Đề tài Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá

LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trên lý thuyết cũng như thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp, phân tích tài chính đóng vai trò hết sức cần thiết. Mục đích của việc phân tích tài chính là giúp người sử dụng thông tin đánh giá được sức mạnh tài chính, khả năng sinh lời và triển vọng của doanh nghiệp. Do vậy, phân tích tài chính có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với các chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp mà các thông tin từ việc phân tích tài chính mang lại còn hữu ích đối với các nhà đầu tư, nhà cung cấp, nhà cho vay, người lao động trong doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế. Đặc biệt, đối với các công ty cổ phần, công tác này đặc biệt chiếm vị trí nổi bật bởi nó ảnh hưởng rất lớn tới việc ra quyết định của các nhà đầu tư - một nhân tố giữ vai trò không nhỏ tới hoạt động của doanh nghiệp. Song, vì những lý do khác nhau, trên thực tiễn, công tác phân tích tài chính tại các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự trở thành công cụ hữu ích cho các đối tượng liên quan, do vậy chưa thực sự phát huy được vai trò, ý nghĩa tích cực của nó. Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác cảng biển, đại lý và giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu. Trong lĩnh vực này, doanh nghiệp chịu sự cạnh tranh khá lớn của gần 200 doanh nghiệp làm dịch vụ hàng hải chủ yếu tập trung tại các trung tâm thưong mại hàng hải như Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Đà Nẵng và trong tương lai có thể còn phải cạnh tranh gay gắt với các hãng tàu nước ngoài. Muốn tồn tại và phát triển trong bối cảnh cạnh tranh, một nhân tố quan trọng là doanh nghiệp cần phải đánh giá chính xác thực trạng tài chính và tiềm năng của doanh nghiệp để có thể ra những quyết định đúng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp có nhận được sự quan tâm của các nhà đầu tư, các nhà cho vay, các nhà cung cấp hay không cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ công tác phân tích tài chính của doanh nghiệp. Nhận thức được tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp, Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá cũng quan tâm tới công tác này. Nhưng công tác phân tích tài chính của Công ty vẫn chưa thực sự có hệ thống, chưa có chiều sâu, chưa thực sự là công cụ đắc lực cho việc ra quyết định của các nhà quản lý và chưa trở thành đòn bẩy để thu hút sự quan tâm của các đối tượng liên quan khác. Để khắc phục những tồn tại trong công tác phân tích tình hình tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá, tôi đã chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá”. MỤC LỤC Mục lục 1 Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt 3 Danh mục các bảng 4 Danh mục các sơ đồ 5 LỜI MỞ ĐẦU 6 CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 10 1.1. Hoạt động tài chính và vai trò của phân tích tài chính 10 1.1.1. Hoạt động tài chính của doanh nghiệp 10 1.1.2. Vai trò của phân tích tài chính 13 1.2. Công tác phân tích tài chính trong doanh nghiệp 14 1.2.1. Quy trình phân tích tài chính 14 1.2.2. Phương pháp phân tích tài chính 16 1.2.2.1. Phương pháp so sánh 17 1.2.2.2. Phương pháp tỷ số 18 1.2.2.3. Phương pháp phân tích tài chính Dupont 19 1.2.3. Nội dung phân tích tài chính 20 1.2.3.1. Phân tích cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn và mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn 20 1.2.3.2. Phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh 26 1.2.3.3. Phân tích các chỉ tiêu về khả năng thanh toán 29 1.2.3.4. Phân tích các chỉ tiêu về khả năng hoạt động 31 1.2.3.5. Phân tích các chỉ tiêu về khả năng sinh lãi 33 1.2.3.6. Đánh giá khả năng tăng trưởng 36 1.3. Nhân tố ảnh hưởng tới hoàn thiện công tác phân tích tài chính trong doanh nghiệp 41 1.3.1. Nhân tố chủ quan 41 1.3.2. Nhân tố khách quan 42 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CẢNG ĐOẠN XÁ 44 2.1. Tổng quan về Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá 44 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá 44 2.1.2. Cơ cấu tổ chức Công ty 46 2.1.3. Cơ chế quản lý tài chính của Công ty 47 2.1.4. Tổ chức Bộ máy kế toán và Công tác kế toán của Công ty 49 2.2. Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá 51 2.2.1. Về quy trình phân tích tài chính 51 2.2.2. Về phương pháp phân tích tài chính 52 2.2.3. Về nội dung phân tích tài chính 52 2.2.3.1. Phân tích cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn 53 2.2.3.2. Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán 56 1.2.3.3. Phân tích hiệu quả kinh doanh 59 2.3. Đánh giá công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá 61 2.3.1. Những mặt đạt được 61 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 62 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CẢNG ĐOẠN XÁ 65 3.1. Định hướng cơ chế quản lý tài chính và công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá 65 3.2. Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá 66 3.2.1. Về quy trình phân tích tài chính 66 3.2.2. Về nội dung phân tích 67 3.2.2.1. Về cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn 67 3.2.2.2. Về tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh 71 3.2.2.3. Về khả năng thanh toán 74 3.2.2.4. Về khả năng hoạt động 76 3.2.2.5. Về hiệu quả kinh doanh và khả năng sinh lãi 78 3.2.2.6. Đánh giá khả năng tăng trưởng 79 3.2.3. Về phương pháp phân tích 80 3.2.4. Về tổ chức và nhân sự cho công tác phân tích tài chính 82 3.2.5. Về kỹ thuật và công nghệ 83 3.2.6. Về công tác kế toán, kiểm toán và thống kê 84 3.3. Kiến nghị 84 3.3.1. Về phía Nhà nước 84 3.3.2. Về phía ngành liên quan 85 KẾT LUẬN 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87 PHỤ LỤC 89

docx89 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1581 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
96 50.273 53.443 2 Chi phí 36.164 41.045 43.873 3 Chi phí/Doanh thu 81,09% 81,64% 82,09% (Nguồn: Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá) Tỷ lệ chi phí/doanh thu của Công ty hàng năm thường dao động quanh mức 80%. Với mục tiêu kiểm soát chi phí và đảm bảo mức lợi nhuận mục tiêu, Công ty phấn đấu kiểm soát tỷ lệ này ở mức tối đa là 80%. