Mô hình tổ chức và thẩm quyền xét xử của Toà kinh tế là hai vấn đề không bao giờ tách rời nhau. Hiện nay việc phân định thẩm qyuền của Toà dễ gây cho người ta tưởng Toà án của chúng ta có ba cấp xét xử chứ không phải là hai cấp ( sơ thẩm , phúc thẩm ). Đối với một nền tư pháp hiện đại và văn minh thì nguyên tắc Toà án xét xử theo 2 cấp là nguyên tắc truyền thống. Mỗi cấp xét xử chỉ có một thẩm quyền sơ thẩm hoặc phúc thẩm. Vậy mà theo mô hình hiện nay , ngoài Toà án cấp huyện , mỗi cấp xét xử có đủ cả các thẩm quyền : sơ thẩm , phúc thẩm , giám đốc thẩm , tái thẩm . Điều này làm cho công tác xét xử của Toà án cấp tỉnh , Toà án tối cao rất nặng , tập trung nhiều việc , không đáp ứng được tính khoa học , tính chuyên môn hoá cao trong hoạt động xét xử tư pháp .
Từ nhận định trên , cần có sự điều chỉnh lại : tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án nhân dân cấp huyện theo hướng : việc xét xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở Toà án cấp này. Toà án cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm , Toà án nhân dân tố cao chủ yếu xét xử giám đốc thẩm , tổng kết kinh nghiệm xét xử , hướng dẫn Toà án nhân dân địa phương thực hiện xét xử thống nhất theo pháp luật.
Trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp kinh tế , cần qui định thêm những tranh chấp kinh tế của các loại hình doanh nghiệp mới thành lập theo Luật Doanh nghiệp như : công ty hợp doanh , công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu .
Về thẩm quyền giải quyết vụ việc của Toà án cấp huyện , qui định giá trị tranh chấp dưới 50 triệu là không phù hợp , cần được mở rộng bởi trong điều kiện nền kinh tế thị trường , giá trị tranh chấp lớn hay nhỏ cũng không quan trọng bằng uy tín với bạn hàng, uy tín trên thương trường.
30 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1409 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt động của Toà kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công ty với nhau liên quan đến việc thành lập , hoạt động giải thể công ty
- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty
Khái niệm công ty bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn và côg ty cổ phần . Đây là các tranh chấp về phần vốn góp của mỗi thành viên với công ty trách nhiệm hữu hạn , về mệnh giá cổ phiếu và số cổ phiếu phát hành đối với công ty cổ phần , về quyền được chia lợi nhuận hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ vào công ty ... và các vấn đề khác liên quan đến việc thành lập , hoạt động , giải thể công ty.
- Tranh chấp giữa các thành viên của công ty với nhau
Đây là các tranh chấp về việc chuyển nhượng phần vốn góp vào công ty giữa các thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn , về việc chuyển nhượng cổ phiếu , về mệnh giá cổ phiếu , số cổ phiếu phát hành và trái phiếu của công ty cổ phần , ...và cấc vấn đề khác .
c/ Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu
Đây là việc tranh chấp về việc mua bán cổ phiếu , trái phiếu đã phát hành và trái phiếu , cổ phiếu mới sẽ phát hành của công ty cổ phần .
d/ Các tranh chấp kinh tế khác theo qui định của pháp luật
Là các tranh chấp mà trong tương lai có thể xảy ra và văn bản pháp luật mới qui định đó là các tranh chấp kinh tế và thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
Với cách hiểu về tranh chấp kinh tế như vậy , thẩm quyền của Toà kinh tế được qui định như sau :
2. Thẩm quyền của Toà kinh tế .
Theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16.3.1994 , thẩm quyền của Toà án giải quyết các vụ án kinh tế có thể phân biệt thành .
- Thẩm quyền của Toà án các cấp
- Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ
- Thẩm quyền của Toà án theo sự lựa chọn của nguyên đơn
2.1: Thẩm quyền của Toà án các cấp
a/ Thẩm quyền của Toá án nhân dân huyện , quận , thị xã, thành phố thuộc tỉnh ( Toà án cấp huyện ) .
Như trên đã đề cập ở Toà án cấp huyện không có Toà án kinh tế nhưng như vậy không có nghĩa là Toà án cấp huyện không có thẩm quyền xét xử các vụ án kinh tế . ở Toà án nhân dân cấp huyện , có các Thẩm phán kinh tế chuyên trách làm nhiệm vụ giải quyết các vụ án kinh tế . Theo điều 13 khoản 1 Pháp lệnh thủ tục giải các vụ án kinh tế ,Toà án cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp hợp đồng kinh tế mà giá trị tranh chấp dưới 50 triệu đồng , trừ trường hợp có nhân tố nước ngoài
Như vậy , những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án cấp huyện phải có đủ 3 điều kiện sau :
-Phải là tranh chấp hợp đồng kinh tế
-Giá trị tranh chấp dưới 50 triệu đồng
-Không có nhân tố nước ngoài
“ Tranh chấp hợp đồng kinh tế” ở đây được hiểu theo điều 13 khoản 1 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế . Tức là tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân , giữa pháp nhân với cá nhân đăng ký kinh doanh .
Mọi tranh chấp khác như tranh chấp về chứng khoán ,về quảng cáo , ... hoặc tranh chấp có yếu tố nước ngoài thì dù giá trị tranh chấp nhỏ hơn 50 triệu đồng vẫn không thuộc thẩm quyền sơ thẩm của Toà án cấp huyện .
b/ Thẩm quyền của Toà án nhân dân tỉnh , thành phố trực thuộc Trung ương (toà án kinh tế cấp tỉnh ) .
* Thẩm quyền của Toà kinh tế Toà án nhân dân cấp tỉnh
Theo Luật sửa đổi , bổ sung Luật tổ chức Toà án nhân dân và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế , Toà kinh tế Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền .
- Sơ thẩm tất cả các vụ án kinh tế theo qui định tại Điều 12 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế , trừ các vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện .
Tuy nhiên , trong trường hợp cần thiết , có thể lấy lên để giải quyết vụ án kinh tế thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện .
- Phúc thẩm những vụ án kinh tế mà bản án , quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới bị kháng cáo kháng nghị theo qui định của pháp luật tố tụng .
- Giải quyết việc phá sản doanh nghiệp theo qui định của pháp luật
Tóm lại , thẩm quyền của Toà kinh tế Toà án nhân dân cấp tỉnh được qui định khá rộng , bao trùm hầu hết các vụ án kinh tế .
* Thẩm quyền của ủy ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh đối với các vụ án kinh tế là : giám đốc thẩm , tái thẩm những vụ án , quyết định đã có hiệu lực của pháp luật của Toà án cấp dưới bị kháng nghị .
c/ Thẩm quyền của Toà án nhân dân tối cao
* Thẩm quyền của các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao trong việc giải quyết các vụ án kinh tế
Các thẩm pháp kinh tế ở các Toà phúc thẩm có thẩm quyền
- Phúc thẩm các vụ án mà bản án , quyết định sơ thẩm của Toà kinh tế Toà án nhân dân cấp tỉnh bị kháng cáo ,kháng nghị .
- Giải quyết khiếu nại đối với các quyết định của Toà án nhân dân cấp tỉnh về tuyên bố phá sản
Quyết định của các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao là quyết định cuối cùng .
* Thẩm quyền của Toà kinh tế Toà án nhân dân tối cao là :
Giám đốc thẩm , tái thẩm những vụ án mà bản án , quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo qui định của pháp luật tố tụng .
