Đề tài Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại công ty xây dựng Ngân Hàng

Đây là nhóm tỷ số được rất nhiều người quan tâm như: các nhà đầu tư, người cho vay, nhà cung cấp vật liệu, Đứng trên giác độ nhà quản trị doanh nghiệp thì họ phân tích nhóm tỷ số này để biết tình hình đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. - Hệ số thanh toán hiện hành Hệ số thanh toán hiện hành của năm 2002 thấp hơn 2001 và hệ số thanh toán hiện hành của năm 2003 tiếp tục giảm so với năm 2002. Hệ số thanh toán hiện hành của năm 2001 là 1,150 trong khi đó hệ số thanh toán hiện thanh toán hiện hành của năm 2002 là 1,119 (giảm so với 2001); năm 2003 hệ số thanh toán hiện hành là 1,081 (giảm so với 2002). Hệ số thanh toán hiện hành cho ta biết cứ 1đ nợ ngắn hạn đảm bảo bởi 1,150đ tài sản lưu động vào năm 2001; 1,118đ tài sản lưu động vào năm 2002; 1,081đ tài sản lưu động vào năm 2003. Như vậy các tỷ số này đều >1 nhưng vẫn thấp hơn so với mức chuẩn là 2:1 chứng tỏ khả năng bù đắp cho sự giảm giá trị tài sản lưu động của Công ty là thấp.

doc74 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1414 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại công ty xây dựng Ngân Hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ến hành phân tích hệ số sinh lời tổng tài sản và hệ số doanh lợi vốn. Bảng 13: Nhóm tỷ số về khả năng sinh lời của Công ty Xây dựng Ngân Hàng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2002/2001 Năm 2003/2002 Chênh lệch (%) Chênh lệch (%) 1.Doanh lợi tài sản (ROA) 0,033 0,030 0,027 -0,003 -9,091 -0,003 -10 2.Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) 0,190 0,189 0,173 -0,001 -0,526 -0,016 -8,465 (Nguồn: số liệu phòng Kế toán – Tài vụ) Hệ số sinh lời tài sản phản ánh khả năng sinh lời của tài sản. Qua bảng 13 ta thấy hệ số doanh lợi tài sản qua các năm giảm xuống chút ít. Năm 2002 hệ số doanh lợi tài sản giảm 9,091% so với năm 2001 do tốc độ tăng của lợi nhuận sau thuế chậm hơn tốc độ tăng của tổng tài sản. Sang năm 2003 hệ số doanh lợi tài sản lại tiếp tục giảm 10% so với 2002 do tốc độ tăng của lợi nhuận sau thuế vẫn chậm hơn tốc độ tăng của tổng tài sản. Điều này chứng tỏ Công ty sử dụng chưa có hiệu quả tài sản. Khi thi công các công trình ở tỉnh khác thì Công ty không nên mua tài sản mà nên đi thuê các doanh nghiệp khác trong ngành thì có hiệu quả hơn rất nhiều. Hệ số doanh lợi vốn chủ sở hữu phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu và các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi quyết định bỏ vốn vào kinh doanh. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một trong số các mục tiêu quan trọng của hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp. Tuy vậy qua bảng 13 ta thấy hệ số doanh lợi vốn chủ sở hữu của Công ty Xây dựng Ngân Hàng giảm qua các năm. Năm 2002 giảm 0,536% so với năm 2001; sang năm 2003 giảm với tỷ lệ cao hơn nữa là giảm 8,465% so với 2002. Qua đây ta thấy Công ty phải có những những biện pháp hữu hiệu hơn nữa trong việc sử dụng vốn chủ sở hữu. Trên đây là toàn bộ thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng. Như vậy qua tìm hiểu nghiên cứu ta thấy thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty có những ưu điểm, nhưng nó vẫn còn tồn tại rất nhiều mặt hạn chế. Dưới đây là một số đánh giá về thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty. 2.3.Đánh giá thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng 2.3.1.Những kết quả đạt được 2.3.1.1.Công tác quản lý Tài chính – Kế toán - Chế độ báo cáo tài chính Trong năm công tác báo cáo tài chính của Công ty đúng và đầy đủ theo quy định của nhà nước. Tổng hợp doanh thu năm chính xác kịp thời. Kiểm tra xác định được dư Nợ khả năng thanh toán của các đơn vị sản xuất trong Công ty. - Công tác cung cấp vốn Đáp ứng vốn kịp thời cho các đơn vị thi công, điều này giúp công ty hoàn thành đúng kế hoạch những công trình thi công và bàn giao đúng thời hạn cho khách hàng. - Công tác thống kê Công tác thống kê của Công ty kịp thời đầy đủ theo đánh giá của Chi cục thống kê Hà Nội. 2.3.1.2.Tổ chức bộ máy phân tích tài chính Dưới sự chỉ đạo của kế toán trưởng, bộ máy tổ chức công tác phân tích tài chính tại công ty Xây dựng Ngân Hàng hoạt động khá linh hoạt. Trong tổ chức công tác phân tích đã có sự phân công tách biệt giữa kế toán tổng hợp và các nhân viên thực hiện công tác phân tích tài chính. Do hiểu rõ trình độ chuyên môn của các nhân viên trong phòng Kế toán – Tài vụ nên kế toán trưởng đã phân công các giai đoạn trong quá trình phân tích cho từng người rất hợp lý. Điều đó đã góp phần làm cho công tác phân tích tài chính tại Công ty đạt hiệu quả cao hơn. Mặt khác những cán bộ nhân viên trong phòng kế toán là những người trực tiếp thu thập và xử lý các thông tin kế toán nên trong quá trình phân tích tài chính họ nắm bắt rõ được bản chất của vấn đề, điều đó rất thuận lợi cho việc phân tích tài chính tại Công ty. 2.3.1.3.Thông tin sử dụng trong công tác phân tích Nhìn chung những thông tin được sử dụng trong quá trình phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng là hoàn toàn chính xác. Những thông tin này chủ yếu trong nội bộ doanh nghiệp, đó là những bảng báo cáo tài chính mà chính nhân viên phòng Kế toán – Tài vụ đã lập ra. Chính từ nguồn thông tin chính xác kịp thời này mà công tác phân tích tài chính tại Công ty có rất nhiều thuận lợi. Kết quả phân tích được là hoàn toàn đáng tin cậy. Kế toán trưởng Công ty đã từ những kết quả phân tích đó mà tham mưu cho ban giám đốc về kế hoạch và chiến lược phát triển của Công ty. 2.3.1.4.Phương pháp phân tích tài chính tại Công ty Trong quá trình phân tích Công ty đã sử dụng hai phương pháp phân tích phổ biến trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang sử dụng là phương pháp tỷ lệ và phương pháp so sánh. Việc kết hợp nhuần nhuyễn, đan xen giữa hai phương pháp này trong quá trình phân tích đã đem lại hiệu quả phân tích. Việc lựa chọn hai phương pháp tỷ lệ và so sánh cũng hoàn toàn phù hợp với Công ty bởi vì việc phân tích tại Công ty do phòng kế toán đảm nhiệm, như vậy trình độ chuyên môn của các cán bộ phân tích có phần nào bị hạn chế bởi họ thực chất là những nhân viên kế toán. Hai phương pháp tỷ lệ và so sánh là hai phương pháp tương đối đơn giản nên việc thực hiện nó không mấy khó khăn. Và trên thực tế Công ty đã sử dụng tốt hai phương pháp phân tích này trong nhiều năm vừa qua. 2.3.2.Những hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1.Tổ chức công tác phân tích tài chính Công tác tổ chức phân tích tài chính tại Công ty là chưa chuyên môn hoá. Việc tổ chức phân tích được giao cho phòng kế toán kiêm nhiệm. Như vậy những nhân viên kế toán đồng thời là những nhân viên phân tích tài chính. Rõ ràng một bộ phận mà đảm nhiệm hai chức năng đều rất quan trọng đối với Công ty thì chất lượng công việc sẽ không được đảm bảo. Điều đó có nghĩa là chất lượng phân tích tài chính tại Công ty không thể đạt được hiệu quả tốt nhất. Nhìn chung Công ty vẫn chưa chú trọng tới công tác tổ chức bộ máy phân tích tài chính. Điều này vẫn thường thấy ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. 