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, Công ty luôn yiến hành các biện pháp nhằm hợp lý hoá sản xuất như quy hoạch bãi theo lô, theo line, theo từng hãng tàu; áp dụng quản lý container bằng máy vi tính nhằm tăng sản lượng xếp hàng trên bãi, giảm tỷ lệ phán xẩu, rút ngắn thời gian giao nhận hàng. Theo đó, chi phí nhiên liệu, chi phí nhân công, chi phí dịch vụ mua ngoài... cũng giảm đi tương ứng. Tuy nhiên, do sự biến động của thị trường đầu vào (xăng dầu, nhân công) nên yếu tố chi phí cũng chịu tác động nhất định. Về kết quả hoạt động kinh doanh, Công ty tổng kết trên một số chỉ tiêu sau: BẢNG 2.6: KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu 19,24 18,58 20,56 Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu 18,3 16,62 20,56 Tỷ suất lợi nhuận trên vốn Tỷ suất lợi nhuận sau thuế/ tổng vốn 10,69 10,78 11,38 Tỷ suất lợi nhuận sau thuế/ vốn điều lệ 23,35 23,99 32,76 Tỷ suất lợi nhuận sau thuế/ vốn chủ sở hữu 16,88 16,20 20,97 (Nguồn: Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá) Nhóm chỉ tiêu sinh lời cho thấy hình ảnh một Công ty tăng trưởng ổn định và chắc chắn: tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu biến động xung quanh mức 19% . Tỷ suất này giảm nhẹ trong năm 2005 là do doanh thu tăng mạnh, dù lợi nhuận vẫn tăng nhưng tốc độ tăng doanh thu tăng nhanh hơn tốc độ tăng lợi nhuận. Cụ thể, trong năm 2005, Công ty mở rộng khai thác ra khu vực chuyển tải Hạ Long và Cảng Cái Lân, lượng hàng chuyển tải chiếm gần 40% tổng sản lượng năm 2005, doanh thu năm 2005 tăng 13% so với năm 2004. Đồng bộ với việc đó là tổng chi phí năm 2005 tăng 14% so với năm 2004, trong đó có chi phí dịch vụ mua ngoài có mức tăng cao nhất, lên tới 45%, riêng chi phí thuê sà lan vận chuyển năm 2004 là 389.695.236 đồng, năm 2005 là 4.804.159.811 đồng. Bên cạnh đó, chi phí lãi vay phải trả năm 2005 cũng tăng mạnh, từ 574.259.909 đồng năm 2004 tăng đến 932.054.650 đồng do lãi suất tiền vay tăng (lãi suất tiền vay năm 2004 là 3,7%/năm, từ 16/6/2005 đến 15/6/2006 là 5%/ năm). Nhóm chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế trên vốn cho thấy việc sử dụng đồng vốn của Công ty ngày càng hiệu quả, năm sau luôn luôn tăng hơn so với năm trước: Tỷ suất lợi nhuận sau thuế/ tổng vốn tăng từ 10,69% năm 2004 lên 10,78% năm 2005 và năm 2006 là 11,38%. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu có giảm nhẹ vào năm 2005 so với năm 2004 (giảm 0,7%) nhưng tăng mạnh vào năm 2006 (tăng thêm 4,77%). Các chỉ tiêu hoạt động và sinh lợi phản ánh Công ty đang trên đà phát triển tuy với tốc độ không cao nhưng ổn định và chắc chắn. 2.3. Đánh giá công tác phân tích tài chính tại công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá. 2.3.1. Những mặt đạt được: Qua thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá, có thể đánh giá những kết quả đã đạt được của Công ty như sau: Thứ nhất, về thông tin được sử dụng để phân tích, Công ty đã có sự kết hợp giữa các thông tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Về thông tin bên trong doanh nghiệp, Công ty đã sử dụng các nguồn thông tin cập nhật, đáng tin cậy từ các báo cáo tài chính qua các năm, các chính sách kế toán, các số liệu thống kê về các số liệu liên quan được cung cấp bởi các phòng ban chức năng khác và chiến lược kinh doanh của Công ty trong từng thời kỳ. Về thông tin bên ngoài doanh nghiệp, Công ty cũng đã kết hợp phân tích các thông tin chung về nền kinh tế, về thị trường và về đối thủ cạnh tranh, tuy các thông tin này vẫn còn nhiều hạn chế. Thứ hai, về phương pháp phân tích, Công ty đã sử dụng hai phương pháp cơ bản là phương pháp so sánh và phương pháp tỷ lệ. Tuy việc sử dụng các phương pháp này của Công ty chưa thực sự triệt để và khoa học nhưng nhìn chung mang lại những hiệu quả nhất định là việc phân tích trở nên đơn giản và dễ hiểu, phù hợp với mọi đối tượng sử dụng thông tin. Phương pháp tỷ lệ được Công ty sử dụng đã đưa ra được những chỉ tiêu tài chính cần thiết. Việc sử dụng phương pháp so sánh cũng có sự kết hợp giữa so sánh dọc và so sánh ngang, tạo tính linh hoạt, và các số liệu, chỉ tiêu được so sánh trong ba năm liên tiếp (từ năm 2004 đến năm 2006) cũng giúp người sử dụng thông tin có cái nhìn thông suốt về tình hình tài chính của Công ty trong một quá trình. Ba là, nội dung phân tích tài chính về cơ bản đã đưa ra những thông tin khái quát nhất về tình hình tài chính của doanh nghiệp: về cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn, tình hình thanh toán, khả năng sinh lãi. Đây là những chỉ tiêu mà hầu hết các đối tượng sử dụng thông tin cần quan tâm đầu tiên: đó là nguồn vốn được hình thành từ đâu, được sử dụng như thế nào; doanh nghiệp có khả năng tự chủ về tài chính hay không; hoạt động kinh doanh có mang lại hiệu quả hay không. Dù việc sử dụng các chỉ tiêu chưa thật sự triệt để nhưng về cơ bản, nó vẫn mang tính hữu dụng đối với các đối tượng sử dụng thông tin. 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân. Công tác phân tích tài chính của Công ty vẫn tồn tại những hạn chế sau: Thứ nhất, về thông tin sử dụng để phân tích, tuy Công ty đã sử dụng kết hợp cả thông tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp nhưng do thiếu thông tin trong việc lấy số liệu trung bình ngành nên việc phân tích ít nhiều giảm tính khách quan, chỉ dựa trên sự đánh giá chủ quan của Công ty. Vì vậy, việc đánh giá về tình hình tài chính của Công ty chỉ đơn thuần qua sự so sánh các số liệu, các chỉ tiêu của Công ty qua các năm mà chưa đặt các số liệu, các chỉ tiêu đó bên cạnh một tiêu chuẩn nhất định. Thứ hai, về nội dung phân tích, ngay trong các chỉ tiêu mà công ty áp dụng, việc sử dụng chúng cũng chưa thực sự triệt để, nội dung hết sức sơ sài, mặc dù đã cung cấp những thông tin khái quát nhất nhưng thiếu đi tính chi tiết. Cụ thể như sau: - Trong việc phân tích cơ cấu tài sản, Công ty mới chỉ dừng lại ở việc phân tích tỷ lệ tài sản dài hạn và tài sản ngắn hạn trên tổng tài sản, chưa đi sâu chi tiết tỷ lệ của từng loại tài sản để xác định được tính hợp lý của cơ cấu tài sản cũng như tính hợp lý của việc sử dụng vốn. Tương tự, việc phân tích cơ cấu nguồn vốn cũng chỉ dừng lại ở việc phân tích tỷ lệ vốn chủ sở hữu và vốn vay trên tổng nguồn vốn, chưa phân tích chi tiết để làm rõ việc huy động vốn của Công ty . Nếu việc phân tích nội dung này thực sự triệt để sẽ giúp cho các nhà quản lý thấy được đầu tư vào loại tài sản nào là thích hợp, đầu tư vào thời điểm nào, đồng thời có chính sách hợp lý về việc cắt giảm hoặc tăng dự trữ hàng tồn kho hoặc chính sách bán hàng hợp lý để giảm các khoản nợ phải thu... Bên cạnh đó, việc phân tích cơ cấu nguồn vốn và xu hướng biến động của từng loại nguồn vốn cũng giúp các nhà quản lý thấy được mức độ an toàn và hợp lý trong việc huy động vốn. - Về tình hình công nợ và khả năng thanh toán: Công ty đã cơ bản phân tích được thực trạng các khoản phải thu và phải trả, tính toán được các chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá khả năng thanh toán. Nhưng vấn đề ở chỗ phân tích khả năng thanh toán không đơn thuần chỉ đánh giá khả năng doanh nghiệp có thể trang trải được các khoản nợ bằng tài sản của mình hay không mà còn phải đánh giá hiệu quả việc sử dụng các khoản nợ như thế nào qua việc phân tích đòn bẩy nợ và khả năng thanh toán lãi vay. - Về hiệu quả kinh doanh, Công ty mới chỉ đánh giá hiệu quả kinh doanh trên phương diện quản lý chi phí và lợi nhuận, chưa đặt lợi nhuận trong mối tương quan với khả năng chi trả lãi vay để thấy lợi nhuận của Công ty có đảm bảo khả năng chi trả lãi vay hàng năm hay không và ảnh hưởng của đòn bẩy nợ đến hiệu quả kinh doanh của Công ty như thế nào. Ngoài ra, Công ty chưa phân tích các tỷ số về khả năng hoạt động như: Vòng quay của tiền, vòng quay vốn lưu động, vòng quay hàng tồn kho, vòng quay các khoản phải thu, hiệu suất sử dụng tài sản cố định. Là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vận tải biển, với đặc thù là giá trị tài sản cố định rất lớn, luôn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cơ cấu tài sản; lượng nguyên liệu, vật