* Thẩm quyền của Uỷ ban thẩm phán , Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là giám đốc thẩm tái thẩm những vụ án mà bản án , quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án cấp dưới
2.2: Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ
Điều 14 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế qui định: Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án kinh tế là Toà án nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú , trong trường hợp vụ án chỉ liên quan đến bất động sản thì Toà án nơi có bất động sản giải quyết .
2.3: Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn .
Thẩm quyền này được qui định tại điều 15 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
Nguyên đơn có quyền lựa chọn Toà án để yêu cầu giải quyết vụ án trong các trường hợp sau đây :
- Nếu không biết rõ trụ sở hoặc nơi cư trú của bị đơn , thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi có tài sản , nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú cuối cùng của bị đơn giải quyết vụ án ;
- Nếu vụ án phát sinh từ hoạt động của chi nhánh doanh nghiệp , thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi doanh nghiệp có trụ sở hoặc nơi có chi nhánh đó giải quyết vụ án ;
- Nếu vụ án phát sinh do vi phạm hợp đồng kinh tế , thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi thực hiện hợp đồng giải quyết vụ án;
- Nơi các bị đơn có trụ sở hoặc nơi cư trú khác nhau , thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú của một trong các bị đơn giải quyết vụ án ;
- Nếu vụ án không chỉ liên quan đến bất động sản , thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi có bất động sản , nơi có trụ sở hoặc cư trú của bị đơn giải quyết vụ án ;
- Nếu vụ án liên quan đến bất động sản ở nhiều nơi khác nhau , thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án ở một trong các nơi đó giải quyết các vụ án .
Tóm lại , về cơ cấu tổ chức cũng như thẩm quyền , chức năng của Toà kinh tế là tương đối phù hợp . Việc tổ chức Toà kinh tế là một Toà chuyên trách trong hệ thống Toà án nhân dân đã tạo ra sự thống nhất về tổ chức của hệ thống Toà án nhân dân đồng thời tăng thêm sự thống nhất trong công tác xét sử . Mặt khác , nó đảm bảo sự tiết kiệm , gọn nhẹ trong tổ chức bộ máy Nhà nước . Việc trao cho Toà kinh tế hai chức năng ( xét xử vụ án kinh tế và giải quyết phá sản doanh nghiệp ) là phù hợp với thực tiễn của cán bộ tư pháp cũng như đội ngũ thẩm phán còn yếu về năng lực trình độ và thiếu về số lượng , bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu về giải quyết trang chấp kinh tế , yêu cầu về tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong giai đoạn nền kinh tế ngày càng phát triển.
III - Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (còn gọi là tố tụng kinh tế ) bao gồm những qui định về nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh tế và trình tự giải quyết các vụ án kinh tế . Nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh tế là những tư tưởng chỉ đạo việc giải quyết các vụ án kinh tế được thể hiện trong các qui phạm pháp luật về tố tụng kinh tế , Và cơ quan tiến hành tố tụng phải tuyệt đối tuân theo . Còn trình tự giải quyết các vụ án kinh tế chính là các bước ,các khâu mà pháp luật qui định cho các đương sự và Toà án phải thực hiện khi tiến hành tố tụng kinh tế . Về cơ bản , thủ tục tố tụng kinh tế cũng tương tự như tố tụng dân sự . Đầu tiên chúng ta sẽ cùng tìm hiểu các nguyên tắc cơ bản của tố tụng kinh tế .
1. Những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng kinh tế
1.1: Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự
Theo điều 2 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế , quyền tự định đoạt của đương sự được qui định như sau : Người khởi kiện có quyền rút đơn kiện , thay đổi nội dung đơn kiện . Các đương sự có quyền hào giải với nhau . Trên cơ sở đảm bảo quyền tự do kinh doanh , tự do ký kết hợp đồng theo pháp luật , Nhà nước không can thiệp vào các hoạt động kinh doanh đúng pháp luật . Vì vậy khi xảy ra tranh chấp , Nhà nước ( mà đại diện là Toà án ) chỉ tham gia giải quyết nếu đương sự yêu cầu , nghĩa là có đơn kiện . Trong quá trình giải quyết tranh chấp , người khởi kiện có quyền rút đơn , thay đổi nội dung đơn kiện ; các đương sự có quyền hoà giải thương lượng với nhau và Toà án phải tôn trọng các quyền đó . Có thể nói , đây là một nguyên tắc rất cơ bản của tố tụnh kinh tế .
1.2: Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
Quyền bình đẳng trước pháp luật là một quyền cơ bản của công dân đã được ghi trong Điều 52 của Hiến pháp năm 1992 và Điều 6 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế . Sự bình đẳng trong tố tụng kinh tế được hiểu là bình đẳng về quyền và nghĩ vụ trong quá trình giải quyết vụ án . Cụ thể là , khi các doanh nghiệp hay người kinh doanh tham gia tố tụng kinh tế thì không có sự phân biệt đó là doanh nghiệp Nhà nước , công ty , hợp tác xã , doanh nghiệp tư nhân , ...; các bên đều có quyền và nghĩa vụ bình đẳng trước pháp luật .
1.3: Nguyên tắc xét sử công khai
Đây không chỉ là nguyên tắc trong tố tụng kinh tế mà còn là nguyên tắc hiến định đối với hoạt động của Toà án . Bởi vì : hoạt động xét xử của Toà án ngoài mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự còn mang ý nghĩa giáo dục , nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của công dân . Tuy nhiên , theo qui định của pháp luật , trong một số trường hợp vẫn có thể xét xử kín .
1.4: Nguyên tắc Toà án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập chứng cứ .
Không giống như tố tụng hình sự , trong tố tụng kinh tế Toà án không tiến hành điều tra , xét hỏi đương sự . Các bên có quyền và nghĩa vụ trình bày cung cấp chứng cứ và chứng minh để bảo vệ quyền lợi của mình . Trong trường hợp cần thiết , Toà án có thể tiến hành thu thập , xác minh chứng cứ nhưng chủ yếu là Toà án căn cứ vào các chứng cứ mà đương sự đưa ra .
1.5: Nguyên tắc hoà giải
Khi xảy ra tranh chấp , thông thường các bên tự hoà giải thương lượng với nhau . Khi không thể tự hoà giải được , họ mới yêu cầu cơ quan Nhà nước can thiệp . Ngay cả khi Nhà nước đã can thiệp , các bên vẫn có thể hoà giải với sự hướng dẫn và công nhận của Toà án . Hoà giải luôn là biện pháp được ưu tiên và khuyến khích . Chính vì vậy , hoà giải không chỉ là quyền của các đương sự trước khi đưa vụ án ra Toà mà còn là nghĩa vụ của Toà án phải tiến hành đẻ giúp đương sự thoả thuận với nhau trong quá trình giải quyết vụ án .
1.6: Nguyên tắc giải quyết các vụ án kinh tế nhanh chóng , kịp thời .
Do đặc điểm của hoạt động kinh doanh là năng động , nhanh nhạy nên việc giải quyết các tranh chấp kinh tế không chỉ cần đúng pháp luật mà còn phải nhanh chóng dứt điểm kịp thời , tránh dây dưa kéo dài .
2. Trình tự giải quyết các vụ án kinh tế
Gồm các giai đoạn sau :
-Khởi kiện và thụ lý vụ án : Một vụ án kinh tế chỉ có thể hình thành bởi một đơn kiện . Hành động đưa đơn kiện đến Toà án của nguyên đơn là hành động khởi kiện . Toà án sau khi xem xét thấy đơn hợp lệ thì ghi vào sổ và chấp nhận thụ lý vụ án .