2.3.2.2.Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính Hiện nay, nguồn thông tin mà Công ty sử dụng trong quá trình phân tích tài chính chỉ là bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh được lập hàng năm tại Công ty. Trên thực tế chỉ dựa vào hai nguồn thông tin này thì chưa thể đánh giá hết được tình hình tài chính của Công ty một cách chính xác. Trong quá trình phân tích Công ty không sử dụng nguồn thông tin từ báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính. Nếu Công ty sử dụng cả hai nguồn thông tin này nữa thì chắc chắn hiệu quả phân tích sẽ được nâng lên một cách đáng kể. Ngoài ra trong phân tích tài chính Công ty còn ít chú trọng tới các thông tin từ bên ngoài doanh nghiệp như: các chính sách của nhà nước, các thông tin giá về thị trường, và nguồn thông tin trong ngành. Chính điều này đã làm giảm chất lượng phân tích tại Công ty. 2.3.2.3.Phương pháp phân tích tài chính Hiện nay tại Công ty việc áp dụng hai phương pháp tỷ lệ và so sánh trong quá trình phân tích tài chính là chưa linh hoạt. Hai phương pháp này tuy dễ thực hiện nhưng những kết quả mà nó đưa ra vẫn chưa chi tiết cụ thể. Hiện nay chỉ có phương pháp phân tích Dupont là đưa ra được kết quả phân tích chi tiết và cụ thể nhất nhưng tại Công ty hiện nay vẫn chưa quan tâm đến phương pháp này. Tuy vậy phương pháp này tương đối phức tạp và đòi hỏi cán bộ phân tích phải có trình độ chuyên môn cao. Với việc chỉ áp dụng hai phương pháp phân tích truyền thống thì kết quả phân tích của Công ty cũng không thể cao hơn những doanh nghiệp cũng đang sử dụng hai phương pháp này. Vì vậy muốn nâng vị thế của doanh nghiệp lên một tầm cao mới đòi hỏi Công ty phải có những quan tâm nhất định trong việc lựa chọn phương pháp phân tích. 2.3.2.4.Nội dung phân tích tài chính tại Công ty Ngoài những hạn chế trên công tác phân tích tài chính tại Công ty còn một hạn chế khác nữa là: nội dung phân tích chưa được thực hiện đầy đủ, Công ty chủ yếu phân tích những chỉ tiêu tĩnh mà chưa quan tâm tới các chỉ tiêu động,…Nguyên nhân của việc thực hiện không đầy đủ nội dung phân tích là do hiện nay Công ty không chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố cạnh tranh. Hiện nay chỉ xây dựng những công trình trong ngành ngân hàng. Công ty được Ngân hàng Nhà nước chỉ định thầu các công trình trong ngành ngân hàng, chính vì không chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố cạnh tranh mà Công ty chưa thực hiện đầy đủ các nội dung phân tích tài chính. Trên đây là một số mặt hạn chế trong công tác phân tích tài chính và những nguyên nhân của nó. Tuy đây không phải là tất cả những mặt hạn chế trong công tác phân tích tại Công ty nhưng những hạn chế này là những hạn chế nổi bật nhất ảnh hưởng tới chất lượng công tác phân tích tài chính tại Công ty. Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng 3.1.Định hướng phát triển của Công ty Xây dựng Ngân Hàng Năm 2004 là năm Công ty chuẩn bị triển khai một số chủ trương lớn của Đảng bộ Ngân hàng TƯ và ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà Nước. Năm 2004 là năm Công ty có nhiều thuận lợi: một số công trình chuyển tiếp của năm 2003 đang gấp rút đi vào hoàn thiện ngay sáu tháng đầu năm. Một số công trình sẽ triển khai trong năm 2004. Về chủ quan: uy tín của Công ty đang ngày được củng cố. Công tác l ngày càng chấn chỉnh chặt chẽ hơn, lực lượng cán bộ ngày một có kinh nghiệm năng động hơn. Nhiệm vụ kế hoạch năm 2004 - Làm việc với Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước để xin được tiếp tục chỉ định thầu các công trình xây dựng trong ngành. - Tiếp tục tổ chức thực hiện triển khai mạnh mẽ ngành nghề kinh doanh mà Công ty đã được bổ sung mở rộng. - Phân công trong Ban Giám đốc, trưởng các đơn vị và các cán bộ có khả năng liên hệ các đối tác để tìm kiếm công việc liên tục cho cán bộ công nhân viên trong Công ty. - Củng cố tăng cường công tác đấu thầu. - Đầu tư xây dựng văn phòng làm việc với diện tích khoảng 3000m2 sàn để cho Ngân hàng Nhà nước thuê trong thời gian Ngân hàng Nhà nước cải tạo khu 49 Lý Thái Tổ. - Tiến hành thực hiện phương án sắp xếp lại doanh nghiệp - Thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2004 là: 76 tỷ đồng Doanh thu: 72 tỷ đồng Lợi nhuận: 2 tỷ đồng Thu nhập bình quân trên 1.500.000 đồng/người/tháng Các biện pháp thực hiện - Để khắc phục những khó khăn của năm 2003 và các năm tiếp theo, Công ty cần đề nghị Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước quan tâm ủng hộ giúp đỡ Công ty, thuê văn phòng làm việc của Công ty Xây dựng Ngân Hàng (nhằm phục vụ cho cán bộ công nhân viên Ngân hàng Nhà nước khi giải phóng mặt bằng xây dựng công trình cao tầng tại 49 Lý Thái Tổ trong thời gian 2 đến 3 năm. - Khai thác mở rộng các thị trường hiện có và các thị trường tiềm năng như Ngân hàng Đầu tư, Ngân hàng Ngoại thương, Công ty bảo hiểm tiền gửi, Quỹ tín dụng nhân dân TƯ,… đặc biệt là Ngân hàng chính sách Xã hội. - Phối hợp chủ đầu tư hoàn thành nhanh thủ tục xây dựng cơ bản các dự án để triển khai thi công. - Mở rộng các đầu mối để trực tiếp chỉ đạo giảm khâu trung gian, tăng cường củng cố chất lượng, số lượng cán bộ cho từng đơn vị. - Tạo các nguồn vốn tập trung cho đầu tư thiết bị phục vụ thi công. Nâng cao năng lực cạnh tranh. - Củng cố bộ máy đấu thầu (tăng cường mở rộng tiếp thị) để thắng thầu. - Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, có biện pháp xử lý kịp thời với đơn vị có công trình chậm tiến độ, chất lượng chưa cao, công tác đảm bảo an toàn lao động, kiểm tra việc chấp hành sử dụng vốn, quản lý vốn, quản lý lao động nhằm nâng cao năng suất lao động, giảm giá thành, tăng lợi nhuận, giảm chi phí bất hợp lý, tăng tỷ suất lợi nhuận. - Xây dựng chế độ trả lương, thưởng cho từng đơn vị sản xuất, từng phòng nhằm kích thích khả năng lao động. - Tạo điều kiện cho cán bộ kỹ thuật tập huấn về công tác tư