liệu luôn luôn phải kịp thời để đáp ứng hoạt động khai thác cảng biển; giá trị các khoản phải thu tương đối lớn..., Công ty cần phải phân tích các tỷ số này để đo lường hiệu quả sử dụng của các bộ phận cấu thành tổng tài sản trên để kịp thời có những điều chỉnh cần thiết. Thứ ba, về phương pháp phân tích chưa hoàn thiện. Công ty chỉ dừng lại ở các phương pháp truyền thống là phương pháp so sánh và phương pháp tỷ lệ, chưa áp dụng các phương pháp mang lại hiệu quả cao hơn, tránh được tính đơn lẻ và rời rạc như: phương pháp loại trừ, phương pháp phân tích xu hướng, phương pháp Dupont... Thứ tư, công tác tổ chức phân tích còn diễn ra lẻ tẻ, tự phát, chưa xác định được kế hoạch, mục tiêu phân tích nên việc phân tích không mang lại hiệu quả cao, phần nhiều mang tính hình thức, chưa thực sự phát huy được tác dụng đối với việc ra quyết định quản lý tài chính của doanh nghiệp. Chính vì lý do này mà việc phân tích mới chỉ dừng lại ở việc phân tích thực trạng, qua đó chưa nêu được những giải pháp cũng như định hướng cho công tác quản lý tài chính của Công ty, việc phân tích cũng chưa rõ ràng phục vụ cho đối tượng sử dụng thông tin nào. Những hạn chế trên bắt nguồn từ những nguyên nhân sau: Về chủ quan, trước hết, do công tác phân tích tài chính thực sự chưa được coi trọng đúng mức trong doanh nghiệp, vì vậy việc đầu tư cơ sở vật chất, thời gian cũng như đội ngũ nhân sự cho công tác này chưa cao. Các nhà quản lý chưa sử dụng kết quả phân tích tài chính như một công cụ thực sự hữu hiệu cho công tác quản lý tài chính của mình. Hơn nữa, đối với các đối tượng sử dụng thông tin khác (các nhà đầu tư, nhà cho vay...), việc sử dụng thông tin phân tích tài chính làm định hướng cho việc ra quyết định chưa phổ biến, nên chưa tạo động lực lớn trong việc hoàn thiện công tác này. Do không có sự đầu tư thích đáng nên cán bộ phân tích chưa trau dồi đầy đủ những kiến thức cần thiết để nâng cao năng lực phân tích tài chính, dẫn đến kết quả của việc phân tích còn nhiều hạn chế. Hiện nay, hầu hết công tác phân tích tài chính chỉ do Kế toán trưởng, chưa có một ban phân tích riêng để quy định quyền hạn, trách nhiệm. Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa các phòng ban chức năng để cung cấp thông tin phục vụ cho việc phân tích chưa thật chặt chẽ, nên các thông tin chủ yếu lấy từ các số liệu trên các báo cáo tài chính, dẫn đến sự không đầy đủ, thiếu tính thuyết phục của việc phân tích. Về khách quan, do việc phân tích tài chính không phải là một hoạt động bắt buộc trên phương diện pháp lý nên Công ty chưa nhận thức được sự cần thiết của công tác này. Trong quá trình phân tích, sự khó khăn của việc lấy số liệu trung bình ngành cũng là một hạn chế rất lớn ảnh hưởng tới hiệu quả của phân tích tài chính. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CẢNG ĐOẠN XÁ 3.1. Định hướng cơ chế quản lý tài chính và công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá. Việc thực thi Hiệp định thương mại Việt Mỹ, hội nhập AFTA và đặc biệt việc gia nhập vào tổ chức Thương mại Thế giới WTO đã góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Hiện tại, theo thống kê thì hơn 90% lượng hàng hoá xuất nhập khẩu của nước ta đã được vận chuyển bằng đường biển. Dự kiến trong những năm tới, lượng hàng hoá xuất nhập khẩu của nước ta sẽ tăng với tốc độ cao, đặc biệt lượng hàng hoá xuất nhập khẩu với các nước trong khu vực bởi thuế xuất được cắt giảm mạnh theo lộ trình đã cam kết. Khối lượng hàng hoá thông qua cảng biển Việt Nam dự kiến đến năm 2010 là khoảng 215 triệu tấn, hứa hẹn nhiều cho các doanh nghiệp trong ngành vươn lên theo hướng mở rộng đầu tư, gia tăng năng lực dịch vụ và khai thác thị trường. Trong xu thế đó, lượng hàng hoá xuất nhập khẩu qua Cảng Hải Phòng cũng tăng lên nhanh chóng. Theo đó triển vọng của ngành vận tải nói chung và vận tải biển nói riêng cũng như các lĩnh vực kinh doanh phụ trợ cho hàng hoá xuất nhập khẩu như kinh doanh kho bãi, bốc dỡ hàng hoá tại Cảng được đánh giá là rất khả quan. Tuy nhiên, thực tế này cũng đặt Công ty trong một bối cảnh cạnh tranh quyết liệt, đối với cả các hãng tàu nước ngoài và khoảng hơn 200 doanh nghiệp làm dịch vụ hàng hải trong nước. Đứng trước bối cảnh cạnh trang này, để nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng như phát triển hình ảnh, vị thế của Công ty, cơ chế quản lý tài chính và công tác phân tích tài chính đóng vai trò không nhỏ. Để đáp ứng yêu cầu đó, trong hoạt động tài chính và công tác phân tích tài chính, Công ty cần quán triệt một số quan điểm, phương hướng sau: - Xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính của công ty phù hợp với điều kiện mới của nền kinh tế. - Nhận thức, đánh giá đúng tầm quan trọng của công tác phân tích tài chính và coi đó là hoạt động không thể thiếu trong quản lý doanh nghiệp. - Đầu tư về cơ sở vật chất, xây dựng đội ngũ cán bộ phụ trách công tác phân tích tài chính giàu kiến thức và kinh nghiệm, xác định trách nhiệm của đội ngũ phân tích tài chính. - Phát huy tính hữu dụng của các thông tin trên các báo cáo phân tích tài chính, là cơ sở cho việc kiểm soát tình hình tài chính cũng như việc ra các quyết định đầu tư, tài trợ, phân chia lợi tức cổ đông và nhận dạng các khả năng rủi ro của doanh nghiệp trong tương lai… 3.2. Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá. Trên cơ sở phân tích thực trạng, những mặt đạt được và hạn chế của công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá, luận văn xin được nêu lên một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác này của Công ty trên các nội dung chủ yếu sau: 3.2.1. Vể quy trình phân tích Như đã biết, công tác phân tích tài chính của Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá diễn ra một cách hết sức tự phát, không theo một quy trình cụ thể. Để công tác phân tích được tiến hành một cách hiệu quả, trước hết Công ty phải xác định được tầm quan trọng của công tác này và triển khai thực hiện theo một quy trình xác định gồm các bước: * Lập kế hoạch phân tích: bước này sẽ xác định nội dung, phạm vi, thời gian và cách thức tổ chức phân tích. Tuỳ theo yêu cầu cụ thể của Công ty trong từng giai đoạn, nội dung, phạm vi, thời gian và cách thức tổ chức phân tích được xác định khác nhau, nhưng nhất thiết phải có bước này để định hướng cho công tác phân tích, nhằm đạt được một cách tối ưu nhất những yêu cầu đặt ra. * Thu thập thông tin: đây là bước hết sức quan trọng. Nguồn thông tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp thu thập được cần phải được kiểm tra tính chính xác, tính hợp pháp... để làm cơ sở cho việc phân tích. * Tiến hành phân tích: bước này sẽ được tiến hành theo nội dung và phương pháp phù hợp trên cơ sở nguồn thông tin và kế hoạch phân tích đã xác định trước. * Lập báo cáo phân tích: trên kết quả đã đạt được, cán bộ chịu trách nhiệm lập báo cáo phân tích gửi Ban lãnh đạo và cung cấp cho các đối tượng liên quan khi có yêu cầu và được sự cho phép của Ban lãnh đạo. 3.2.2. Về nội dung phân tích tài chính Về nội dung phân tích tài chính, Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá cũng đã phân tích các nhóm chỉ tiêu tài chính cơ bản như: nhóm tỷ số về khả năng cân đối vốn, khả năng thanh