Đề tài Hoàn thiện công tác phân tích tài báo cáo chính tại Nhà máy Thiết bị Bưu điện Hà Nội

Còn hệ số khả năng thanh toán hiện hành là một chỉ tiêu tổng quát nhất cho khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp bằng tài sản của mình như thế nào, nó là chỉ tiêu nghịch đảo của hệ số nợ/Tổng tài sản .Năm 2002 hệ số khả năng thanh toán hiện hành là 1.38. Năm 2003 hệ số này tăng lên 1,53 đây là một điều dễ hiểu vì hệ số nợ giảm 72,5% xuống 65,19% Khả năng thanh toán nợ dài hạn cho biết các khoản nợ dài hạn được Nhà máy dùng vốn cố định để thanh toán như thế nào. Các nhà đầu tư dài hạn thường quan tâm đến khả năng sinh lời và đảm bảo hoàn trả của đồng vốn. Số liệu trên cho thấy:Trong năm 2002, một đồng nợ dài hạn được đảm bảo bởi 5,9đ TSCĐ và đầu tư dài hạn, con số này năm 2003 giảm chỉ còn 3,29đ nguyên nhân chủ yếu là do TSCĐ giảm nhanh

doc69 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1144 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác phân tích tài báo cáo chính tại Nhà máy Thiết bị Bưu điện Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng 2.3 (ở phần phụ lục), nhìn một cách tổng thể, công nợ của Nhà máy có những nét biến đổi nổi bật đó là hầu như các khoản phải thu và phải trả năm 2003 đều giảmm so với năm 2002 (cả về số lượng tuyệt đối với số lượng tương đối). Về các khoản phải thu: Nguyên nhân chủ yếu là do việc đôn đốc thu hồi nợ các khoản phải thu của khách hàng nên năm 2003 giảmm so với năm 2002 là 17.626.232.075đ, tỷ lệ giảm 32,68%. Thuế GTGT được khấu trừ giảm 91,68% với số tiền 1.276.561.106đ, tuy từ khi áp dụng thuế GTGT với đặc thù của Nhà máy là phải nhập nguyên vật liệu từ nước ngoài nhiều, như thế sẽ làm ứ đọng vốn vì phải nộp thuế GTGT ở khâu nhập khẩu, nhưng với tỷ lệ giảm như năm 2003 so với năm 2002 thì đây là một xu hướng tốt cho Nhà máy. Bên cạnh đó dự phòng các khoản phải thu khó đòi năm 2003 cũng giảm so với năm 2002 là 604.411.402đ tức là giảm 67,95%. Trên thực tế doanh thu bán chịu của Nhà máy rất lớn, thời gian thu hồi nợ có thể lâu, nhưng ít khi mất khả năng thanh toán, bởi Nhà máy được đảm bảo thanh toán bởi Tổng công ty Bưu chính Viễn thông. Theo chế độ quy định thì Nhà máy vẫnn tiến hành lập dự phòng. Quan con số dự phòng các khoản phải thu khó đòi đây là biểu hiện tốt, các khoản nợ thanh toán quá chậm giảm xuống hơn một nửa, và phản ánh tìn hình thanh toán của khách hàng có nhiều khả năng hơn. Về các khoản phải trả, năm 2003 giảm so với năm 2002 là: 19.975.040.523đ, tỷ lệ giảm 22,33%, nguyên nhân chủ yếu là do các khoản phải trả cho người bán, phải trả nội bộ giảm. Phải trả người bán giảm hơn 12 tỷ đồng, tỷ lệ giảm hơn 70%, khoản phải trả nội bộ giảm hơn 16 tỷ đồng, tỷ lệ giảm 61,55%. Ngoài ra còn có khoản phải tả ngân sách nhà nước giảm gần 4 tỷ đồng, tỷ lệ giảm 63,47%. Tuy nhiên khoản vay ngắn hạn tăng lên hơn 12 tỷ đồng tốc độ tăng 34,62%, nhưng nhìn một cách tổng thể Nhà máy đã có cố gắng rất nhiều trong công tác thanh toán các khoản nợ phải trả, làm giảm khoản vốn đi chiếmm dụng, góp phần cải thiện tình hình tài chính, nâng cao khả năng thanh toán. Về tỷ suất các khoản phải thu. Năm 2002 là 42,52%, năm 2003 là 32,9% nói chung các khoản phải thu chiếm khoảng 1/3 tổng tài sản. Năm 2003 đã giảm so với năm 2002 là do đồng thời cả tổng tài sản và các khoản phải thu giảm nhưng tốc độ giảm các khoản phải thu nhanh hơn tốc độ giảm tổng giá trị tài sản vì vậy làm cho tỷ suất các khoản phải thu giảm được 9,62%. Về tỷ suất các khoản phải trả. Năm 2002 là 65.89%; năm 2003 là 58,81%. Nhìn chung tỷ suất các khoản phải trả chiếm hơn một tỷ tổng nguồn vốn nhưng đến năm 2003 Nhà máy đã giảm được tỷ suất các khoản phải trả so với năm 2002 là 7,08%. Xét về tỷ suất các khoản phải thu so với các khoản phải trả thì năm 2002 là 64,53%; năm 2003 là 55,93%, giảm được 8,6%. Nhìn chung Nhà máy đi chiếm dụng nhiều hơn là bị chiếm dụng. Đây là một lẽ bình thường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thị trường vì nguồn vốn chủ sở hữu thường chỉ để đầu tư mua sắm TSCĐ và ĐTDH, nếu còn thì một phần rất ít để bổ sung TSLĐ, do vậy Nhà máy phải huy động vốn ngắn hạn để bổ sung thêm vốn lưu động. Qua phân tích tình hình công nợ, cho thấy đây là một thành tích của Nhà máy đã có cố gắng nhiều trong công tác thanh toán làm rủi ro tài chính của Nhà máy có xu hướng giảm xuống. 2.2.2.5. Rủi ro tài chính. Để phản ánh rủi ro về tài chính của doanh nghiệp ngoài chỉ tiêu phản ánh công nợ và khả năng thanh toán, người ta có thể sử dụng thêm các chỉ tiêu; Hệ số các khoản phải thu; Hệ số vòng quay hàng tồn kho; Hệ số thanh toán lãi vay. + Xét vòng quay các khoản phải thu: Các khoản phải thu của Nhà máy chiếm tỷ trọng rất lớn trong TSLĐ 42,5% (năm 2002), 32,9% (năm 2003). Mặt khác nó phản ánh tình hình công nợ, khả năng thanh toán. Vì vậy cần phải xem xét vòng qua các khoản phải thu để biết được tốc độ luân chuyển nghiên cứu khoản phải thu như thế nào, sử dụng vốn lưu động ra sao. Qua bảng 2.4 (ở phần phụ lục), ta có nhận xét sau: Vòng quay các khoản phải thu năm 2001 là lớn nhất trong 3 năm. Trong năm 2001 doanh thu thuần đạt tới 158.870.978.434đ, nhưng doanh thu bán chịu ít chỉ có 29.225.726.649đ, chiếm 18% trong tổng số doanh thu như vậy hàng bán ra chủ yếu theo phương thức thanh toán ngay hoặc bán chịu trong thời gian ngắn. Một năm có hơn 5 lần thu tiền, khoảng cách mỗi lần bình quân là hơn 2 tháng. Còn năm 2001, vòng quay các khoản phải thu giảm nhanh so với năm 2001 chỉ còn 2,82 lần/năm dẫn đến kỳ thu tiền rất chậm (hơn 4 tháng), vốn bị chiếm dụng năm 2002 tăng hơn so với năm 2001. Doanh thu bán hàng giảm 10% so với năm 2001 tức với số tiền 173.634.189.637đ, nhưng các khoản phải thu là 51.918.364.679đ chiếm 36%, như vậy để giảm vốn bị chiếm dụng Nhà máy phải có biện pháp đốc thúc thu hồi các khoản nợ, không để tình trạng nợ đọng kéo dài. Năm 2003 Nhà máy đã cố gắng hơn so với năm 2002 hệ số quay vòng các khoản phải thu giảm tăng lên 3,08 vòng/năm và kỳ thu tiền giảm xuống chưa đầy 3 tháng, chứng tỏ Nhà máy đã có biện pháp để thu hồi các khoản nợ cũ và cố gắng bán hàng thu tiền ngay. Tuy nhiên, ở con số này chưa thể thoả đáng được, vì kỳ thu tiền gần 3 tháng thì vẫn quá chậm, làm khoản vốn của Nhà máy bị chiếm dụng quá dài. + Xét vòng quay hàng tồn kho: Tương tự các khoản phải thu, hàng tồn kho của nhà máy cũng chiếm tỷ trọng lớn vì vậy ta cần xem xét vòng quay hàng tồn kho để xem xét tốc độ luân chuyển của nó, từ đó đánh giá được mức độ ảnh hưởng của nó đến rủi ro tài chính. Trong phân tích: Hàng tồn kho không bao gồm cả nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, chi phí SXKD. Căn cứ vào bảng 2.5 (ở phần phụ lục), trong ba năm 2001, 2002, 2003 thì vòng quay hàng tồn kho của năm 2001 là lớn nhất nghĩa là thời gian sản phẩm hàng hoá ở trong kho ngắn nhất (bình quân hơn 46 ngày tức là một năm hàng tồn kho quay được gần 8 lần), năm 2001 vòng quay hàng tồn kho giảm xuống 5,49 và năm 2003 ở mức thấp hơn nữa là 4,21 như vậy hàng tồn kho Nhà máy ngày càng nhiều, hệ số quay vòng vốn chậm, rủi ro tài chính đối với Nhà máy ngày càng cao, có nguy cơ ứ đọng vốn và tăng nhu cầu tài trợ về TSLĐ. + Phân tích hệ số thanh toán lãi vay: Hệ số thanh toán lãi vay được tính bằng lãi trước thuế/lãi vay phải trả. Hệ số này phản ánh mối quan hệ giữa Nhà máy với ngân hàng. Như vậy nếu hoạt động kinh doanh không có hiệu quả, Nhà máy không thể trả được lãi vay ngân hàng và do đó Nhà máy không thể có khả năng huy động vốn từ ngân hàng, làm cho tình hình tài chính gặp khó khăn. Nói cách khác nếu hệ số thanh toán lãi vay càng nhỏ và có xu hướng ngày càng giảm, rủi ro về tài chính sẽ ngày càng tăng và ngược lại. Qua bảng 2.6 (ở phần phụ lục) cho thấy: Lãi trước thuế ngày càng giảm, lãi vay ngày càng tăng làm cho hệ số thanh toán lãi vay ngày càng giảm.Cụ thể lợi nhuận thanh toán: năm 2002 hệ số này =5.55giảm 37%so với năm 2001 năm 2003 =3.69 giảm 33% so với năm 2002. nhưng qua hệ số đó biểu hiện Nhà máy có khả năng trả lãi vay ngân hàng, trên cơ sở đó có điều kiện huy động được vốn vay khi có nhu cầu. 2.2.2.6. Phân tích hiệu quả của việc quản lý, sử dụng vốn cố định và vốn lưu động. Việc phân tích khả năng sinh lời của nhà máy mới chỉ dừng lại ở phần thích khả năng sinh lời của doanh thu, tài sản, vốn chủ sở hữu. Những để đưa ra những giải pháp cụ thể hữu hiện cần phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động và vốn cố định Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động. ở phần phân tích trước ta nhận thấy rằng hàng tồn kho và các khoản thu càng càng nhiều (chỉ năm 2003 các khoảng phải thu có giảm so với năm 2002) làm cho hàng tồn kho và cá khoảng phải thu chậm, Kỳ luân chuyển lâu dẫn đến tình trạng sử dụng vốn lưu động kém đi. Để thấy rõ hơn tình hình này. Cần phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Nhà máy. Qua bảng 2.7 (ở phần phụ lục) cho thấy: Nhà máy sử dụng vốn lưu động ngày càng tăng. Năm 2001vốn lưu động bình quân 70 tỷ, đến 2002 tăng 1.3 lần so với năm 2001với nhu cầu vối lưu động bình quân gần 94 tỷ. Năm 2003 tăng 1.06 lần vốn lưu động bình quân tăng 99 tỷ. Nhưng lợi tức thuầnn từ hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng giảm: Năm 2001 Nhà máy đạt hơn 4,7 tỷ; năm 2002 giảm 47% chỉ đạt được mức 2,5 tỷ'; Đến năm 2000 giảm 52% lợi nhuận hiệu quả sử dụng vốn lưu động ngày càng giảm. Cụ thể: Sức sinh lời của vốn lưu động năm 2000 = 0,07 (có nghĩa 1 đồng vốn lưu động thì tạo ra 0,07 đồng lợi nhuận), năm 2002 = 0,03; năm 2003 = 0,01. tốc độ giảm rất nhanh. Năm 2002 giảm so với năm 2001 là 60% năm 2003 giảm so với năm 2001 là 55%. Vòng luân chuyển TSLĐ cũng càng ngày càng ít. Năm 2000, vốn lưu động luân chuyển được 2,27 lần; năm 2001 luân chuyển được 1,53 vòng, giảm 32% so với năm 2001; Năm 2003 vòng luân chuyển chỉ được 1,2 vòng. Vì vòng luân chuyển càng ngày dài.Cụ thể năm 2001kỳ luân chuyển hơn 5 tháng, nhưng năm 2002 và năm 2003 gần 8 tháng. Qua đây ta cũng tính được số tiền tiết kiệm hay lãng phí của vốn lưu động trong năm = Doanh thu bình quân năm nhân với chênh lệch số ngày luân chuyển chia cho 360. Qua tính toán cho thấy: Năm 2002 Nhà máy đã sử dụng lãng phí 31.977.263.123đ và năm 2003 tiếp tục lãng phí thêm 2.002.520.623đ. Qua phân tích trên cho thấy việc sử dụng vốn lưu động của Nhà máy ngày càng không có hiệu quả, Nhà máy cần có biện pháp để khắc phục tình trạng này, tránh lãng phí và ứ đọng vốn. Phân tích hiệu quả sử dụng TSCĐ: TSCĐ là khoản đầu tư nhằm mục đích sử dụng lâu dài của Nhà máy. Quá trình đầu tư đó được coi là có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào khả năng sử dụng chúng để tạo ra doanh thu, lợi nhuận và thời gian thu hồi vốn đầu tư. Việc phân tích hiệu quả sử dụng TSCĐ sẽ được xem xét theo 2 nội dung: Nguyên giá bình quân và giá trị còn lại của TSCĐ. Qua bảng 2.8 (ở phần phụ lục) cho thấy nguyên giá của TSCĐ tăng theo các năm, 2000 nguyên giá của TSCĐ là 39.567 triệu đồng, năm 2002 tăng 44% so với năm 2000, số tiền 57.139 triệu đồng, và năm 2003 tăng 22% so với năm 2000, số tiền 69.661 triệu đồng. Chứng tỏ qua các năm Nhà máy có chú ý đầu tư mua sắm TSCĐ, tuy nhiên để xem hiệu quả sử dụng, ta xem xét sức sản xuất và sức sinh lời của nó. Trong 3 năm 2001, 2002, 2003 năm 2001 sức sản xuất của TSCĐ là cao nhất, ở năm này TSCĐ đầu tư còn ít nhưng tạo ra doanh thu tương đối lớn, một đồng vốn cố định tạo ra được 4,02 đồng doanh thu, và sức sản xuất của TSCĐ bị giảm dần theo thời gian. Năm 2002, một đồng TSCĐ chỉ tạo ra được 2,51 đồng doanh thu giảm% so với năm 2001. Năm 2003 lại bị giảm 15% so với năm 2002. Cùngn với sức sản xuất của nguyên giá TSCĐ giảm sức sinh lời cũng bị giảm nhanh do lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng giảm nhưng nguyên giá ngày càng tăng. Cụ thể năm 2001, một đồng nguyên giá TSCĐ tạo ra được 0,12 đồng lợi nhuận. Năm 2002, một đồng nguyên giá TSCĐ chỉ tạo ra 0,04 đồng lợi nhuận, giảm 67%, tốc độ giảm rất nhanh, đến năm 2003 một đồng nguyên giá tài sản cố định chỉ tạo ra 0,02 đồng lợi nhuận giảm 50%. Như vậy nếu chỉ đứng trên góc độ xét nguyên giá TSCĐ bình quân để đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ thì ta kết luận hiệu quả sử dụng TSCĐ của Nhà máy là ngày càng giảm sút. Nhưng nếu chỉ xét ở góc độ nguyên giá thì chưa phản ánh đứng hiệu quả sử dụng vì có thể có những TSCĐ đã được mua sắm từ lâu và được khấu hao gần hết, năng lực sản xuất cũng bị giảm dần. Như vậy nếu đứng trên góc độ xem xét nguyên giá của TSCĐ để đánh giá thì sẽ bị sai lệch lớn. Vì vậy ta cần xem xét hiệu suất sử dụng và sức sinh lời giá trị còn lại của TSCĐ, khi đó việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định sẽ chính xác hơn. Giá trị còn lại của TSCĐ năm 2001 là 26.517 triệu đồng, năm 2002 tăng lên 33.467 triệu đồng, tỷ lệ tăng 26%, nhưng năm 2003 giá trị còn lại bị giảm 17%. Năm 2001, một đồng giá trị còn lại của TSCĐ tạo ra 5,99 đồng doanh thu; năm 2002 hiệu suất sử dụng giá trị còn lại của TSCĐ bị giảm 28%, khi đó một đồng giá trị còn lại TSCĐ tạo ra 4,29đ doanh thu. Năm 2003 hiệu suất sử dụng giá trị còn lại của TSCĐ được nâng lên 5,53. Nếu kết hợp với việc xem xét sức sinh lời giá trị còn lại của