vấn, công tác đầu tư xây dựng, kinh doanh nhà ở, nâng cao nghiệp vụ. - Từng đơn vị phân công nhiệm vụ của từng thành việc trong phòng, trong đơn vị sản xuất. Căn cứ vào quy chế, vào tổ chức hoạt động của phòng và của đơn vị sản xuất. - Từ kế hoạch của Công ty từng đơn vị sản xuất lập chương trình, kế hoạch của từng phòng, từng đơn vị sản xuất năm 2004 đề ra các chỉ tiêu thực hiện. - Từng đơn vị phải mở rộng ngành nghề, thị trường mới nhằm tăng các nguồn thu - Quản lý, sử dụng hiệu quả nhân lực, thết bị, tiền vốn, chỉ tiêu hợp lý tránh phô trương, xa hoa lãng phí. - Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa Đảng, chính quyền và các tổ chức quần chúng. Sản xuất kinh doanh trên những quy định của luật pháp. - Mở rộng đào tạo cán bộ có đủ trình độ kỹ thuật, quản lý, tư vấn, giám sát, đầu tư dự án, tạo điều kiện khuyến khích cán bộ học tập, nâng cao trình độ nhằm đáp ứng nhiệm vụ trong những năm tới. - Củng cố bộ máy tổ chức cho các đơn vị hiện có đủ số lượng, chất lượng Trên đây là những mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản của năm 2004 để Công ty phấn đấu thực hiện nhằm xây dựng Công ty ngày càng phát triển toàn diện hơn. Yêu cầu mọi thành viên trong Công ty, dù ở vị trí công tác nào đều phải nghiêm túc nỗ lực thực hiện xuất phát từ quan điểm là xây dựng Công ty ngày một phát triển lớn mạnh hơn. 3.2.Một số giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng 3.2.1.Đào tạo, bồi dưỡng và tuyển dụng cán bộ phân tích tài chính Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang từng bước chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp phải hoạt động trong một môi trường cạnh tranh gay gắt. Để có thể tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ quản trị doanh nghiệp. Điều này khẳng định trong mọi hoạt động, nhân tố con người không thể thiếu được. Và ngày nay cho dù máy móc có hiện đại đến đâu đi chăng nữa thì sự thiếu sự điều khiển của con người, chúng đều trở nên vô nghĩa. Trong hoạt động quản trị tài chính nói chung và phân tích tài chính nói riêng vai trò của con người lại càng cần thiết hơn bởi đây là lĩnh vực vô cùng phức tạp, việc xem xét và phân tích chúng nhiều khi thoát ra khỏi những đánh giá đơn thuần về mặt kỹ thuật phân tích mà đạt tới trình độ nghệ thuật. Do đó mặc dù hoạt động này được hỗ trợ bởi công nghệ máy tính với những phần mềm chuyên dụng song chúng chỉ là những công cụ phân tích giúp ta nắm được vấn đề và ra quyết định chức không thể thay thế ta tìm ra giải pháp xử lý. Như vậy năng lực và trình độ của cán bộ phân tích tài chính là một yếu tố quan trọng góp phần dưa ra các nhận định về tình hình tài chính của Công ty và tìm cách để cải thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty. Với nhận thức hiện đại, tầm quan trọng của phân tích tài chính ngày càng được khẳng định và nó đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ phân tích tài chính giỏi về chuyên môn, hiểu biết sâu rộng về đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, về môi trường kinh tế vĩ mô như: chính sách tài chính của Nhà nước, chính sách thuế, những xu thế biến động của nền kinh tế trong nước và quốc tế. Một thực tế hiện nay của các doanh nghiệp Nhà nước nói chung và Công ty Xây dựng Ngân Hàng nói riêng là chưa có cán bộ phân tích tài chính chuyên sâu thông thạo nghiệp vụ, công việc này thường do cán bộ của phòng kế toán – tài vụ của Công ty đảm nhiệm. Việc phân tích để đánh giá tình hình tài chính của Công ty còn rất sơ bộ, mới chỉ dừng lại ở việc tính toán so sánh một số chỉ tiêu ở kỳ này so với kỳ trước chứ chưa hình thành một sự phân tích tổng hợp các vấn đề tài chính của Công ty. Vấn đề đặt ra là Công ty cần phải có sự đầu tư thích đáng, có sự bồi dưỡng phù hợp cho các cán bộ phòng kế toán – tài vụ khi họ kiêm nhiệm cả hoạt động phân tích tài chính. Trước mắt Công ty nên thực hiện việc tuyển dụng thêm cán bộ trẻ được đào tạo quy củ về tài chính doanh nghiệp để đảm nhiệm việc phân tích tài chính. Việc chú trọng đến chất lượng của đội ngũ cán bộ phân tích tài chính là điều cần thiết để cải thiện công tác phân tích tài chính hiện nay ở Công ty. Công ty sẽ có một đội ngũ nhân viên phục vụ cho hoạt động này một cách đồng bộ với chất lượng cao, đảm bảo cho quá trình phân tích tài chính của Công ty được thông suốt. Việc Công ty quan tâm tới đào tạo con người, tới việc thực hiện đúng nội dung công tác phân tích tài chính, mở rộng hoạt động kinh doanh cho Công ty chắc chắn sẽ làm thay đổi chất lượng công tác phân tích tài chính tại Công ty từ đó góp phần quan trọng trong sự nghiệp vươn lên phát triển không ngừng của Công ty. 3.2.2.Hoàn thiện quy trình phân tích tài chính Hiện nay hoạt động phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng vẫn chưa được chú trọng đúng mức. Mọi công việc mới chỉ được tiến hành như một phần trong công tác kế toán, không được đầu tư chuyên sâu về mọi mặt gây ảnh hưởng đến chất lượng của công việc này. Để công tác phân tích tài chính tại Công ty hiện nay thực sự có hiệu quả thì công ty phải thực hiện nó theo một quy trình hợp lý. Sau đây em xin đề xuất một quy trình phân tích tài chính có thể áp dụng tại Công ty như sau: *Bước 1: Chuẩn bị phân tích tài chính - Phải xác định mục tiêu và kế hoạch phân tích tài chính - Lựa chọn những nhân viên có đủ trình độ nghiệp vụ để tiến hành phân tích - Có kế hoạch phối hợp với các bộ phận trong phân tích - Sưu tầm đủ tài liệu cho hoạt động phân tích tài chính: từ thông tin bên ngoài (thông tin kinh tế chung, thông tin theo ngành, thông tin về thuế, tỷ giá hối đoái,…) đến thông tin nội bộ Công ty (thông tin về tình hình mua nguyên vật liệu, tình hình thực hiện đúng tiến độ công trình với chất lượng đảm bảo, việc thanh toán các khoản nợ,…) *Bước 2: Tiến hành phân tích tài chính - Tính toán các chỉ tiêu theo quy định của Nhà nước và những chỉ tiêu cần thiết cho riêng doanh nghiệp. Tuỳ từng góc độ nghiên cứu, ứng dụng khác nhau để có các phương pháp xử lý thông tin khác nhau phục vụ mục tiêu phân tích nhất định nhằm tính toán, so sánh, giải thích, đánh giá, xác định nguyên nhân của các kết quả đã đạt được phục vụ cho quá trình dự đoán và quyết định. - Lập bảng biểu để so sánh, phân tích các chỉ tiêu đã tính toán. *Bước 3: Tổng hợp kết quả phân tích tài chính Dựa vào kết quả đã tính toán để đưa ra các dự đoán về tình hình doanh nghiệp và các quyết định tài chính. Trong điều kiện hiện nay của Công ty nên kết hợp việc phân tích tài chính thực hiện ở phòng Kế toán với các phòng chức năng. 3.2.3.Nâng cao chất lượng nguồn thông tin sử dụng trong phân tích tài chính Nguồn thông tin sử dụng trong phân tích là một yếu tố quan trọng quyết định chất lượng công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Để công tác phân tích tài chính đạt hiệu quả cao thì nguồn thông tin phải đảm bảo tính chính xác và trung thực. Hiện nay nguồn thông tin sử dụng trong phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng vẫn còn chưa đầy đủ và chất lượng thông tin chưa thật tốt, điều đó ít nhiều đã làm giảm chất lượng công tác phân tích tài chính tại Công ty. Như vậy để hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty thì việc nâng cao chất lượng nguồn thông tin là một yếu tố rất quan trọng. Sau đây là một số đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn thông tin sử dụng trong công tác phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng 3.2.3.1.