-Chuẩn bị xét xử : Trong giai đoạn này , Toà án tiến hành những công việc cần thiết phục vụ cho việc giải quyết vụ án , trong đó nhất thiết phải thực hiện việc hoà giải giữa các đương sự . Nếu hoà giải thành thì Toà án lập biên bản hào giải thành và ra quyết định đình chỉ vụ án . Ngược lại , nếu không hoà giải được thì Toà án lập biên bản hoà giải không thành và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử .
-Phiên toà sơ thẩm : Toà mở phiên toà sơ thẩm để xét xử theo các thủ tục : thủ tục bắt đầu phiên toà , thủ tục xét hỏi , thủ tục tranh luận , nghị án , tuyên án . Nếu có kháng cáo , kháng nghị hợp lệ thì Toà lại tiếp tục mở phiên Toà phúc thẩm .
-Phiên toà phúc thẩm : Là phiên toà được mở ra do có kháng cáo , kháng nghị về quyết định , bản án của phiên toà sơ thẩm . Quyết định , bản án của phiên toà phúc thẩm có hiệu lực pháp luật và các đương sự không có quyền kháng cáo .
-Tuy nhiên có thể có những trường hợp bản án , quyết định đã có hiệu lực bị kháng nghị hoặc có những tình tiết mới làm thay đổi nội dung vụ án . Để khắc phục tình trạng đó , Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế qui định thủ tục đặc biệt nhằm xét lại các bản án , quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án , đó là thủ tục giám đốc thẩm , tái thẩm .
Phần lớn các nước trên thế giới đều không phân biệt tranh chấp kinh tế, tranh chấp thương mại, dân sự bởi vậy họ thường áp dụng một loại tố tụng đó là tố tụng dân sự. Tuy nhiên ở nước ta lại có sự phân biệt này, pháp luật quy định có một pháp lệnh về tố tụng kinh tế và một Pháp lệnh về tố tụng dân sự. Ngoài ra còn có tố tụng trọng tài để phân biệt được chúng ta sẽ tiến hành so sánh.
IV - So sánh sự khác nhau giữa tố tụng kinh tế với tố tụng dân sự , tố tụng trọng tài .
1. Tố tụng kinh tế và tố tụng dân sự .
1.1: Lý do phải so sánh
Như ta đã biết , tranh chấp kinh tế suy cho cùng cũng là tranh chấp dân sự . Vì vậy về nguyên tắc , thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế có nhiều điểm giống với thủ tục giải quyết các vụ án dân sự . Tuy nhiên giữa hai vấn đề này có những nội dung khác nhau
Sở dĩ phải so sánh hai thủ tục tố tụng này vì : việc tìm ra những điểm khác nhau giữa hai loại thủ tục tố tụng này không chỉ có giá trị khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với cả phía cơ quan tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng . Việc so sánh sẽ giúp tìm ra những ưu điểm , nhược điểm của các loại tố tụng , từ đó góp phần hoàn thiện chế định về tố tụng .
Thực chất là so sánh sự khác nhau giữa Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ban hành ngày 29.11.1989 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16.3.1994
1.2: Sự khác nhau cơ bản giữa tố tụng dân sự và tố tụng kinh tế
a/ Về thẩm quyền theo nghĩa vụ
Theo Điều 10 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự , được áp dụng với các loại vụ việc sau :
-Những tranh chấp về quyền sở hữu , về hợp đồng , hoặc những tranh chấp khác về quyền , nghĩa vụ theo qui định của pháp luật dân sự giữa công dân với nhau , giữa công dân với pháp nhân , giữa pháp nhân với nhau , trừ những việc thuộc thẩm quyền của cơ quan ,tổ chức khác ;
-Những việc về quan hệ hôn nhân và gia đình ;
-Những việc tranh chấp về lao động ;
-Những việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết trừ những trường hợp quân nhân , cán bộ mất tích hoặc chết trong chiến trường thuộc trách nhiệm giải quyết của các cơ quan hữu quan ;
-Những việc khiếu nại cơ quan hộ tịch về từ chối đăng ký hoặc không chấp nhận yêu cầu sửa đổi những điều ghi trong giấy tờ về hộ tịch ;
-Những việc khiếu nại về danh sách cử tri ;
-Những việc khiếu nại cơ quan báo chí không cải chính thông tin có nội dung xúc phạm danh dự , nhân phẩm người khác ;
-Các tranh chấp dân sự khác do pháp luật qui định thuộc thẩm quyền của Toà án .
Như vậy , thủ tục tố tụng dân sự không chỉ được áp dụng đối với các tranh chấp dân sự mà còn được áp dụng để giải quyết một số tranh chấp về lao động , hôn nhân và gia đình , hành chính ,...
Thủ tục tố tụng kinh tế chỉ dược áp dụng đối với những việc được qui định ở Điều 12 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế . Đó là :
-Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân , pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh
- Các tranh chấp kinh tế giữa công ty với công ty , giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập , hoạt động , giải thể công ty;
-Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu , trái phiếu ;
-Các tranh chấp kinh tế khác mà pháp luật qui định thuộc thẩm quyền của Toà kinh tế .
b/ Về thẩm quyền của Toà án các cấp :
Theo Điều 11 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì thẩm quyền của Toà án các cấp được qui định như sau :
-Toà án cấp huyện gải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ án được qui định tại Điều 10 của Pháp lệnh này , trừ những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh;
-Toà án cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ án sau :
+Tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp theo qui định tại Điều 29 Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (nay là chương II , Phần thứ sáu Bộ luật dân sự ).
+Khi đương sự là người nước ngoài hoặc người Việt Nam ở nước ngoài .
+Vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện mà Toà án cấp tỉnh lấy lên để giải quyết .
-Trong trường hợp đặc biệt , Toà án nhân dân tối cao giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp dưới mà Toà ám nhân dân tối cao lấy lên để giải quyết .
Như vậy , trong tố tụng dân sự thì Toà án nhân dân cấp huyện là cơ quan có thẩm quyền thụ lý hầu hết các vụ án dân sự .
Còn theo Điều 13 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì hầu hết các vụ án kinh tế lại thuộc thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh
Trong tố tụng kinh tế , không có qui định thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm . Do đó , Pháp lệnh không qui định thẩm quyền của Toà án nhân dân tối cao lấy các vụ án kinh tế thuộc thẩm quyền của Toà án cấp dưới lên để xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm như trong tố tụng dân sự .
c/ Về thành phần hội đồng xét xử :
Điều 16 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự qui định về thành phần hội đồng xét xử , cụ thể là:
-Hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc sơ thẩm đồng thời chung thẩm gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân .
-Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba thẩm phán .
-Hội đồng xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao gồm ba thẩm phán .
-Uỷ ban thẩm phán , Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao , Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền.
Điều 17 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế qui định thành phần hội đồng xét xử như sau :
-Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm hai thẩm phán và một hội thẩm .
-Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba thẩm phán .
-Hội đồng xét xử giám đốc thẩm , tái thẩm của Toà kinh tế Toà án nhân dân tối cao gồm ba thẩm phán .
-Uỷ ban thẩm phán và Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao , Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm phải có ít nhất 2/3 tổng số thành viên tham gia
- Các hội đồng xét xử nói trên quyết định theo đa số . Quyết định của Uỷ ban thẩm phán và Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao , Uỷ ban thẩm phánToà án nhân dân cấp tỉnh phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết và tán thành
Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng kinh tế có số lượng thẩm phán nhiều hơn so với Hội đồng xét xử các vụ án dân sự
Việc tăng số thẩm phán trong hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án kinh tế nhằm nâng cao chất lượng công tác xét xử . Bởi vì số người là thẩm phán chuyên nghiệp chiếm đa số trong hôi đồng xét xử . Mặt khác , mục đích xét xử tranh chấp kinh tế là giải quyết lợi ích kinh tế . Do vậy yếu tố hội thẩm ( đại diện cho xã hội ) tham gia vào hoạt động của Toà án không đòi hỏi như đối với các vụ án dân sự , hình sự.
d/ Về việc tham gia xét xử nhiều lần trong cùng một vụ án
-Theo điểm c , khoản 1 , Điều 17 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì thẩm phán hội thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu đã có lần điều tra , hoà giải , xét xử vụ án , trừ các thành viên Uỷ ban thẩm phán , Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm , tái thẩm .
