thời nên xem xét hạn chế việc cho phép nhận tiền mặt ngoại tệ để giảm tình trạng đôla hoá nền kinh tế.
* Quản lý các luồng ngoại tệ mang chuyển vào của cá nhân
Cơ chế quản lý hiện hành đang cho phép mang chuyển ngoại tệ vào không hạn chế, chỉ cần khai báo hải quan khi nhập cảnh có mang ngoại tệ trên mức 3000 USD. Quy định này phù hợp trong bối cảnh Việt Nam cần thu hút nguồn ngoại tệ phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cần đòi hỏi các quy định phải phù hợp với các quan hệ quốc tế, trong đó có điều khoản “chống rửa tiền”. Trong thời gian tới Chính phủ sẽ xem xét ban hành Nghị định về chống rửa tiền, trong đó có các quy định chặt chẽ hơn kiểm tra nguồn gốc các luồng tiền mang vào và ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Ngoài ra, cần bổ sung quy định nộp tiền mặt ngoại tệ vào TK chỉ được phép sau một thời hạn nhất định kể từ ngày nhập cảnh vào Việt Nam, thể hiện trên tờ khai hải quan để thống nhất thực hiện trong hệ thống NHTM tránh hiện tượng chuyển ngoại tệ lậu.
* Đối với việc mang chuyển ngoại tệ ra nước ngoài của cá nhân
Trong bối cảnh hiện nay khi luồng ngoại tệ kiều hối hàng năm chuyển về lên tới mức hơn 2 tỷ USD/năm trong khi luồng ngoại tệ của cá nhân chuyển ra nước ngoài chỉ chiếm khoảng 100 triệu USD/năm; cần tiếp tục nới lỏng hơn dưới góc độ có thể nâng mức ngoại tệ chuyển ra nước ngoài cho mục đích du học không phải xin phép NHNN lên 10 000 USD/năm (hiện nay là 3000 USD) mà chỉ cần xuất trình chứng từ chứng minh chi phí học tập ở nước ngoài và NHTM trên cơ sở đó xem xét cho phép mua, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Mặt khác cần quy định đối tượng áp dụng quy chế chuyển tiền trên bao gồm cả người nước ngoài cư trú tại Việt Nam.
* QLNH khu vực biên giới
NHNN cần tiếp tục nghiên cứu ban hành các văn bản về thanh toán, chuyển tiền biên giới làm cơ sở pháp lý cho các đơn vị thuận tiện trong thanh toán, chuyển tiền. Sắp tới, NHNN nên hướng dẫn nguyên tắc chung trong thanh toán với Trung Quốc, Lào và với cả Campuchia và bổ sung một số quy định về quản lý tiền tệ của các nước có chung biên giới. Đặc biệt tăng cường quản lý các hộ tư nhân đổi tiền ở khu vực biên giới cửa khẩu nhằm giảm bớt tình trạng mua bán chuyển tiền lậu.
b/ QLNH trong các GD vốn
* Trong lĩnh vực vay trả nợ nước ngoài
Kinh nghiệm các nước, đặc biệt là các nước đang phiển cho thấy tự do hoá cán cân vốn quá sớm trong khi khả năng quản lý, kiểm soát việc sử dụng vốn còn hạn chế dễ dẫn đến khủng hoảng nợ nước ngoài. Mặt khác, khủng hoảng kinh tế vĩ mô ngắn hạn xảy ra thường do tăng quá nhanh luồng vốn nước ngoài ngắn hạn và sự đột ngột đổi chiều của nó làm mất khả năng thanh toán quốc tế của một quốc gia và gây sức ép lên tỷ giá. Do vậy cần kiểm soát luồng vốn nước ngoài ngắn hạn một cách thận trọng, xây dựng và củng cố năng lực phân tích, quản trị tài chính của DN cũng như xây dựng cơ sở pháp lý chặt chẽ trước khi tự do hoá cán cân vốn.
Để đảm bảo yêu cầu về nguồn vốn cho phát triển sản xuất và tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới, cơ chế quản lý nợ nước ngoài đối với DN cần thực hiện trên một số nguyên tắc sau:
- Duy trì hạn mức vay vốn nước ngoài là một công cụ quản lý nợ và phải tiếp tục nghiên cứu xây dựng hạn mức vay vốn nước ngoài phù hợp với các chỉ tiêu an toàn nợ. Quy mô vay vốn nước ngoài phải ở mức phù hợp với khả năng hấp thụ và khả năng trả nợ của quốc gia. Chỉ số nợ nước ngoài phải duy trì ở mức an toàn và không gây ảnh hưởng xấu tới các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và cán cân thanh toán quốc tế trong tương lai.