toán, khả năng sinh lãi. Tuy nhiên, việc phân tích vẫn chưa thật đầy đủ trong từng nhóm chỉ tiêu và nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động Công ty bỏ qua không tính toán. Để nội dung phân tích được đầy đủ và toàn diện hơn, cần phải lưu ý phân tích thêm các nội dung sau: 3.2.2.1. Về cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn: * Về cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn, Công ty nên đi sâu chi tiết xem xét tỷ trọng của từng loại tài sản, đánh giá mức độ hợp lý trong cơ cấu tài sản cũng như cơ cấu nguồn vốn. Cơ cấu tài sản của Công ty được thể hiện trên bảng sau: BẢNG 3.1: BẢNG PHÂN TÍCH CƠ CẤU TÀI SẢN NĂM 2006 Đơn vị tính: triệu đồng Tài sản Đầu năm Cuối kỳ Cuối kỳ so với đầu năm Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) A. Tài sản ngắn hạn I. Tiền và tương đương tiền II. Đầu tư tài chính ngắn hạn III. Phải thu ngắn hạn IV. Hàng tồn kho V. Tài sản ngắn hạn khác B. Tài sản dài hạn 21.940 2.274 0 19.379 283 3 55.903 28,18 2,92 0 24,89 0,36 0,01 71,82 16.936 4.869 0 11.806 249 12 83.830 16,81 4,83 0 11,72 0,25 0,01 83,19 -5.004 2.595 0 -7.573 -34 9 27.927 -11,37 1,91 0 -13.17 -0.11 0 11,37 I. Phải thu dài hạn II. Tài sản cố định III. Bất động sản đầu tư IV. Đầu tư tài chính dài hạn V. Tài sản dài hạn khác 0 50.846 0 5.000 57 0 65,32 0 6,42 0,08 0 78.798 0 5.000 32 0 78,2 0 4,96 0,03 0 27.952 0 0 -25 0 12,88 0 -1.46 -0,05 Tổng cộng 77.843 100.776 (Nguồn: Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá) Nhìn vào bảng cơ cấu tài sản, có thể thấy trong năm 2006, so sánh đầu năm và cuối năm, Công ty đã có sự gia tăng tương đối lớn về tài sản (tăng 22.933 triệu đồng, tương đương 29,46%). Trong cơ cấu tài sản, tài sản dài hạn luôn luôn chiếm tỷ trọng lớn và có sự gia tăng cả về số tương đối và số tuyệt đối. Cụ thể, so với đầu năm, tài sản dài hạn tăng một lượng là 27.927 triệu đồng, tăng 11,37% trong tỷ trọng tài sản. Sự gia tăng của tài sản dài hạn chủ yếu do Công ty đã đầu tư mua sắm tài sản cố định (so với đầu năm, tài sản cố định của Công ty tăng 27.952 triệu đồng). Đây là điểm rất đặc thù của một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải biển, cần đẩy mạnh đầu tư các máy móc thiết bị, kho bãi phục vụ công tác chuyển tải, xếp dỡ... hàng hoá. So sánh với các doanh nghiệp trong ngành, có thể thấy đây là xu hướng chung của những doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải biển. Việc đầu tư này quyết định đến việc tăng cường năng lực của Công ty trong hoạt động khai thác cảng biển. Khoản đầu tư tài chính dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tài sản dài hạn và không có sự biến động do Công ty không chú trọng đầu tư vào hoạt động này. Tuy nhiên, hiện nay, với sự phát triển năng động của thị trường chứng khoán, việc đầu tư vào lĩnh vực hoạt động này có thể hứa hẹn mang lại lợi nhuận tốt cho công ty. Tài sản ngắn hạn chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu tài sản và có sự giảm sút cả về số tương đối và số tuyệt đối. Trong cơ cấu tài sản ngắn hạn của Công ty chủ yếu gồm các khoản mục tiền và các khoản tương đương tiền, các khoản phải thu ngắn hạn và hàng tồn kho. Trong đó, các khoản phải thu ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn nhất, nhưng có sự giảm cả về số tương đối và số tuyệt đối (giảm 7.573 triệu đồng so với đầu năm và giảm 13,17% trong cơ cấu tài sản). Điều này thể hiện nỗ lực lớn của Công ty trong việc thu hồi công nợ. Tiền và các khoản tương đương tiền chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng vẫn có sự gia tăng, nếu phân tích số liệu này cùng với hệ số khả năng thanh toán nhanh ( hệ số khă năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp năm 2006 là 0,53) thì sẽ thấy mức độ dự trữ tiền của doanh nghiệp trong thời điểm cuối năm là hợp lý, đảm bảo được việc thanh toán mà không rơi vào tình trạng ứ đọng về tiền. Về khoản mục hàng tồn kho, hàng tồn kho có xu hướng giảm cả về số tuyệt đối và số tương đối. Nếu so sánh với các doanh nghiệp cùng ngành với tỷ trọng hàng tồn kho chiếm từ 0,1% đến 0,3% giá trị tổng tài sản, tỷ trọng hàng tồn kho của Công ty không quá thấp, nhưng Công ty cần có sự liên hệ chặt chẽ với nhà cung cấp để đảm bảo hàng tồn kho đáp ứng kịp thời hoạt động kinh doanh. Bên cạnh việc phân tích cơ cấu tài sản, cần phân tích cơ cấu nguồn vốn để thấy tình hình huy động vốn của Công ty. Cơ cấu nguồn vốn được thể hiện ở bảng sau: BẢNG 3.2: BẢNG PHÂN TÍCH CƠ CẤU NGUỒN VỐN NĂM 2006 Đơn vị tính: triệu đồng Nguồn vốn Đầu năm Cuối năm Cuối năm so với đầu năm Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) A. Nợ phải trả I. Nợ ngắn hạn II. Nợ dài hạn B. Nguồn vốn chủ sở hữu I. Vốn chủ sở hữu II. Nguồn vốn và kinh phí khác 26.008 9.430 16.578 51.836 51.636 200 33,41 12,11 21,3 66,59 66,33 0,26 46.096 9.322 36.774 54.670 54.517 153 45,74 9,25 36,49 54,26 54,09 0,17 20.088 -98 20.196 2.834 2.881 -47 12,33 -2,86 15,19 -12,33 -12,24 -0,09 Tổng cộng 77.843 100.776 (Nguồn: Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá) Nhìn vào bảng cơ cấu nguồn vốn, ta thấy nguồn vốn chủ sở hữu luôn chiếm tỷ trọng trên 50% trong tổng nguồn vốn, điều đó thể hiện khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và mức độ độc lập của Công ty đối với các chủ nợ là cao. Tuy nhiên, tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu có sự giảm đi (giảm 12,33%) mặc dù có sự gia tăng về số tuyệt đối (tăng 2.834 triệu đồng). Sở dĩ có sự giảm sút về tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu bởi có sự gia tăng về nợ phải trả. Nợ phải trả tăng cả về số tương đối và tuyệt đối. So với đầu năm, nợ phải trả tăng 20.230 triệu đồng và về tỷ trọng tăng 12,33% trong cơ cấu nguồn vốn. Sự gia tăng nợ phải trả chủ yếu do sự gia tăng của nợ dài hạn. Công ty đã mạnh dạn vay Ngân hàng Đầu tư phát triển với hai khoản vay trung hạn giá trị lên tới 20.801 triệu đồng để đầu tư vào tài sản cố định. Điều này phù hợp với xu hướng mở rộng quy mô kinh doanh của Công ty. Sự gia tăng tỷ trọng nợ phải trả và sự giảm sút tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu trong trường hợp này không làm mất đi cân bằng tài chính bởi mức độ độc lập của Công ty về mặt tài chính vẫn khá cao. 3.2.2.2. Về tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh: Việc phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh sẽ giúp công ty thấy được mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp hay chính là việc phân tích cân bằng tài chính của doanh nghiệp. Khi phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh, để nhận xét chính xác về tình hình, Công ty cần xem xét đến các chỉ tiêu sau: + Vốn hoạt động thuần + Hệ số tài trợ thường xuyên + Hệ số tài trợ tạm thời + Hệ số vốn chủ sở hữu so với nguồn tài trợ thường xuyên + Hệ số nguồn tài trợ thường xuyên so với tài sản dài hạn + Hệ số tài sản ngắn hạn so với nợ ngắn hạn Việc xem xét các chỉ tiêu trên sẽ giúp bộ phận phân tích có căn cứ đánh giá tính ổn định và bền vững về cân bằng tài chính của Công ty. Khảo sát tình hình bảo đảm nguồn vốn tại Công ty cố phần Cảng Đoạn Xá qua bảng 3.3 ta thấy vốn hoạt động thuần của Công ty trong cả 2 năm 2005 và 2006 đều lớn hơn 0. Đây là dấu