Đề tài Hoàn thiện chương trình kiểm toán các khoản phải thu do Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam thực hiện

Qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận về kiểm toán các khoản phải thu trong kiểm toán Báo cáo tài chính và thực tế thực tế tiến hành kiểm toán các khoản phải thu do Công ty VAE thực hiện chúng ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của các khoản phải thu trên Báo cáo tài chính. Các khoản phải thu là tài sản sẽ thu được trong tương lai của công ty do vậy một yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp là các khoản phải thu được trình bày trên Bảng cân đối kế toán phải phản ánh đúng giá trị thực của các khoản phải thu của đơn vị và các khoản phải thu này phải thuộc quyền sở hữu của đơn vị. Các khoản phải thu thường có quan hệ với nhiều khoản mục khác nhau đặc biệt là khoản mục doanh thu, do vậy khi xây dựng chương trình kiểm toán đối với các khoản phải thu cần phải liên hệ, xem xét chương trình kiểm toán doanh thu. Chương trình kiểm toán các khoản phải thu của Công ty được xây dựng và thực hiện một cách có hiệu quả, góp phần làm giảm rủi ro kiểm toán và tăng chất lượng của cuộc kiểm toán.

doc138 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1457 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện chương trình kiểm toán các khoản phải thu do Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iá trị tài sản ngắn hạn của đơn vị. Trong các khoản phải thu, tỷ trọng các khoản phải thu khác lớn, chiếm khoản hơn 50% tổng số dư khoản phải thu của đơn vị, do đó rủi ro trong tài khoản này là rất lớn. Giá trị hàng tồn kho chiếm khoản hơn 70% giá trị tài sản ngắn hạn của Công ty, làm ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của đơn vị và làm ứ đọng vốn của đơn vị. Giá trị các khoản tiền và tương đương tiền nhỏ do đó ảnh hưởng tới khản năng thanh toán tức thời của đơn vị do giá trị các khoản nợ ngắn hạn lớn. Công ty XYZ thực hiện kiểm toán theo quy định bắt buộc của Nhà nước. Theo Nghị định số 105 của Chính phủ, các doanh nghiệp Nhà nước nếu không nằm trong kế hoạch kiểm toán của kiểm toán nhà nước trong năm tài chính thì Báo cáo tài chính của doanh nghiệp phải được kiểm toán bởi kiểm toán độc lập. 4.2. Kế hoạch kiểm toán cụ thể của Công ty VAE khi thực hiện kiểm toán khoản phải thu của Công ty XYZ trong năm2005. Trong kế hoạch kiểm toán cho Công ty XYZ, dự kiến thời gian thực hiện cuộc kiểm toán là từ ngày 7/3/2006 đến ngày 9/3/2006. Ngoài ra trong kế hoạch còn dự kiến ngày phát hành Báo cáo kiểm toán sơ bộ và chính thức, tuy nhiên tuỳ thuộc vào tình hình thực tế mà thời gian phát hành báo cáo có thể thay đổi. Rủi ro ban đầu được đánh giá ở mức trung bình cao trên cơ sở đây là khách hàng năm đầu tiên và mục đích kiểm toán Báo cáo tài chính năm 2005 là để hoàn thiện hệ thống kế toán cũng như hệ thống kiểm soát nội bộ của Công ty. Phương pháp kiểm toán một số tài khoản chủ yếu: phương pháp kiểm toán một số tài khoản chủ yếu được xây dựng chung cho tất cả các cuộc kiểm toán. Các công việc cụ thể của từng kiểm toán viên khi kiểm toán khoản phải thu của Công t y ABC: Kiểm toán viên Nguyễn văn A – trưởng nhóm kiểm toán sẽ thực hiện kiểm toán khoản mục “hàng tồn kho” và kiểm toán khoản thuế GTGT được khấu trừ. Kiểm toán viên Phạm Văn D thực hiện kiểm toán các khoản phải thu khách hàng và các khoản phải thu thu nội bộ của Công ty XYZ, Kiểm toán viên Hoàng Văn T sẽ kiểm toán các khoản phải thu khác. Kiểm toán viên Phạm Văn A sẽ thu thập các thông tin về các đối tượng cần gửi thư xác nhận của các kiểm toán viên thực hiện kiểm toán các phần hành, để lập và gửi thư xác nhận đồng thời kiểm toán viên này sẽ phụ trách việc theo dõi và thu hồi các thư xác nhận đã gửi và các thư xác nhận nhận được. Các công việc còn lại được trưởng nhóm kiểm toán phân công cho các kiểm toán viên một cách phù hợp theo tình hình thực tế của cuộc kiểm toán. Các công việc chi tiết vẫn được thực hiện theo chương trình kiểm toán chung của Công ty. 4.3. Thực hiện kiểm toán khoản phải thu khách hàng của Công ty XYZ do Công ty VAE thực hiện. Các kiểm toán viên trong Công ty kiểm toán thực hiện kiểm toán khoản phải thu của Công ty XYZ theo kế hoạch kiểm toán đã được lập. Do đây là khách hàng mới của Công ty do vậy khi bắt đầu thực hiện cuộc kiểm toán, kiểm toán viên cần thu thập các tài liệu liên quan đến nghĩa vụ pháp lý của khách hàng như: Giấy phép kinh doanh, quyết định thành lập doanh nghiệp, các lần thay đổi giấy phép kinh doanh, các quy chế tài chính của Công ty khách hàng. Đây là Công ty nhà nước, trực huộc tổng công ty nên kiểm toán viên cần thu thập thêm các tài liệu liên quan đến các quy định của Tổng công ty đối với Công ty khách hàng. Kiểm toán viên phải thu thập báo cáo của Ban Giám đốc Công ty XYZ. Trong báo cáo của Ban Giám đốc, Ban Giám đốc Công ty XYZ đã đảm bảo rằng: Công ty đã lựa chọn các chính sách kế toán phù hợp và áp dụng các chính sách đó một các nhất quán, Ban Giám đốc đã đưa ra các phán đoán và ước tính một cách hợp lý và thận trọng, Các sổ sách kế toán của công ty được ghi chép một cách phù hợp, đầy đủ để phản ánh hợp lý tình hình tài chính của Công ty tại bất kỳ thời điểm nào và đảm bảo rằng các Báo cáo tài chính tuân thủ Chế độ kế toán Việt Nam và các quyết định pháp lý có liên quan. Ban Giám đốc đảm bảo rằng Công ty đã lập các báo cáo trên cơ sở hoạt động liên tục của Công ty. Ban Giám đốc chịu trách nhiệm cho toàn bộ tài sản của Công ty, vì vậy đã thực hiện các biện pháp thích hợp để ngăn chặn và phát hiện các hành vi gian lận và sai phạm. Ban Giám đốc cũng khẳng định rằng theo nhận định của họ, trên các khía cạnh trọng yếu không có sự kiện bất thường nào xảy ra sau ngày khoá sổ kế toán làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính và hoạt động của Công ty cần thiết phải điều chỉnh hoặc trình bày trên Báo cáo tài chính kết thúc ngày 31/12/2005. Kiểm toán viên Phạm Văn D đã thực hiện kiểm toán khoản phải thu khách song song với việc kiểm toán các khoản doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ. Đầu tiên, kiểm toán viên lập tờ tổng hợp các khoản phải thu của Công ty XYZ, Số liệu của khách hàng trên tờ tổng hợp được lấy trên Bảng cân đối kế toán và đối chiếu với sổ cái tài khoản phải thu khách hàng. Số liệu về khoản phải thu khách hàng trên Bảng cân đối kế toán khớp đúng với sổ cái và các sổ chi tiết công dồn. Số liệu trên tờ tổng hợp là cơ sở để tham chiếu xuống các tờ chi tiết có liên quan. Các điều chỉnh và phân loại