- Bên cạnh đó, tiếp tục sử dụng các điều kiện vay trả theo từng thời kỳ để điều chỉnh mức vay nợ nước ngoài ngắn hạn cũng như dài hạn của DN một cách hợp lý. Tiếp tục thu hút tối đa và hợp lý mọi nguồn vốn nước ngoài phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước nhưng phải đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn và hoàn trả. Tập trung vay vốn nước ngoài để đầu tư phát triển, đặc biệt các dự án có khả năng tái tạo ngoại tệ để đảm bảo khả năng trả nợ.
- Tăng cường kiểm soát các luồng vốn ngắn hạn thông qua yêu cầu báo cáo đầy đủ và kịp thời các GD vay vốn ngắn hạn đồng thời tăng cường chế tài xử phạt nghiêm để chấn chỉnh công tác báo cáo chậm và không đầy đủ như hiện nay. Tích cực triển khai dự án nối mạng với các NHTM Quốc doanh về kiểm soát luồng vốn ngắn hạn do Nhật Bản tài trợ để NHNN có thể nắm bắt ngay và đầy đủ số liệu vay nợ nước ngoài ngắn hạn của DN thông qua hệ thống NHTM khi không yêu cầu các DN đăng ký khoản vay nước ngoài ngắn hạn với NHNN.
- Để thu hút thêm nguồn vốn cho phát triển kinh tế cần đa dạng hoá các hình thức huy động mới như phát hành trái phiếu, bán cổ phần cho nước ngoài, chuyển đổi nợ thành đầu tư...
* Trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài
- Lĩnh vực đầu tư trực tiếp: Về góc độ QLNH trong thời gian tới cần hạn chế tối đa việc cân đối ngoại tệ của Chính phủ với các dự án đầu tư để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, đồng thời giảm gánh nặng cho DTNH Nhà nước.
- Lĩnh vực đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam: Đây là một lĩnh vực mới đối với Việt Nam, cần tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp lý cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào TTCK đi đôi với các công cụ kiểm soát hữu hiệu theo hướng đơn giản hoá thủ tục và thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời cho phép họ chuyển tiền về nước khi thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về thuế và thực hiện chế độ báo cáo đầy đủ về hoạt động kinh doanh CK ở Việt Nam. Tuy nhiên, CK là lĩnh vực mới mẻ, cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện hành lang pháp lý đối với việc chuyển ngoại tệ vào, ra khỏi Việt Nam trong lĩnh vực đầu tư CK, đảm bảo khả năng kiểm soát đối với luồng vốn gián tiếp này nhằm tránh sự bất ổn cho nền kinh tế. Cụ thể, NHNN cần phối hợp với các Bộ, ngành nghiên cứu việc đầu tư CK tại TT phi tập trung, cổ phần hoá DN có VĐT nước ngoài... để chuẩn bị xây dựng cơ chế QLNH khi Chính phủ ban hành các quy định về các vấn đề này.
- Quản lý đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam: Hiện nay, với nguồn cung ngoại tệ còn hạn hẹp, hiện nay chỉ cho phép các DN đầu tư ra nước ngoài bằng nguồn ngoại tệ của chính DN đó. Thời gian tới, để tăng cường năng lực tài chính và mở rộng lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài, nên xem xét cho phép các DN có khả năng tài chính và quản lý tốt được vay vốn ngân hàng với hạn mức nhất dịnh để mở rộng đầu tư ra nước ngoài. Đồng thời tiếp tục tăng cường quản lý luồng VĐT ra nước ngoài thông qua TK chuyên dùng để tránh thất thoát gây tổn hại đến nền kinh tế.