hiệu tích cực thể hiện sự đảm bảo nhu cầu tài chính. Trong cả 2 năm, tài sản ngắn hạn đều đảm bảo thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn và tài sản dài hạn, trong đó chủ yếu là tài sản cố định đều được tài trợ bởi nguồn tài trợ thường xuyên. Vốn hoạt động thuần tuy có giảm sút nhưng không ảnh hưởng lớn tới cân bằng tài chính vì vẫn đảm bảo an toàn cho việc thanh toán nợ ngắn hạn. Nguồn vốn tài trợ tạm thời giảm không đáng kể và nguồn vốn tài trợ thường xuyên đều tăng thể hiện tình hình đảm bảo nguồn vốn của Công ty luôn ở trạng thái ổn định và bền vững. Hệ số tài trợ thường xuyên của Công ty rất cao và tăng so với năm 2005. Với một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vận tải biển với giá trị tài sản dài hạn lớn thì hệ số tài trợ thường xuyên lớn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty trong việc đầu tư vào tài sản cố định để phục vụ hoạt động kinh doanh. Hệ số vốn chủ sở hữu trong nguồn tài trợ thường xuyên luôn luôn trên 0,5, chứng tỏ tính độc lập và tự chủ về tài chính của Công ty cao. Tuy hệ số này có giảm sút vào năm 2006 do việc huy động vốn vay dài hạn để đẩy mạnh đầu tư mới tài sản cố định, song vẫn đảm bảo được tính tự chủ về tài chính của Công ty. Trong hoạt động của mình, Công ty đã rất chú ý đến sự cân bằng tài chính. Điều này là tốt bởi sự vững vàng trong cân bằng tài chính sẽ giúp cho Công ty hoạt động ổn định, không phải đối mặt với các khó khăn trong thanh toán. BẢNG 3.3: BẢNG PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH BẢO ĐẢM NGUỒN VỐN NĂM 2006 Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm Cuối năm so với đầu năm ± % 1. Vốn hoạt động thuần (đ) (Tài sản ngắn hạn – Nợ ngắn hạn) 12.510.938.937 7.614.057.782 -7.199.127.891 51 2. Tài sản ngắn hạn 21.940.716.666 16.936.382.258 -5.004.334.408 77,2 3. Nguồn vốn tài trợ tạm thời (đ) (Nợ ngắn hạn) 9.429.777.729 9.322.324.476 -107.453.253 98,86 4. Tài sản dài hạn (đ) 55.903.107.901 83.830.173.032 27.927.065.131 149,96 5. Nguồn vốn tài trợ thường xuyên (đ) (Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu) 68.414.046.838 91.444.230.814 23.030.183.976 133,66 6. Hệ số tài trợ thường xuyên (6 = 4/ Tổng NV) 0,72 0,83 0,11 115,28 7. Hệ số tài trợ tạm thời (7= 3/ Tổng NV) 0,12 0,09 -0.03 75 8. Hệ số vốn chủ sở hữu so với nguồn tài trợ thường xuyên (8= Vốn CSH / 5) 0,78 0,6 -0,18 81,08 9. Hệ số nguồn tài trợ thường xuyên so với tài sản dài hạn (9= 5/2) 1,22 1,09 -0,13 86,51 10. Hệ số tài sản ngắn hạn so với nợ ngắn hạn (10= 2/Nợ NH) 3,08 1,82 -1,26 59,09 (Nguồn: Công ty cổ phần Cảng Đoạn xá) 3.2.2.3. Về khả năng thanh toán: Trong nhóm tỷ số về khả năng thanh toán, Công ty nên bổ sung hai chỉ tiêu: Tỷ số nợ trên tổng tài sản (hệ số nợ) – Đòn bẩy tài chính và khả năng thanh toán lãi vay. Như đã phân tích, việc bổ sung các chỉ tiêu này trong công tác phân tích tài chính của Công sẽ giúp các nhà phân tích đánh giá được hiệu quả sử dụng nợ và mức độ hợp lý của việc huy động vốn vay. Điều này hết sức cần thiết trong bối cảnh Công ty đang có nhu cầu mở rộng quy mô kinh doanh nhưng chưa có điều kiện huy động thêm vốn cổ đông. - Tỷ số nợ trên tổng tài sản: Hệ số nợ = Tổng nợ = Hv Tổng tài sản Trên cơ sở số liệu trên bảng cân đối kế toán của ba năm 2004 đến 2006, ta thấy các hệ số nợ lần lượt là: 0,37 ; 0,33 ; 0,46. Hệ số nợ càng lớn thì Công ty càng có lợi vì chỉ phải đóng góp một lượng vốn ít nhưng được sử dụng một lượng tài sản lớn. Đặc biệt, kinh doanh trên lĩnh vực dịch vụ cảng biển đòi hỏi lượng vốn lớn do phải trang bị số lượng lớn tài sản cố định, vì vậy việc sử dụng đòn bẩy nợ có ý nghĩa thiết thực đối với Công ty. Năm 2006, Công ty đã phát huy được đòn bẩy nợ để thúc đẩy hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, đòn bẩy nợ cũng là con dao hai lưỡi. Bởi như lý thuyết, nếu doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận trên tiền vay lớn hơn so với tiền lãi phải trả thì phần lợi nhuận dành cho chủ sở hữu sẽ được nhân lên; nhưng ngược lại thì doanh lợi vốn chủ sở hữu sẽ giảm sút và làm mất cân bằng cán cân thanh toán. Việc phân tích chỉ tiêu này phải được phân tích kết hợp với chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) và doanh lợi tài sản (ROA). - Khả năng thanh toán lãi vay: Khả năng thanh toán lãi vay = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) Lãi tiền vay Công ty cần phải phân tích chỉ tiêu này để đánh giá lợi nhuận của mình của mình có đảm bảo khả năng chỉ trả lãi hàng năm hay không. Đây là chỉ tiêu không chỉ dành được sự quan tâm của chủ nợ mà còn phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trên số liệu của báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2004 đến năm 2006, khả năng thanh toán lãi vay của doanh nghiệp qua các năm lần lượt là: 15,8 ; 11,2 ; 7,9. Tuy khả năng thanh toán lãi vay của doanh nghiệp rất cao song trên các con số tính toán, khả năng này giảm dần qua các năm vì lãi tiền vay tăng song lợi nhuận tăng không đủ lớn so với sự gia tăng của lãi tiền vay. Điều này chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp chưa thật tốt. 3.2.2.4. Về khả năng hoạt động: - Vòng quay tiền: Vòng quay tiền = Doanh thu Tiền và các khoản tương đương tiền So sánh giữa các năm từ 2004 đến 2006, ta thấy vòng quay của tiền lượt là 6,5; 22,2; 11,5 (mỗi đồng tiền và khoản tương đương tiền lần lượt tạo ra 6,5; 22,2; 11,5 đồng doanh thu qua các năm), như vậy có sự tăng giảm không đều qua các năm. Điều này chưa chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp không ổn định vì doanh thu tuy không tăng nhanh nhưng tăng khá đều qua các năm, tuy nhiên lượng tiền dự trữ có sự thay đổi do chính sách dự trữ tiền của doanh nghiệp qua các năm khác nhau. Cuối năm 2005, doanh nghiệp quyết định giảm lượng tiền dự trữ để đầu tư mua sắm tài sản cố định nên khoản mục tiền và các khoản tương đương tiền giảm đột biến và cũng dẫn tới sự gia tăng của chỉ tiêu vòng quay tiền trong năm 2005. - Hiệu suất sử dụng tài sản cố định: Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong năm, qua đó đánh giá được hiệu quả của việc sử dụng tài sản cố định của Công ty. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = Doanh thu Tài sản cố định Căn cứ các số liệu trên các báo cáo tài chính của Công ty có thể thấy hiệu suất sử dụng tài sản cố định qua các năm lần lượt là 0,76; 0,99 và 0,71. Ở một số doanh nghiệp cùng ngành với số vốn tương đương (Công ty cổ phần Cảng Rau quả, Công ty cố phần thương cảng Vũng tàu) thì chỉ tiêu này trung bình là 6, tức là hiệu suất sử dụng tài sản cố định của Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá là rất thấp, vì vậy bên cạnh việc đầu tư thêm tài sản cố định, Công ty cần nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định như tiến hành các biện pháp nhằm hợp lý hoá sản xuất, áp dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật ... nhằm tăng sản lượng xếp hàng trên bãi, rút ngắn thời gian giao nhận hàng, ... - Vòng quay hàng tồn kho: Vòng quay hàng tồn kho = Giá vồn hàng bán ra trong kỳ Trị giá hàng tồn kho bình quân Qua tính toán có thể thấy vòng quay hàng tồn kho của Công ty tương đối cao (qua các năm từ 2004 đến 2006 lần lượt là 130,1; 133,3; 140,03). Song so với các doanh nghiệp cùng ngành (có thể lấy điển hình là Công ty cố phần Cảng Rau quả và Công ty cổ phần Cảng Đồng Nai với vòng quay hàng tồn kho trung bình là trên 300), tỷ số này của Công ty là không cao. Đây là đặc trưng của doanh nghiệp dịch vụ, số lượng hàng tồn kho không nhiều. Hơn nữa, với loại hình kinh doanh dịch vụ vận tải biển, các vật liệu, phụ tùng cũng như các công cụ, dụng cụ khác... không nhiều mà chủ yếu sử dụng nhiều nhiên liệu (xăng, dầu...) (Đối với việc cung cấp nhiên liệu, Công ty đã có nhà cung cấp thường xuyên là Công ty Xăng dầu Khu vực 3). Việc lượng hàng tồn kho không nhiều giảm được áp lực cho doanh nghiệp trong việc gia tăng chi phí để dự trữ. Tuy nhiên, để đảm bảo yêu cầu thường xuyên phải cung cấp nhiên liệu phục vụ công tác xếp dỡ, chuyển tải hàng hoá, Công ty cũng phải có chính sách hàng tồn kho thích hợp, tránh trường hợp thiếu nguyên liệu, vật liệu phục vụ hoạt động kinh doanh. Theo thông tin từ phía Công ty, việc cung cấp nhiên liệu của Công ty Xăng dầu Khu vực 3 luôn đảm bảo tính kịp thời, song việc phụ thuộc vào 1 nhà cung cấp có thể dẫn tới những rủi ro ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện kinh doanh của Công ty. - Vòng quay các khoản phải thu: Vòng quay các khoản phải thu = Doanh thu thuần Các khoản phải thu ngắn hạn bình quân Tỷ lệ này của Công ty qua các năm là 6,9; 4,1 và 3,6. Ở Công ty cổ phần Cảng Rau quả, số liệu này từ năm 2004 đến 2006 lần lượt là 9,01; 6,55; 7,14 và ở Công ty cổ phần Cảng Đồng Nai, số liệu này từ năm 2004 và 2006 lần lượt là 11,14; 7,11 và 10,19. Qua số liệu này cho thấy vòng quay các khoản phải thu của Công ty qua các năm đều thấp, chứng tỏ đã có sự ứ đọng ở khâu thanh toán, chủ yếu ở phần phải thu của khách hàng, tốc độ thu hồi chậm, công ty bị chiếm dụng vốn nhiều. Tình trạng này càng xấu đi qua mỗi năm vì tỷ lệ này giảm dần. Theo thông tin từ phía Công ty, các khoản phải thu đều tập trung ở các khách hàng lớn, khách hàng truyền thống của Công ty (Công ty vận tải biển VINALINES, Công ty HANJIN Shipping Vietnam, Công ty TNHH vận tải liên hợp Hải Phòng, Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển...), đối với các khách hàng khác (chiếm 15% doanh thu), hình thức thanh toán đều là thanh toán ngay bằng tiền mặt. Xuất phát từ uy tín và mối quan hệ truyền thống với các bạn hàng lớn cũng như để tăng doanh thu nên Công ty áp dụng chính sách thanh toán chậm. Song bên cạnh đó, Công ty không áp dụng chính sách chiết khấu để kích thích việc thanh toán. Để giải quyết tình trạng này, Công ty phải xác định được chính sách bán hàng, chính sách chiết khấu hợp lý cũng như xem xét về các đối tượng khách hàng để giảm sự ứ đọng ở khâu thanh toán, triển khai công tác thu hồi nợ. - Kỳ thu tiền bình quân: Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu x 360 Doanh thu Tỷ số này cho biết khả năng thu hồi vốn trong thanh toán, đặc biệt việc thu hồi vốn từ việc bán chịu hàng hoá. Nó phản ánh số ngày cần thiết để thu hồi được các khoản phải thu. Tỷ số này của Công ty lần lượt qua các năm là: 45, 136, 76. Như vậy, năm 2004 Công ty cần đến 45 ngày để thu hồi các khoản phải thu, năm 2005 có sự gia tăng đột biến, cần tới 136 ngày và năm 2006 là 76 ngày. Hiệu quả của công tác thu hồi công nợ giảm sút qua các năm. Tuy năm 2005, việc tăng đột biến chỉ tiêu này là do Công ty có ứng trước 15% giá trị của dự án cần trục chân đế 40 tấn số 2 (TUKAL 02), nên khoản trả trước cho người bán tăng thêm một lượng đáng kể (gần bốn tỷ đồng), song khoản phải thu của khách hàng vẫn cao nên dẫn tới chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân cao. Theo thông tin từ phía Công ty, đối với những khách hàng lớn, thời gian thanh toán theo hợp đồng là 45 ngày, nhưng trên thực tế phải cần tới 2 tháng hoặc 3 tháng Công ty mới thu hồi hết các khoản phải thu này. Trong thời gian tới, Công ty cần có những biện pháp thu hồi nợ cần thiết để giảm thời gian thu hồi các khoản phải thu, tránh tình trạng bị chiếm dụng vốn. 3.2.2.5. Về hiệu quả kinh doanh và khả năng sinh lãi: Công ty đã tiến hành phân tích những chỉ tiêu cơ bản: Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và tỷ suất lợi nhuận trên tài sản, trên vốn chủ sở hữu và đã phân tích việc quản lý chi phí. Tuy nhiên, cần phân tích thêm ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính vì đây là yếu tố có tác động rất lớn đến doanh lợi vốn chủ sở hữu, ảnh hưởng tới khả năng sinh lãi của Công ty. - Ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính: Đòn bẩy tài chính là tỷ lệ giữ vốn đi vay so với tổng số vốn hiện có hay còn gọi là hệ số nợ. Đòn bẩy tài chính = Tổng số nợ vay Tổng tài sản Như đã phân tích, trị số của đòn bẩy tài chính càng cao doanh nghiệp càng có lợi. Song đòn bẩy tài chính cũng là con dao hai lưỡi, bởi nếu tổng tài sản không có khả năng sinh ra một tỷ lệ lợi nhuận đủ lớn để bù đắp các chi phí lãi vay phải trả thì doanh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE) sẽ bị giảm sút. Trên lý thuyết đã phân tích, nếu doanh lợi tổng tài sản (ROA) lớn hơn lãi suất tiền vay thì trong trường hợp này đòn bẩy tài chính dương và sẽ khuyếch đại thêm cho ROE, trường hợp ngược lại đòn bẩy tài chính âm và sẽ làm giảm sút tương ứng ROE. Doanh lợi tổng tài sản Công ty đã tiến hành tính toán qua các năm từ 2004 đến 2006 lần lượt là 10,69; 10,78 và 11,38. Xem xét các tỷ lệ lãi vay của Công ty trên thuyết minh báo cáo tài chính, các tỷ lệ này dao động ở mức 3,5 đến 6,5% , như vậy vẫn đảm bảo được tác dụng của đòn bẩy tài chính với hiệu quả kinh doanh của Công ty. Mặt khác, Công ty vẫn có thể huy động vốn để mở rộng quy mô kinh doanh bằng cách tăng cường các khoản vay mà không bị ảnh hưởng tới cân bằng tài chính. 3.2.2.6. Đánh giá khả năng tăng trưởng. Ngoài ra, Công ty còn có thể tối đa hoá mức tăng trưởng bền vững của mình qua việc tác động vào chính sách tài chính (thông qua tỷ lệ lợi nhuận giữ lại và đòn bẩy tài chính) hoặc nếu không có phương án thay đổi chính sách tài chính thì cải thiện tình hình hoạt động bằng cách tăng hiệu suất sử dụng tài sản và tăng tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu. Đồng thời, Công ty có thể so sánh tỷ lệ tăng trưởng bền vững này với tỷ lệ tăng trưởng thực tế của Công ty để thấy tỷ lệ tăng trưởng thực tế có phù hợp với tỷ lệ tăng trưởng bền vững hay không. Nếu tỷ lệ tăng trưởng thực tế lớn hơn tốc độ tăng trưởng bền vững, có thể có những biện pháp thực tế như: huy động vốn cổ đông mới, giảm tỷ lệ chia cổ tức, thay đổi về hoạt động kinh doanh để kiểm soát tăng trưởng quá nhanh ... Nếu tỷ lệ tăng trưởng thực tế thấp hơn tốc độ tăng trưởng bền vững thì có thể tìm các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng, hoặc tăng tỷ lệ thanh toán cổ tức, mua lại cổ phiếu của chính công ty, nghiên cứu tìm kiếm cơ hội đầu tư ra các ngành khác... Có thể lấy ví dụ trong trường hợp này trên cơ sở các số liệu trong năm 2005 và 2006. Dựa trên các số liệu và công thức tính tăng trưởng thực tế, tăng trưởng bền vững, có thể tính toán được tăng trưởng thực tế của Công ty trong năm 2005 là 12,7%, trong khi đó tăng trưởng bền vững chỉ giới hạn ở 7,9%. Khi tăng trưởng thực tế lớn hơn tăng trưởng bền vững, nhu cầu về mọi mặt của doanh nghiệp tăng, đến một lúc nào đó doanh nghiệp không đủ sức để tài trợ cho nhu cầu của chính mình, nếu tình trạng này kéo dài có thể dẫn tới những khó khăn trầm trọng về vốn. Do vậy, cần có sự điều chỉnh để tăng tỷ lệ tăng trưởng bền vững bằng cách tăng tỷ lệ lợi nhuận giữ lại hoặc tăng cường vốn vay. Tỷ lệ tăng trưởng bền vững đã được cải thiện vào năm 2006 với con số là 11,54% với việc tăng tỷ lệ lợi nhuận giữ lại và tăng cường vốn vay, song tỷ lệ tăng trưởng thực tế lại quá thấp (6,3%). Nếu tình trạng này tiếp tục gia tăng doanh nghiệp cần phải xem lại đây có phải tình trạng chung của toàn ngành vận tải biển hay vấn đề đơn lẻ của doanh nghiệp. Nếu là vấn đề của doanh nghiệp thì cần tìm kiếm các nguyên nhân để tháo gỡ các ràng buộc bên trong gây cản trở sự tăng trưởng, mặt khác có thể tìm kiếm thêm cơ hội đầu tư sang các ngành khác... Một số chỉ tiêu bổ sung thêm sẽ giúp Công ty có thể phân tích sâu sắc hơn tình hình tài chính, là cơ sở để ra các quyết định quản lý cần thiết. 