TSCĐ tăng lên so với năm 2002 nhưng sức sinh lời thì bị giảm từ 0,07 xuống 0,04, với mức tiêu cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận thì sức sinh lời của TSCĐ ngày giảm là biểu hiện không tốt. Như vậy xét hiệu quả sử dụng TSCĐ trên cả 2 góc độ: Nguyên giá và giá trị còn lại, ta đi đến kết luận và việc quản lý và sử dụng TSCĐ ở Nhà máy chưa có hiệu quả. 2.2.2.7. Phân tích tình hình lưu chuyển tiền tệ. Thông thường khi phân tích, những người quan tâm thường quan tâm vào chỉ tiêu lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh vì đó là hoạt động cơ bản tạo ra lợi nhuận. Căn cứ vào báo cáo lưu chuyển tiền theo phương pháp lập trực tiếp của Nhà máy, ta có bảng 2.9 (ở phần phụ lục). Trong năm 2002, dòng lưu chuyển thuần là - 10.351 triệu đồng. Như vậy, lượng tiền thu vào không đủ chi ra và phải lấy tiền tồn đầu kỳ để chi trả, làm lượng tiền tồn đầu kỳ giảm xuống từ hơn 16 tỷ đồng giảm xuống chỉ còn gần 6 tỷ đồng, để biết chi tiết nguyên nhân ta đi xem xét từng hoạt động cụ thể. - Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, lượng tiền chi ra là nhiều nhất gần 170 tỷ đồng, nhưng lượng tiền thu vào lớn, lên gần 228 tỷ đồng (chủ yếu thu từ các khoản phải thu của khách hàng và từ các khoản phải thu khác, còn thu từ bán hàng rất ít chỉ được 612 triệu đồng). Do vậy ở hoạt động sản xuất kinh doanh tuy chi ra lớn nhưng vẫnn có khoản để trang trải, khong những thế chênh lệch của khoản thu và khoản chi là (+ 58) tỷ đồng. - Hoạt động đầu tư, dòng lưu chuyển tiền thuần bị âm, số tiền - 587 triệu đồng. Nguyên nhân chi nhiều hơn thu là tiền chi đầu tư vào đơn vị khác và mua sắm TSCĐ là - 695 triệu đồng, còn tiền thu do bán TSCĐ chỉ có 108 triệu đồng. - Hoạt động tài chính: Dòng lưu chuyển tiền thuần bị thâm hụt là - 67.615 triệu đồng, do tiền trả nợ vay nhiều hơn tiền đi vay. Trong năm 2003, nhìn chung lưu chuyển tiền có khả quan hơn năm 2002, đó là thu gần đủ để trang trải các khoản chi. Lưu chuyển tiền thuầnn trong kỳ - 817 triệu đồng, năm 2003 lượng tiền lưu chuyển thuần đã tăng lên gần 10 tỷ đồng. Tuy nhiên các khoản thu vẫn không đủ chi, phải lấy hơn 817 triệu đồng tiền tồn đầy kỳ để chi, lượng tiền tồn còn lại cuối kỳ hơn 4.889 triệu đồng. Nếu xét về từng hoạt động thì: - Hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn là nguồnn thu chủ yếu và là hoạt động duy nhất có lượng tiền lưu chuyển thuần ương với số tiền 81.663 triệu đồng tăng so với năm 2002 là 23.811 triệu đồng, thu từ các khoản thu khác tăng thêm 62.022 triệu đồng, còn thu từ nợ phải thu từ nợ phải thu giảm 5.631 triệu đồng, chứng tỏ năm 2003 Nhà máy đã cố gắng bán hàng thu tiền ngay. Bên cạnh đó tiền trả cho người bán tăng lên 17.844 triệu đồng, tiền trả cho các khoản nợ phải trả tăng 33.942 triệu đồng và tiền trả cho công nhân viên, tăng 2.833 triệu đồng. Có 2 khoản ngiảm mđó là tiền trả cho các khoản nợ khác và tiền nộp thuế giảm, với số tiền gần 14 tỷ. - Hoạt động đầu tư, lượng tiền thuần tiếp tục bị âm 966 triệu đồng, chênh lệch giữa chi và thu tăng thêm 368 triệu đồng, với tỷ lệ tỷ lệ tương ứng là 62,7%. Khoản chi tăng, do Nhà máy sử dụng để mua sắm đổi mới TSCĐ, sử dụng thêm số tiền là 1.353 triệu đồng, tỷ lệ tăng 235 %. Trongn khi đó khoản thu do bán TSCĐ tăng lên 865 triệu đồng nhưng chưa đủ để trang trải cho các khoản chi của các hoạt động này. - Dòng lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động tài chính cũng tiếp tục bị âm, chênh lệch lượng tiền chi ra và thu vào của hoạt động này tăng 13.309 triệu đồng, nguyên nhân là do Nhà máy tiếp tục trả nợ vay và trả lãi cho các nhà đầu tư tăng gần 26 tỷ. Trong khi đó tiền thu từ tiền lãi giảm và tiền 71 triệu đồng và tiền vay ngắn hạn chỉ tăng thêm 11.898 triệu đồng. Như vậy tổng quan là lượng tiền ngày càng giảm, tuy năm 2003 giảm chậm hơn so với năm 2002 nhưng đây là một vấn đề cần báo động cho Nhà máy, nếu kết hợp với khả năng thanh toán nhanh của Nhà máy thì ta thấy mức dự trữ tiền của Nhà máy là ngày càng quá ít, như vậy sẽ khó khăn trong việc đối phó với các khoản nợ vay ngắn hạn và chi tiêu hàng ngày của Nhà máy. Nếu nhà máy không có biện pháp kịp thời khắc phục, nó sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của Nhà máy nhất là hoạt động sản xuất kinh doanh - hoạt động có ảnh hưởng lớn nhất đếnn tình hình tài chính. 2.3. Đánh giá công tác phân tích các báo cáo tài chính tại Nhà máy. 2.3.1. Những kết quả đạt được. Sau khi nghiên cứu thực trạng công tác lập, và phân tích BCTC tại nhà máy, cá nhân em rút ra một số nhận xét sau: Thứ nhất: Về cơ bản, Nhà máy đã chấp hành đầy đủ các quy định của Nnvề lập và lưu hành BCTC. Nhà máy đã lập đầy đủ và nộp kịp thời 4 BCTC theo đúng quy định của chế độ kế toán Việt Nam gồm: Bảng CĐKINH Tế; BCKQKD; BCLCTT; thuyết minh BCTC. Mặc dù nhà nước chưa quy định bắt buộc phải lập BCLCTT, chỉ khuyến khích các doanh nghiệp và sử dụng, nhưng công ty đã lập từ năm 1997. Bảng CĐKINH Tế và BCKQKD được lập theo định kỳ hàng quý, BCLCTT và Thuyết minh BCTC lập theo định kỳ hàng năm và gửi đến nơi nhận BCTC theo quy định. Nhà máythiết bị Bưu điện là doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, do vậy theo quy định, Nhà máy đã gửi BCTC cho các cơ quan: Cơ quan tài chính, Cơ quan thuế, Cơ quan thống kê. Thứ hai: Có thể thấy các BCTC của công ty đã phản ánh tương đối đầy đủ, rõ nét thực trạng tài chính, tình hình kinh doanh của Nhà máy. Những thông tin trên BCTC của Nhà máy là những thông tin đáng tin cậy, vì chúng được tổng hợp, xử lý và cung cấp dựa trên hệ thống hạch toán khá khoa học, đúng chế độ. Đồng thời nó cũng được kiểm tra khá toàn diện của kế toán, kiểm toán. Sản phẩm của Nhà máy được đánh giá có chất lượng cao và tạo được uy tín trên thị trường nội địa. Nhiều khách hàng, nhiều nhà đầu tư.. rất quan tâm đến tình hình hiện tại cũng như khả năng phát triển của Nhà máy trong tương lai. Do vậy BCTC của nhà máy rất quan trọng, cần thiết, là căn cứ, là cơ sở cho việc ra quyết định kinh tế của tất cả các đối tượng có lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp. Vì lẽ đó, Ban giám đốc và phòng kế toán của Nhà máy rất quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả của thông tin trên BCTC. Thứ ba: Chất lượng lập BCTC. Trước khi lập BCTC chính thức, kế toán luôn tiến hành lập thử BCTC, kiểm tra đối chiếu nhiều lần giữa số liệu trên các báo cáo. Nếu phát hiện có sai sót lập tức kiểm tra lại sổ cái, sổ tổng hợp các tài khoản, sổ đối chiếu số phát sinh, bảng tổng hợp số dư các tài khoản. Khi chắc chắn không còn sai sót thì mới lập báo cáo chính thức. Do vậy số liệu