- Tập trung và phát triển DTNH Nhà nước: Mục tiêu là phát triển DTNH Nhà nước đủ mạnh, ít nhất tương đương với 12 tuần NK. Trước mắt phải có cơ chế nhằm tập trung DTNH về đầu mối quản lý là NHNN. Tránh tình trạng Bộ Tài chính vẫn quản lý nguồn ngoại tệ từ nguồn thu dầu thô và găm giữ trên TK một khối lượng đáng kể dẫn đến hiệu quả sử dụng nguồn dự trữ không cao, trong khi NHNN vẫn phải thường xuyên bán ngoại tệ cho các NHTM để đáp ứng nhu cầu NK xăng dầu cho nền kinh tế. Điều này gây khó khăn cho NHNN trong việc chủ động ngoại tệ để sẵn sàng can thiệp trên TT ngoại hối. Bên cạnh đó, cần thực hiện chính sách mọi nguồn thu của ngân sách thực hiện bằng nội tệ. Từ đó, các nguồn thu từ ODA, từ thuế và các nguồn khác của ngân sách cần bán cho NHNN để tăng dự trữ.
Để tăng cường nguồn DTNH Nhà nước, cần hạn chế tối đa hoạt động tạm ứng ngoại tệ ngân sách từ DTNH, thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc hoàn trả trong năm ngân sách. Ngoài ra, cần nghiên cứu và thử nghiệm các hoạt động đầu tư DTNH trên TT quốc tế để tăng tỷ lệ sinh lời cho dự trữ nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc an toàn và thanh khoản.
3.2.2 Xây dựng cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt, phản ánh được mối quan hệ cung cầu ngoại tệ trên TT.
Trong thời gian tới cần hướng đến một cơ chế điều hành tỷ giá ngày càng linh hoạt và phản ánh sát hơn với cung cầu TT, phù hợp với xu hướng tự do hoá thương mại và tài chính trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. Để có thể từng bước hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá cần có các giải pháp cụ thể sau:
* Nới rộng biên độ dao động tỷ giá: Để hạn chế sự biến động mạnh của giá tránh gây ra những “cú sốc” cho nền kinh tế, trong điều kiện cán cân thanh toán quốc tế thường xuyên bị thâm hụt lớn, DTNH còn mỏng, khả năng can thiệp của NHNN còn hạn chế thì việc duy trì biên độ dao động của tỷ giá trong thời gian trước mắt là cần thiết. Tuy nhiên để việc điều chỉnh tỷ giá được linh hoạt, cần nới rộng biên độ dao động tỷ giá hiện hành từ mức +/- 0.25% lên mức +/- 0.5%, đây là biện pháp phù hợp với những điều kiện cho phép hiện nay như: mức lạm phát thấp, tỷ giá TT chính thức và TT tự do không quá chênh lệch nhau. Điều này sẽ có tác dụng thúc đẩy chu chuyển nguồn ngoại tệ tránh việc hiện tượng găm giữ và tăng sức cạnh tranh của NHTM trong hoạt động kinh doanh ngoại hối
* Hoàn thiện phương pháp công bố tỷ giá: Hiện nay tỷ giá VND/USD được xác định và công bố dường như độc lập với quan hệ tỷ giá của USD với các ngoại tệ khác. Để hạn chế sự gắn định VND vào đồng USD, trong phương pháp xác định và công bố tỷ giá, NHNN nên xác định cơ cấu “rổ” ngoại tệ nhằm giảm bớt sự lệ thuộc vào đồng USD, đồng thời tỷ giá giữa VND và các ngoại tệ khác sẽ được khách quan hơn. Để xác định tỷ giá theo rổ tiền tệ, cần áp dụng phương pháp xác định tỷ giá căn cứ vào tỷ trọng thương mại và đầu tư quốc tế của Việt Nam với các nước khác trên thế giới.
* Phát triển TTNTLNH
Để tỷ giá phản ánh sát quan hệ cung cầu ngoại tệ trên TT, tỷ giá liên ngân hàng phải là tỷ giá cơ bản, thể hiện đặc trưng cho quan hệ cung cầu của nền kinh tế. Do đó cần có biện pháp nâng cao doanh số GD trên TTNTLNH (hiện nay ở Việt Nam doanh số GD chỉ đạt khoảng 20% trong khi doanh số GD trên TTNTLNH có hiệu quả thường đạt mức trên 80%). Để nâng cao hiệu quả hoạt động của TTNTLNH cần quan tâm một số vấn đề sau:
- Mở rộng số thành viên tham gia TTNTLNH (hiện nay có 60 thành viên nhưng số thanh viên tham gia tích cực thì rất hạn chế) đồng thời hoàn thiện quy chế GD tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các thành viên tham gia TT tích cực hơn, thực hiện cả hoạt động mua và bán với đầy đủ các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. Khuyến khích các ngân hàng có kinh doanh ngoại tệ tham gia vào TTNTLNH, đặc biệt là các NHTM Cổ phần lớn có GD ngoại tệ với khối lượng lớn.