-Theo điểm c, khoản 1 , Điều 17 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì ngoài các thành viên của Uỷ ban thẩm phán ,Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao , các thành viên Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh cũng được tham gia xét xử nhiều lần trong cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm , tái thẩm .
e/ Về việc uỷ quyền cho người khác tham gia tố tụng
-Theo Điều 22 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thìcó những vụ án đương sự không được uỷ quyền cho người khác tham gia tố tụng mà phải trực tiếp tham gia tố tụng . Đó là việc ly hôn và huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
-Theo Điều 23 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì với bất kỳ một vụ tranh chấp kinh tế nào , đương sự cũng có thể uỷ quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng .
f/ Về vai trò của Viện kiểm sát
Cả hai thủ tục đều ghi nhận chức năng kiểm sát việc xét xử của Viện kiểm sát . Nhưng trong thủ tục tố tụng dân sự Viện kiểm sát được quyền khởi kiện một số vụ án nhất định : “Những việc vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho tài sản xã hội chủ nghĩa ; hoặc quyền lợi của ngưòi lao động trong quan hệ lao động ; kết hôn trái pháp luật ; xâm phạm nghiêm trọng quyền lợi của người chưa thành liên hoặc của người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần nếu không có ai khởi kiện thì Viện kiểm sát khởi tố”( khoản 1 , Điều 28 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ) . Còn trong tố tụng kinh tế , xuất phát từ quyền tự định đoạt của đương sự cũng như khả năng nhiều mặt của nhà kinh doanh , Pháp lệnh này không qui định quyền khởi tố của Viện kiểm sát .
h/ Về quyền khởi kiện vụ án
-Thủ tục tố tụng dân sự qui định không chỉ có cá nhân , pháp nhân mới có quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đang bị tranh chấp hay xâm hại mà các tổ chức , các cơ quan Nhà nước , trong một số trường hợp nhất định , cũng được quyền khởi kiện để bảo vệ lợi ích của Nhà nước , của tập thể hay của người khác .
-Theo thủ tục tố tụng kinh tế thì chỉ có các cá nhân kinh doanh , pháp nhân mới có quyền khởi kiện vụ án kinh tế để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình đang bị tranh chấp hoặc vi phạm
i/ Về nghĩa vụ điều tra của Toà án .
Theo thủ tục tố tụng dân sự , Toà án có nghĩa vụ phải điều tra , thu thập chứng cứ khi giải quyết vụ án . Còn trong tố tụng kinh tế , Toà án không có nghĩa vụ này.
Trong trường hợp cần thiết , Toà kinh tế có thể tiến hành các biện pháp xác minh , thu thập chứng cứ đảm bảo cho việc giải quyết vụ án chính xác
j/ Về hoà giải .
Cả hai thủ tục đều ghi nhận nguyên tắc hoà giải . Nhưng trong thủ tục tố tụng kinh tế nguyên tắc này được áp dụng với một phạm vi rộng hơn cụ thể là :
Trong thủ tục tố tụng dân sự , nguyên tắc hoà giải chỉ được áp dụng kể từ khi Toà án đã thụ lý vụ án ; còn trong thủ tục tố tụng kinh tế, nguyên tắc này được áp dụng trước khi đưa vụ án ra Toà án cũng như ở bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng .
Trong tố tụng dân sự có những vụ việc không được phép tiến hành hoà giải . Còn trong tố tụng kinh tế pháp luật không có qui định những việc không được phép hoà giải . Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự tại Điều 43 có qui định một loạt các vụ việc không được tiến hành hoà giải . Đó là các việc như sau :
-Huỷ việc kết hôn trái hợp pháp ;
-Đòi bồi thường thiệt hại gây ra cho tài sản của Nhà nước ;
-Những việc phát sinh từ giao dịch trái pháp luật ;
-Những việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết ;
-Những việc khiếu nại cơ quan hộ tịch về việc từ chối không đăng ký hoặc không chấp nhận yêu cầu sửa đổi những điều ghi trong giấy tờ về hộ tịch ;
-Những khiếu nại về danh sách cử tri;
k/ Về thời hiệu , thời hạn .
Nhìn chung , các thời hiệu , thời hạn trong thủ tục tố tụng kinh tế đều ngắn hơn so với thời hiệu, thời hạn trong thủ tục tố tụng dân sự . Cụ thể là ( xem bảng so sánh dưới đây )
Bảng so sánh về thời hiệu , thời hạn của 2 loại thủ tục
(Theo Cuốn Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toàn án của Thạc sĩ Luật học Đào Văn Hội)
Số
Việc giải quyết
Tố tụng dân sự
Tố tụng kinh tế
1
Khởi kiện
Nhiều thời hiệu khác nhau, tối đa là 10 năm, do luật nội dung qui định
Được PLTTGQCVAKT qui định cụ thể là 6 tháng
2
Chuyển vụ án khi không có thẩm quyền
Không có qui định
3 ngày
3
Nộp tiền tạm ứng án phí
1 tháng , gia hạn thêm 1 tháng
7 ngày kể từ ngày thông báo
4
Thông báo cho bị đơn về đơn kiện
Không có qui định
10 ngày
5
ý kiến trả lời bị đơn về đơn kiện
Không có qui định
10 ngày
6
Quyết định đưa vụ án ra xét xử , đình chỉ , tạm đình chỉ
4 tháng.Nếu kéo dài: không quá 6 tháng
10 ngày. Nếu kéo dài không quá 60 ngày
7
Thời hạn mở phiên toà
1 tháng kể từ ngày ra quyết địnhđưa vụ án ra xét xử . Nếu gia hạn không quá hai tháng
10 ngày. Nếu kéo dài không quá 20 ngày
8
Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Quyết định ngay
3 ngày
9
Trả lời khiếu nại về áp dụng biện pháp khẩn cấp
3 ngày
3 ngày
10
Cấp bản sao bản án , quyết định
15 ngày
7 ngày
11
Thời hạn kháng nghị
15 ngày (VKScấp trên là 30 ngày )
10 ngày (VKScấp trên là 20 ngày )
12
Thời hạn toà án sơ thẩm gửi hồ sơ
15 ngày Toà án cấp tỉnh:3tháng
10 ngày. Được qui định thấp nhất là 1 tháng
13
Thời hạn xét xử phúc thẩm bản án
TANDTC :4 tháng
Không quá hai tháng nếu phức tạp
14
Thời hạn xét xử phúc thẩm các quyết định
1 tháng
1tháng
Số
Việc giải quyết
Tố tụng dân sự
Tố tụng kinh tế
15
Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm
3 năm; nếu không gây thiệt hại cho đương sự thì vô hạn
9 tháng
16
Thời hạn mở phiên toà giám đốc thẩm
6 tháng
1 tháng
17
Thời hạn kháng nghị tái thẩm
1năm; nếu không gây thiệt hại cho đương sự thì vô hạn
1 năm
18
Thời hạn mở phiên toà tái thẩm
6 tháng
1tháng
Qua phân tích và so sánh giữa tố tụng kinh tế và tố tụng dân sự ta thấy : xuất phát từ tính chất đặc thù của giải quyết tranh chấp kinh tế các qui định của tố tụng kinh tế có những đặc điểm ưu việt và hoàn thiện hơn so với tố tụng dân sự . Các qui định về thời gian của các thủ tục và quá trình tố tụng kinh tế được rút ngắn hơn , tạo điều kiện cho việc giải quyết các tranh chấp kinh tế được nhanh chóng hơn , thuận tiện phù hợp với yêu cầu của thực tiễn . Nhiều qui định có tính linh hoạt hơn , mềm dẻo hơn ( về việc uỷ quyền , việc tham gia xét xử nhiều lần trong cùng một vụ án , về hoà giải ). Thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm các vụ án kinh tế có số lượng thẩm phán nhiều hơn so với hội thẩm tạo tiền đề quan trọng để các phán quyết của hội đồng xét xử mang đậm tính chuyên môn , chuyên nghiệp , đảm bảo giải quyết các tranh chấp kinh tế được chính xác , đúng pháp luật . Thủ tục tố tụng kinh tế được xây dựng trên nguyên tắc tôn trọng triệt để hai cấp xét xử : sơ thẩm , phúc thẩm. Không có thủ tục Toà án xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm một vụ án kinh tế ở bất kỳ cấp Toà án nào .