trên BCTC của Nhà máy có độ tin cậy cần thiết. Thứ tư: Công tác tổ chức dữ liệu và chuẩn bị lập BCTC. Đây là khâu đầu tiên của công tác lập BCTC. Thực hiện khâu chuẩn bị góp phần giúp công tác lập BCTC được nhanh hơn, thuận tiện, có hiệu quả, chính xác hơn. Tại phòng kế toán của Nhà máy công tác tổ chức dữ liệu được tổ chức tương đối tốt. Trước khi lập BCTC, kế toán các bộ phận tiến hành hoàn thành các loại sổ sách như NKCT, Bảng kê, bảng chi tiết số dư… và chuyển cho kế toán tổng hợp, kế toán tổng hợp tiến hành lên sổ cái và lên các BCTC. Quá trình lập BCTC tương đối nhanh chóng, kịp thời. Hệ thống BCTC với 4 báo cáo chủ yếu bao gồm rất nhiều chỉ tiêu, số liệu liên quan tình hình doanh nghiệp nhiều mặt. Lập đầy đủ báo cáo tài chính là công việc khá phức tạp. Nhưng phần lớn công tác lập BCTC là do kế toán tổng hợp trực tiếp tiến hành. Như vậy vai trò nhiệm vụ của kế toán tổng hợp trong công tác lập báo cáo tại Nhà máy rất nặng nề. Nguyên nhân chính là chưa có sự phân công cụ thể bộ phận báo cáo nào là do phần hành kế toán nào thực hiện. 2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân. Thứ nhất: Hệ thống sổ kế toán của Nhà máy: Thông tin trên báo cáo đảm bảo độ tin cậy: Hình thức và các chỉ tiêu trên báo cáo đúng theo chế độ kế toán quy định. Tuy nhiên việc áp dụng hệ thống sổ kế toán theo hình thức NKCT chưa thực sự thống nhất. Hiện nay, nhà máy áp dụng hình thức kế toán NKCT nhưng hệ thống sổ kế toán nhà máy sử dụng một số theo hình thức nhật ký chung. Ví dụ như các NKCT và bảng kê số 1, số 2 không sử dụng mà thực hiện ghi chép theo hình thức nhật ký chung, cuối tháng kế toán tổng hợp lấp bảng tổng hợp các tài khoản 111, 112 và lên sổ cái. Điều này có thể thuận tiện cho công tác kế toán của nhà máy. Nhưng việc sử dụng không thống nhất sẽ gây khó khăn cho những người có thẩm quyền khi tiến hành kiểm tra sổ sách của nhà máy. Nhưng một số tài khoản trên BCTC chưa được thực hiện như: Tiền đang chuyển, hàng mua đang đi trên đường là do Nhà máy không tổ chức thực hiện hạch toán. Còn một số tài khoản như đầu tư tài chính ngắn hạn (121,128,129), tài sản cố định vô hình (213,2142). Chi phí xây dựng cơ bản dở dang (241).. là do nhà máy không có nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Thứ hai: Thuyết minh BCTC của Nhà máy phần chi tiết các khoản phải thu nợ phải trả.Trong đó số cuối kỳ và đầu năm chưa được ghi rõ phần số quá hạn và tổng số tiền tranh chấp mất khả năng thanh toán, điều này làm cho những người quan tâm đến khả năng thanh toán của Nhà máy chưa thấy rõ được khả năng thanh toán vì nhiều lúc các khoản phải thu nợ phải trả có thể là ít nhưng số nợ qúa hạn nhiều cũng biểu hiện khả năng thanh toán của nhà máy là không tốt. Thứ ba: Báo cáo KQKD để lập được phần III- Phần thuế GTGT được khấu trừ, thế GTGT được hoàn lại, thuế GTGT được miễn giảm: để lên được các chỉ tiêu trên báo cáo kế toán chủ yếu căn cứ trực tiếp trên báo cáo này của kỳ này, kỳ trước và số liệu trên TK 133 để tính toán và ghi lên các chỉ tiêu tương ứng chứ chưa lập các sổ chi tiết thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm theo mẫu số S01, S02, S03 - DN. Thứ tư: BCLCTT theo đúng chế độ phải lập số liệu của năm trước và năm nay. Nhưng BCLCTT của Nhà máy chỉ mới phản ánh mỗi số liệu năm nay. Thứ năm: Phân tích TCTC phục vụ điều hành sản xuất kinh doanh. Việc phân tích BCTC là cần thiết phục vụ cho công tác quản trị nhà máy cũng như các đối tượng sử dụng thông tin khác. Nhưng công tác tổ chức phân tích thực hiện chưa tốt. Hình thức phân tích BCTC của nhà máy là lập bảng tính ra các chỉ tiêu cơ bản về cơ cấu tài sản, tỷ suất lợi nhuận và khả năng thanh toán, tỷ suất sinh lời, nhưng việc nhận xét đánh giá những chỉ tiêu đó chưa được đầy đủ. Nếu chỉ căn cứ vào các chỉ tiêu khái quát trên thuyết minh BCTC để đánh thì chưa thể thấy hết các khía cạnh khác nhau của tình hình tài chính. Nếu đánh giá một cách chi tiết cụ thể. Ban giám đốc sẽ biết được những khó khăn cũng như những thuận lợi từ đó đề ra những phương hướng, giải pháp cụ thể để khai thác được những khả năng tiềm tàng và khắc phục những khó khăn, tồn tại. Bên cạnh đó, cán bộ công nhân viên trong cơ quan có thể không có khả năng phân tích được BCTC, nhưng khi những người có năng lực phân tích và cho thấy thực trạng của nhà máy có thể họ cũng có những giải pháp hay góp phần cải thiện tình hình nhà máy và đưa nhà máy đi đến những thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng, hoạt động kinh doanh nói chung. Mặt khác khi tính toán các hệ số khả năng thanh toán, kế toán Nhà máy sử dụng công thức: - Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn bằng tổng TSLĐ/ nợ ngắn hạn - Hệ số khả năng thanh toán nhanh bằng tiền/ tổng nợ ngắn hạn. Theo em việc sử dụng công thức tính toán này là chưa hợp lý vì khi thanh toán nợ ngắn hạn. Trong hàng tồn kho không sử dụng vật liệu, công cụ dụng cụ và chi phí sản xuất kinh doanh để thanh toán mà chỉ sử dụng một phần hàng tồn kho (Bao gồm thành phần, hàng hoá, hàng gửi bán). Việc thanh toán nhanh nhiều khi không phải tiền mới chỉ thanh toán nhanh được mà một phần hàng tồn kho như thành phẩm, hàng hoá, hàng gửi bán cũng có thể sử dụng để thanh toán trực tiếp (nếu như được chấp nhận). Chương 3. hoàn thiện công tác, phân tích BCTC góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh 3.1.Định hướng phát triển của Nhà máy Trong cơ chế thị trường Nhà máy luôn phấn đấu xây dựng và giữ gìn thương hiệu trên thị trường cạnh tranh . Tăng thị phần trong thương trường trong và ngoài nước. Trước tình hình hội nhập của đất nước đối thủ cạnh tranh không chỉ là các nhà máy các đơn vị cạnh tranh trong nước mà còn có các đối thủ trên thủ trên trường quốc tế.Trong hoàn cảnh hiện nay đòi hỏi nhà máy không ngừng phấn đấu về mọi mặt trong sản xuất kinh doanh sản phẩm. Nhà máy phấn đấu giảm giá thành sản phẩm.Đổi mới phương thức kinh doanh mở rộng mạng lưới tiêu thụ trên toàn quốc và tìm cách thâm nhập vào thị trường quốc tế. Tăng cường mối quan hệ với khách hàng truyền thốngvà tìm khách hàng mới. Đổi mới phương thức tiêu thụ.Để đạt được các mục tiêu trên nhà máy phải đổi mới phương thức quản lí nhân sự, tài chính, kinh doanh.Đặc biệt là công tác kế toán tài chính doanh nghiệp cần phải đổi mới để phù hợp với tình hình mới . 