trên tờ tổng hợp phải được tham chiếu rõ ràng xuống các tờ chi tiết có liên quan đến sự điều chỉnh hay phân loại này. Các bút toán điều chỉnh hay phân loại trên tờ tổng hợp được ghi chép trên tờ kiểm soát nội bộ. Tờ kiểm soát nội bộ E30 dùng để ghi chép các sai phạm về mặt hạch kế toán các khoản phải thu của Công ty XYZ, trên tờ kiểm soát nội bộ cũng ghi rõ các công việc kiểm toán viên đã làm khi thực hiện kiểm toán các khoản phải thu của Công ty XYZ và các bút toán điều chỉnh các khoản phải thu của Công ty này. Các bút toán điều chỉnh này phải được tham chiếu xuống các tờ kiểm tra chi tiết có liên quan và tờ tổng hợp các khoản phải thu của công ty XYZ. Trong khi kiểm tra các khoản phải thu của Công ty XYZ kiểm toán viên Phạm Văn D thấy rằng: Trong kỳ Công ty XYZ không thực hiện việc lập dự phòng cho các khoản phải thu khó đòi, khi phát sinh các khoản nợ không có khả năng thu hồi kế toán Công nợ của Công ty ghi trực tiếp vào chi phí trong kỳ. Mặt khác, Công ty XYZ đã xử lý các khoản phải thu khó đòi mà không có các văn bản kèm theo. Tờ tổng hợp biến động các khoản phải thu khách hàng – E100 được kiểm toán viên thu thập để xem xét biến động của các khoản phải thu của khách hàng theo quan hệ đối ứng tài khoản để tìm hiểu các đối ứng lạ, các đối ứng bất thuờng để đi sâu vào kiểm tra xem xét. Số liệu này đã được kiểm toán viên tổng hợp trên bảng kê số 11 các nhật ký chứng từ liên quan và đối chiếu với sổ cái và bảng tổng hợp cân đối số phát sinh. Căn cứ vào số liệu trên tờ biến động phát sinh này và kinh nghiệm của kiểm toán viên, kiểm toán viên sẽ chọn mẫu các nghiệp vụ để khiểm tra chi tiết. Tờ kiểm tra chi tiết E110, thể hiện các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong kỳ(năm 2005) của công ty XYZ mà kiểm toán viên đã chọn ra để thực hiện việc kiểm tra chi tiết. Kiểm toán viên chọn mẫu các nghiệp vụ kiểm tra chi tiết trên cơ sở đây là các nghiệp vụ có phát sinh lớn và bao gồm các yếu tố mang tính bất thường mà kiểm toán viên cho rằng các sai phạm xảy ra đối với các nghiệp vụ này có thể làm ảnh hưởng trọng yếu đến Báo cáo tài chính. Khi thực hiện kiểm tra chi tiết đối với các nghiệp vụ này kiểm toán viên đã thực hiện đối chiếu việc hạch toán các nghiệp vụ này giữa sổ chi tiết theo dõi công nợ của công ty XYZ với các chứng từ kế toán như các hoá đơn bán hàng, các chứng từ thanh toán và một số các chứng từ khác. Do kiểm toán viên Phạm Văn D đã thực hiện kiểm tra chi tiết 100% chứng từ khi thực hiện kiểm toán doanh thu của Công ty XYZ, do đó khi kiểm tra chi tiết đối với các khoản phải thu kiểm toán viên chỉ cần kiểm tra đối với các nghiệp vụ thanh toán các khoản phải thu của Công ty. Khi thực hiện kiểm tra chi tiết đối với khoản phải thu khách hàng kiểm toán viên đã phát hiện ra rằng trong kỳ công ty không trích lập dự phòng phải thu khó đòi mà khi phát sinh được ghi thẳng vào chi phí khác trong kỳ với số tiền là 75.926.313đ, việc xoá sổ các khoản nợ của Công ty không có biên bản kèm theo. Kiểm toán viên lập tờ ghi chú E130 đối với các khoản phải thu khách hàng (ghi chi tiết khoản phải thu khách hàng đầu kỳ và cuối kỳ theo từng đối tượng) để phục vụ cho việc ghi chú khi lập Báo cáo kiểm toán và để kiểm tra đối chiếu số dư theo đối tượng công nợ với số dư tổng hợp của các đối tượng của Công ty ABC trên sổ cái và Báo cáo tài chính. Các giấy tờ kiểm toán viên đã làm để thu thập các bằng chứng kiểm toán về khoản phải thu khách hàng của Công ty XYZ: 4.4. Kết thúc kiểm toán khoản phải thu tại Công ty XYZ Giới hạn của cuộc kiểm toán Số dư đầu năm trên Bảng cân đối kế toán cho năm tài chính kết thúc ngày 31/12/2005 của Công ty không thuộc phạm vi của cuộc kiểm toán năm 2005, chúng tôi không đưa ra nhận xét về các số dư này. Trong kỳ, đơn vị hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ và tính giá theo đơn giá nhập tại thời điểm gần ngày lập Báo cáo tài chính. Đồng thời Công ty đã hạch toán một khoản chi phí trên tài khoản chi phí trả trước ngắn hạn với tổng số tiền là 3.211.105.135 đ nhưng không có tiêu thức phân bổ hợp lý. Chúng tôi không thể thực hiện được các thủ tục kiểm toán thay thế nào để có thể đưa ra nhận xét thoả đáng về các khoản mục trên cũng như ảnh hưởng của chúng đến kết quả của chúng đến hoạt động kinh doanh của Công ty cho kỳ hoạt động từ 01/01/2005 đến 31/12/2005 Trong kỳ đơn vị đã hạch toán khoản nợ phải thu khó đòi vào chi phí khác với số tiền là 75.926.313 đ là chưa phù hợp với chế độ hiện hành. Tại thời điểm 31/12/2005 nợ ngắn hạn của Công ty đã vượt quá tài sản lưu động là 26.077.631.006 VNĐ, lỗ luỹ kế là 196.280.548 đ và Công ty có thể cần tiếp tục được đầu tư để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Những sự kiện này làm nảy sinh điều hoài nghi với khả năng Công ty có thể tiếp tục hoạt động trên cơ sở hoạt động liên tục. Do vậy, trong giới hạn phạm vi kiểm toán chúng tôi không đưa ra ý kiến nhận xét về sự kiện này, bất kỳ sự điều chỉnh nào liên quan đến giả định hoạt động liên tục đều có ảnh hưởng tới kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như tài sản ròng của Công ty. ý kiến của kiểm toán viên Theo ý kiến của chúng tôi, ngoại trừ giới hạn kiểm toán nêu trên, xét trên các khía cạnh trọng yếu, Báo cáo tài chính của Công ty ABC cho kỳ hoạt động từ 01/01/2005 đến 31/12/2005 đã phản ánh trung thực và hợp lý về tình hình tài chính tại ngày 31/12/2005, cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc tại ngày 31/12/2005, và phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành cũng như các quy định pháp lý có liên quan. Phần III: Nhận xét, đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện chương trình kiểm toán các khoản phải thu do công ty kiểm toán và định giá Việt Nam thực hiện. 1. Nhận xét và đánh giá về Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam. 1.1. Đánh giá chung về công ty (đánh giá về tổ chức bộ máy, đánh giá về quy trình kiểm soát chất lượng chung của công ty. Do kiểm toán là một lĩnh vực còn mới tại Việt Nam, nên cũng như các công ty kiểm toán độc lập khác ở nước ta, kinh nghiệm về kiểm toán của công ty còn nhiều hạn chế. Hơn nữa công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam mới được thành lập hơn 4 năm do đó công ty có đội ngũ nhân viên trẻ và hạn chế về kinh nghiệm là điều tất yếu. Hiện nay, nước ta đang hoàn thiện công tác kiểm toán do đó còn nhiều hạn chế về các quy định cũng như hướng dẫn thực hiện kiểm toán nên các công ty kiểm toán cũng không tránh khỏi việc ảnh hưởng khách quan này. Trên thực