2. Tố tụng Trọng tài và tố tụng kinh tế .
Tuy Trọng tài kinh tế và Toà kinh tế Toà án nhân dân đều là các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế nhưng giữa chúng lại có sự khác biệt cơ bản về tổ chức , hoạt động và đặc biệt là về thủ tục tố tụng
Việc tìm ra những điểm khác nhau giữa hai loại tố tụng này sẽ giúp nhận thấy những ưu điểm và hạn chế của chúng , từ đó góp phần tìm ra phương thức có hiệu quả nhất để giải quyết các tranh chấp kinh tế .
2.1 : Về tính pháp lý
Toà kinh tế là một cơ quan tài phán của Nhà nước , còn Trọng tài kinh tế là một tổ chức phi chính phủ một tổ chức không do Nhà nước quyết định thành lập mà do các trọng tài viên thoả thuận thành lập . Đây là điểm khác nhau cơ bản giữa Toà kinh tế và Trọng tài kinh tế .
2.2 : Về cơ cấu tổ chức .
Toà kinh tế là một toà chuyên trách đặt trong Toà án nhân dân ( giống như các Toà chuyên trách khác ), được thành lập theo hệ thống từ Toà án nhân dân tối cao đến các Toà nhân dân địa phương. Giữa Toà kinh tế Toà án nhân dân tối cao và các Toà kinh tế Toà án nhân dân cấp tỉnh có mối liên hệ chặt chẽ về mặt tố tụng. Trong khi đó các trung tâm Trọng tài kinh tế ở nước ta lại được thành lập không theo hệ thống , hoạt động riêng rẽ , độc lập với nhau cả về tổ chức cũng như tố tụng. Cơ cấu bên trong của trung tâm Trọng tài kinh tế gọn nhẹ , đơn giản hơn cơ cấu tổ chức của Toà kinh tế.
2.3 : Về mục đích hoạt động.
Toà kinh tế là một cơ quan quyền lực cua Nhà nước , hoạt động xem xét, xử lý những vi phạm pháp luật của Toà kinh tế nhằm duy trì trật tự công cộng và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà kinh doanh. Còn Trọng tài kinh tế được thành lập nhằm cung cấp cho các nhà kinh doanh một cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế đơn giản, thuận tiện phù hợp với tâm lý của họ.
2.4 : Về thủ tục tố tụng.
a/ Về thẩm quyền theo vụ việc.
Theo Điều 1 Nghị định 116-CP ngày 5.9.1994 và Thông tư số 02/PLDS-KT ngày 3.1.1995 của Bộ trưởng Bộ tư pháp , Trọng tài kinh tế có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế như sau :
- Tranh chấp về ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân và pháp nhân, giữa pháp nhân và doanh nghiệp tư nhân và giữa doanh nghiệp tư nhân với cá nhân kinh doanh .
- Trnah chấp phát sinh giữa thành viên của công ty với công ty , giữa thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập , hoạt động và giả thể doanh nghiệp.
- Tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu trái phiếu.
So với qui định tại Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì thẩm quyền của Trọng tài kinh tế và Toà kinh tế khá giống nhau. Tuy nhiên, có sự khác nhau rất nổi bật đó là : Toà kinh tế có thẩm quyền tuyên bố phá sản doanh nghiệp . Đây là chức năng riêng có của Toà kinh tế và chỉ có Toà kinh tế với tư cách là cơ quan tài phán Nhà nước mới có đủ khả năng để giải quyết vấn đề này. Bên cạnh đó có sự khác biệt về việc tuyên bố thẩm quyền riêng. Trong phạm vi thẩm quyền được qui định tại Nghị định 116-CP và thông tư số 02/PLDS-KT, từng tổ chức Trọng tài có thể tự nguyện tuyên bố về thẩm quyền riêng của mình, có thể thay đổi hoặc thu hẹp lại thẩm quyền đó. Nhưng đối với Toà kinh tế thì thẩm quyền đã được qui định rõ ràng, Toà kinh tế không được tự mình thay đổi hay thu hẹp thẩm quyền đó.
b/ Về thẩm quyền lãnh thổ.
Đối với Toà kinh tế, không phải đơn kiện nào cũng đượ Toà án thụ lý giải quyết. Đơn kiện chỉ được thụ lý khi được gửi tới Toà án có thẩm quyền quyết định. Ngược lại, trong tố tụng Trọng tài các bên có thẩm quyền lựa chọn bất cứ trọng tài viên của bất cứ Trung tâm Trọng tài kinh tế nào mà họ tín nhiệm để giải quyết. Khi các bên đã thoả thuận đưa ra Trung tâm Trọng tài nào thì Trung tâm đó có quyền thụ lý vụ.
c/ Về các giai đoạn tố tụng .
Theo Điều 5 Nghị định 116-CP thì Trọng tài kinh tế chỉ xét xử một lần các tranh chấp kinh tế. phán quyết của Trọng tài là quyết định chung thẩm, có hiệu lực thi hành, không bị kháng cáo, kháng nghị.
Khác hẳn với Trọng tài, Toà kinh tế xét xử theo hai cấp ( sơ thẩm , phúc thẩm ). Bản án, quyết định của Toà sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, có thể bị kháng cáo, kháng nghị. Khi có kháng cáo, kháng nghị, Toà sẽ tiến hành xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định của Toà phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay. Ngoài ra, bản án, quyết định của các Toà án còn có thể bị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Tố tụng xét xử của cấp Toà án thông qua nhiều giai đoạn dẫn tới kéo dài thời gian xét xử, đây là điều mà các nhà kinh doanh không muốn.
d/ Về điều kiện khởi kiện.
Các tranh chấp kinh tế chỉ được đưa ra giả quyết tại Trọng tài kinh tế khi và chỉ khi có sự thoả thuận của các bên tranh chấp. Còn trong tố tụng Toà án thì không cần sự thoả thuận, tranh chấp sẽ được Toà án giải quyết khi một trong các bên khởi kiện tới Toà án có thẩm quyền.
e/ Về nguyên tắc xét xử.
Trong tố tụng Toà án, xét xử công khai là nguyên tắc hiến định ( Điều131 Hiến Pháp năm 1992 ). Bởi vậy, hầu hết các vụ án đều được xét xử
công khai, bản án thường được tuyên bố rộng rãi. Điều này dẫn tới khó khăn trong việc bảo vệ các bí mật , uy tín của các nhà kinh doanh.
