Để có thể thực hiện tốt các giải pháp đã nêu, theo chúng tôi cần thiết phải có điều kiện đảm bảo sau đây:
Thứ nhất là phải có sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương trong công tác quản lý chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo: Chỉ có trên cơ sở nhận thức rõ vai trò của giáo dục - đào tạo và tầm quan trọng của công tác quản lý chi NSNN cho giáo dục đào tạo thì các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương mới chỉ đạo các ban, ngành địa phương tích cực quan tâm đến đầu tư ngân sách, quản lý ngân sách chi cho giáo dục và đào tạo
Thứ hai là về khuôn khổ pháp lý: Trung ương cần bổ sung sửa đổi các quy định trong quản lý tài chính, ngân sách từ luật NSNN đến các văn bản dưới luật đảm bảo phát huy tối đa tính chủ động sáng tạo của địa phương trong quản lý tài chính, ngân sách. Trong đó cần thiết phải quy định rõ và đơn giản hơn quy trình lập dự toán ngân sách, cải tiến quy trình chi ngân sách; quy định rõ trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách, cơ quan quản lý cấp trên và cơ quan KBNN trong lĩnh vực NSNN, bổ sung các quy định trách nhiệm của cơ quan phê chuẩn, cơ quan thẩm định quyết toán đồng thời quy định rõ về phân công, phân cấp cho địa phương trong việc xây dựng định mức phân bổ ngân sách cho các đơn vị trực thuộc và ngân sách cấp dưới
Thứ ba là phải đảm bảo cân đối được nguồn ngân sách đầu tư ngân cho giáo dục và đào tạo: Trong điều kiện nguồn thu ngân sách của Nghệ An còn hạn hẹp, chi ngân sách cho giáo dục đào tạo chủ yếu từ nguồn trợ cấp cân đối của trung ương, khả năng chi trả nhờ có nguồn thu vượt dự toán của địa phương không đáng kể. Muốn đạt được một cơ cấu đầu tư chi ngân sách cho giáo dục đào tạo hợp lý, phải có một lượng ngân sách tăng lên nhất định. Vì vậy, ngoài việc tích cực tranh thủ sự quan tâm của các Bộ, ngành ở Trung ương, phải soát xét lại các chính sách đặc thù của địa phương đã ban hành trên cơ sở dự kiến để nguồn ngân sách có thể đáp ứng được, khắc phục tình trạng một số chính sách địa phương ban hành không có nguồn để bố trí.
79 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1601 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác quản lý chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ốt, chủ yếu mới dùng ở việc đi duyệt quyết toán cho các đơn vị cơ sở khi hết năm. hàng năm chưa thực hiện được việc đánh giá tình hình chi tiêu, hiệu quả chi tiêu của các nhóm mục chi vì vậy, chưa tiến hành phân tích rút kinh nghiệm cho công tác quản lý tốt hơn, có hiệu quả hơn
- Đối với quản lý chi đầu tư XDCB:
Việc sử dụng vốn đầu tư XDCB ngân sách cấp cho giáo dục đào tạo vẫn còn lãng phí, thất thoát, kém hiệu quả. Trong những năm gần đây, dư luận xã hội bàn nhiều về vấn đề tiêu cực , lãng phí, thất thoát trong đầu tư XDCB và các công trình phục vụ cho giáo dục đào tạo cũng không tránh khỏi tình trạng chung đó. Qua thực tế khi quyết toán một số công trình, cơ quan thẩm định thông thường đã cắt giảm ở mức 10% giá trị đề nghị quyết toán, trong khi đó số lượng các công trình hàng năm chưa được quyết toán vẫn còn nhiều. Vì vậy, có thể nói sự thất thoát, lãng phí vốn trong lĩnh vực này vẫn chưa được khắc phục
Nguyên nhân của những tồn tại nêu trên:
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan như số lượng đơn vị quản lý tương đối lớn, đa dạng địa bàn quản lý rộng; hệ thống văn bản chế độ thường xuyên thay đổi, công tác tập huấn không đáp ứng được kịp thời gây khó khăn cho đơn vị khi thực hiện; do tiêu cực của cơ chế thị trường tác động trực tiếp đến đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, kế toán tại các đơn vị cơ sở thì phần lớn để xảy ra tình trạng nêu trên xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan là
Một là, do cơ chế phân cấp quản lý ngân sách đối với các đơn vị giáo dục đào tạo của tỉnh hàng năm có một số điểm không phù hợp, chưa được hoàn thiện.
Từ sự bất hợp lý trong việc phân định chức năng quản lý đối với một số đơn vị giáo dục đào tạo cấp tỉnh đóng trên địa bàn huyện trong thời gian qua đã gây không ít khó khăn trong công tác quản lý chi ngân sách. Đây cũng chính là nguyên nhân gây ra sự chồng chéo trong công tác lập, phân bổ dự toán; thẩm tra, xét duyệt dự toán và quyết toán ngân sách đối với các đơn vị này.
Hai là, chưa thực hiện tốt việc phối hợp trong quản lý giữa Sở Giáo dục Đào tạo với các Sở, ngành khác và các huyện, vẫn có tình trạng đùn đẩy về trách nhiệm quản lý giữa các ngành, các cấp.