tế, Bộ Tài chính vẫn chưa ban hành các quy định về quản lý, kiểm tra soát xét chất lượng các dịch vụ kiểm toán do vậy không chỉ riêng ở Công ty VAE mà ở các Công ty kiểm toán nói chung ở nước ta, việc kiểm soát chất lượng kiểm toán còn nhiều hạn chế. Mặc dù các doanh nghiệp kiểm toán đều quan tâm đến việc quản lý nhằm nâng cao chất lượng các dịch vụ kiểm toán nhưng việc thực hiện nghiêm ngặt quy trình kiểm toán và kiểm soát chất lượng hồ sơ kiểm toán thì không phải doanh nghiệp nào cũng được thực hiện. Công ty kiểm toán và định giá Việt Nam đang từng bước phát triển cả về quy mô và chất lượng dịch vụ do đó công ty đang tiến đến việc hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý của mình. Sau một thời gian hoạt động, do nhu cầu mở rộng quy mô công ty thấy rằng việc quản lý theo mô hình cũ (quản lý theo từng lĩnh vực chuyên môn khác nhau như: kiểm toán tài chính, tư vấn và định giá, kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản) là không còn phù hợp nữa, nên đến năm 2004 công ty đã thực hiên quản lý theo mô hình mới (quản lý theo từng phòng nghiệp vụ). Đó là việc Công ty thực hiện việc khoán doanh thu cho từng phòng nghiệp vụ, các phòng nghiệp vụ sẽ được hưởng lương theo tỷ lệ doanh thu mà phòng thu được, công ty cũng thực hiện việc khoán quỹ lương cho từng phòng, và các phòng phải tự chi trả các khoản chi phí vượt quá mức chi phí mà công ty phân bổ cho từng phòng theo tỷ lệ doanh thu của các phòng đó, do đó một số khoản chi phí giảm hẳn như chi cho văn phòng phẩm, chi điện thoại.... Mô hình quản lý mới này đã mang lại hiệu quả cao trong công việc, thể hiện là, trong năm 2004 và năm2005 công ty đã tăng doanh thu lên nhiều và một số chi phí khác giảm. Với mô hình quản lý mới này sẽ nâng cao ý thức, trách nhiệm của các nhân viên trong từng phòng ban, cũng như việc nâng cao trách nhiệm của những người quản lý. Tuy nhiên, mô hình này nếu không được các nhà quản lý cấp cao quan tâm một cách đúng đắn và hợp lý sẽ tạo ra một nhược điểm lớn đó là việc các phòng ban chỉ quan tâm đến mục tiêu là đạt được mức lợi nhuận mà công ty giao cho mà không quan tâm đến các vấn đề khác, hay dễ dẫn đến việc các phòng nghiệp vụ chỉ quan tâm đến mục tiêu của phòng mình mà không quan tâm đến các chiến lược phát triển chung của toàn công ty cũng như của các bộ phận khác trong công ty. Việc chỉ quan tâm đến mục tiêu doanh thu này có thể làm giảm chất lượng của các cuộc kiểm toán do mong muốn có nhiều khách hàng để thu được nhiều doanh thu dẫn đến việc bỏ qua một số các giai đoạn trong mỗi cuộc kiểm toán. Tuy nhiên công ty có một ưu điểm trong quản lý là việc mở các văn phòng đại diện ở một số tỉnh để khai thác và ký kết hợp đồng, các hợp đồng đã được ký kết sẽ được phân bổ cho các phòng nghiệp vụ cho phù hợp góp phần làm giảm bớt các nhược điểm trên, thêm vào đó công ty thường xuyên xây dựng các chiến lược, định hướng phát triển và phổ biến cho các phòng, điều này cũng góp phần định hướng cho các phòng nghiệp vụ trong quá trình thực hiện mục tiêu riêng của mình. Mặt khác với mô hình tổ chức mới này các phòng không chỉ chuyên về một lĩnh vực nhất định mà bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, tạo điều kiện phát triển đồng đều trong công ty. Trong một số hợp đồng kiểm toán lớn, để nâng cao chất lượng của cuộc kiểm toán các phòng nghiệp vụ có sự phối hợp về chuyên môn để thực hiện, điều này không chỉ làm tăng chất lượng dịch vụ do công ty cung cấp, tạo uy tín với khách hàng mà còn tạo nên một mối liên hệ, liên kết giữa các phòng nghiệp vụ trong công ty. Do đặc thù về ngành nghề kinh doanh do đó công ty có bộ máy kế toán nhỏ gọn nhất, tuy nhiên vẫn đảm bảo việc hạch toán đầy đủ và đúng chế độ kế toán hiện hành. Về kiểm soát chất lượng trong công ty: Công ty đã xây dựng được hệ thống kiểm soát chất lượng chặt chẽ, chính điều này đã làm nên chất lượng các dịch vụ mà công ty cung cấp, tạo uy tín của công ty trên thị trường và tạo niềm tin cho các khách hàng của công ty. Việc kiểm soát chất lượng của cuộc kiểm toán đều được thực hiện thông qua các giấy tờ bảng mẫu có sẵn, hay nói cách khác là theo một trình tự sẵn có đã được xây dựng trước đó và được quy định trong quy chế của công ty. Tuy nhiên việc kiểm soát này cũng phải được thực hiện tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của cuộc kiểm toán. Kiểm soát chất lượng hợp lý làm cho công ty có được một đội ngũ nhân viên có chuyên môn cao, có đạo đức, có kiến thức và thường xuyên được cập nhật các kiến thức mới thông qua các lớp giảng dạy do công ty tổ chức. Bên cạnh đó công ty có quy trình kiểm soát báo cáo kiểm toán rất chặt chẽ, điều này làm giảm tối đa các nhược điểm tạo ra do cơ chế quản lý mới của công ty. Qúa trình kiểm soát này đặt chất lượng của các báo cáo kiểm toán phát hành lên hàng đầu hay đặt mục tiêu chất lượng lên hàng đầu do đó làm giảm khả năng các phòng nghiệp vụ chỉ quan tâm tới mục tiêu lợi nhuận mà không quan tâm tới mục tiêu phát triển chung của công ty. Quá trình kiểm soát này còn nâng cao trách nhiệm của nhà quản lý các cấp như trưởng nhóm kiểm toán phải chịu trách nhiệm về các báo cáo kiểm toán do nhóm thực hiện kiểm toán của mình phát hành và đã được mình soát xét, các Phó Giám đốc phụ trách phải chịu trách nhiệm về các báo cáo kiểm toán do mình soát xét được trình lên ban giám đốc và cuối cùng là ban giám đốc phải chịu trách nhiệm trước khách hàng về báo cáo kiểm toán do công ty phát hành. Do các trách nhiệm như vậy nên buộc các cấp soát xét phải quan tâm và thận trọng đối với việc soát xét. Và cũng chính trách nhiệm này cũng buộc các phòng nghiệp vụ ngoài việc thực hiện mục tiêu lợi nhuận của phòng còn phải quan tâm tới mục tiêu chất lượng chung của cả công ty. Tuy nhiên, việc kiểm soát chất lượng kiểm toán của Công ty chủ yếu mới dừng lại ở việc kiểm soát chất lượng các Báo cáo kiểm toán còn đối với các hồ sơ, các công việc do kiểm toán viên thực hiện trong cuộc kiểm toán hầu như chưa được thực hiện. Công việc đánh giá rủi ro kiểm soát của công ty đối với khách hàng ít được thực hiện thông qua thủ tục phân tích mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của kiểm toán viên, công việc này thường được thực hiện bởi chủ nhiệm kiểm toán sau khi xem xét sơ bộ về khách hàng, điều này được lưu ý đối với các kiểm toán viên thực hiện từng phần hành có liên quan. Công ty đã xây dựng được chương trình kiểm toán chung cho mình, đây là định hướng ban đầu cho các kiểm toán viên khi tiến hành kiểm toán. Việc xây dựng chương trình