Trái lại, trong tố tụng Trọng tài, mọi tình tiết và kết quả không được công bố công khai nếu không có sự đồng ý của các bên.
f/ Về phán quyết.
Bản án, quyết định của Toà án được đảm bảo thi hành bằng cưỡng chế nhà nước. Còn phán quyết của Trọng tài được thi hành bởi sự tự nguyện của các bên chứ không được đảm bảo bằng cưỡng chế Nhà nước.
Từ những sự khác nhau cơ bản đã so sánh ở trên, ta thấy tố tụng Trọng tài có nhiều ưu điểm. Đó là một thể thức mềm dẻo, linh hoạt, thủ tục đơn giản thuận tiện đảm bảo thời cơ kinh doanh của các bên tranh chấp. Trong khi đó, việc xét xử các tranh chấp kinh tế bằng Toà án phải tuân thủ những nguyên tắc tố tụng nghiêm ngặt không linh động.
Chương III : Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt động của Toà kinh tế.
I - Kết quả hoạt động của các Toà kinh tế từ khi thành lập đến nay .
Như ta đã biết , Toà kinh tế được thành lập xuất phát từ nhu cầu quản lý nền kinh tế thị trường , bởi vậy hoạt động của Toà kinh tế nhằm đáp ứng những đòi hỏi mà nền kinh tế thị trường đặt ra . Thực tiễn hoạt động của Toà kinh tế từ khi thành lập (theo luật sửa đổi , bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân ngày 28.12.1993 ) đến nay đã cho thấy : tuy mới thành lập , gặp không ít những khó khăn về cơ sở vật chất , về đội ngũ cán bộ thẩm phán kinh tế , nhưng Toà kinh tế đã hoạt động và đạt được những kết quả đáng kể , khẳng định chủ trương đúng đắn của việc thành lập Toà kinh tế ở Việt Nam , đáp ứng nhu cầu của công cuộc cải cách tư pháp nói riêng và cải cách bộ máy Nhà nước nói chung .Bước đầu , hoạt động của Toà kinh tế đã tạo niềm tin cho các nhà doanh nghiệp về việc giải quyết các yêu cầu chính đáng của họ liên quan đến các tranh chấp kinh tế hay phá sản doanh nghiệp . Toà kinh tế thực sự trở thành biểu tượng của công lý , một chỗ dựa về mặt pháp lý cho các nhà doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế thị trường .
Những kết quả sau đây sẽ chứng minh cho các nhận xét nói trên .
1. Về cơ cấu tổ chức .
Theo luật sửa đổi , bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân , Toà kinh tế sẽ chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1.7.1994 . Công tác chẩn bị cho sự ra đời của Toà kinh tế đã được tiến hành trước đó khá lâu . Sau khi Luật sửa đổi , bổ sung Luật tổ chức Toà án nhân dân được Quốc Hội thông qua ngày 28.12.1993 thì sau đó một tháng , Uỷ ban thường vụ Quốc Hội đã ra quyết định số 166-NQ/UBTVQH 9ngày 2.2.1994 về việc triển khai thi hành Luật sửa đổi , bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân . Theo Nghị quyết này , Chánh án Toà án nhân dân tối cao , Bộ trưởng Bộ tư pháp cùng phối hợp khẩn trương chuẩn bị việc thành lập các Toà kinh tế, xác định biên chế , lập các kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ ... Tiếp đó , Thủ tướng Chính phủ có chỉ thị số 136-TTgngày 1.4.1994 về việc triển khai thực hiện Luật sửa đổi , bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân. Chỉ thị giao nhiệm vụ cho Bộ Tư Pháp và các cơ quan hữu quan ( Toà án nhân dân tối cao , Bộ tài chính , Ban tổ chức -Cán bộ chính phủ ...) chuẩn bị về cơ sở vật chất , con người , tài liệu , văn bản ,... và những việc liên quan đến việc bàn giao công việc của các cơ quan Trọng tài kinh tế Nhà nước .
Đến cuối tháng 7.1994 hầu hết các Toà án nhân dân địa phương đã tổ chức xong việc tiếp nhận các bộ phận nghiệp vụ , các trọng tài viên , thư ký ở các cơ quan Trọng tài kinh tế Nhà nước sang Toà án .
Như vậy , cho đến nay hệ thống Toà án nhân dân nước ta có một Toà kinh tế Toà án nhân dân tối cao và 61 Toà kinh tế Toà án nhân dân tỉnh , thành phố trực thuộc Trung ương .
2. Về đội ngũ thẩm phán .
Sau khi Trọng tài kinh tế Nhà nước chấm dứt hoạt động , các trọng tài viên được chuyển sang Toà án và trở thành cán bộ Toà án . Lúc này , đội ngũ cán bộ Toà án , nhất là thẩm phán cần phải được bồi dưỡng để nâng cao nghiệp vụ , chuyên sâu về giải quyết vụ án kinh tế và tuyên bố phá sản . Trước nhu cầu đó , Bộ tư pháp đã tổ chức nhiều khoá đào tạo dưới hình thức : bồi dưỡng ngắn hạn , dài hạn tập trung ,... để nâng cao trình độ cho các cán bộ Toà án . Bên cạnh đó , Bộ tư pháp còn mở các lớp tập huấn cấp tốc về luật kinh tế cho 150 học viên , mở ba lớp luân huấn tại ba miền Bắc - Trung - Nam về luật kinh tế , tố tụng kinh tế cho 390 học viên là Thẩm phán kinh tế và chuyên viên pháp lý của Toà kinh tế .
Kết quả là , đến năm 1995 có 119 Thẩm phán kinh tế cấp tỉnh và 37 Thẩm phán kinh tế ở Toà án cấp huyện được Chủ tịch nước bổ nhiệm (*)
Cho đến nay đội ngũ Thẩm phán kinh tế được Chủ tịch nước bổ nhiệm vẫn tiếp tục tăng lên cả về mặt số lượng và chất lượng .
3. Về kết quả hoạt động * Báo cáo số 5183 - CP ngày 18.9.1995 của Bộ tư pháp
.
Sau một năm hoạt động ( từ 1.7.1994 đến 30.6.1995 ), Toà án nhân dân địa phương trong cả nước đã thụ lý 311 vụ , đã tiến hành giải quyết 257 vụ và đang tiến hành 68vụ ( Theo báo cáo kết quả giải quyết các vụ án kinh tế và tuyên bố phá sản doanh nghiệp của các Toà án nhân dân địa phương giải quyết thì có 129 vụ ( chiếm 50,1% )hoà giải thành , ra bản án 57 vụ ( 22,1%) tạm đình chỉ 79 vụ (30,7%) .Báo cáo cũng cho thấy , phần lớn các vụ án được giải quyết khá nhanh chóng , trong thời hạn nhất định , tuy nhiên chất lượng xét xử án kinh tế chưa đáp ứng được yêu cầu . Qua 28 vụ xét xử phúc thẩm thì các Toà phúc thẩm đã xử y án 4 vụ ( chiếm 22% ) , cải sửa một phần án sơ thẩm 12 vụ ( chiếm 70% ) , cải sửa ngược hẳn án sơ thẩm 3 vụ ) . Như vậy số lượng tranh chấp kinh tế được Toà án giải quyết trong một năm đầu chỉ bằng 10% số lượng vụ việc mà Trọng tài kinh tế Nhà nước giải quyết hàng năm .