3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác lập và phân tích BCTC. 3.2.1. Yêu cầu hoàn thiện. Từ trực trạng và phân tích BCTC tại Nhà máy thiết bị bưu điện, dựa trên những định hướng xây dựng BCTC, em xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến nhằm nâng cao chất lượng công tác chính sách lập BCTC tại các doanh nghiệp hiện nay nói chung và tại nhà máy thiết bị bưu điện nói riêng nhằm đảm bảo yêu cầu: - Công tác kế toán tiến hành đúng với chế độ kế toán hiện hành - Công tác kế toán phải phù hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh. - Công tác lập và phân tích phải có hiệu quả và thuận tiện. 3.2.2. Nội dung hoàn thiện. Thứ nhất, phân công trách nhiệm trong công tác lập BCTC. Hệ thống BCTC doanh nghiệp hiện nay ở Việt Nam với bốn báo cáo theo quy định gồm nhiều chỉ tiêu liên quan đến nhiều hoạt động kinh tế tài chính, vừa mang tính tổng quát vừa chi tiết. Vì vậy xác định và phân công trách nhiệm lập BCTC cho mọi người, cho các bộ phận cùng thực hiện chuẩn bị số liệu, sẽ giảm bớt số lượng công việc của kế toán tổng hợp người trực tiếp tính toán và lập các chỉ tiêu trên BCTC. Đồng thời, làm cho việc lập BCTC nhanh hơn, chính xác hơn. vậy, việc phân công trách nhiệm lập BCTC có thể thực hiện như sau: - Bảng cân đối kế toán do kế toán tổng hợp trực tiếp lập. - BCKQKD phần I nên giao cho kế toán tiêu thụ và xác định kết quả hoạt động kinh doanh đảm nhiệm. - BCLCTT nên giao cho kế toán thanh toán. - Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phần II nên giao cho kế toán phụ trách thuế kết hợp với kế toán tiền lương và bảo hiểm xã hội. - Thuyết minh BCTC BCTC có thể phân công chi tiết như sau: + Phần "Chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố" giao cho kế toán chi phí và tính giá thành. + Phần tình hình tăng giảm TSCĐ giao cho kế toán TSCĐ. + Phần "Tình hình thu nhập của công nhân viên" giao cho kế toán tiền lương. + Phần tình hình tăng giảm các khoản phải thu và nợ phải trả giao cho kế toán thanh toán. + Phần còn lại sẽ giao cho kế toán tổng hợp lập. Tuy nhiên để phân công trách nhiệm như trên, đòi hỏi các kế toán viên phải có trình độ chuyên môn nhất định, không chỉ nắm vững các phần hành kế toán do mình phụ trách mà phải hiểu biết cần thiết về bản chất, nội dung kết cấu, nguyên tắc lập và tính toán các chỉ tiêu trên BCTC. Thứ hai: Hệ thống sổ kế toán. Đối với hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp ban hành theo quyết định 1141/TC/QĐ/CĐKINH Tế ngày 1/11/1995. Có thể một số tài khoản doanh nghiệp không sử dụng đến vì không có nghiệp vụ phát sinh. Còn các TK có nghiệp vụ phát sinh thì Nhà máy nên cố gắng áp dụng để các chỉ tiêu phản ánh trên BCTC được trung thực hơn, chính xác hơn. ví dụ như TK 113 - tiền đang chuyển. ở Nhà máy nghiệp vụ thanh toán qua ngân hàng tương đối nhiều (các khoản khách hàng trả cho nhà máy với giá trị lớn, các khoản Nhà máy thanh toán cho người cung cấp, đặc biệt là thanh toán cho nhà cung cấp nước ngoài thông qua việc mở L/C như vậy trong quá triònh làm thủ tục thanh toán, các khoản phải thu nhà máy chưa thực sự thu, các khoản nợ phải trả, Nhà máy chưa thực sự trả mà đang trong quá trình làm thủ tục thanh toán, số tiền này nên được phản ánh vào TK 113 để phản ánh đúng nội dung các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Và TK 151 - Hàng mua đang đi đường. Phản ánh giá trị vật tư hàng hoá nhà máy đã mua đã thanh toán tiền hoặc đã chấp nhận thanh toán nhưng chưa nhập kho và đang đi đường cuối tháng trước. Nghiệp vụ này ở nhà máy cũng có thể xẩy ra năng không được phản ánh trên BCTC, như vậy nhà máy nên cố gắng để hạch toán vào tài khoản này. Thứ 3: Trong phần thuyết minh BCTC chi tiết phần các khoản phải thu và nợ phải trả.Số đầu năm và cuối kỳ nhà máy nên ghi rõ tổng số và trong đó số quá hạn, số tiền tranh chấp mất khả năng thanh toán. Theo mẫu bảng dưới đây để đối tượng sử dụng thông tin đánh giá khả năng thanh toán được chính xác hơn (Một bảng 1 ở phần phụ lục). Thứ 4: Luật thuế GTGT là luật thuế mới được đi vào áp dụng năm 2002 để hiểu nó đã khó việc áp dụng nó lại càng khó hơn. Bởi vậy từ khi ra đời đã có rất nhiều thông tư bổ sung, hướng dẫn cách hạch toán kế toán thuế GTGT. Thông tư số 100 ra ngày 15/7/2001 hướng dẫn thuế GTGT. Trong đó có hướng dẫn lập phần III. Thuế GTGT được khấu trừ, được miễn giảm, được hoàn lại và đữa đưa ra mẫu số hạch toán chi tiết thuế GTGT được khấu trừ được hoàn lại, được miễn giảm. Nếu căn cứ vào mẫu số này ta sẽ nhận thấy được dễ dàng thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm phát sinh tăng giảm khi nào, vì sao lại phát sinh và đồng thời đây cũng là căn cứ để lập báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phần III. Do vậy việc áp dụng mẫu số kế toán chi tiết thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm là cần thiết. (mẫu bảng 2 ở phần phụ lục). Thứ 5: Phân tích BCTC. Nếu nhìn vào những con số trên BCTC cũng như các con số mà kế toán nhà máy tính toán trên nội dung phần 5 của thuyết minh BCTC chưa nói lên được nhiều. Vì vậy những người cần thông tin phải mất nhiều thời gian để tính toán và phân tích, hơn nữa không phải tất cả mọi người cần thông tin đều có khả năng phân tích được BCTC. Theo em nghĩ để phát huy hiệu quả cao nhất của thông tin BCTC. Định kỳ nhà máy nên tiến hành phân tích BCTC và công việc này cần giao cho người có năng lực am hiểu về các vấn đề tài chính tiến hành phân tích BCTC một cách nghiêm túc, cụ thể, chi tiết, diễn giải bằng lời các chỉ tiêu trên thuyết minh BCTC và phân tích thêm một số chỉ tiêu cần thiết như đã được trình bày ở chương 2. Kết quả phân tích phải được công khai trước tập thể cán bộ công nhân viên, chỉ rõ thực trạng tài chính của nhà máy, tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh,triển vọng… Để từ đó ban lãnh đạo cũng như người nhiệt huyết gắn bó với nhà máy kịp thời đưa ra những giải pháp nhằm khai thác được những tiềm tàng và nhanh chóng nắm bắt được cơ hội cũng như có những biện pháp tháo gỡ những khó khăn để không ngừng đưa nhà máy phát triển. Bên cạnh đó khi tiến hành phân tích khả năng thanh toán, kế toán có thể sử dụng các hệ số phân tích sau: - Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn = (Tiền + đầu tư TCNH + các khoản phải thu + một phần hàng tồn kho + TSLĐ khác)/ Tổng nợ ngắn hạn. - Hệ số khả năng thanh toán nhanh bằng (tiền + Một phần hàng tồn kho)/ Nợ ngắn hạn. - Hệ số khả năng thanh toán tức thời bằng tiềng/ Nợ ngắn hạn. 3.2.3. Điều kiện hoàn thiện các nội dung trên. Với những giải pháp trên đây, nếu Nhà máy cân nhắc để áp dụng em tin chắc rằng hoàn toàn có thể thực hiện được. Nó phù hợ với các yêu cầu đặt ra, phù hợp với điều kiện hiện tại của Nhà máy vì: - Các kế toán viên ở Nhà máy đều có trình độ chuyên môn nhất định. Tất cả đều đã được đào tạo qua trường Đại học, Cao đẳng…. Cho nên việc phân công trách nhiệm