kiểm toán cũng góp phần kiểm soát chất lượng của các cuộc kiểm toán. Trong chương trình kiểm toán chung của công ty xây dựng, chúng ta cũng có thể thấy rằng công ty thực hiện các thủ tục phân tích là rất ít mà chủ yếu là tiến hành kiểm tra chi tiết các mẫu chọn, việc này có thể dẫn đến việc kiểm tra không hiệu quả khi mẫu chọn không mang tính đại diện, tuy nhiên việc sử dụng ít thủ tục phân tích được giải thích rằng: thủ tục phân tích là rất khó, đòi hỏi phải có chuyên môn nghiệp vụ rất cao mới có thể thực hiện có hiệu quả, thêm vào đó là do các con số thể hiện trên các báo cáo tài chính của khách hàng phần lớn là không chính xác do đó việc thực hiện thủ tục phân tích có thể khiến kiểm toán viên đi sai hướng, có thể bỏ qua các khoản mục chứa đựng rủi ro. Việc xây dựng một chương trình kiểm toán chung của công ty giúp các nhà quản lý công ty kiểm soát tốt hơn chất lượng của cuộc kiểm toán thông qua mức độ thực hiện các chương trình kiểm toán đã được xây dựng cho các cuộc kiểm toán cụ thể theo chương trình chung của công ty. Tất cả các khách hàng của công ty đều được kiểm toán căn cứ vào chương trình kiểm toán chung của công ty mà ít có sự xem xét ảnh hưởng của ngành nghề kinh doanh của khách hàng tới chương trình kiểm toán chung này, đây là một nhược điểm do chương trình kiểm toán này không phải là phù hợp với mọi loại hình doanh nghiệp. Do một số hạn chế nhất định nên khi tiến hành một cuộc kiểm toán đối với các khách hàng mới cũng như các khách hàng thường xuyên, công ty đều tiến hành kiểm toán tất các các khoản mục công ty đã xây dựng trong chương trình kiểm toán chung của công ty mà không có sự đánh giá các khoản mục theo hồ sơ kiểm toán do công ty đã thực hiện đối với các khách hàng thường xuyên. Công ty có quy trình kiểm toán và quy trình kiểm soát chất lượng hợp lý đã được xây dựng từ trước, đây là một lợi thế, một ưu điểm, một thế mạnh của công ty. Công ty cần phải tiếp tục hoàn thiện các quy trình trên để càng ngày càng nâng cao chất lượng của các cuộc kiểm toán sau này. 1.2. Đánh giá chung về chương trình kiểm toán các khoản phải thu do công ty thực hiện Trong quá trình thực hiện kiểm toán công ty có thu thập và sử dụng các giải trình của ban giám đốc công ty khách hàng, đây là sự cam kết của ban giám đốc công ty khách hàng về tính trung thực và hợp lý của các thông tin tài chính do công ty cung cấp. Bằng chứng kiểm toán này góp phần tăng trách nhiệm của ban giám đốc công ty khách hàng đối với các thông tin tài chính mà họ cung cấp. Do công ty thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính theo khoản mục nên tạo điều kiện thuận lợi cho các kiểm toán viên khi tiếp cận đối tượng kiểm toán. Với việc hạn chế về kinh nghiệm thì cách thức tiếp cận này là hợp lý, hơn nữa khi tiếp cận theo cách này thì một kiểm toán viên có thể thực hiện kiểm toán nhiều khoản mục vì thế tiết kiệm thời gian khi công ty kiểm toán gặp sức ép về thời gian. Tuy nhiên chính cách thức tiếp cận này lại dẫn đến việc kiểm toán viên không thấy được mối quan hệ giữa các khoản mục do các kiểm toán viên được phân công kiểm toán các khoản mục khác nhau. Trong chương trình kiểm toán khoản phải thu nói riêng và chương trình kiểm toán các khoản mục nói riêng, công ty xử dụng ít các thủ tục phân tích mà chủ yếu dùng thủ tục kiểm tra chi tiết, điều này làm tăng khối lượng công việc kiểm toán viên phải thực hiện. Mặt khác các thủ tục kiểm soát mới chỉ dừng lại ở việc xem xét trình tự, quy trình hạch toán, tìm hiểu các quy định, quy chế của Công ty liên quan đến các khoản phải thu, chưa thực hiện đánh giá rủi ro kiểm soát, do Công việc này đòi hỏi các kiểm toán viên phải có kinh nghiệm và chuyên môn nghiệp vụ cao. Công ty xây dựng chương trình chung trong kiểm toán khoản phải thu khách hàng làm tăng chất lượng của cuộc kiểm toán và làm giảm rủi ro kiểm toán khi thực hiện kiểm toán khoản mục này, do kiểm toán viên thực hiện kiểm toán đã có định hướng, hướng dẫn các công việc khi kiểm toán khoản mục này còn các trưởng nhóm kiểm toán có cơ sở để kiểm tra các công việc mà các kiểm toán viên trong nhóm mình đã thực hiện. Chương trình kiểm toán các khoản phải thu của Công ty được xây dựng trên cơ sở chế độ cũ. Các khoản phải thu hiện tại được chia làm các khoản phải thu ngắn hạn và các khoản phải thu dài hạn, do đó, nếu chỉ với các hướng dẫn trên các kiểm toán viên có thể gặp khó khăn trong việc kiểm tra, xem xét. Theo chế độ mới, các khoản phải thu trên Báo cáo tài chính thay đổi, đặc biệt là tiêu thức khoản phải thu khác, do vậy khi thực hiện kiểm toán nếu kiểm toán viên chỉ áp dụng các thủ tục cũ là không đầy đủ, kiểm toán viên phải áp dụng thêm cả các thủ tục kiểm toán mà Công ty đã xây dựng trong chương trình kiểm toán các tài sản lưu động khác. Trong chương trình kiểm toán các khoản phải thu của khách hàng Công ty có hướng dẫn thu thập bằng chứng kiểm toán thông qua kỹ thuật gửi thu xác nhận, đây là một kỹ thuật quan trọng khi thực hiện kiểm toán các khoản phải thu, do kỹ thuật này cung cấp cho kiểm toán viên các bằng chứng kiểm toán đáng tin cây để đưa ra ý kiến của minh về khoản mục này. Do việc không nhận được thư xác nhận phản hồi hoặc không nhận được kịp thời thường xuyên xảy ra nên kỹ thuật gửi thư xác nhận không chỉ tại công ty VAE mà trong hầu hết các công ty kiểm toán khác đều ít được thực hiện. Công ty đã khắc phục khó khăn này bằng cách, gửi thư xác nhận số dư các khoản công nợ trước cuộc kiểm toán chính thức đối với các hợp đồng kiểm toán được ký kết trước ngày khoá sổ kế toán của khách hàng. Ngược lại đối với các hợp đồng kiểm toán được ký kết sau ngày khóa sổ kế toán thì việc gửi thư xác nhận sẽ được tiến hành ngay trong cuộc kiểm toán, tuy nhiên không thể áp dụng đầy đủ các nguyên tắc kỹ thuật chung về gửi thư xác nhận. Thực tế công ty chỉ thực hiện gửi thư xác nhận đối với các số dư không có sự đối chiếu của đơn vị được kiểm toán với các bên có liên quan. Ví dụ: đối với các khoản công nợ của khách hàng đã có biên bản đối chiếu công nợ cuối kỳ với người bán hoặc người mua thì không gửi thư xác nhận nữa. Do giới hạn về thời gian kiểm toán trong mỗi cuộc kiểm toán nên việc không thu hồi đủ các thư xác nhận đã gửi đi thường xuyên xảy ra, do đó kiểm toán viên thường phải thực hiện ngay các thủ tục kiểm toán bổ sung để kịp thời gian phát hành báo cáo kiểm toán cho khách hàng. Công ty chưa thực hiện gửi thư xác nhận đối với bên thứ ba có số dư bằng 0, đây là do giới hạn về thời gian kiểm toán cũng như chi phí kiểm toán. Công ty