Tuy nhiên đây mới là giai đoạn đầu
Hết năm 1995 , số lượng vụ án được Toà kinh tế thụ lý và giải quyết đã tăng lên . Theo Báo cáo tổng kết công tác Toà án năm 1995 của Toà án nhân dân tối cao : Năm 1995 có 17 Toà án cấp tỉnh đã thụ lý để giải quyết 435 vụ tranh chấp kinh tế . Trong số đó , nhiều nhất là tranh chấp về hợp đồng kinh tế ( 202 vụ ) , có 27 vụ liên quan đến phá sản doanh nghiệp trong đó đã giải quyết xong 21 vụ ( tuyên bố phá sản doanh nghiệp 5 vụ hoà giải thành 10 vụ và quyết định đình chỉ 6 vụ ). Riêng về Toà án tối cao thì các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao đã thụ lý 47 vụ án kinh tế , đã xử lý xong 38 vụ ( đạt 77,5%). Ngoài ra có 10 vụ được xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm .
Trong những năm tiếp theo , số vụ việc ngày càng tăng . Đặc biệt “trong chín tháng đầu năm 1998, số vụ án kinh tế được Toà án thụ lý đã nhiều hơn cả năm 1997 là 200 vụ ( tăng 31%) .Riêng Thành Phố Hồ Chí Minh thụ lý nhiều nhất so với cả nước 9518 vụ ( 61,8% số vụ án của cả nước ) , Đà Nẵng , Hải Phòng , Hà Nội mỗi nơi thụ lý từ 40 đến 50 vụ , các tỉnh khác phổ biến ở mức trên 10 vụ , vẫn có một số tỉnh miền núi không thụ lý vụ án kinh tế nào .
Số đơn vị yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong 9 tháng đầu năm 1998 gửi tới Toà kinh tế thì tương đối nhiều ; nhưng số đơn thụ lý rất ít , khoảng 10 trường hợp . Nhiều trường hợp xin tuyên bố phá sản doanh nghiệp nhưng Toà án không thể ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp vì không có đủ tài liệu để tiến hành kiểm toán . Một số doanh nghiệp Nhà nước đã lâm vào tình trạng phá sản thực sự , song vì địa phương muốn giữ uy tín chính trị nên cho tiến hành giải thể doanh nghiệp chứ không thực hiện thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp” (*)
II - Những ưu điểm và tồn tại trong hoạt động của các Toà kinh tế.
1. Những ưu điểm .
Lý luận cũng như thực tiễn hoạt động của Toà kinh tế cho thấy Toà kinh tế có khá nhiều ưu điểm .
a/ Đối với việc giải quyết tranh chấp kinh tế .
Tranh chấp kinh tế là tranh chấp liên quan đến lợi ích kinh tế . Việc giải quyết tranh chấp kinh tế phải đảm bảo được yêu cầu : đúng pháp luật , bảo vệ và khôi phục quyền lợi về kinh tế cho bên bị vi phạm .
Đây chính là ưu điểm lớn nhất của phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đường Toà án. Các quyết định của bản án là đúng pháp luật, đảm bảo thi hành bằng cưỡng chế Nhà nước. Điều này tạo ra niềm tin của các nhà doanh nghiệp đối với Toà án rằng : quyền lợi kinh tế chính đáng của mình sẽ được khôi phục. Những qui định về thẩm quyền của Toà kinh tế cũng giúp các nhà doanh nghiệp tin tưởng rằng những yêu cầu chính đáng của họ, mà trước đây không được cơ quan Trọng tài giải quyết hoặc giải quyết không triệt để , thì nay đã có Toà kinh tế giải quyết.
* Báo cáo số 127 CB/VP ngày 12.10.1998 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao tại kỳ họp thứ 4 QUAN Hệ khoá X về công tác toà án trong 9 tháng đầu năm 1998.
Việc giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đường Toà án cũng góp phần nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật cho các nhà doanh nghiệp, giúp họ khắc phục những thiếu sót , sơ hở trong quá trình hoạt động kinh tế . Đồng thời “ việc ra các bản án kinh tế đúng pháp luật nghiêm minh cũng có tác dụng răn đe góp phần lành mạnh hoá trật tự pháp luật trong đời sống kinh tế - xã hội” (*)
b/ Đối với việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp .
Trước khi Toà kinh tế ra đời , không có cơ quan nào đảm nhiệm tuyên bố phá sản doanh nghiệp . Việc này đã gây nên các hậu quả xấu cho nền kinh tế : tình trạng nợ đọng , chây ì không trả nợ , tìm mọi cách để xoá nợ , tiếp tục ký kết hợp đồng để lừa đảo , trốn lậu thuế ,...
Từ khi Toà kinh tế ra đời , với thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp , Toà kinh tế đã góp phần tăng cường pháp chế Xã Hội Chủ Nghĩa, bảo vệ quyền lợi kinh tế cho người lao động cũng như chủ nợ và góp phần loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn yếu kém gây cản trở cho sự phát triển của nền kinh tế .
Ngoài những ưu điểm trên , hoạt động của Toà kinh tế đã tạo ra yếu tố kích thích , thi đua giữa các cơ quan tham gia giải quyết tranh chấp kinh tế ( các Trung tâm Trọng tài phi chính phủ, Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam ), từ đó góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các cơ quan giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta .
2 . Những tồn tại trong chế định về Toà kinh tế.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được , hoạt động của Toà kinh tế còn gặp phải nhiều khó khăn , tồn tại nhất định .
a/ Những tồn tại .
Khó khăn lớn nhất mà Toà kinh tế gặp phải là về đội ngũ thẩm phán kinh tế. Thực tế cho thấy có nhiều nơi Toà kinh tế đã được thành lập nhưng chưa hoạt động vì chưa có hoặc thiếu thẩm phán kinh tế . Với số lượng thẩm phán kinh tế như ngày nay thì thực sự không đáp ứng nổi những yêu cầu ngày một gia tăng . Hơn nữa, có rất nhiều thẩm phán còn đang theo học các lớp đào tạo để hoàn thiện trình độ . Sự yếu kém về trình độ của một số thẩm phán kinh tế, cũng như sự thiếu hụt về số lượng thẩm phán đã làm giảm hiệu quả hoạt đ* Báo Pháp luật số 29 ngày 9.4.1996, bài viết "Giải quyết tranh chấp kinh tế - Những vấn đề đang đặt ra" của Đào Văn.
ộng của Toà kinh tế . Đây là vấn đề khó khăn chung về đội ngũ thẩm phán mà Toà án nhân dân đang gặp phải .
Con số các vụ án kinh tế và yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp mà các Toà kinh tế giải quyết trong thời gian qua là một con số không nhiều. đây là tình trạng với dự đoán và tính toán trong quá trình xây dựng đề án Toà kinh tế. Vậy nguyên nhân là do đâu ? Phải chăng là các tranh chấp kinh tế ngày một giảm đi, hay vì thủ tục giải quyết Toà án quá phức tạp ,... Để lý giải tình trạng này ta có thể tìm hiểu các nguyên nhân sau:
b/ Nguyên nhân dẫn đến những tồn tại nói trên .
- Một số qui định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế còn chưa phù hợp với thực tiễn thiếu đồng bộ, gây trở ngại cho việc đưa đơn kiện đến Toà kinh tế, Ví dụ : thời hiệu khởi kiện 6 ngày là quá ngắn hoặc qui định nộp 50% tiền tạm ứng án phí là khó thực hiênj đối với những doanh nghiệp có tình trạng tài chính khó khăn.
- Thời gian từ khi khởi kiện đến khi kết thúc vụ án là khá dài trong điều kiện nền kinh tế thị trường “thời gian là vàng bạc”. Việc kiện ra Toà vừa mất thời gian ( mất cơ hội kinh doanh ), vừa dễ bị mất uy tín , hoặc bị vỡ lở nhiều chuyện khác khiến cho các doanh nghiệp không muốn giải quyết các tranh chấp kinh tế bằng phương thức này.