Đối với nguồn thông tin nội bộ doanh nghiệp Nguồn thông tin nội bộ doanh nghiệp chủ yếu được cung cấp bởi phòng Kế toán - Tài vụ. Đó là những bảng báo cáo tài chính được lập hàng tháng, quý, năm tại Công ty. Để nâng cao chất lượng nguồn thông tin này thì nhân viên kế toán Công ty phải tiến hành ghi chép một cách cẩn thận và chính xác các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Ngoài ra Công ty phải tiến hành thẩm định tính trung thực của thông tin thông qua các hoá đơn chứng từ đã được lưu trữ. Hiện nay Công ty không lập bảng báo cáo lưu chuyển tiền tệ, điều này đã dẫn tới trong khi phân tích tài chính không đầy đủ thông tin để phân tích. Như vậy phòng Kế toán – Tài vụ nên lập đầy đủ các bảng báo cáo tài chính thì việc phân tích tài chính mới có thể đạt hiệu quả tốt nhất. Một vấn đề nữa liên quan tới chất lượng nguồn thông tin đó là công nghệ xử lý thông tin. Hiện nay tại công ty việc áp dụng công nghệ tin học vào việc xử lý các thông tin kế toán vẫn còn nhiều hạn chế. Như vậy để xử lý thông tin tốt hơn công ty phải trang bị thêm hệ thống máy tính để tiến hành xử lý thông tin. Nhưng việc này cũng không phải đơn giản vì chi phí mua sắm hệ thống máy tính phục vụ việc xử lý thông tin là tương đối cao. 3.2.3.2.Đối với nguồn thông tin bên ngoài doanh nghiệp Trong quá trình phân tích tài chính cán bộ phân tích phải thu thập đầy đủ và chính xác những thông tin từ bên ngoài doanh nghiệp như: chỉ tiêu trung bình ngành, sự thay đổi của thị trường, sự thay đổi của hệ thống chính sách tài chính,…Những thông tin này rất quan trọng đối với công tác phân tích tài chính bởi vì dựa vào những thông tin này nhà phân tích mới có thể đánh giá được thực trạng tài chính của doanh nghiệp mình trong tổng thể nền kinh tế để từ đó đưa ra những quyết định đúng đắn để phát triển Công ty. Cụ thể cán bộ phân tích cần làm những công việc sau: - Thu thập chỉ tiêu trung bình ngành, bởi đây là hệ thống chỉ tiêu tham chiếu, làm cơ sở cho việc đánh giá chuẩn xác hoạt động của Công ty. Công ty có thể thu thập chỉ tiêu trung bình ngành qua Sở xây dựng Hà Nội, Tổng cục Thống kê. - Thường xuyên theo dõi những biến động của nền kinh tế về các chính sách lãi suất, tỷ giá, chỉ số giá của các nguyên vật liệu đang được Công ty sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nắm bắt các chính sách, định hướng của Nhà nước, Bộ tài chính, Bộ xây dựng, các ban ngành có liên quan. - Theo dõi sự biến động của lãi suất ngân hàng , theo dõi sự biến động trong kinh doanh của các chủ nợ, con nợ,…Đây là những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình tài chính của Công ty. 3.2.4.Sử dụng phương pháp Dupont làm phương pháp phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng Mục tiêu chính của các Công ty hoạt động kinh doanh trên thị trường suy cho cùng đều là lợi nhuận. Tuy vậy, cần lưu ý rằng không thể coi lợi nhuận là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng hoạt động kinh doanh và cũng không thể chỉ dùng nó để so sánh chất lượng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau bởi vì: - Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng, nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố. Có những nhân tố thuộc về chủ quan, có những nhân tố khách quan và có sự bù trừ lẫn nhau. - Do điều kiện khả năng và nguồn lực, về vốn, cơ sở vật chất trang thiết bị, trình độ của bộ máy quản lý khác nhau làm cho số lợi nhuận giữa các doanh nghiệp cũng không giống nhau. - Các doanh nghiệp trong cùng ngành nếu quy mô khác nhau thì lợi nhuận thu được cũng sẽ khác nhau. ở những doanh nghiệp lớn nếu công tác quản lý kém nhưng số lợi nhuận thu được vẫn có thể lớn hơn những doanh nghiệp quy mô nhỏ nhưng công tác quản lý lại tốt hơn. Cho nên để đánh giá, so sánh chất lượng hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp có quy mô khác nhau hay bản thân doanh nghiệp qua các thời kỳ khác nhau với những thay đổi về quy mô tài sản, ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối còn phải dùng chỉ tiêu tương đối là tỷ suất doanh lợi vốn. Đây là chỉ tiêu quan trọng thiết lập mối quan hệ giữa cái thu về được từ một khối lượng tài sản nào đó. Với phương pháp phân tích Dupont ta có thể thấy rõ sự ảnh hưởng của các nhân tố khác tới doanh lợi vốn của doanh nghiệp. Cụ thể phương pháp này đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến doanh lợi của Công ty bằng cách phân tích chỉ số doanh lợi. Chỉ số này được thiết lập như sau: Lợi nhuận sau thuế Tổng vốn Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần Doanh thu thuần Tổng vốn = x Nhờ có chỉ số Dupont này mà các nhà tài chính có một bức tranh tổng thể để đưa ra các quyết định tài chính hữu hiệu. Cụ thể phương pháp phân tích Dupont đối với chỉ tiêu này như sau: a.Phương pháp phân tích chỉ số doanh lợi Lợi nhuận sau thuế Tổng vốn Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần Doanh thu thuần Tổng vốn = x Phương trình trên cho thấy tỷ số lợi nhuận trên vốn phụ thuộc vào hai yếu tố: - Thu nhập của Công ty trên một đồng doanh thu là bao nhiêu – tức là phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty. - Một đồng vốn tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu – tức là phụ thuộc vào năng lực hoạt động của Công ty. Sự phân tích này cho phép xác định chính xác nguồn gốc làm thay đổi lợi nhuận của doanh nghiệp. Bảng 14: Các nhân tố tác động đến chỉ tiêu doanh lợi vốn Chỉ tiêu Đơn vị Kỳ trước Kỳ này Vòng quay vốn Lần L0 L1 Doanh lợi doanh thu % P0(DT) P1(DT) Doanh lợi tổng vốn % P0(V) P1(V) ảnh hưởng của vòng quay vốn đến doanh lợi vốn: D1 = (L1 – L0)P0(DT) ảnh hưởng của