chủ yếu gửi thư xác nhận đối với số dư cuối kỳ của các khoản mục, còn đối với các số phát sinh trong kỳ thì hầu như ít được thực hiện, đây cũng là do giới hạn về mặt thời gian. Theo VSA 505 – Thông tin xác nhận từ bên ngoài, kiểm toán viên có thể thực hiện gửi thư xác nhận đối với cả các giao dịch phức tạp hoặc bất thường, tuy nhiên trên thực tế các Công ty ít thực hiện xác nhận đối với vấn đề này. Các thư xác nhận đối với các khoản phải thu đều được gửi và thu hồi bởi một kiểm toán viên phụ trách riêng việc gửi thư xác nhận, do đó giúp kiểm soát tốt hơn đối với việc gửi và thu hồi thư xác nhận. Kiểm toán viên phụ trách theo dõi việc gửi thư xác nhận, lập một bảng tổng hợp các thư xác nhận đã gửi và các thư xác nhận đã nhận được, đồng thời theo dõi cả số liệu trên thư xác nhận và số liệu trên sổ sách của khách hàng từ đó nâng cao độ tin cậy cho bằng chứng kiểm toán thu được từ kỹ thuật gửi thư xác nhận. Sau khi lập thư xác nhận đối với các khoản phải thu khách hàng kiểm toán viên thường nhờ Công ty khách hàng gửi thư xác nhận đến các đối tượng cần xác nhận để tiết kiệm thời gian. Tuy nhiên, kiểm toán viên phải đảm bảo kiểm soát được quá trình này. Nếu kiểm toán viên không thể kiểm soát được quá trình này thì các bằng chứng kiểm toán thu thập được từ kỹ thuật gửi thư xác nhận sẽ có độ tin cậy không cao. Các mẫu được chọn để gửi thư xác nhận thường được chọn theo cảm nhận của kiểm toán viên mà không phải chọn theo các nguyên tắc như chọn mẫu xác suất hoặc chọn mẫu phi xác suất, điều này có thể dẫn đến việc chọn mẫu không mang tính điển hình, vì vậy khó phát hiện ra các sai phạm. Đối với các khách hàng cũ, trong quá trình gửi thư xác nhận, công ty có xem xét kết quả gửi thư xác nhận của năm cũ để có quyết định hợp lý. Nếu như tỷ lệ nhận được thư xác nhận của năm cũ thấp thì kiểm toán viên cần quyết định liệu có nên sử dụng tiếp kỹ thuật này hay không. Còn ngược lại thì kiểm toán viên xem xét nên gửi thư xác nhận như thế nào cho hợp lý. Điều này giúp tiết kiệm thời gian và chi phí cho cuộc kiểm toán. 1.3. Đánh giá về kiểm toán các khoản phải thu do công ty thực hiện với khách hàng trên. Khi xây dựng kế hoặc kiểm toán cụ thể cho từng khách hàng Công ty căn cứ vào việc đó là khách hàng mới hay cũ của Công ty để xây dựng kế hoạch kiểm toán phù hợp nhất. Mức độ rủi ro được đánh giá cho các khách hàng chỉ khác nhau giữa các khách hàng cũ và khách hàng mới, còn nhìn chung mức độ rủi ro của Báo cáo tài chính của Công ty khách hàng được đánh giá như nhau trong các kế hoạch kiểm toán cụ thể. Đối với Công ty ABC, đây là khách hàng cũ của Công ty do vậy rủi ro được đánh giá ở mức trung bình nhưng đối với Công ty XYZ, mức độ rủi ro được đánh giá ở mức trung Bình cao trên cơ sở đây là một khách hàng mới của Công ty kiểm toán. cũng trong kế hoạch kiểm toán cụ thể cho Công ty ABC và Công ty XYZ, kiểm toán viên có lập hướng dẫn các Công việc cụ thể cần làm khi thực hiện kiểm toán các khoản mục phải thu ở Công ty khách hàng tuy nhiên các công việc này được xây dựng giống nhau cho tất cả các khách hàng , không tính đến tình hình cụ thể của đơn vị. Thông thường sau khi Công ty kiểm toán ký kết hợp đồng kiểm toán với khách hàng, công ty sẽ phân công nhóm kiểm toán thực hiện cuộc kiểm toán đó luôn, không thực hiện đánh giá sơ bộ về khách hàng, do đó chưa có sự hiểu biết sơ bộ về khách hàng, làm ảnh hưởng đến việc lập kế hoạch kiểm toán chi tiết cho từng khách hàng cụ thể. Khi phân công Công việc kiểm toán cho các kiểm toán viên tham gia kiểm toán công ty ABC và XYZ, kiểm toán viên đã phân công các công việc phù hợp cho từng kiểm toán viên và đã dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa khoản phải thu khách hàng và doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ. Khi thực hiện kiểm toán khoản phải thu của Công ty ABC kiểm toán viên có thực hiện thủ tục phân tích đối với một số tỷ suất tuy nhiên việc đưa ra các ý kiến trên cơ sở các số liệu tính toán được là chưa hợp lý. Các thủ tục phân tích đã được sử dụng nhưng chưa hiệu quả, do kỹ thuật phân tích đòi hỏi kiểm toán viên thục hiện phải có trình độ chuyên môn cao. Khi thực hiện kiểm toán khoản phải thu của Công ty XYZ, các thủ tục phân tích chưa được thực hiện. Khi thực hiện cả hai cuộc kiểm toán trên, kiểm soát nội bộ của Công ty khách chỉ được kiểm toán viên phát hiện trong quá trình kiểm tra chi tiết, đi ngược lại trình tự thông thường. Thông thường, kiểm toán viên sẽ đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của Công ty sau đó, trên cơ sở các đánh giá đó kiểm toán viên thực hiện các thủ tục kiểm tra chi tiết. Khi kiểm toán Công ty ABC, do Công ty đã thực hiện đối chiếu công nợ phải thu với một số khách hàng tại thời điểm cuối năm do vậy kiểm toán viên không thực hiện kỹ thuật gửi thư xác nhận. Còn đối với Công ty XYZ do cuối kỳ, công ty chỉ có số dư nợ phải thu của hai đối tượng do vậy kiểm toán viên đã thực hiện kiểm tra chi tiết 100% chứng từ đối với các nghiệp vụ phát sinh trong giao dịch của Công ty XYZ với hai Công ty này. Đối với cả hai Công ty ABC và XYZ, kiểm toán viên đều không gửi thư xác nhận đối với các đối tượng có số dư cuối kỳ bằng 0, do vậy có thể còn các rủi ro. Đối với việc kiểm toán Công ty ABC, kiểm toán viên lập tờ tổng hợp biến động phát sinh theo tháng để tổng hợp số liệu và trên cơ sở đó chọn mẫu các nghiệp vụ để kiểm tra chi tiết. Kiểm toán viên đã thực hiện kiểm tra chi tiết xuyên suốt các đối tượng có số dư nợ cao và số phát sinh lớn. Vì vậy thu được các bằng chứng kiểm toán có độ tin cậy về khoản phải thu khách hàng của Công ty ABC đồng thời làm giảm rủi ro kiểm toán cho Công ty. Khi kiểm toán các khoản Phải thu của Công ty XYZ, kiểm toán viên lập tờ tổng hợp các khoản phải thu theo quan hệ đối ứng tài khoản, nhờ đó kiểm toán viên có thể phát hiện ra được các đối ứng lạ, các đối ứng bất thường để tập chung kiểm tra xem xét các nghiệp vụ đó và đã tìm ra các sai phạm. Việc áp dụng các thủ tục kiểm toán hợp lý trên đã giúp kiểm toán viên thu thập dược bằng chứng kiểm toán đáng tin cậy, góp phần làm giảm rủi ro kiểm toán khi thực hiện kiểm toán cho hai Công ty ABC và XYZ. Việc kiểm toán viên loại trừ tính hiện hữu của hàng tồn kho với lý do là Công ty được bổ nhiệm làm kiểm toán sau ngày lập Báo cáo tài chính trong khi Công ty ABC là một khách hàng cũ của Công ty là không hợp lý. 2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện chương trình kiểm toán đối với các khoản phải thu do Công ty VAE thực hiện Qua nghiên cứu chương