- Do tâm lý của người phương Đông là sợ Toà án bởi họ cho Toà án là cơ quan xét xử đối với những việc phạm pháp chứ không coi đó là nơi để giải quyết các tranh chấp hoặc các vi phạm hợp đồng kinh tế .
- Việc hình sự hoá các quan hệ kinh tế đang là xu hướng đáng báo động .
- Ngày nay , do công tác tuyên truyền pháp luật được nâng cao , do đó ý thức , kiến thức pháp luật trong kinh doanh của các nhà doanh nghiệp cũng nâng cao , hạn chế phần nào các vi phạm , tranh chấp kinh tế .
-Việc giải thể , sáp nhập các doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ theo Nghị định 388/HĐBT đã góp phần lành mạnh hoá nền kinh tế nước ta .
III - Kiến nghị .
Để khắc phục những tồn tại trong hoạt động của Toà kinh tế, để nâng cao năng lực và chất lượng của các cơ quan xét xử , bảo đảm giải quyết các vụ án kịp thời nghiêm minh như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII đã khẳng định , theo em Toà kinh tế cần có những bổ sung , sửa đổi sau :
1. Về tổ chức và thẩm quyền của Toà kinh tế.
Mô hình tổ chức và thẩm quyền xét xử của Toà kinh tế là hai vấn đề không bao giờ tách rời nhau. Hiện nay việc phân định thẩm qyuền của Toà dễ gây cho người ta tưởng Toà án của chúng ta có ba cấp xét xử chứ không phải là hai cấp ( sơ thẩm , phúc thẩm ). Đối với một nền tư pháp hiện đại và văn minh thì nguyên tắc Toà án xét xử theo 2 cấp là nguyên tắc truyền thống. Mỗi cấp xét xử chỉ có một thẩm quyền sơ thẩm hoặc phúc thẩm. Vậy mà theo mô hình hiện nay , ngoài Toà án cấp huyện , mỗi cấp xét xử có đủ cả các thẩm quyền : sơ thẩm , phúc thẩm , giám đốc thẩm , tái thẩm . Điều này làm cho công tác xét xử của Toà án cấp tỉnh , Toà án tối cao rất nặng , tập trung nhiều việc , không đáp ứng được tính khoa học , tính chuyên môn hoá cao trong hoạt động xét xử tư pháp .
Từ nhận định trên , cần có sự điều chỉnh lại : tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án nhân dân cấp huyện theo hướng : việc xét xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở Toà án cấp này. Toà án cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm , Toà án nhân dân tố cao chủ yếu xét xử giám đốc thẩm , tổng kết kinh nghiệm xét xử , hướng dẫn Toà án nhân dân địa phương thực hiện xét xử thống nhất theo pháp luật.
Trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp kinh tế , cần qui định thêm những tranh chấp kinh tế của các loại hình doanh nghiệp mới thành lập theo Luật Doanh nghiệp như : công ty hợp doanh , công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu .
Về thẩm quyền giải quyết vụ việc của Toà án cấp huyện , qui định giá trị tranh chấp dưới 50 triệu là không phù hợp , cần được mở rộng bởi trong điều kiện nền kinh tế thị trường , giá trị tranh chấp lớn hay nhỏ cũng không quan trọng bằng uy tín với bạn hàng, uy tín trên thương trường.
2. Về thẩm phán kinh tế và hội thẩm nhân dân .
a/ Thẩm phán kinh tế .
Trong hoạt động của Toà án, người thẩm phán giữ vai trò quan trọng trung tâm , quyết định đến hiệu quả của hoạt động xét xử. Để nâng cao hiệu quả xét xử thì phải nâng cao trình độ cũng như số lượng của thẩm phán . Khác với thẩm phán hình sự , dân sự ,... thẩm phán kinh tế ngoài những kiến thức về pháp luật còn phải có kiến thức về kinh tế , thương mại. Bởi vậy, cần bổ sung thêm tiêu chuẩn về thẩm phán như tiêu chuẩn có bằng đại học về kinh tế , khoa học tự nhiên , có chứng cứ về các lớp bồi dưỡng , luân huấn pháp luật kinh tế đối với thẩm phán kinh tế .
Để khắc phục sự thiếu hụt thẩm phán kinh tế , có thể điều chuyển phân công thẩm phán ở những nơi có nhiều thẩm phán , bởi thẩm phán là thẩm phán của Nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (vì chế độ bổ nhiệm , miễn nhiệm, cách chức thẩm phán đều thuộc thẩm quyền của Nhà nước ) chứ không phải là thẩm phán của một tỉnh , một địa phương nào.
b/ Hội thẩm nhân dân .
Ngoài các qui định hiện hành theo Pháp lệnh về thẩm phán và hội thẩm Toà án nhân dân , hội thẩm trong tố tụng kinh tế cần đạt những yêu cầu sau
- Phải là các nhà doanh nghiệp của thành viên ban điều hành công ty, cán bộ quản lý kinh tế , các thương gia .
- Có kinh nghiệm làm công tác kinh tế .
3. Về thủ tục tố tụng kinh tế .
Xuất phát từ yêu cầu giải quyết nhanh chóng kịp thời các tranh chấp kinh tế , thì các thủ tục tố tụng kinh tế cần được qui định ngắn gọn , nhanh chóng và giải quyết nhất quán , phù hợp với pháp luật về tố tụng nói chung .
Xét đến cùng thì mọi tranh chấp đều là tranh chấp dân sự , vậy để tạo ra sự năng động , nhất quán , đồng bộ trong hệ thống pháp luật cần thống nhất ba loại tố tụng : dân sự , kinh tế , lao động vào một Bộ luật tố tụng chung .
Ngoài ra để nâng cao hiệu quả của việc giải quyết các tranh chấp kinh tế thì Toà án cần phối hợp với Trọng tài để công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài trên cơ sở các điều kiện đã quy định bởi phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đường trọng tài là một phương thức linh hoạt, mềm dẻo.
Kết luận
Trong bối cảnh đời sống kinh tế xã hội ở nước ta đang diễn ra những thay đổi sâu sắc, công cuộc cải cách bộ máy Nhà nước, cải cách tư pháp đang đi vào chiều sâu và đã đặt ra những yêu cầu mới về việc hoàn thiện và nâng cao hoạt động của Toà kinh tế .
Toà kinh tế cần được trang bị cơ sở vật chất tốt hơn đầyđủ hơn, xoá bỏ tình trạng như ngày nay có nơi trụ sở của Toà án nhân dân chấp nhận là những dãy nhà cấp 4 thậm chí mượn tạm cả đình chùa. Đội ngũ cán bộ, thẩm phán kinh tế cần được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu có hệ thống về nghề thẩm phán, ngoài ra cần có thêm bằng Đại học kinh tế, Đại học khoa học tự nhiên.Toà kinh tế thực hiện xét xử theo 2 cấp.Cần tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án nhân dân cấp huyện bởi như hiện nay 80,5% thẩm phán cấp huyện có trình độ Đại học luật hoặc cao đẳng Toà án. Đội ngũ thẩm phán cấp huyện là những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức và kinh nghiệm xét xử về nhiều lĩnh vực. Tố tụng kinh tế cần được hoàn thiện theo chiều hướng ngày càng linh hoạt và mềm dẻo hơn.
Hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động của Toà kinh tế là một đòi hỏi tất yếu không ngừng nhằm hoàn thiện bộ máy tư pháp đồng thời phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới đất nưóc đẩy mạnh phát triển kinh tế hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29345.doc