- NHNN cần thực hiện đúng vai trò là người mua bán cuối cùng trên TTNTLNH dưới các hình thức mua bán trao ngay, mua bán có kỳ hạn, hoán đổi ngoại tệ nhằm thể hiện tốt hơn nữa chức năng hướng dẫn, điều tiết TT và tạo điều kiện cho các NHTM tham gia tích cực hơn vào TT ngoại hối. Tăng cường dự trữ ngoại tệ và xây dựng cơ chế can thiệp có hiệu quả của NHNN trên TTNTLNH.
* Hoàn thiện quy chế quản lý trạng thái ngoại tệ của các TCTD nhằm giúp NHNN dự đoán được tính thanh khoản trên TT, tín hiệu TT, qua đó có những can thiệp kịp thời trên TT ngoại hối cũng như có thể điều chỉnh tỷ giá trên TT cho thích hợp. Đồng thời, quy chế này giúp NHTM QLRR trong hoạt động kinh doanh ngoại hối, dự đoán tín hiệu TT và quản lý tốt tính thanh khoản của mình. Trong thời gian, NHNN nên xem xét nâng tỷ lệ này lên mức 40% để tạo sự linh hoạt và chủ động hơn nữa cho các NHTM trong kinh doanh.
* Cần có sự phối hợp hài hoà giữa chính sách tỷ giá với chính sách lãi suất
Tỷ giá và lãi suất là hai yếu tố nhạy cảm trong nền kinh tế và là các công cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ. Việc tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ đã được thực hiện từ tháng 6/2001 và việc cho phép các TCTD cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với đồng Việt Nam từ ngày 1/6/2002 đã chấm dứt cơ chế điều hành trực tiếp lãi suất TT của NHNN. Trong điều kiện lãi suất được tự do hoá, cần sử dụng các công cụ lãi suất tái chiết khấu, hoạt động TT mở kết hợp với công cụ dự trữ bắt buộc để điều chỉnh lãi suất trên TT, tạo sự hấp dẫn của đồng Việt Nam nhằm đạt được điều kiện cân bằng lãi suất, góp phần hạn chế nhu cầu ngoại tệ cho mục đích cất trữ tài sản, giảm sức ép lên tỷ giá.
* Phát triển TT quyền lựa chọn về mua bán ngoại tệ
Nghiệp vụ Option (quyền lựa chọn) về ngoại tệ là một nghiệp vụ đã xuất hiện từ lâu và rất phổ biến với các ngân hàng quốc tế. Tuy vậy, hiện nay mới chỉ có NHTM Cổ phần XNK (EximBank), Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Chi nhánh ngân hàng CitiBank, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (NHNNo&PTNT), NHNT (VietcomBank) được phép thực hiện nghiệp vụ Option về ngoại tệ. Song vấn đề đặt ra là thời hạn thực hiện các hợp đồng Option của các NHTM trong nước đối với DN quá ngắn. Thời hạn của các hợp đồng Option của các NHTM nói trên tối đa chỉ có 3 tháng, trong khi đó các khoản vay ngoại tệ từ 1 năm đến 5 năm, thậm chí đến 10 năm. Trong khoảng thời gian dài đó, những biến động về tỷ giá và lãi suất là rất lớn và diễn bến phức tạp nên DN vẫn phải tự mình hứng chịu rủi ro. Các NHTM cần khẩn trương trong GD hối đoái theo thông lệ quốc tế, tăng thời hạn thực hiện nghiệp vụ Option.
Trong thời gian tới, cần phát triển hơn nữa TT GD quyền lựa chọn về mua bán ngoại tệ, cho phép nhiều NHTM và NHNN tham gia nghiệp vụ Option, qua đó giúp cho DN có điều kiện tăng doanh số XNK ổn định, giảm thiểu rủi ro về tỷ giá trong quá trình hội nhập quốc tế về hoạt động thương mại của mình.
3.2.3 Xây dựng cơ chế QLNH góp phần hạn chế tình trạng đôla hoá và từng bước thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng tiền Việt Nam
Cơ chế QLNH cần thể hiện nhất quán mục tiêu từng bước hạn chế việc sử dụng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam, thể hiện ở những nội dung sau:
- Nghiêm cấm mua bán, thanh toán, cho vay với nhau bằng ngoại tệ và niêm yết giá hàng hoá, dịch vụ bằng ngoại tệ trừ các trường hợp đặc thù quy định trong văn bản QLNH; đưa ra chế tài xử phạt nghiêm minh đối với trường hợp vi phạm.