từng phần BCTC cho từng bộ phận kế toán thực hiện là có thể tin cậy được. Cũng chính điều này tạo điều kiện cho Nhà máy có thể thực hiện công việc phân tích BCTC như đã kiến nghị trên. - Hiện nay Nhà máy đã được trang bị một hệ thống máy tính đầy đủ, cần thiết cho các bộ phận kế toán tạo điều kiện cho kế toán Nhà máy hạch toán đúng, đủ, kịp thời, sử dụng thống nhất các loại sổ sách theo hình thức NKCT. - Để lên được phần chi tiết các khoản phải thu và các khoản nợ phải trả trên thuyết minh BCTC. Trong đó số đầu kỳ và số cuối kỳ được chi tiết phải trả số nợ quá hạn, tổng số tiền tranh chấp mất khả năng thanh toán là công việc tương đối khó và phức tạp. Vì Nhà máy có nhiều bộ phận kế toán hạch toán phụ thuộc do đó để lên được phần này trên thuyết minh BCTC, yêu cầu kế toán phải tập hợp được số liệu từ các đơn vị hạch toán phụ thuộc. Tuy có phức tạp nhưng không có nghĩa là không làm được, bởi vì đây là một bút toán tổng hợp số liệu như những bút toán khác. Do đó Nhà máy nên xem xét và đưa kiến nghị này vào áp dụng cho thực tế của Nhà máy vì việc phản ánh rõ ràng sẽ cho đối tượng sử dụng thông tin biết được chính xác khả năng thanh toán của Nhà maý. 3.3. Một số giải pháp nhằm ổn định tình hình tài chính và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Nhà máy thiết bị bưu điện Trước khi đưa ra được những giải pháp để ổn định tình hình tài chính và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh chúng ta phải nhận biết được những khó khăn và thuận lợi chung của Nhà máy như sau: Về thuận lợi chung: Hiện nay Nhà máy đang tiến hành sản xuất kinh doanh sản phẩm phục vụ cho ngành Bưu chính Viễn thông - là lĩnh vực phát triển nhất hiện nay và đang được Đảng và Nhà nước tiếp tục cho mở rộng quy mô để hoạt động. Hơn nữa là bộ máy quản lý, và trình độ tay nghề của công nhân ngày càng được nâng cao. Nhưng bên cạnh đó Nhà máy cũng đang phải đối diện với những khó khăn nhất định là: Lĩnh vực sản xuất của Nhà máy đòi hỏi phải bắt kịp tiến bộ khoa học, phải thường xuyên đổi mới khoa học công nghệ, tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhu cầu xã hội ngày càng cao,… Cùng với việc phân tích tình hình tài chính của Nhà máy (trình bày ở chương 2), nếu đứng trên các khía cạnh khác nhau thì Nhà máy cũng có những xu hướng tốt, góp phần làm tình hình tài chính khả quan hơn như: các khoản nợ phải thu và các khoản nợ phải trả có xu hướng giảm, tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu có xu hướng tăng, và nguồn vốn chủ sở hữu không những đủ để trang trải các khoản đầu tư dài hạn mà còn một phần để bổ sung TSLĐ. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng không ít những tồn tại, làm tình hình tài chính của Nhà máy khó khăn và hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả bằng năm 2001 và 2002 đó là: TSCĐ chiếm trong tổng tài sản còn ít, Nhà máy dùng nguồn vốn chủ sở hữu đầu tư cho tài sản không nhiều, khả năng thanh toán còn chưa linh động, hàng tồn kho và các khoản phải thu còn chiếm tỷ trọng lớn, hiệu quả sử dụng tài sản lưu động và tài sản cố định ngày càng giảm sút, lượng tiền mặt tồn quỹ quá ít… Như vậy để phát huy những lợi thế, khắc phục những tồn tại, góp phần cải thiện tình hình tài chính, nâng cao hiệu quả sản xuất của Nhà máy em xin có một số kiến nghị như sau: - Thứ nhất, tăng tỷ trọng TSCĐ, Nhà máy nên tăng tỷ trọng TSCĐ lên để tăng năng lực sản xuất, cần chú trọng vào việc mua sắm máy móc thiết bị, nhà cửa, phương tiện vận tải… nhằm phục vụ tốt cho quá trình sản xuất, cho quá trình chuyên chở và bảo quản sản phẩm. Đối với Nhà máy, việc chú trọng đầu tư đổi mới máy móc thiết bị là rất quan trọng, bởi vì sản phẩm của Nhà máy rất dễ bị lạc hậu lỗi thời. Như vậy việc đầu tư mua sắm nhằm tăng năng lực sản xuất, tạo điều kiện để Nhà máy nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã là rất cần thiết. Trong mấy năm vừa qua giá trị còn lại của TSCĐ ngày càng giảm. Tuy Nhà máy có đầu tư mua sắm TSCĐ nhưng chưa chú trọng đến việc bù đắp những TSCĐ đã khấu hao, nay đã giảm năng lực sản xuất. Như vậy Nhà máy không những không tăng năng lực sản xuất mà còn giảm, nếu cứ tiếp tục xu hướng này thì Nhà máy sẽ gặp khó khăn trong việc giữ vị thế của mình. - Thứ hai, tăng tỷ suất tự tài trợ, trong những năm vừa qua với nguồn vốn chủ sở hữu của mình, Nhà máy đã dùng để trang trải các khoản đầu tư dài hạn và một phần dùng để bổ sung tài sản lưu động. Đây là biểu hiện lành mạnh, nhưng đầu tư dài hạn chiếm tỷ trọng trong tổng số không nhiều cho nên nguồn vốn chủ sở hữu để trang trải. Nếu xét về tỷ trọng thì nguồn vốn chủ sở hữu chiếm trong tổng số tài sản không lớn. Năm 2001 và 2002 chiếm 27%. Năm 2003 tăng lên 35%, đây là một xu hướng tốt Nhà máy nên phát huy để không ngừng nâng cao tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hưũ, chủ động độc lập trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm chi phí lãi vay, tăng lợi nhuận, tránh những rủi ro lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (khi tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư nhỏ hơn tỷ suất ngân hàng). Tuy nhiên để tăng được nguồn vốn chủ sở hữu thì Nhà máy phải hoạt động SXKD có hiệu quả, (còn vốn ngân sách cấp sẽ không có, vì Nhà nước chỉ cấp một lần khi Nhà máy mới thành lập, nếu không bổ sung nhiệm vụ mới sẽ không được cấp thêm). Ngoài ra Nhà máy có thể tăng nguồn vốn chủ sở hữu bằng cách xin Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông trợ cấp thêm vốn, hoặc nhận vốn góp liên doanh… - Thứ ba, tăng khả năng thanh toán, Nhà máy cần tăng khả năng thanh toán nhất là khả năng thanh toán nhanh. Với khả năng thanh toán nợ ngắn hạn ngày càng tăng thể hiện Nhà máy hoàn toàn có khả năng thanh toán các khảon nợ ngắn hạn trong năm, nhưng việc tồn kho và các khoản nợ phải thu quá nhiều nên mức độ linh động của khả năng thanh toán kém, biểu hiện khả năng thanh toán nhanh là chưa tốt. Tuy nhiên với đặc thù của Nhà máy là thuộc Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông, cho nên được Tổng Công ty đảm bảo khả năng thanh toán, nhưng khả năng thanh toán nhanh của Nhà máy cho thấy tình hình tài chính của Nhà máy là không tốt. Tiền mặt là tài sản linh động nhất có thể dùng để thanh toán nhanh các khoản nợ, trang trải các khoản chi phí, giúp Nhà máy chủ động trong hoạt động của mình, từ đó có thể chớp lấy những thời có có lợi cho Nhà máy. Như vậy, việc tăng khả năng thanh toán bằng cách tăng lượng tiền hiện có, muốn vậy Nhà máy phải nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu và giải phóng hàng tồn kho. - Thứ tư, tăng nhanh vòng