trình kiểm toán các khoản phải thu trong thời gian thực tập tại Công ty VAE em mạnh dạn đưa ra một số các kiến nghị nhằm hoàn thiện chương trình kiểm toán các khoản phải thu mà đặc biệt là các khoản phải thu khách hàng do Công ty VAE thực hiên như sau: Hoàn thiện chương trình kiểm toán chung của công ty cũng như quy trình kiểm soát chất lượng trong kiểm toán báo cáo tài chính của công ty. Từ đó không ngừng nâng cao chất lượng của các cuộc kiểm toán, tạo dựng uy tín của công ty. Kiểm soát chất lượng của các Báo cáo kiểm toán phát hành là vấn đề quan trọng, tuy nhiên việc soát xét hồ sơ kiểm toán và kiểm tra các công việc kiểm toán viên đã thực hiện cũng vô cùng quan trọng, nhằm nâng cao trách nhiệm của các kiểm toán viên thực hiện kiểm toán các khoản mục. Hiện nay, kiểm toán đang ngày càng phát triển vì thế việc không ngừng nâng cao chất lượng kiểm toán là một xu thế tất yếu. Để phục vụ cho việc nâng cao chất lượng kiểm toán, các cơ quan quản lý phải sớm đưa ra các quy định chính thức về việc quản lý, kiểm tra soát xét chất lượng các dịch vụ kiểm toán. Kỹ thuật gửi thư xác nhận là một kỹ thuật quan trọng trong kiểm toán tài chính nói chung và trong kiểm toán khoản phải thu khách hàng nói riêng, góp phần thu được bằng chứng kiểm toán có độ tin cậy cao, giúp các kiểm toán viên đưa ra các ý kiến thích đáng về khoản mục phải thu khách hàng. Vì vậy, nhà nước ta phải có cơ sở pháp lý rõ ràng trong việc quy định các bên có liên quan có trách nhiệm cung cấp các thông tin cần thiết, kịp thời cho kiểm toán viên khi họ cần đến, có quy định xử phạt nghiêm minh đối với các trường hợp thông đồng giữa bên thứ ba và đơn vị được kiểm toán. Nâng cao trách nhiệm của kiểm toán viên bằng cách gắn trách nhiệm của họ với ý kiến mà họ đưa ra, có nghĩa là kiểm toán viên phải có trách nhiệm với ý kiến của mình, và công ty kiểm toán phải có trách nhiệm trước báo cáo kiểm toán đã phát hành, do đó các công ty kiểm toán có ý thức hơn trong việc thu thập bằng chứng kiểm toán đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng. Do đó, các kỹ thuật thu được các bằng chứng kiểm toán có độ tin cậy cao như kỹ thuật gửi thư xác nhận sẽ được sử dụng hợp lý hơn. Tăng cường kiểm soát hơn nữa đối với quá trình gửi thư xác nhận, để đảm bảo rằng thu thập được các bằng chứng kiểm toán có tính thuyết phục cao trong việc đưa ra các ý kiến kiểm toán. Kiểm toán viên nên có kế hoạch khảo sát đơn vị khách hàng một cách cụ thể, vì vậy kiểm toán viên sẽ đánh giá cụ thể và hợp lý hơn mức trọng yếu đối với từng khoản mục để có kế hoạch thu thập bằng chứng kiểm toán phù hợp cho từng khoản mục, qua đó kiểm toán viên cũng có thể xác định được kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán cần áp dụng cho từng khoản mục hay các công việc cụ thể cần thực hiện khi kiểm toán các khoản mục trên cơ sở kết quả của cuộc khảo sát trên, tuy nhiên việc khảo sát này cần được giao cho một kiểm toán viên có trình độ chuyên môn cao, để có những đánh giá và cái nhìn tổng quan nhất về Công ty khách hàng. Công ty đã xây dựng chương trình kiểm toán chung đối với khoản phải thu khách hàng và các khoản khác tuy nhiên không phải khách hàng nào chương trình kiểm toán đó cũng phù hợp do đó kiểm toán viên cần phải có sự hiểu biết sơ bộ về Công ty khách hàng để có thể lập kế hoạch kiểm toán cụ thể, hướng dẫn cho kiểm toán viên các công việc cần thực hiện khi kiểm toán đối với khách hàng cụ thể đó để có thể có được các bằng chứng kiểm toán đáng tin cậy nhất, làm giảm rủi ro kiểm toán cho kiểm toán viên và Công ty kiểm toán. Kiểm toán viên thực hiện cuộc kiểm toán Công ty khách hàng nên có một sự hiểu biết sơ bộ về khách hàng trước khi lập kế hoạch kiểm toán chi tiết để xây dựng được kế hoạch kiểm toán chi tiết cụ thể nhất, xác thực nhất. Từ đó, kiểm toán viên có thể đánh giá chính xác hơn đối với mức độ rủi ro kiểm toán và đưa ra các công việc hay phương pháp cần thực hiện khi kiểm toán các khoản mục được chính xác hơn, phù hợp hơn. Trong quá trình xây dựng kế hoạch kiểm toán chi tiết cho các cuộc kiểm toán cụ thể, các chủ nhiệm kiểm toán phải xây dựng thêm các thủ tục kiểm toán bổ sung để đề phòng khi không thể sử dụng kỹ thuật gửi thư xác nhận. Công ty nên thực hiện việc xác nhận đối với các số phát sinh lớn hoặc các số phát sinh không hợp lý, không đầy đủ chứng từ... do mức độ rủi ro trong các phát sinh này rất lớn, có thể ảnh hưởng trọng yếu đến số dư khoản mục được kiểm toán và cũng có thể làm ảnh hưởng liên đới đến số dư của các khoản mục khác trong báo cáo tài chính. Do đó để có được cái nhìn tổng quan hơn về số dư các khoản mục kiểm toán, kiểm toán viên cần phải thu thập các bằng chứng kiểm toán có độ tin cậy cao, làm cơ sở cho việc đưa ra các ý kiến kiểm toán. Cần hạn chế tối đa việc không thu hồi kịp các thư xác nhận đã gửi mà nguyên nhân là do giới hạn về thời gian phát hành báo cáo kiểm toán cho đơn vị được kiểm toán. Thông thường, các chủ nhiệm kiểm toán sẽ thoả thuận với khách hàng về thời gian phát hành báo cáo kiểm toán. Trong một khoảng thời gian nhất định đó nhóm kiểm toán phải hoàn thành cuộc kiểm toán và phát hành báo cáo kiểm toán cho khách hàng nên việc không thu hồi được các thư xác nhận trong khoảng thời gian này không thể tránh khỏi. Việc không thu hồi đủ các thư xác nhận cần thiết sẽ ảnh hưởng tới độ tin cậy của các bằng chứng kiểm toán thu thập được. Mặt khác, việc không thu hồi kịp các thư xác nhận sẽ được đưa vào giới hạn của cuộc kiểm toán để giảm rủi ro kiểm toán cho Công ty, tuy nhiên việc này ảnh hưởng tới tính chính xác của các khoản mục kiểm toán. Gửi thư xác nhận trước đối với số dư các tài khoản trước khi cuộc kiểm toán chính thức bắt đầu, điều này sẽ giúp cho kỹ thuật gửi thư xác nhận được thực hiện theo đúng trình tự chung khi gửi thư xác nhận, do không bị giới hạn về thời gian kiểm toán, kiểm toán viên có thể gửi thư xác nhận lần hai, hoặc nếu vẫn không nhận được thư xác nhận thì khi tiến hành cuộc kiểm toán chính thức, kiểm toán viên sẽ thực hiện các thủ tục kiểm toán bổ sung đầy đủ để thu thập bằng chứng kiểm toán đối với các khoản mục này. Vì thế nâng cao độ tin cậy của bằng chứng kiểm toán thu đuợc từ phương pháp kỹ thuật này. Cần có kế hoạch gửi thư xác nhận hợp lý để thu được bằng chứng kiểm toán có độ tin cậy cao nhưng với chi phí thấp nhất. Kiểm toán viên phải có kế hoạch liên hệ với Ban Giám đốc Công ty khách hàng để việc thu hồi thư xác nhận được thực hiện thuận lợi nhất. Theo (VSA 505), thông tin xác nhận từ bên ngoài phải được Ban Giám