doanh lợi doanh thu đến doanh lợi vốn: D2 = (P1(DT) – P0(DT)) x L1 Tổng hợp ảnh hưởng của hai nhân tố: D = D1 + D2 b.Phương pháp phân tích chỉ số doanh lợi của vốn chủ sở hữu Lợi nhuận thuần Vốn chủ sở hữu Lợi nhuận thuần Doanh thu thuần Doanh thu thuần Tổng vốn Tổng vốn Vốn chủ sở hữu = x x Tổng vốn Tổng vốn-Vốn vay Tổng vốn Vốn chủ sở hữu 1 1 – Hệ số nợ Tổng vốn Tổng vốn Tổng vốn-vốn vay Tổng vốn Trong đó: = = = Do đó: Lợi nhuận thuần Vốn chủ sở hữu Lợi nhuận thuần Doanh thu thuần Doanh thu thuần Tổng vốn 1 1 – Hệ số nợ = x x Sự phân tích các thành phần của doanh lợi vốn chủ sở hữu cho ta thấy khi hệ số nợ chung tăng lên thì doanh lợi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp cũng cao hơn vì khi đó tỷ số 1/(1-Hệ số nợ) sẽ tăng lên. Sử dụng phương pháp Dupont cho thấy mối quan hệ và hiệu quả của sự kết hợp giữa phương pháp so sánh và phương pháp tỷ lệ, cho phép các nhà phân tích nhìn nhận đánh giá các chỉ số tài chính một cách có hệ thống và chính xác hơn. Bảng 15: Các nhân tố tác động đến chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu Đơn vị Kỳ trước Kỳ này Vòng quay vốn Lần L0 L1 Doanh lợi doanh thu % P0(DT) P1(DT) Hệ số nợ Lần H0 H1 Doanh lợi vốn chủ sở hữu % P0(Vc) P1(Vc) ảnh hưởng của vòng quay vốn đến doanh lợi vốn chủ sở hữu: D1 = (L1 – L0)xP0(DT)xH0 ảnh hưởng của doanh lợi doanh thu đến doanh lợi vốn chủ sở hữu: D2 = (P1(DT) – P0(DT)) x L1xH0 ảnh hưởng của hệ số nợ đến doanh lợi vốn chủ sở hữu: D3 = (H1 – H0)xL1xP1(DT) Tổng hợp ảnh hưởng của ba nhân tố: D = D1 + D2 + D3 3.2.5.Hoàn thiện nội dung phân tích tài chính Tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng hiện nay tuy đã phân tích tình hình tài chính thông qua phân tích khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp, phân tích tình hình sử dụng nguồn tài trợ và phân tích một số chỉ tiêu tài chính cơ bản nhưng chỉ như vậy thôi thì chưa thể đánh giá một cách chính xác tình hình tài chính của Công ty. Để có thể đánh giá một cách cụ thể hơn nữa Công ty cần phải phân tích sự biến động và cơ cấu phân bổ vốn, phân tích cơ cấu và sự biến động nguồn vốn như đã nêu ở phần lý luận chung. Cụ thể nội dung phân tích phải bổ sung như sau: 3.2.5.1.Phân tích sự biến động và cơ cấu phân bổ vốn Để phân tích sự biến động và cơ cấu phân bổ vốn ta lập bảng phân tích như sau: Bảng 16: Phân tích sự biến động và tình hình phân bổ vốn Đơn vị: đồng Tài sản Năm 2002 Năm 2003 Tăng giảm Số tiền (đồng) Tỷ trọng (%) Số tiền (đồng) Tỷ trọng (%) Số tiền (đồng) Tỷ lệ (%) Tỷ trọng (%) 1 2 3 4 5 6 = 4 – 2 7=(6/2)x100 8 = 5 – 3 A.TSLĐ & ĐT ngắn hạn 56.772.923.966 96,81 88.964.435.847 98,34 32.191.511.881 56,70 1,53 I.Tiền 3.795.604.808 6,68 7.917.269.386 8,90 4.121.664.578 108,59 2,22 II.Khoản phải thu 24.945.325.789 43,94 35.980.907.285 40,44 11.035.581.496 44,24 -3,5 III.Hàng tồn kho 19.497.396.541 34,34 35.313.692.896 39,69 15.816.296.355 81,12 5,35 IV.TSLĐ khác 8.534.596.828 15,04 9.752.566.280 10,97 1.217.969.452 14,27 -4,07 B.TSCĐ &ĐT dài hạn 1.866.566.886 3,19 1.505.805.845 1,66 -36.0761.041 -1,93 -1,53 I.TSCĐ 1.420.931.034 76,13 1.470.843.845 97,67 49.912.811 3,51 21,54 II.Chi phí xây dựng cơ bản dở dang 445.635.852 23,87 34.962.000 2,33 -410.673.852 -92,15 -21,54 Tổng tài sản 58.639.490.852 100 90.470.241.692 100 31.830.750.840 54,28 0,00 (Nguồn: số liệu phòng Kế toán – Tài vụ) Nhìn vào bảng phân tích trên cho thấy năm 2003 tổng tài sản của Công ty Xây dựng Ngân Hàng đang quản lý và sử dụng là 90.470.241.692 đồng, trong đó tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn chiếm tỷ trọng rất lớn là 98,34%; trong khi đó tài sản cố định và đầu tư dài hạn chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ là 1,66%. So với năm 2002 tổng tài sản tăng lên một khoản là 31.830.750.840 đồng với tỷ lệ tăng 54,28% - đây là một tỷ lệ tăng rất lớn. Điều đó cho thấy quy mô của Công ty đã tăng lên một cách đáng kể. Đi vào xem xét từng loại tài sản ta thấy: - Tài sản cố định và các khoản đầu tư tài chính dài hạn của Công ty giảm đặc biệt chi phí xây dựng cơ bản dở dang giảm 410.673.852 đồng với tỷ lệ giảm rất lớn là 92,15%. Điều này cho thấy trong năm 2003 có rất nhiều công trình của Công ty đã hoàn thành và được bàn giao. Tài sản cố định của Công ty mặc dù tăng lên nhưng tỷ lệ tăng là không đáng kể 3,51%. - Tài sản lưu động của Công ty chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản, so với năm 2002 thì năm 2003 tài sản lưu động tăng một khoản rất lớn là 32.191.511.881 với tỷ lệ tăng là 56,70%. Từ bảng phân tích trên ta thấy số tăng của tài sản lưu động chủ yếu là do tăng các khoản phải thu và hàng tồn kho. Điều đó chứng tỏ trong năm 2003 nhiều công trình của công ty đã được bàn giao nhưng Công ty chưa thu hôì được số tiền từ các công trình đó. Hàng tồn kho tăng 15.816.296.355 đồng chủ yếu là tăng chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Điều đó cho thấy Công ty tiếp tục được bàn giao nhiều công trình mới. Việc phân tích trên cho thấy việc phân bổ vốn tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng vẫn chủ yếu vào tài sản lưu động và đầu tư tài chính ngắn hạn. Điều này cho thấy thị trường kinh doanh của Công ty đã mở rộng rất nhiều. Trên thực tế hiện nay Công ty được bàn giao rất nhiều công trình ở rất nhiều tỉnh trên cả nước. Tuy nhiên việc phân bổ vốn quá ít vào tài sản cố định cho thấy quy mô của Công ty chưa lớn, điều này ta cũng dễ nhận thấy vì Công ty chỉ thi công xây dựng những công trình xây dựng trong ngành ngân hàng mà thôi. So với những năm trước đây thì tình hình phân bổ tài sản tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng đã có nhiều cải thiện, nó đã góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. 