quay hàng tồn kho, để cải thiện tình hình thanh toán, giảm rủi ro tài chính thì tăng nhanh hàng tồn kho là một vấn đề quan trọng. Thực tế ở Nhà máy cho thấy vòng quay của hàng tồn kho càng ngày càng chậm. Năm 2001 là 7,77; năm 2002 là 5,49; năm 2003 là 4,21 mà xu hướng thành phẩm và hàng gửi bán ngày càng tăng. Đây là biểu hiện rất xấu cho tình hình tài chính của Nhà máy. Sản phẩm sản xuất ra ngày càng bán chậm, tồn kho ngày càng nhiều. Đây là vấn đề cấp bách Nhà máy cần có giải pháp khắc phục ngay, nếu không Nhà máy sẽ bị giảm doanh thu do không bán được hàng. Bên cạnh đó sản phẩm của Nhà máy lạc hậu rất nhanh, nếu thời gian ở trong kho nhiều nó sẽ bị giảm giá trị về mặt vô hình do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, do nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Nếu Nhà máy không có giải pháp để giải phóng lượng hàng tồn kho này thì sau một thời gian sản phẩm sẽ bị giảm giá, nhiều khi sự giảm giá đó cũng không có người mua. Đó là một rủi ro rất lớn. Hiện nay với lượng hàng tồn kho lớn như vậy thì giải pháp cần tiến hành là" Một là: Nhà máy phải lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho, có thể tiến hành kiểm kê và ghi giảm giá hàng tồn kho, sau đó tiến hành phân bổ đầu vào chi phí. Hai là: Nhà máy phải có giải pháp để xúc tiến quá trình bán hàng nhanh chóng, có thể: + Đào tạo, tuyển dụng đội ngũ bán hàng, tiếp thị có năng lực, có trình độ. Cùng với nó là tổ chức bán hàng theo chiều dọc (nghĩa là một nhóm nhân viên bán hàng đảm nhiệm một số sản phẩm mà họ am hiểu tính năng, tác dụng của nó). Từ đó họ có thể tiếp cận với khách hàng, giới thiệu sản phẩm, xúc tiến quá trình bán hàng nhanh hơn. Hiện nay, Nhà máy đang tổ chức bán hàng theo chiều ngang (có nghĩa là mỗi đội ngũ nhân viên bán hàng phụ trách một khu vực và đảm nhiệm tất cả các loại sản phẩm mà Nhà máy có). Như vậy, hạn chế năng lực trình độ của người bán hàng vì họ không được chuyên môn hoá, những người bán hàng này không thể hiểu biết tính năng tác dụng của tất cả các sản phẩm của Nhà máy, thậm chí nhiều khi họ không nhớ hết tên mặt hàng, điều này làm cho quá trình bán hàng không có hiệu quả. + áp dụng giảm giá, chiết khấu: Hiện nay Nhà máy cũng áp dụng biện pháp này nhưng còn ở mức độ hạn hữu. Để đẩy nhanh quá trình bán hàng có thể đây là một phương pháp tốt tức là thực hiện giảm giá đối với những khách hàng mua với gía trị lớn, chiết khấu đối với những khách hàng thanh toán nhanh. Hiện nay, Nhà máy có trung tâm bảo hành, bộ phận này nên phát huy hơn nữa. Trong thời gian bảo hành, nếu sản phẩm của khách hàng có hư hỏng thì cần được sửa chữa kịp thời, nhanh chóng với thái độ sẵn lòng, điều này sẽ tạo tâm lý thoải mái, tin cậy cho khách hàng khi mua hàng của Nhà máy. + Nhà máy nên tăng cường nghiên cứu thị trường để tìm hiểu nhu cầu thị trường của khách hàng để có kế hoạch sản xuất những mặt hàng khách hàng cần chứ không phải sản xuất những mặt hàng mình có, mở rộng thị trường, tăng sản phẩm tiêu thụ… - Thứ năm, tăng vòng quay các khoản phải thu, tăng vòng quay các khoản phải thu là một vấn đề cần thiết và quan trọng đối với Nhà máy, khoản phải thu của khách hàng của Nhà máy hiện nay rất lớn, doanh thu bán chịu nhiều. Đây cũng là một đặc trưng, Nhà máy cung cấp sản phẩm cho các mạng Bưu chính Viễn thông có ưu điểm là ít mất khả năng thanh toán, ít có khoản nợ khó đòi nhưng việc bán chịu này sẽ làm cho vốn của Nhà máy bị chiếm dụng, gây thiếu vốn giả tạo, ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường của Nhà máy, mặt khác khi thiếu vốn Nhà máy phải đi vay và phải trả một khoản lãi suất, như vậy sẽ tăng chi phí, giảm lợi nhuận. Bên cạnh đó các khoản phải thu lớn nó sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán. Để giải quyết được vấn đề này Nhà máy nên yêu cầu Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông giúp đỡ, hơn nữa các hợp đồng mua bán rõ ràng, ghi thời hạn thanh toán ngắn hơn, nếu quá hạn ghi trong hợp đồng, có thể yêu cầu khách hàng trả lãi suất. Trên thực tế Nhà máy có những khoản phải thu của khách hàng kéo dài nhiều năm, điều này sẽ không có lợi cho Nhà máy. - Thứ sáu, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định, thực tế cho thấy hiệu quả sử dụng vốn của Nhà máy nói chung, hiệu quả sử dụng vốn cố định của Nhà máy nói riêng ngày càng giảm sút. Đối với TSCĐ sức sản xuất và sức sinh lời của nguyên giá và giá trị còn lại ngày càng kém hiệu quả. Qua tìm hiểu thì Nhà máy sản xuất sản phẩm theo đối tượng (sản xuất theo một quy trình công nghệ khép kín chứ không phải sản xuất hàng loạt). Vì vậy TSCĐ không được sử dụng hết công suất (chỉ đạt được 60 - 70%). Thế mà hiệu quả sử dụng TSCĐ ngày càng giảm, đây là điều bất cập. Nhà máy nên điều tra nghiên cứu và áp dụng một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định sau: + Xem xét những TSCĐ, nếu còn phù hợp với sản xuất thì kế hoạch tu bổ, sửa chữa. + Mạnh dạn thanh lý, nhượng bán những tài sản không có nhu cầu sử dụng, những tài sản cũ, lạc hậu, năng suất thấp để thu hồi vốn, đầu tư những máy móc thiết bị có năng suất cao hơn. + Huy động tối đa năng lực của máy móc thiết bị hiện có vào sản xuất tăng năng lực sản xuất, giảm chi phí, tăng chất lượng giá trị sản phẩm. + Thực hiện liên doanh liên kết với các doanh nghiệp trong nước, nước ngoài để thu hút trình độ công nghệ, trình độ quản lý của các đối tác. Hiện nay, Nhà máy đã áp dụng phương thức thuê tài chính. Đây là một phương thức tín dụng trung và dài hạn và cũng là một giải pháp hữu ích với Nhà máy trong giai đoạn trước mắt cũng như về lâu dài. Việc sử dụng phương thức này mang lại cho Nhà máy những lợi ích: Giúp cho Nhà máy không phải huy động tập trung tức thời một lượng vốn để mua TSCĐ. Với số vốn hiện có Nhà máy vẫn có khả năng mở rộng quy mô kinh doanh. Giúp cho Nhà máy nhanh chóng thực hiện được dự án đầu tư, chớp được thời cơ kinh doanh. Đây là phương thức thích hợp trong tình hình thiếu vốn hiện nay. DO vậy Nhà máy nên phát huy. - Thứ bảy, nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn lưu động, ở Nhà máy tài sản lưu động chiếm tỷ trọng trong tổng số tài sản vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động góp phần rất lớn vào việc tăng hiệu quả hoạt sản xuất kinh doanh. Để nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động, vấn đề đầu tiên là tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Điều này có nghĩa là việc giải phòng hàng tồn kho và đôn đốc thu hồi các khoản phải thu vẫn là vấn đề hàng đầu. Thực tế cho thấy tài sản lưu động của Nhà máy trong mấy năm vừa qua là rất lãng phí, vì vậy Nhà máy cần chú trọng hơn nữa trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Trên đây là những giải pháp được đúc rút từ thực trạng tình hình tài chính của Nhà máy. Những giải pháp này đưa ra không tham vọng là Nhà máy sẽ áp dụng cùng một lúc mà ban lãnh đạo Nhà máy cần phải xác định được mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài để áp dụng những giải pháp này phù hợp với hoàn cảnh thực tế nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. 