3.2.3. Về phương pháp phân tích. Về phương pháp phân tích, ngoài phương pháp so sánh và phương pháp tỷ lệ, doanh nghiệp nên bổ sung phương pháp Dupont để phân tích tài chính. Đây là phương pháp tạo được mối liên kết giữa các chỉ số với nhau, không mang tính rời rạc như các chỉ tiêu trong phương pháp so sánh, tỷ lệ. Như đã biết, phương pháp Dupont dựa trên hai chỉ tiêu ROA và ROE. Mối liên hệ của ROE – ROA được thể hiện trên công thức: ROE = ROA x EM Hay ROE = PM x AU x EM = PM x AU x 1/(1- tỷ suất nợ) Trên cơ sở số liệu của Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá, ta lần lượt tính được các chỉ tiêu như sau: Chỉ tiêu Năm ROA PM AU EM ROE Năm 2004 10,69 18,3 0,58 1,58 16,88 Năm 2005 10,78 16,62 0,65 1,50 16,20 Năm 2006 11,38 20,56 0,55 1,84 20,97 Qua các chỉ tiêu trên ta thấy sự thay đổi của ROE chịu ảnh hưởng của ba nhân tố: - Sự thay đổi của doanh lợi doanh thu: Nếu giữ nguyên các nhân tố khác không thay đổi, sự thay đổi của doanh lợi doanh thu sẽ làm ROE thay đổi một lượng là: Δ ROE (2005 – 2004) = (16,62 – 18,3) x 0,58 x 1,58 = -1,54 Δ ROE (2006 – 2005) = (20,56 – 16,62) x 0,65 x 1,5 = 3,84 - Sự thay đổi của hiệu suất sử dụng tài sản: Nếu giữ nguyên các nhân tố khác không thay đổi, sự thay đổi của hiệu suất sử dụng tài sản sẽ làm ROE thay đổi một lượng là: Δ ROE (2005 – 2004) = 18,3 x (0,65 - 0,58) x 1,58 = 2,02 Δ ROE (2006 – 2005) = 16,62 x (0,55 - 0,65) x 1,5 = -2,4 - Sự thay đổi của đòn bẩy tài chính: Nếu giữ nguyên các nhân tố khác không thay đổi, sự thay đổi của đòn bẩy tài chính sẽ làm ROE thay đổi một lượng là: Δ ROE (2005 – 2004) = 18,3 x 0,58 x (1,5 - 1,58) = -0,84 Δ ROE (2006 – 2005) = 16,62 x 0,65 x (1,84 - 1,5) = 3,67 Như vậy, sự giảm sút của ROE năm 2005 là do hai nhân tố gây lên: sự giảm sút của doanh lợi doanh thu và đòn bẩy tài chính. So với năm 2004, công tác quản lý chi phí của doanh nghiệp chưa thật tốt, bên cạnh đó chưa phát huy được tác dụng của đòn bẩy nợ. Năm 2006, ROE tăng do sự gia tăng của cả hai nhân tố là doanh lợi doanh thu và đòn bẩy nợ, doanh nghiệp đã quản lý chi phí tốt hơn và phát huy được tác dụng của đòn bẩy nợ, tuy có sự giảm sút của hiệu quả sử dụng tài sản nhưng sự giảm sút này ảnh hưởng không thật lớn tới ROE. 3.2.4. Về tổ chức và nhân sự cho công tác phân tích tài chính. Như đã đề cập, nhân tố con người là nhân tố chủ quan ảnh hưởng lớn đến công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Nếu công tác này được đảm trách bởi bộ phận nhân sự kém thì không thể đem đến thành công được. Hiện nay, tại Công ty, việc phân tích báo cáo tài chính lại chỉ tập trung vào một người, đó là kế toán trưởng nên việc triển khai công tác phân tích gặp không ít khó khăn về nhân lực. Chính vì vậy, đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách và chuyên viên phân tích tài chính là yêu cầu cần thiết đối với Công ty. Những tiêu chuẩn đối với một người làm công tác phân tích là: - Am hiểu chuyên môn về tài chính, kế toán. - Được đào tạo về kỹ thuật phân tích. - Có kiến thức đặc điểm kinh doanh và về môi trường kinh doanh của ngành cũng như kiến thức về pháp luật, về tình hình kinh tế trong và ngoài nước. Đây là yêu cầu được đặt ra trong công tác tuyển dụng nhân sự cũng như đào tạo đội ngũ cán bộ của Công ty. Bên cạnh đó, Công ty có thể mời một số chuyên gia phân tích ở các công ty tư vấn đào tạo về chuyên môn và kinh nghiệm phân tích. Hàng năm, Công ty cần phải tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ và cập nhật các thông tin kinh tế, xã hội cần thiết phục vụ cho việc phân tích. Để phân tích báo cáo tài chính đạt hiệu quả cao, bên cạnh việc xây dựng quy chế, đào tạo đội ngũ làm công tác phân tích, Công ty cũng cần chú ý tổ chức tốt công tác phân tích. Tổ chức công tác phân tích được thực hiện qua các công việc sau: - Thành lập Ban Phân tích gồm các chuyên viên phân tích. Quy định cụ thể chức năng, quyền và trách nhiệm của Ban cũng như của từng thành viên trong Ban. Ban phân tích này nên trực thuộc Ban Giám đốc và có cơ cấu như sau: + Trưởng Ban phân tích: Là người đứng đầu và chịu trách nhiệm trước Ban Giám đốc về toàn bộ công tác phân tích tài chính trong Công ty. Hiện nay, đối với Công ty Cổ phần Cảng Đoạn Xá, trưởng Ban phân tích nên là Kế toán trưởng, vì đây là người nắm rõ nhất mọi quy định, quy chế của Công ty về quản lý tài chính và cũng là người nắm rõ nhất mọi diễn biến về tài chính của Công ty. + Các thành viên khác của Ban phân tích có thể lấy từ đội ngũ nhân viên kế toán hiện nay, nhưng phải được tập huấn, đào tạo về công tác phân tích báo cáo tài chính. Về thực chất, có thể xây dựng Ban phân tích theo hướng chuyên môn hoá hoàn toàn, nghĩa là, bố trí nhân sự độc lập, chỉ làm công tác phân tích chứ không kiêm nhiệm. Tuy nhiên, trong điều kiện hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Cổ phần Cảng Đoạn Xá còn ở quy mô vừa phải, thiết nghĩ, sắp xếp nhân sự như đã trình bày trên đây là hợp lý Trên cơ sở tổ chức nhân sự như trên, Trưởng Ban phân tích có trách nhiệm triển khai công tác phân tích, tổng hợp kết quả phân tích từ các thành viên trong Ban và viết báo cáo phân tích. Ban lãnh đạo sẽ là những người sử dụng thông tin phân tích đầu tiên để đưa ra những quyết định quản lý tài chính và sẽ quyết định những thông tin phân tích nào được phép công bố rộng rãi ra bên ngoài, thông tin nào chỉ cung cấp cho nhà lãnh đạo trong Công ty. 3.2.5. Về kỹ thuật và công nghệ. Trên cơ sở nhận thức tầm quan trọng của công tác phân tích tài chính, Công ty cần có sự đầu tư thoả đáng về cơ sở vật chât kỹ thuật để phục vụ công tác phân tích tài chính, ví dụ: trang bị hệ thống máy vi tính với phần mềm phân tích tài chính để đảm bảo việc phân tích nhanh chóng, hiệu quả và chính xác, khai thác thông tin về ngành và nền kinh tế, chính sách pháp luật của nhà nước qua hệ thống internet, qua hệ thống mạng để liên kết thông tin giữa các phòng ban... Điều này không chỉ tăng cường hiệu quả của công tác phân tích tài chính mà còn là động lực thúc đẩy các cán bộ phụ trách công tác này. 3.2.6. Về công tác kế toán, kiểm toán, thống kê. Để phục vụ công tác phân tích tài chính, công ty cần hoàn thiện công tác tổ chức kế toán, kế toán, thống kê. Công ty cần tổ chức bộ máy kế toán hoạt động một cách khoa học, các bộ phận phối hợp chặt chẽ với nhau, đảm bảo cung cấp thông tin chính xác, kịp thời. Trên cơ sở đó, Công ty có thể rút ngắn được thời gian hoàn thành báo cáo tài chính, tạo điều kiện cung cấp sớm số liệu cho công tác phân tích. Bên cạnh đó, Công ty nên thực hiện việc kiểm tra, kiểm toán nội bộ định kỳ. Điều này sẽ giúp Công ty phát hiện được những sai sót, nhầm lẫn, góp phần nâng cao tính chính xác, khách quan của thông tin kế toán, tránh định hướng sai lệch cho công tác phân tích tài chính. 