3.2.5.2.Phân tích cơ cấu và sự biến động nguồn vốn Như phần lý luận chung đã trình bày ở chương 1, để tiến hành phân tích cơ cấu và sự biến động nguồn vốn ta lập bảng phân tích như sau: Bảng 17: Phân tích cơ cấu và sự biến động của nguồn vốn Đơn vị: đồng Nguồn vốn Năm 2002 Năm 2003 Tăng giảm Số tiền (đồng) Tỷ trọng (%) Số tiền (đồng) Tỷ trọng (%) Số tiền (đồng) Tỷ lệ (%) Tỷ trọng (%) 1 2 3 4 5 6 = 4 – 2 7=(6/2)x100 8 = 5 – 3 A.Nợ phải trả 52.251.219.415 89,10 83.340.704.653 92,12 31.089.485.238 59,50 3,02 I.Nợ ngắn hạn 50.797.682.424 97,22 82.259.477.653 98,70 31.461.795.229 61,93 1,48 1.Vay ngắn hạn 19.265.751.544 21.909.341.099 2.Phải trả người bán 12.911.975.979 15.527.550.597 3.Người mua trả trước 3.060.425.365 14.263.590.800 4.Thuế & khoản phải nộp NN (582.435.106) (740.329.544) 5.Phải trả công nhân viên 2.793.402 60.485.502 6.Phải trả cho các đơn vị 12.771.531.706 25.400.340.249 7.Phải trả phải nộp khác 3.367.639.534 5.838.498.950 II.Nợ khác 1.453.536.991 2,78 1.081.227.000 1,30 -372.309.991 -25,61 -1,48 Chi phí phải trả 1.453.536.991 1.081.227.000 B.Nguồn vốn chủ sở hữu 6.388.271.437 10,90 7.129.537.039 7,88 741.265.602 11,6 -3,02 I.Nguồn vốn, quỹ 5.833.861.297 91,32 6.430.501.438 90,19 596.640.141 10,23 -1,13 1.Nguồn vốn kinh doanh 3.974.139.615 4.171.940.266 2.Quỹ đầu tư phát triển 656.760.711 1.140.846.922 3.Quỹ dự phòng tài chính 254.973.674 254.836.674 4.Lợi nhuận chưa phân phối 947.957.297 862.877.576 II.Nguồn kinh phí, quỹ khác 554.410.140 8,68 699.035.601 9,81 144.625.461 26,08 1,13 1.Quỹ DP về trợ cấp mất việc 170.016.239 212.204.339 2.Quỹ khen thưởng phúc lợi 384.393.901 486.831.262 Tổng nguồn vốn 58.639.490.852 100 90.470.241.692 100 31.830.750.840 54,28 0,00 (Nguồn: số liệu phòng Kế toán – Tài vụ) Từ bảng phân tích trên cho thấy: tổng nguồn vốn của Công ty năm 2003 tăng 31.830.750.840 đồng so với năm 2002 với tỷ lệ tăng 54,28% - đây là một tỷ lệ tăng khá cao; trong đó nguồn vốn chủ sở hữu tăng 741.265.602 đồng với tỷ lệ tăng là 11,6% còn Nợ phải trả tăng 31.089.485.238 đồng với tỷ lệ tăng 59,5%. Như vậy tổng nguồn vốn tăng chủ yếu là do Nợ phải trả tăng lên với số tiền lớn. Điều này cho thấy Công ty Xây dựng Ngân Hàng chủ yếu sử dụng chính sách tài trợ bằng nợ vay. Trong năm 2003 Công ty đã vay vốn với số lượng lớn hơn rất nhiều so với năm 2002 và những năm trước đó, điều đó chứng tỏ quy mô của Công ty ngày càng lớn mạnh hơn. Công ty ngày càng nhận được nhiều hợp đồng và vì vậy Công ty phải đi vay vốn để nhận thi công các công trình này. - Nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty tăng chủ yếu do nguồn vốn kinh doanh và quỹ đầu tư phát triển tăng. Điều này cho thấy Công ty đã chú ý đến tổ chức, khai thác và huy động vốn của chính mình, tuy nhiên quy mô của vốn chủ sở hữu là nhỏ chứng tỏ quy mô của Công ty chưa thực sự lớn. - Nợ phải trả của Công ty tăng lên một cách rất đáng kể chủ yếu là do Nợ ngắn hạn của Công ty tăng 31.461.795.229 đồng với tỷ lệ 61,93%; trong khi đó các khoản nợ khác giảm 372.309.991 với tỷ lệ giảm 25,61%. Nợ ngắn hạn của Công ty tăng chủ yếu do vay ngắn hạn và người mua trả trước tăng lên. Điều này thể hiện được uy tín của Công ty trên thị trường bởi vì mặc dù nhiều công trình Công ty chưa bàn giao cho khách hàng nhưng họ vẫn chấp nhận trả trước cho Công ty. 3.2.5.3.Phân tích các nhóm tỷ số tài chính cơ bản của Công ty Xây dựng Ngân Hàng Như ở chương 2: Thực trạng công tác phân tích tài chính của Công ty Xây dựng Ngân Hàng đã trình bày, rõ ràng trong phần nội dung phân tích các tỷ số tài chính cơ bản thì Công ty đã phân tích một cách không đầy đủ. Cán bộ phân tích chỉ tiến hành phân tích hai nhóm chỉ số là: nhóm chỉ số về cơ cấu vốn và nhóm tỷ số về khả năng sinh lời. Như vậy không thể sử dụng phần nội dụng phân tích này để đánh giá tình hình tài chính của Công ty được bởi vì nó còn thiếu rất nhiều các tỷ số quan trọng khác. Dưới đây là nội dung phân tích các tỷ số tài chính cơ bản của Công ty một cách đầy đủ. Để cho công việc này mang tính tổng quát, ta đưa ra một bảng tổng hợp các chỉ tiêu và tỷ lệ tài chính để tiện cho việc phân tích. Sau đây là bảng tổng hợp các tỷ số tài chính cơ bản của Công ty Xây dựng Ngân Hàng: Bảng 18: Bảng tổng hợp các tỷ số tài chính cơ bản của Công ty Xây dựng Ngân Hàng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 1.Nhóm tỷ số về khả năng hoạt động 1.1.Hệ số thanh toán hiện hành 1.2.Hệ số thanh toán tức thời 1.3.Hệ số thanh toán nhanh 1,150 0,969 0,169 1,118 0,734 0,075 1,081 0,652 0,096 2.Nhóm tỷ số về khả năng hoạt động 2.1.Vòng quay hàng tồn kho 2.2.Kỳ thu tiền bình quân 2.3.Hiệu suất sử dụng TSLĐ 2.4.Hiệu suất sử dụng TSCĐ 2.5.Hiệu suất sử dụng tổng Tài sản 7,657 176 1,204 48,944 1,164 2,956 155 1,015 40,562 0,983 1,904 192 0,755 45,714 0,743 3.Nhóm tỷ số về cơ cấu vốn 3.1.Hệ số nợ 3.2.Hệ số tự tài trợ 0,870 0,130 0,896 0,104 0,921 0,079 4.Nhóm tỷ số về khả năng sinh lời 4.1.Hệ số sinh lời doanh thu 4.2.Hệ số sinh lời vốn chủ sở hữu (ROE) 4.3.Hệ số sinh lời tài sản (ROA) 4.4.Hệ số doanh lợi tổng tài sản 0,022 0,190 0,033 0,025 0,021 0,189 0,030 0,021 0,018 0,173 0,027 0,014 (Nguồn: số liệu phòng Kế toán – Tài vụ) 3.2.5.3.1.Phân tích nhóm tỷ số về khả năng thanh toán Đây là nhóm tỷ số được rất nhiều người quan tâm như: các nhà đầu tư, người cho vay, nhà cung cấp vật liệu,… Đứng trên giác độ nhà quản trị doanh nghiệp thì họ phân tích nhóm tỷ số này để biết tình hình đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. - Hệ số thanh toán hiện hành Hệ số thanh toán hiện hành của năm 2002 thấp hơn 2001 và hệ số thanh toán hiện hành của năm 2003 tiếp tục giảm so với năm 2002. Hệ số thanh toán hiện hành của năm 2001 là 1,150 trong khi đó hệ số thanh toán hiện thanh toán hiện hành của năm 2002 là 1,119 (giảm so với 2001); năm 2003 hệ số thanh toán hiện hành là 1,081 (giảm so với 2002). Hệ số thanh toán hiện hành cho ta biết cứ 1đ nợ ngắn hạn đảm bảo bởi 1,150đ tài sản lưu động vào năm 2001; 1,118đ tài sản lưu động vào năm 2002; 1,081đ tài sản lưu động vào năm 2003. Như vậy các tỷ số này đều >1 nhưng vẫn thấp hơn so với mức chuẩn là 2:1 chứng tỏ khả năng bù đắp cho sự giảm giá trị tài sản lưu động của Công ty là thấp. - Hệ số thanh toán nhanh Hệ số thanh toán nhanh của Công ty cho thấy năm 2001 cứ 1đ nợ ngắn hạn được đảm bảo bởi 0,969đ tài sản quay vòng nhanh (ở đây ta tạm gọi biểu thức “TSLĐ - Hàng tồn kho” là “tài sản quay vòng nhanh”) ; năm 2002 cứ 1đ nợ ngắn hạn đảm bảo bởi 0,734đ tài sản quay vòng nhanh; năm 2003 cứ 1đ nợ ngắn hạn được đảm bảo bởi 0,652đ tài sản quay vòng nhanh. Như vậy hệ số thanh toán nhanh giảm dần qua các năm. Do hệ số này <1 trong cả ba năm chứng tỏ Công ty phải trích các khoản tồn kho và các tài sản lưu động khác để thanh toán cho nợ ngắn hạn. - Hệ số thanh toán tức thời Hệ số thanh toán tức thời của Công ty năm 2002 là 0,075 giảm so với năm 2001 là 0,196; hệ số tức thời năm 2003 là 0,096 tăng so với năm 2002 nhưng vẫn thấp hơn so với năm 2001. Như vậy hệ số thanh toán tức thời của Công ty vẫn ở mức thấp bởi vì nó nhỏ hơn rất nhiều so với mức chuẩn là 0,5. Điều này cho thấy Công ty sẽ gặp khó khăn nếu tất cả các khoản nợ ngắn hạn đều bị yêu cầu phải thanh toán ngay. 3.2.5.3.2.Nhóm tỷ số về khả năng hoạt động Các tỷ số này dùng để đo lường hiệu quả sử dụng vốn, tài sản của một