- Hạn chế đối tượng được phép thu ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam.
- Khuyến khích việc nhận kiều hối bằng nội tệ, nghiên cứu đề ra các giải pháp để hạn chế huy động tiết kiệm ngoại tệ và cho vay ngoại tệ trong nước.
Để hạn chế tình trạng đôla hoá thì các chính sách về nhận ngoại tệ kiều hối, gửi tiết kiệm ngoại tệ và cho vay ngoại tệ trong nước, về nguyên tắc, cần hạn chế; tuy nhiên cần có bước đi phù hợp với điều kiện cụ thể của nền kinh tế và phải kết hợp với các giải pháp kinh tế khuyến khích nhận và thanh toán bằng VND trên cơ sở làm tăng sự hấp dẫn của đồng Việt Nam so với ngoại tệ.
- Nâng cao khả năng chuyển đổi của đồng Việt Nam.
3.2.4 Hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh vàng
Để cơ chế quản lý vàng vừa phù hợp với tình hình thực tế Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế, trong cơ chế QLNH mới, khái niệm về ngoại hối nên loại bỏ vàng. Tuy nhiên, NHNN vẫn nên duy trì việc quản lý hoạt động XNK vàng theo tinh thần NĐ52/CP của Chính phủ về chức năng nhiệm vụ của NHNN nhằm kịp thời điều chỉnh cung cầu vàng trên TT, ổn định giá cả và hỗ trợ cho việc điều hành tỷ giá. Riêng mảng quản lý lĩnh vực hoạt động kinh doanh mua bán gia công, chế tác vàng trong nước nên chuyển giao chức năng này cho Bộ Thương mại và hoạt động này bị điều chỉnh chung theo Luật Thương mại.
3.2.5 Tăng cường khả năng thực thi của chính sách QLNH
Để cơ chế QLNH mới vận hành có hiệu quả và đưa chính sách QLNH vào cuộc sống, cần nghiên cứu đề ra mô hình QLNH phù hợp. Nhiệm vụ nghiên cứu, hoạch định và triển khai thực hiện chính sách QLNH chủ yếu tập trung ở Vụ QLNH. Tuy nhiên, công tác triển khai thực hiện và kiểm tra, xử lý vi phạm nên mạnh dạn uỷ quyền hơn nữa cho NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố. Bên cạnh đó, việc quy định rõ trách nhiệm của các NHTM trong việc kiểm tra chứng từ, thực hiện đúng các quy định về QLNH khi tiến hành các GD liên quan đến ngoại hối là hết sức cần thiết. Để kiểm tra giám sát hoạt động ngoại hối của NHTM, thanh tra ngân hàng cần có chương trình, kế hoạch kiểm tra và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
Hoạt động ngoại hối bao gồm nhiều lĩnh vực và đối tượng tham gia thì rất rộng, từ các ngân hàng đến các TCKT, cá nhân... Do vậy, cần có sự phân công phối hợp cụ thể giữa các Bộ, ngành chức năng trong việc thực hiện công tác QLNH. Hiện nay, việc kiểm tra giám sát các hoạt động ngoại hối chủ yếu do thanh tra ngân hàng đảm nhận. Tuy nhiên, thanh tra ngân hàng không thể thường xuyên kiểm tra kiểm soát hoạt động của hàng nghìn các bàn đại lý chi trả ngoại tệ của các TCKT. Do đó nên quy định rõ chức năng kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm của các bàn đại lý thu đổi ngoại tệ do Quản lý TT chịu trách nhiệm.
3.3 Kiến nghị
* Đối với Chính phủ
Công tác dự báo tiền tệ cần phải được đặc biệt quan tâm và đảm bảo số lượng chặt chẽ với Bộ Tài chính để nắm bắt kịp thời và chính xác dự toán ngân sách hàng năm, đảm bảo việc mua bán ngoại tệ giữa NHNN và Bộ Tài chính được thông suốt.
* Đối với NHNN
- NHNN cần nghiên cứu thực hiện phương thức xử lý mua ngoại tệ dư thừa của các NHTM kèm theo cam kết bán lại một phần hoặc toàn bộ khi các NHTM có nhu cầu về ngoại tệ. Cùng với biện pháp xiết chặt kỷ luật thanh toán, sự căng thẳng về cung cầu ngoại tệ cũng sẽ được hạn chế do tập trung được các luồng ngoại tệ qua ngân hàng.