3.3. Kiến nghị. 3.3.1. Với Nhà nước Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện tốt phân tích báo cáo tài chính, về phía Nhà nước, cần có những thay đổi trong cơ chế, chính sách… như sau: - Xây dựng các quy định làm định hướng cho công tác phân tích tài chính doanh nghiệp để công tác này không diễn ra một cách tự phát trong các doanh nghiệp, đồng thời tạo cho doanh nghiệp có một động lực để có sự đầu tư thoả đáng cho công tác này. Cụ thể, Bộ Tài chính nên ban hành một số nội dung, chỉ tiêu và phương pháp phân tích có tính chất bắt buộc hoặc tham khảo cho các doanh nghiệp, phù hợp với từng loại hình kinh doanh của doanh nghiệp. - Xây dựng quy định về việc công bố thông tin, đặc biệt là các Công ty cổ phần. Hiện nay, mặc dù các văn bản hiện tại đã quy định được trách nhiệm công bố thông tin nhưng các quy định này vẫn chưa hoàn thiện. Bên cạnh việc công bố thông tin, nhà nước cũng cần ban hành các chế tài xử lý vi phạm đối với các đơn vị liên quan trong việc công bố thông tin, tránh tình trạng công bố thông tin thiếu tin cậy, gây định hướng sai lệch đối với quá trình phân tích tài chính của các doanh nghiệp. - Ban hành những quy định cụ thể đối với công tác thống kê. Phân tích tài chính sẽ trở nên đầy đủ và có ý nghĩa hơn nếu có hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành. Đây là cơ sở tham chiếu quan trọng khi tiến hành phân tích. Thông qua việc đối chiếu với hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành, nhà quản lý tài chính biết được vị thế của doanh nghiệp mình, từ đó đánh giá được cụ thể hơn thực trạng tài chính cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. 3.3.2. Với ngành liên quan. Đối với các ngành liên quan, để công tác phân tích tài chính thực sự có hiệu quả, cần phải đảm bảo những yêu cầu sau: - Cần công khai hoá các thông tin tài chính làm cơ sở để có số liệu trung bình của ngành và xây dựng các quy định về chế độ, trách nhiệm của những người liên quan trong quá trình lập, công bố thông tin và phân tích thông tin trên báo cáo tài chính. - Đánh giá đúng mức tầm quan trọng của công tác phân tích tài chính. Theo kết quả nghiên cứu của nhóm nghiên cứu thuộc Khoa Kinh tế và Quản lý trường Đại học Bách khoa Hà Nội, trong 100 doanh nghiệp hoạt động thuộc các ngành nghề khác nhau, chỉ 40% trong số đó có tiến hành hoạt động phân tích tài chính. Các doanh nghiệp thuộc ngành vận tải biển cũng không nằm ngoài thực trạng này. Nếu công tác phân tích tài chính trở thành một hoạt động thường xuyên của các doanh nghiệp trong ngành, mỗi doanh nghiệp sẽ có động lực hơn trong việc hoàn thiện công tác này tại doanh nghiệp mình. KẾT LUẬN Trong điều kiện hiện nay, những biến động của thị trường và điều kiện kinh tế chính trị trong nước và quốc tế luôn mang lại những cơ hội, nhưng cũng không ít rủi ro cho doanh nghiệp. Vì vậy, để có được những quyết định đúng đắn trong sản xuất - kinh doanh, các nhà quản lý đều quan tâm đến vấn đề tài chính. Trên cơ sở phân tích tài chính, sẽ biết được tình hình tài sản, vốn chủ sở hữu, sự vận động của tài sản và nguồn vốn, khả năng tài chính, cũng như an ninh tài chính của doanh nghiệp. Qua kết quả phân tích tài chính, có thể đưa ra các dự báo về kinh tế, quyết định về tài chính trong ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và từ đó có thể đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn. Là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực khai thác Cảng, Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá cũng không nằm ngoài quy luật đó. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập với nhiều cơ hội và thách thức như hiện nay, hoạt động quản lý tài chính và công tác phân tích tài chính của Công ty càng phải được đẩy mạnh hơn nữa để nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường. Qua thời gian nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng hoạt động phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá, luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh “Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá” đã hoàn thành. Luận văn đã khái quát được những vấn đề lý luận về công tác phân tích tài chính , đánh giá được thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá, trên cơ sở đó đã nêu ra những giải pháp cụ thể để hoàn thiện nội dung công tác này cho Công ty. Hy vọng rằng những kết quả đạt được của luận văn sẽ giúp cho Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá có thể hoàn thiện hơn công tác phân tích tài chính, làm cơ sở để nâng cao hiệu quả quản lý tài chính, thúc đẩy sự phát triển của sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, với khả năng và thời gian còn hạn chế, luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp bổ sung của các quý thày cô, quý độc giả để đề tài được hoàn thiện hơn DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Tấn Bình (2004), “Phân tích hoạt động doanh nghiệp” – Nhà xuất bản Thống kê. Nguyễn Tấn Bình (2003), “Kế toán quản trị” – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh”. Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá (2004), “Báo cáo tài chính năm 2004”. Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá (2005), “Báo cáo tài chính năm 2005”. Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá (2006), “Báo cáo tài chính năm 2006”. PTS. Ngô Thế Chi, PTS. Đoàn Xuân Tiên, PTS. Vương Đình Huệ (1995), “Kế toán – Kiểm toán và Phân tích tài chính doanh nghiêp”- Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội. PGS.TS. Ngô Thế Chi – TS. Vũ Công Ty (2002), “Đọc, lập, phân tích báo cáo tài chính” – Nhà xuất bản Thống kê. PGS.TS Nguyễn Văn Công (2005), “Chuyên khảo về Báo cáo tài chính và lập, đọc, kiểm tra, phân tích báo các tài chính” – Nhà xuất bản Tài chính, Hà nội. TS. Đặng Văn Dược, Đặng Kim Cương (1999), “Kế toán quản trị và phân tích kinh doanh” – Nhà xuất bản Thống kê. PGS.TS Phạm Thị Gái (2004), “Giáo trình Phân tích hoạt động kinh doanh” – Nhà xuất bản Thống kê. TS Vũ Duy Hào (2000), “Những vấn đề cơ bản về quản trị tài chính doanh nghiệp”, Nhà xuất bản Thống kê. PGS.TS. Lưu Thị Hương (2003), “Giáo trình Tài chính doanh nghiệp” – Nhà xuất bản Thống kê. PGS.TS Đặng Thị Loan (2005), “Giáo trình Kế toán tài chính trong các doanh nghiệp” – Nhà xuất bản Thống kê. TS. Nguyễn Năng Phúc (2002), “Phân tích kinh tế doanh nghiệp” – Nhà xuất bản Tài chính.. Học viện tài chính (2006), “Quản trị doanh nghiệp hiện đại cho giám đốc và thành viên Hội đồng quản trị tại Việt Nam” – Nhà xuất bản tài chính. PHỤ LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxNH54.docx
Tài liệu liên quan