đốc Công ty khách hàng đồng ý và cung cấp thông tin cho kiểm toán viên. Sự phản hồi có thể dễ dàng được thực hiện hơn với những yêu cầu xác nhận có sự đồng ý của Ban Giám đốc Công ty khách hàng. Không ngừng nâng cao trình độ của các kiểm toán viên thông qua các lớp đào tạo do Công ty tổ chức, thường xuyên cập nhật các thay đổi về chế độ tài chính cho các nhân viên trong Công ty. Nếu các nhân viên của Công ty có trình độ nghiệp vụ cao và thường xuyên được cập nhật các văn bản mới có liên quan thì chất lượng của cuộc kiểm toán do Công ty thực hiện sẽ tăng lên, vì thế nâng cao uy tín của công ty và tạo niềm tin cho các khách hàng. Khi thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên cần tăng cường việc sử dụng các thủ tục phân tích thay vì chủ yếu sử dụng thủ tục kiểm tra chi tiết để giảm bớt các công việc cho kiểm toán viên. Việc thực hiện thủ tục phân tích một cách hiệu quả giúp kiểm toán viên đi đúng hướng tránh tình trạng kiểm tra dàn trải. Tuy nhiên, để thực hiện thủ tục phân tích đạt hiệu quả đòi hỏi các kiểm toán viên phải có trình độ nghiệp vụ cao, có khă năng xét đoán. Do đó Công ty phải tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ cho các nhân viên. Đối với các khách hàng cũ, kiểm toán viên cần có sự đánh giá thích đáng để giảm bớt khối lượng công việc cần thực hiện trên cơ sở xem xét kết quả của cuộc kiểm toán trước đó. Chương trình kiểm toán của Công ty cũng phải thường xuyên được cập nhật theo chế độ kế toán mới, do đây là hướng dẫn cho các kiểm toán viên thực hiện kiểm toán đồng thời đây là cơ sở cho việc kiểm tra, soát xét chất lượng của cuộc kiểm toán. Theo thông tư 23/2005 của bộ tài chính, các khoản phải thu khác không chỉ có số dư nợ tài khoản 1388 và 3388 mà còn bao gồm cả số dư tài khoản 141, 144, 244, và các khoản phải thu được chia ra làm các khoản phải thu ngắn hạn và các khoản phải thu dài hạn do đó công ty phải xây dựng thêm các thủ tục kiểm toán khác để có thể thu thập được các bằng chứng kiểm toán có độ tin cậy cao nhất cho việc đưa ra ý kiến kiểm toán. Để khắc phục nhược điểm do Công ty thực hiện kiểm toán theo khoản mục, khi phân công công việc cho các kiểm toán viên trong các cuộc kiểm toán cụ thể, trưởng nhóm kiểm toán phân công cho các kiểm toán viên thực hiện kiểm toán các khoản mục có liên quan đến nhau như: kiểm toán khoản mục doanh thu và phải thu khách hàng, kiểm toán hàng tồn kho với giá vốn và thuế GTGT được khấu trừ, kiểm toán tiền và chi phí hoạt động và tạm ứng,... Kiểm toán viên nên tiến hành chọn mẫu các nghiệp vụ để kiểm tra chi tiết theo các phương pháp khoan hoc như chọn mẫu xác suất và chọn mẫu phi xác suất để chọn được mẫu có tính đại diện cao cho tổng thể các nghệp vụ xảy ra, trong một số trường hợp, kiểm toán viên có thể chọn thêm vào mẫu một số nghiệp vụ mà kiểm toán viên cho rằng nó chứa đựng nhiều sai phạm theo kinh nghiệm của mình. Kết luận Qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận về kiểm toán các khoản phải thu trong kiểm toán Báo cáo tài chính và thực tế thực tế tiến hành kiểm toán các khoản phải thu do Công ty VAE thực hiện chúng ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của các khoản phải thu trên Báo cáo tài chính. Các khoản phải thu là tài sản sẽ thu được trong tương lai của công ty do vậy một yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp là các khoản phải thu được trình bày trên Bảng cân đối kế toán phải phản ánh đúng giá trị thực của các khoản phải thu của đơn vị và các khoản phải thu này phải thuộc quyền sở hữu của đơn vị. Các khoản phải thu thường có quan hệ với nhiều khoản mục khác nhau đặc biệt là khoản mục doanh thu, do vậy khi xây dựng chương trình kiểm toán đối với các khoản phải thu cần phải liên hệ, xem xét chương trình kiểm toán doanh thu. Chương trình kiểm toán các khoản phải thu của Công ty được xây dựng và thực hiện một cách có hiệu quả, góp phần làm giảm rủi ro kiểm toán và tăng chất lượng của cuộc kiểm toán. Trong quá trình thực hiện đề tài này, căn cứ vào cơ sở lý luận và thực trạng kiểm toán các khoản phải thu do Công ty VAE thực hiện, em đã mạnh dạn đưa ra một số đánh giá và kiến nghị mang tính định hướng nhằm góp phần hoàn thiện chương trình kiểm toán các khoản phải thu của Công ty. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo, Th.S Bùi Thị Minh Hải và các anh chi trong Công ty cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài nay. Sinh viên thực hiện Hoàng Thanh Tâm Danh mục tài liệu tham khảo Kiểm toán – ALVIN A. ARENS/ JAMES K. LOEBBECKE do Đặng Kim Cương và Phạm Văn Dược dịch và biên soạn. Nhà Xuất Bản Thống Kê Lý thuết kiểm toán – GS.TS. Nguyễn Quang Quynh (2003). Nhà Xuất Bản Tài Chính Kiểm toán tài chính – GS.TS. Nguyễn Quang Quynh (2001). Nhà Xuất Bản Tài Chính Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam Chuẩn mực kiểm toán quốc tế Kiểm toán - ĐH. kinh tế TP. Hồ Chí Minh Các tạp chí Kế toán, Kiểm toán Kiểm toán tài chính – GS.TS. Vương Đình Huệ, Học viện Tài chính (2004). Nhà xuất bản Tài chính Hà Nội Tài liệu kiểm toán nội bộ của công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam Kiểm toán - ĐH. kinh tế TP. Hồ Chí Minh (2004) xuất bản lần thứ 3. Nhà xuất bản Thống kê Các chuẩn mực kế toán Việt Nam, các thông tư và các qui định về kế toán Kế toán tài chính trong các doanh nghiệp – PGS.TS Đặng Thị Loan, Đại học Kinh tế quốc dân (2004). Nhà xuất bản Thống kê Kế toán doanh nghiệp – PGS.TS Ngô Thế Chi – TS Chương Thị Thuỷ, Học viện Tài chính (2005). Nhà xuất bản Thống kê. Phụ lục số 01 (Mẫu thư yêu cầu xác nhận số dư – thư xác nhận dạng khẳng định) Ngày. ... tháng..... năm Kính gửi: Công ty:......................................................(Khách nợ) Địa chỉ:........................................................................ Fax:.............................................................................. Thư: Yêu cầu xác nhận số dư Theo yêu cầu kiểm toán, chúng tôi đề nghị quý công ty đối chiếu số dư dưới đây với số dư của công ty tại thời điểm ngày..................... và xác nhận số dư này (1/ công ty phải thu và 2/ công ty phải trả) là đúng, hoặc bằng bao nhiêu. Thư xác nhận gửi trực tiếp hoặc fax cho kiểm toán viên của chúng tôi theo địa chỉ trên mẫu xác nhận dưới đây: Nợ phải trả...........................( bằng chữ......................................) Nợ phải thu............................