doanh nghiệp bằng cách so sánh doanh thu với việc bỏ vốn vào kinh doanh dưới các tài sản khác nhau. - Vòng quay hàng tồn kho Vòng quay hàng tồn kho của năm 2002 là 2,956 giảm so với năm 2001 là 7,657; vòng quay hàng tồn kho năm 2003 là 1,904 giảm so với năm 2002. Như vậy vòng quay hàng tồn kho của Công ty giảm dần trong ba năm. Điều này cho thấy Công ty cần cố gắng hơn nữa trong việc quản lý hàng tồn kho vì chúng ta biết rằng quản lý hàng tồn kho trong sản xuất kinh doanh xây dựng là một vấn đề khó khăn và phức tạp. Việc quản lý hàng tồn kho tốt sẽ là điều kiện tốt cho Công ty nâng cao được hiệu suất sử dụng vốn lưu động. Đây là nhân tố giúp cho Công ty nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình trong đấu thầu xây dựng và trong sản xuất cung ứng sản phẩm phục vụ ngành xây dựng. - Kỳ thu tiền bình quân Năm 2002 kỳ thu tiền bình quân của Công ty là 155 ngày thấp hơn so với năm 2001 là 176 ngày; năm 2003 kỳ thu tiền bình quân là 192 ngày tăng so với năm 2002 và lớn hơn cả năm 2001. Mặc dù ta rằng trong tất cả các ngành sản xuất kinh doanh thì ngành xây dựng là ngành có thời gian bán nợ dài nhất, mức thu hồi vốn chung của ngành thông thường khoản 90-100 ngày. Còn ở Công ty Xây dựng Ngân Hàng kỳ thu tiền bình quân cao hơn rất nhiều so với mức trung bình ngành, điều này chứng tỏ Công ty chưa có biện pháp trong việc thu nợ từ phía khách hàng. Chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân của Công ty cho thấy Công ty bị ứ đọng vốn trong khâu thanh toán. Nhưng đây có thể chỉ là chính sách tín dụng được nới lỏng để khách hàng được trả nợ chậm hơn nhằm gây dựng uy tín cho Công ty. - Hiệu suất sử dụng tài sản lưu động Do đặc tính của ngành cho nên trong các doanh nghiệp xây dựng, tài sản lưu động đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Khi quy mô của tài sản lưu động tăng càng nhanh thì điều đó có nghĩa là quy mô sản xuất càng được mở rộng. Số vòng quay vốn lưu động của Công ty năm 2002 là 1,015 giảm so với năm 2001 là 1,204; số vòng quay vốn lưu động năm 2003 là 0,755 giảm so với năm 2002. Như vậy vòng quay vốn lưu động của Công ty giảm qua các năm. Điều này chứng tỏ Công ty sử dụng vốn lưu động qua ba năm gần đây chưa có hiệu quả. - Hiệu suất sử dụng tài sản cố định Chỉ số hiệu suất sử dụng tài sản cố định cho biết 1đ tài sản cố định mà Công ty sử dụng đem lại 48,944đ doanh thu năm 2001; 40,562đ doanh thu năm 2002; 45,714đ doanh thu năm 2003. Như vậy hiệu suất sử dụng tài sản cố định của Công ty năm 2002 là thấp hơn năm 2001, hiệu suất sử dụng tài sản cố định của Công ty năm 2003 tuy đã tăng lên so với năm 2002 nhưng vẫn thấp hơn so vơí năm 2001. Điều này cho thấy Công ty đã sử dụng có hiệu quả tài sản cố định. - Hiệu suất sử dụng tổng tài sản Chỉ số hiệu suất sử dụng tổng tài sản cho biết cứ 1đ tài sản mà Công ty sử dụng đem lại 1,164đ doanh thu năm 2001; 0,983 đ doanh thu năm 2002; 0,743đ doanh thu năm 2003. Như vậy hiệu suất sử dụng tổng tài sản của Công ty giảm dần qua những năm gần đây. Điều này chứng tỏ trong những năm gần đây Công ty sử dụng tài sản chưa có hiệu quả. Để cải thiện chỉ số này Công ty cần tăng cường đổi mới máy móc thiết bị nhưng đồng thời phải có kế hoạch bồi dưỡng cho người lao động về kỹ thuật sử dụng có hiệu quả máy móc thiết bị, nâng cao tay nghề cho họ dể tận dụng hết năng suất của máy móc thiết bị đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Đồng thời Công ty cần tiến hành các thủ tục để thanh lý các tài sản đã quá cũ, không còn phù hợp với yêu cầu kỹ thuật ngày càng cao của các công trình, tăng cường các biện pháp mở rộng thị trường và mở rộng ngành nghề kinh doanh để tăng cường doanh thu và lợi nhuận cho Công ty. 3.2.5.3.3.Nhóm tỷ số về cơ cấu vốn Chỉ số về cơ cấu vốn phản ánh mức độ tự chủ về tài chính cũng như khả năng sử dụng vay nợ của doanh nghiệp. Xem xét cơ cấu vốn hợp lý, bảo đảm an toàn cho các chủ nợ hay không, tốc độ tăng của vốn vay có đảm bảo khả năng thanh toán lãi vay của công nghiệp hay không là rất cần thiết. Và với hệ số nợ như vậy thì khả năng huy động vốn của doanh nghiệp trong tương lai có gặp khó khăn gì không? - Hệ số nợ Hệ số nợ của Công ty qua các năm 2001, 2002, 2003 có xu hướng tăng lên. Điều này có thể làm cho các chủ nợ không hài lòng vì tỷ số nợ càng cao thì họ sẽ không có cơ sở để tin tưởng vào việc trả nợ của Công ty. Hệ số nợ của Công ty năm 2001 là 0,870; năm 2002 là 0,896; năm 2003 là 0,921. Công ty không có các khoản nợ dài hạn mà chỉ có các khoản nợ ngắn hạn do quá trình sản xuất kinh doanh trong ngành xây dựng kéo dài, giá trị sản phẩm lớn, loại hình sản xuất mang tính gián đoạn. Điều đó làm cho nhu cầu về vốn trong kinh doanh xây dựng rất lớn so với các ngành khác. Như vậy hệ số nợ của Công ty thể hiện sự bất lợi đối với các chủ nợ nhưng nó lại có lợi cho chủ sở hữu. Nhưng hệ số nợ cao thì mức độ an toàn trong kinh doanh càng kém vì chỉ cần một lượng tới hạn không trả được sẽ rất dễ làm cho cán cân thanh toán mất thăng bằng, do đó sẽ xuất hiện nguy cơ bị phá sản. - Hệ số tự tài trợ Do hệ số nợ của Công ty tăng cao nên hệ số tự tài trợ của Công ty giảm dần. Hệ số tự tài trợ của Công ty năm 2001 là 0,130; năm 2002 là 0,104; năm 2003 là 0,079. Thông thường các nhà tài chính cho rằng tỷ lệ này bằng 0,5 là hợp lý, thế nhưng hệ số tự tài trợ của Công ty thấp hơn rất nhiều so với mức này. Điều này cho thấy mức độ tự chủ về tài chính của Công ty là chưa cao, phần tài sản tài trợ bằng vốn đi vay lớn hơn phần tài sản tài trợ bằng vốn tự có. Tuy nhiên trong thực tế kinh doanh hiện nay, đây là mức phổ biến ở các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình kinh doanh vì nếu doanh nghiệp không tích cực đi vay để kinh doanh mà chỉ dựa vào vốn chủ sở hữu thì sẽ không một doanh nghiệp nào có đủ vốn. Do sản phẩm của ngành xây dựng là các công trình có giá trị lớn, đòi hỏi Công ty phải có một lượng vốn lớn. Do đó Công ty cần tìm các biện pháp huy động vốn hoặc tìm các nguồn tài trợ để đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục. Nhưng trước khi xem xét, lựa chọn các thiết bị đầu tư cần quan tâm đến chi phí vốn. Nếu xem nhẹ hoặc bỏ qua chi phí vốn trong huy động các nguồn tài trợ thì đó sẽ là yếu tố nguy hiểm làm giảm hiệu quả kinh doanh của Công ty. 3.2.5.3.4.Nhóm tỷ số về khả năng sinh lời Nhóm tỷ số về khả năng sinh lời phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả quản lý doanh nghiệp. - Hệ số sinh lời doanh thu Hệ số sinh doanh thu cho biết trong 1đ doanh thu có 0,022đ lợi nhuận sau thuế năm 