- Có sự kết hợp tham vấn một cách đúng mức nhưng không quá phụ thuộc một cách máy móc vào các TCTC quốc tế trong điều hành chính sách QLNH phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Tăng cường vai trò trung gian của hệ thống ngân hàng trong việc huy động ngoại tệ dư thừa từ các khu vực (khu vực dân cư và Chính phủ) đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của các khu vực có thiếu hụt (khu vực DN).
- Cho phép một số NHTM tiếp tục thực hiện thí điểm một số nghiệp vụ GD hối đoái theo thông lệ quốc tế, nâng cao tính linh hoạt của TT ngoại hối và tạo thêm công cụ bảo hiểm rủi ro tỷ giá cho DN.
- Hoàn thiện công tác thống kê GD ngoại hối về cả mặt phương pháp luận và kiểm tra thông qua hoàn chỉnh các hệ thống biểu mẫu báo cáo tại cả NHNN và các NHTM.
* Đối với các TCTD
- Chuẩn hoá tổ chức hoạt động kinh doanh ngoại tệ ở các NHTM theo hướng mỗi NHTM có một phòng kinh doanh ngoại tệ với quy mô thích hợp và có đủ thẩm quyền thực hiện GD tức thời.
- Đào tạo cán bộ và trang bị kỹ thuật hiện đại, triển khai khẩn trương các cấu phần QLRR hối đoái trong quá trình cơ cấu lại bộ máy hoạt động của NHTM.
- Cần tuyên truyền, hướng dẫn và tư vấn cho các DN kiến thức và kinh nghiệm về các hoạt động ngoại hối và cách thức QLRR trong các GD ngoại hối.
* Kiến nghị chung
Mới đây, IMF khuyến nghị Việt Nam nên bãi bỏ thêm một số hạn chế về ngoại hối như: áp dụng thuế đánh vào lợi nhuận chuyển về nước của các nhà đầu tư nước ngoài và áp dụng các hạn chế ngoại hối trong thanh toán XNK một số mặt hàng. Việt Nam cần tự do hoá hơn nữa TT ngoại hối và GD ngoại hối nhưng cần phải có các lộ trình phù hợp với sự hội nhập của nền kinh tế, của hệ thống ngân hàng, của các DN để thực hiện khuyến nghị của IMF. Có thể bỏ quy định đánh thuế vào lợi nhuận chuyển về nước, thay vào đó là thuế thu nhập DN bình đẳng giữa DN trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Kết luận
Khoá luận "Hoàn thiện chính sách Quản lý Ngoại hối ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế" đã đi sâu vào nghiên cứu chính sách QLNH ở Việt Nam và kinh nghiệm các nước về QLNH, qua đó tìm ra các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế và đi đến hoàn thiện chính sách QLNH của Việt Nam trong tiến trình hội nhập KTQT.
Chương 1 thể hiện những nét khái quát về ngoại hối và các hạn chế đối với các GD vốn theo tiêu chí chung của IMF cũng như cụ thể đối với các nước đang phát triển để rút ra kinh nghiệm trong lĩnh vực QLNH và phải có chính sách phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh tế trong từng giai đoạn nhất định.
Chương 2 thể hiện một cách tổng thể những nét chính trong việc xây dựng và từng bước hoàn thiện cơ chế QLNH của Việt Nam. Từ chỗ độc quyền trong quản lý và kinh doanh ngoại hối với những quy định hành chính đơn giản, nghiêm cấm các hành vi mua bán, lưu thông ngoại hối, cho đến thời kỳ đầu đổi mới với những quy định cụ thể hơn trong quản lý các nguồn thu XK, mua bán ngoại tệ trong nước và cuối cùng là sự kế thừa và phát huy chỉnh sửa cơ chế QLNH cho phù hợp với thực tế và thông lệ quốc tế.
Chương 3 đề cập đến các nội dung chủ yếu cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện trong chính sách QLNH để phù hợp với xu thế hội nhập KTQT.
Từ những phân tích, lý giải trong chương 2 đồng thời dựa trên những mục tiêu, định hướng chính sách QLNH trong thời gian tới của Nhà nước ta, khoá luận đã mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đối với Chính phủ, NHNN và các TCTD, với mong muốn kiến nghị này sẽ trở thành hiện thực thời gian tới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4245.doc