3.4.Kiến nghị 3.4.1.Kiến nghị với nhà nước Trong xu thế cạnh tranh hội nhập nhà máy đứng trước nhiều khó khăn về vốn về nhân lực .Nhà máy mong muốn nhà nước hỗ trợ về vốn bằng các hình thưc tài trợ cho vay với lãi suốt ưu đãi. Miễn giảm thuế cho các sản phẩm mới.Trợ giá cho các sản phẩm phục vụ mạng lưới thông tin cho các nghành an ninh quốc phòng. Mở các lớp đào tạo bồi dưỡng về kiến thức tài chính doanh nghiệp. 3.4.2. Kiến nghị với nghành chủ quản Là một đơn vị trực thuộc Tổng Cục bưu điện Nhà máy mong muốn Tổng cục hổ trợ về vốn cũng như nguồn nhân lực .Cụ thể là Nhà máy mong muốn tổng cục hỗ trợ chi phí để đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực cho nhà máy 3.4.3.Kiến nghị với các nghành liên quan Kính mong các liên quan phối hợp chặt chẽ để Nhà máy đạt được mục tiêu của mình .Các cơ quan thuế giúp đỡ bằng cách tư vấn giúp nhà máy thực hiện tốt nghĩa vụ của mình với nhà nước .Đồng thời giúp Nhà máy được hưởng quyền lợi cua mình như được hưởng miễn giảm thuế … Các ngân hàng luôn coi nhà máy là khách hàng truyền thống đượn hưởng các dịch vụ ưu đãi .Các ngân hàng thường xuyên liên hệ và tư vấn khi Nhà máy gặp khó khăn về vốn về hình thức thanh toán với khách hàng trong nước và quốc tế kết luận Một lần nữa ta khảng định rằng kế toán lập và phân tích BCTC có tác dụng to lớn trong cung cấp thông tin và quản lí kinh tế. Thông qua lập và phân tích BCTC giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp cũng như các đối tượng sử dụng thông tin khác ra được quyết định đúng đắn phù hợp. Tính khoa học của kế toán và phân tích BCTC thực sự đã phát huy tác dụng như một công cụ sắc bén có hiệu lực phục vụ yêu cầu quản lí kinh tế trong điều kiện hạch toán độc lập hiện nay. Sau môt thời gian thực tập tại Nhà máy giúp em rất nhiều trong việc củng cố lại kiến thức về lí thuyết phân tích BCTC và việc vận dụng lí luận vào thực tiễn. Qua đó để thấy được một người làm được việc không chỉ cần đến sự hiểu biết cặn kẽ về mặt lí thuyết mà phải biết vận dụng linh hoạt lí luận đã học vào thực tiễn công việc.Trong thời gian ấy em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các cô chú anh chị trong phòng kế toán tổng hợp. Thêm vào đó là sự hướng dẫn cặn kẽ của thầy giáo hướng dẫn sự hướng dẫn quí báu ấy đã giúp em nghiên cứu mộtcách khoa học hơn đầy đủ hơn về chuyên đề đã chọn. Vì thời gian thực tập, trình độ hiểu biết có hạn lại chưa có kinh nghiệm thực tế nên chuyên đề thực tập này không thể tránh khỏi những sai sót. Kính mong sự góp í của thầy cô giáo và bạn đọc để bản luận văn này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo, các cô chú, anh chị công tác tại phòng kế toán thống kê Nhà máy Thiết bị Bưu điện Hà nội và đặc biệt là PGS. TS Vũ Duy Hào đã giúp đỡ em hoàn thành bản luận văn này. tài liệu tham khảo 1.Giáo trình tài chính doanh nghiệp Trường đại học kinh tế quốc dân 2.Giáo trình lí thuyết tài chính - tiền tệ Trường đại học kinh tế quốc dân 3.Những vấn đề cơ bản về quản trị tài chính doanh nghiệp Trường đại học kinh tế quốc dân 4.Kế toán tài chính Trường đại học Tài chính kế toán Hà nội Mục lục Lời nói đầu 1 Chương 1 L‏‎‎ý luận cơ bản về công tác phân tích BCTCdn 3 1.1. Các báo cáo TCDN 3 1.1.1 Thông tin kế toán Tài chính 3 1.1.2 Mục đích tác dụng của BCTC 3 1.1.3 Yêu cầu của BCTC 5 1.1.4 Nguyên tăc cơ bản lập BCTC 5 1.1.5 Nội dung và phương pháp lập BCTC 5 1.1.5.1 Bảng cân đối kế toán 6 1.1.5.2 Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh 13 1.1.5.3 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ 15 1.1.5.4 Thuyết minh BCTC 18 1.2 Phân tích BCTC 20 1.2.1 Mục tiêu của phân tích BCTC 20 1.2.2 Nội dung của phân tích BCTC 21 1.2.3 Phương pháp của phân tích BCTC 22 1.2.3.1 Phương pháp so sánh 22 1.2.3.2 Phương pháp chi tiết 23 1.2.3.3 Phương pháp phân tích nhân tố 23 1.2.3.4 Phương pháp dự đoán 24 1.2.3.5. Kỹ thuật phân tích BCTC 24 1.2.4. Tổ chức công tác phân tích BCTC trong doanh nghiệp 24 1.3.Các nhân tố ảnh hưởng tới nôi dung phân tích các BCTCDN 25 1.3.1 Những nguồn thông tin cần thiết cho phân tích BCTC 25 1.3.2 Phương pháp phân tích báo cáo tài chính 26 1.3.3 Những cán bộ tài chính thực hiện công tác phân tích BCTC 26 Chương 2 Thực trạng công tác lập và phân tích BCTC của nhà máy thiết bị bưu điện Hà nội 27 2.1 Khái quát chung về nhà máy Thiêt bị bưu điện 27 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của nhà máy 27 2.1.2 Đặc điểm quy trình công nghệ và hệ thống tổ chức quản lý‏ ‎‎ ‏‎sản xuất của nhà máy 27 2.1.2.1 Đặc điểm quy trình công nghệ nhà máy 27 2.1.2.2 Hệ thống tổ chức quản lý nhà máy 29 2.1.3 Tổ chức bộ máy kế toán và công tác hạch toán tại nhà máy 31 2.1.3.1 Đặc điểm 31 2.1.3.2 Cơ cấu tổ chức bộ máy kế toán 31 2.1.3.3 Tổ chức hạch toán kế toán 32 2.2 Thực tiễn công tác phân tích BCTC của nhà máy 33 2.2.1 Thực tiẽn công tác lập BCTC 33 2.2.1.1 Các báo cáo tài chính 33 2.2.1.2.Thực trạng công tác BCTC ở nhà máy 38 2.2.2.2 Phân tích đánh giá cấu thành ,biến động tài sản ,nguồn vốn của nhà máy 39 2.2.2.3 Phân tích kết quả kinh doanh của nhà máy 40 2.2.2.4 Phân tích tình hình công nợ 43 2.2.2.5 Phân tích rủi ro tài chính 2.2.2.6 Phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động 47 2.2.2.7 Phân tích tình hình lưu chuyển tiền tệ 49 2.3 Đánh giá công tác phân tích các báo cáo tài chính 51 2.3.1. Những kết quả đạt được 51 2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 53 Chương 3 Một số ‏‎ý kiến nhằm hoàn thiện công tác lập phân tích BCTC và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh 55 3.1 Định hướng phát triển của Nhà máy 55 3.2 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác lập và phân tích BCTC 55 3.2.1 Yêu cầu của hoàn thiện 55 3.2.2 Nội dung hoàn thiện 55 3.2.3 Điều kiện hoàn thiện 58 3.3 Một số giải pháp nhằm ổn định tình hình tài chính và nângcao hiệu quả kinh doanh tại nhà máy 59 3.4.Kiến nghị 64 3.4.1. Kiến nghị với Nhà nước 64 3.4.2.Kiến nghị nghành chủ quản 65 3.4.3.Kiến nghị nghành có liên quan 65 Kết luận 66 Tài liệu tham khảo 67

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0114.doc
Tài liệu liên quan