2001; 0,021đ doanh thu năm 2002; 0,018đ doanh thu năm 2003. Như vậy hệ số sinh lời doanh thu của Công ty qua các năm có xu hướng giảm dần, và ở mức thấp. Trong những năm tới để nâng cao chỉ tiêu hệ số sinh lời doanh thu Công ty cần đề cao công tác quản lý tiến độ, chất lượng, kỹ thuật các công trình nhằm tránh mọi rủi ro gây khả năng tăng thêm chi phí, phân công phân cấp lãnh đạo chuyên sâu phụ trách và chịu trách nhiệm từng công việc cụ thể nhằm giảm đến mức tối thiểu các chi phí, từ đó sẽ có khả năng tăng lợi nhuận cho Công ty, góp phần làm tăng chỉ số sinh lời doanh thu. - Hệ số sinh lời vốn chủ sở hữu (ROE) Hệ số sinh lời vốn chủ sở hữu cho biết trong 1đ vốn chủ sở hữu có 0,190đ lợi nhuận sau thuế năm 2001; 0,189đ lợi nhuận sau thuế năm 2002; 0,173đ lợi nhuận sau thuế năm 2003. Như vậy hệ số sinh lời vốn chủ sở hữu của Công ty có xu hướng giảm đi trong những năm gần đây. Đây là điều mà Công ty cần phải xem xét lại và phải có những biện pháp hữu hiệu để làm tăng tỷ số này trong thời gian tới. - Hệ số sinh lời tài sản (ROA) Hệ số sinh lời tài sản của Công ty năm 2002 là 0,030 giảm so với năm 2001 là ,033; năm 2003 hệ số sinh lời tài sản là 0,027 giảm so với năm 2002. Như vậy hệ số sinh lời tài sản của Công ty giảm đi trong những năm gần đây. Điều này cho thấy Công ty sử dụng tài sản là chưa có hiệu quả. Điều này đã được phân tích bởi tỷ số hiệu suất sử dụng tổng tài sản của Công ty. - Hệ số doanh lợi vốn Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư . Năm 2001 ta thấy 1đ vốn đầu tư của Công ty tạo ra 0,025đ lợi nhuận sau thuế, năm 2002 giảm xuống còn 0,021đ và năm 2003 tạo ra 0,014đ lợi nhuận sau thuế. Như vậy hệ số doanh lợi vốn của Công ty có xu hướng giảm đi. Điều này chứng tỏ đồng vốn mà Công ty sử dụng trong những năm gần đây là chưa có hiệu quả. Công ty cần có những biện pháp thích hợp để nâng cao hệ số này trong thời gian tới. Như vậy trên đây em đã hoàn thiện nội dung phân tích các tỷ số tài chính cơ bản của Công ty Xây dựng Ngân Hàng. Do nguồn tài liệu hạn chế nên nội dung này chưa phải là chính xác nhất, nhưng em cũng xin đề xuất để Công ty tham khảo thêm. 3.3.Kiến nghị 3.3.1.Kiến nghị với Nhà nước - Nhà nước nên sớm đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện chế độ kế toán tại nước ta, đảm bảo chế độ này luôn luôn phù hợp với mọi thành phần kinh tế. Nhà nước phải xử lý kịp thời những vướng mắc về chế độ kế toán có thể phát sinh, củng cố và hoàn thiện pháp lệnh kế toán nhằm tạo nền tảng và cơ sở pháp lý để hoàn chỉnh chế độ kế toán. - Nhà nước cần sớm có quy định mang tính bắt buộc đối với việc thực hiện phân tích tài chính hàng năm tại các doanh nghiệp. - Nhà nước cần cụ thể hoá và tăng cường các nội dung về trách nhiệm bảo toàn vốn trong các doanh nghiệp nhà nước. Đơn giản hoá các thủ tục, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp linh hoạt và tự chủ hơn trong việc cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản khi nhượng bán hay thanh lý tài sản tại các doanh nghiệp. - Nhà nước cần có biện pháp cụ thể đối với việc giải ngân các dự án đầu tư trong nước cũng như các dự án tài trợ để Công ty thu hồi nhanh vốn đầu tư xây dựng công trình, tránh tình trạng nợ đọng kéo dài của các chủ đầu tư và dẫn đến tình trạng lãi giả, lỗ thật của các doanh nghiệp xây dựng. 3.3.2.Kiến nghị với cơ quan quản lý cấp trên - Bộ Tài chính nên sớm xây dựng một hệ thống chỉ tiêu chuẩn phân tích tình hình tài chính của các doanh nghiệp mang tính hướng dẫn, có quy định thống nhất về phương pháp tính toán sao cho vừa khoa học, vừa phù hợp với với những điều kiện hiện thời. Trên cơ sở đó cuối năm Bộ Tài chính nên có các thông báo cho các doanh nghiệp xây dựng các thông số tài chính mang tính bình quân theo các chỉ tiêu đã được chuẩn hoá trên cơ sở các báo cáo chính thức của Bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phân tích tài chính của các doanh nghiệp xây dựng. - Bộ Tài chính cần có sự ổn định tương đối trong việc đưa ra các chế độ, chính sách về quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh, lập bảng biểu kế toán – tài chính và dễ dàng tính các chỉ tiêu trong phân tích tài chính. - Bộ Tài chính cần sớm xây dựng hệ thống kiểm tra, kiểm soát tình hình tài chính doanh nghiệp, nghiêm khắc xử lý những hiện tượng gian lận trong công tác phân tích tài chính, tham ô, tham nhũng hoặc chiếm dụng tài sản của Nhà nước. - Ngân hàng Nhà nước cần có những điều chỉnh cơ chế tín dụng hợp lý hơn nữa để các doanh nghiệp có thể vay vốn dễ dàng tại các ngân hàng thương mại, giảm bớt các thủ tục phiền hà trong việc vay vốn. Đặc biệt các doanh nghiệp xây dựng cần số vốn rất lớn để thi công các công trình lớn, vì vậy các ngân hàng thương mại phải tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp xây dựng có thể vay vốn. Kết luận Hiện nay tại các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp tuy còn rất mới mẻ nhưng thực sự nó ngày càng phát triển và được chú trọng hơn bao giờ hết bởi nhu cầu quản lý doanh nghiệp có hiệu quả ngày càng tăng. Phân tích tài chính cung cấp những chỉ tiêu kinh tế tài chính cần thiết giúp kiểm tra phân tích một cách tổng hợp, toàn diện, có hệ thống tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình thực hiện các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp để từ đó nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra các quyết định hiệu quả nhất. Lý thuyết công tác phân tích tài chính doanh nghiệp đã được nghiên cứu trong chương 1; thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty Xây dựng Ngân Hàng được đưa ra trong chương 2; từ đó thấy được những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân trong hoạt động phân tích tài chính tại Công ty. Trên cơ sở những đánh giá về công tác phân tích tài chính tại Công ty, việc đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế đó sẽ góp phần hoàn thiện hơn nữa công tác phân tích tài chính tại Công ty. Trong các giải pháp đã đưa ra thì giải pháp đào tạo và bồi dưỡng cán bộ phân tích tài chính là giải pháp phù hợp nhất với Công ty hiện nay bởi vì trong mọi hoạt động nhân tố con người luôn luôn là nhân tố quan trọng nhất. Tuy nhiên việc thực hiện kết hợp các giải pháp đã đưa ra sẽ đem lại hiệu quả cao nhất cho hoạt động phân tích tài chính tại Công ty. Là một đề tài tương đối khó nên bài viết của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong muốn Công ty quan tâm lưu ý và góp phần hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0271.doc
Tài liệu liên quan