(bằng chữ......................................) Thư xác nhận này không phải là yêu cầu thanh toán mà chỉ nhằm phục vụ mục đích kiểm toán. Các khoản nợ và các khoản thanh toán sau ngày nói trên không bao gồm trong số dư xác nhận. Giám đốc hoặc người đại diện (Đơn vị được kiểm toán) (Họ tên, chữ ký và đóng dấu) Kính gửi: Công ty kiểm toán. ....................................................... (Họ và tên kiểm toán viên: ...........................................) Địa chỉ:........................................................................... Fax:................................................................................. Chúng tôi xác nhận số dư trên sổ sách kế toán ngày.......................... của chúng tôi là đúng với sổ sách nói trên, hoặc là: .................................................................................................................. .................................................................................................................. Giám đốc hoặc người đại diện (khách nợ) (Họ và tên, chữ ký và đóng dấu) phụ lục số 02 (Mẫu thư yêu cầu xác nhận số dư – thư xác nhận dạng phủ định) Ngày. .........tháng........năm Kính gửi: Công ty:......................................................(Khách nợ) Địa chỉ:........................................................................ Fax:.............................................................................. Thư: Yêu cầu xác nhận số dư Theo yêu cầu kiểm toán, chúng tôi đề nghị quý công ty đối chiếu số dư trên sổ kế toán của công ty tại thời điểm ngày..................... và xác nhận số dư hoặc có ý kiến khác vào mẫu dưới đây. Thư xác nhận gửi trực tiếp hoặc fax cho kiểm toán viên của chúng tôi theo địa chỉ ghi dưới: Thư xác nhận này không phải là yêu cầu thanh toán mà chỉ nhằm phục vụ mục đích kiểm toán. Các khoản nợ và các khoản thanh toán sau ngày nói trên không bao gồm trong số dư xác nhận. Giám đốc hoặc người đại diện (Đơn vị được kiểm toán) (Họ tên, chữ ký và đóng dấu) Kính gửi: Công ty kiểm toán. ....................................................... (Họ và tên kiểm toán viên: ...........................................) Địa chỉ:........................................................................... Fax:................................................................................. Chúng tôi xác nhận số dư trên sổ sách kế toán ngày.......................... của chúng tôi là: Nợ chúng tôi phải thu:...................(bằng chữ......................................) Nợ chúng tôi phải trả:.....................(bằng chữ.....................................) ý kiến khác:......................................................................................... Giám đốc hoặc người đại diện (khách nợ) (Họ và tên, chữ ký và đóng dấu) phụ lục số 03 (Biên bản đối chiếu công nợ phải thu giữa Công ty ABC và Công ty TNHH united motor VN) Công ty ABC Ngày 27/12/2005 Điện thoại: Fax: Số hiệu tài khoản: Tại ngân hàng: Biên bản đối chiếu Công nợ phải thu (giữa Công ty ABC và Công ty TNHH united motor VN) Hoá đơn Ngày Nội dung Phát sinh tăng Phát sinh giảm Số còn nợ Số còn nợ (01/01/2005) 240.787.030 GG/2005B 22/11 Bán bộ phát điện và cụm truyền hộp số chưa thu tiền 546.562.555 Số tiền đã thanh toán 240.787.030 Cộng phát sinh 546.562.555 240.787.030 Số còn nợ (31/12/2005) 546.562.555 Đến hết ngày 27/12/2005 Công ty TNHH united motor VN còn nợ Công ty ABC là 546.562.555 đ (Năm trăm bốn sáu triệu năm trăm sáu hai nghìn năm trăm năm lăm đồng) Đại diện Công ty ABC Đại diện Công ty TNHH united motor VN phụ lục số 03 (Biên bản đối chiếu công nợ phải thu giữa Công ty ABC và Công ty cổ phần điện máy Phương Đông) Công ty ABC Ngày 31/12/2005 Điện thoại: Fax: Số hiệu tài khoản: Tại ngân hàng: Biên bản đối chiếu Công nợ phải thu (giữa Công ty ABC và Công ty cổ phần điện máy Phương Đông) Hoá đơn Ngày Nội dung Phát sinh tăng Phát sinh giảm Số còn nợ Số còn nợ (1/12/2005) 3.069.252.872 94918 16/12 154.201.080 94919 16/12 178.474.999 94925 22/12 186.271.250 94927 26/12 118.932.000 94932 29/12 133.798.500 94936 30/12 374.372.460 94937 31/12 7.920.000 05/12 341.393.250 07/12 375.706.100 19/12 296.876.250 19/12 393.207.100 28/12 337.555.086 31/12 323.770.288 Cộng phát sinh 1.153.970.289 2.068.508.074 Số còn nợ (31/12/2005) 2.154.715.088 Tính đến ngày 31/12 Công ty cổ phần điện máy Phương Đông còn nợ Công ty ABC là 1.958.831.989 đ (Một tỷ chín trăm năm tám triệu tám trăm ba mốt nghì chín trăm tám chín đồng). Đại diện Công ty ABC Đại diện Công ty cổ phần điện máy Phương Đông Phụ lục số 04 (Biên bản đối chiếu công nợ phải thu giữa Công ty ABC và Công ty cổ phần điện máy Phương Đông GT) Công ty ABC Ngày 31/12/2005 Điện thoại: Fax: Số hiệu tài khoản: Tại ngân hàng: Biên bản đối chiếu Công nợ phải thu (giữa Công ty ABC và Công ty cổ phần điện máy Phương Đông GT) Hoá đơn Ngày Nội dung Phát sinh tăng Phát sinh giảm Số còn nợ Số còn nợ (1/12/2005) 755.744.660 09/12 107.827.500 20/12 183.437.100 31/12 91.776.300 Cộng phát sinh 0 2.275.358.881 Số còn nợ (31/12/2005) 372.703.760 Tính đến ngày 31/12 Công ty cổ phần điện máy Phương Đông (GT) còn nợ Công ty ABC là 372.703.760 đ (Ba trăm bẩy hai triệu bẩy trăm linh ba nghìn bảy trăm sáu mươi đồng). Đại diện Công ty ABC Đại diện Công ty cổ phần điện máy Phương Đông (GT) Phụ lục số 05 (Biên bản đối chiếu công nợ phải thu giữa Công ty ABC và Công ty TNHH Sufat) Công ty ABC Ngày 31/12/2005 Điện thoại: Fax: Số hiệu tài khoản: Tại ngân hàng: Biên bản đối chiếu Công nợ phải thu (giữa Công ty ABC và Công ty TNHH Sufat) Nội dung Phát sinh tăng Phát sinh giảm Số còn nợ Số còn nợ (1/1/2005) 3.215.255.040 Phát sinh trong năm 10.374.876.492 9.901.270.410 Số còn nợ (31/12/2005) 3.688.861.122 Tính đến ngày 31/12 Công ty TNHH Sufat còn nợ Công ty ABC là 3.688.861.122 đ (Ba tỷ sáu trăm tám tám triệu tám trăm sáu mốt nghìn một trăm hai hai đồng). Đại diện Công ty ABC Đại diện Công ty TNHH Sufat Phụ lục số 06 (Biên bản đối chiếu công nợ phải thu giữa Công ty ABC và Công ty Lifan) Công ty ABC Ngày 31/12/2005 Điện thoại: Fax: Số hiệu tài khoản: Tại ngân hàng: Biên bản đối chiếu Công nợ phải thu (giữa Công ty ABC và Công ty Lifan) Nội dung Phát sinh tăng Phát sinh giảm Số còn nợ Số còn nợ (1/1/2005) 4.792.841.084 Phát sinh trong năm 39.870.963.094 36.149.539.907 Số còn nợ (31/12/2005) 8.514.264.271 Tính đến ngày 31/12 Công ty Lifan còn nợ Công ty ABC là 8.514.264.271 đ (Tám tỷ năm trăm mười bốn triệu hai trăm sáu tư nghìn hai trăm bảy mốt đồng). Đại diện Công ty ABC Đại diện Công ty Lifan Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36298.doc
Tài liệu liên quan