Thời gian qua, một số ngành nhận thức chưa đầy đủ về luật ngân sách, cơ chế phân công phân cấp quản lý và điều hành ngân sách và cho rằng ngân sách chi cho các đơn vị giáo dục đào tạo do Sở Tài chính Vật giá trực tiếp cấp phát nên việc quản lý được đùn đẩy sang Sở tài chính hoặc đối với một số huyện được uỷ quyền thì cho rằng kinh phí chi cho giáo dục và đào tạo theo hình thức uỷ quyền thực chất là chi hộ cho tỉnh, vì vậy dễ buông lỏng trong quản lý.
Ba là, hệ thống tiêu chuẩn, định mức chi nói chung vẫn còn một số bất cập, chưa được hoàn thiện đầy đủ, chưa phù hợp với tình hình thực tế địa phương.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc cụ thể hoá các tiêu chuẩn, định mức chi tiêu cho phù hợp với tình hình thực tế trên địa bàn nhưng nhìn chung, hệ thống định mức chỉ tương đối đầy đủ và khá hoàn thiện trong lĩnh vực chi đầu tư XDCB, còn trong lĩnh vực chi thường xuyên cho giáo dục và đào tạo ở địa phương thì hệ thống định mức chưa được đầy đủ như đã nêu trên. Đây cũng là một khâu yếu trong quá trình quản lý chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo.
Mặt khác tiêu chuẩn, chế độ chi tiêu một số khoản chi chưa cụ thể, rõ ràng có khoản chi như tiếp khách, các văn bản hướng dẫn của trung ương cũng như địa phương còn rất chung chung. Không quy định giới hạn về mức tiếp khách một cách cụ thể, các đơn vị rất dễ lợi dụng sơ hở này. Hệ thống mục lục ngân sách hiện hành cũng không cho phép phân tách rành mạch khoản chi này, vì vậy thông thường các khoản chi này các đơn vị quyết toán lẫn lộn vào mục 134 (chi khác) để tránh sự kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan có thẩm quyền.
Bên cạnh đó lại có một số khoản chi như chi công tác phí, theo quy định như hiện nay, thì cán bộ, giáo viên thuộc ngành giáo dục khi đi công tác vùng sâu, vùng xa ... nơi không có phương tiện giao thông công cộng cộng phải tự túc phương tiện đi lại chỉ được thanh toán tiền tàu xe với mức gấp 2 lần giá cước vận tải ô tô hành khách của nhà nước cho số km thực đi, trong thực tế có những chuyến đi phải thanh toán tiền xe ôm đến hàng trăm nghìn đồng. Vì vậy không tạo điều kiện cho cán bộ cấp trên xuống kiểm tra các đơn vị cơ sở.
Bốn là, cơ quan KBNN các cấp chưa thực hiện tốt quy trình quản lý, kiểm soát các khoản chi NSNN theo quy định tại thông tư 40/1998/TT/BTC ngày 31/3/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ quản lý, cấp phát, thanh toán các khoản chi NSNN qua KBNN, do nể nang các đơn vị dự toán mà các cơ quan kho bạc tiến hành cho thanh toán các khoản chi khi chưa đầy đủ các hồ sơ, thủ tục, không đúng chế độ quy định.
Năm là, công tác quản lý tài chính tại các đơn vị chưa được coi trọng đúng mức, lãnh đạo một số đơn vị chưa thực sự quan tâm đến công tác quản lý tài chính, chưa tạo được cơ chế giám sát thường xuyên của tập thể cán bộ công nhân viên đối với việc chi tiêu của chủ tài khoản và kế toán…, chưa thực hiện nghiêm túc quy chế công khai tài chính, có hiện tượng còn khoán trắng cho một số người trong việc sử dụng kinh phí được cấp.
Sáu là, yếu tố con người trong công tác quản lý chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo trong thời gian qua chưa được chú trọng đúng mức: Số lượng cán bộ trực tiếp theo dõi quản lý được bố trí ở các phòng, ban thuộc các sở và huyện như hiện nay trên thực tế không đáp ứng được nhiệm vụ quản lý chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo.
Bên cạnh đó, chất lượng cán bộ quản lý ở các đơn vị cơ sở nhất là kế toán tại các trường học chưa đáp ứng được yêu cầu, hiện nay cán bộ kế toán tại các trường tiểu học và một số trường Trung học phổ thông quy mô nhỏ chủ yếu là kiêm nhiệm (vừa làm cán bộ kế toán, vừa làm nhân viên phục vụ), trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế do chưa được đào tạo, công tác tập huấn nghiệp vụ không thường xuyên nên không nắm bắt đầy đủ kịp các chính sách, chế độ của Nhà nước quy định trong công tác quản lý tài chính, kế toán. Vì vậy không đáp ứng được yêu cầu quản lý.
Mặt khác, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ làm công tác kế toán còn nhiều bất hợp lý… Vì vậy, đội ngũ cán bộ kế toán không chuyên tâm với nghề nghiệp, không thường xuyên trau dồi nâng cao trình độ nghiệp vụ
Bảy là, cán bộ quản lý của các ngành chưa sắp xếp được công việc một cách hợp lý, vẫn sa vào công tác sự vụ, ít bám sát cơ sở. Vì vậy, thời gian dành cho công tác kiểm tra, hướng dẫn các đơn vị cơ sở không nhiều nên không uốn nắn được kịp thời những sai sót tại cơ sở, chưa tìm ra biện pháp khắc phục trong quản lý chi tiêu.
Chương III
giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh Nghệ An từ nay đến năm 2010
3.1 Mục tiêu định hướng phát triển Giáo dục và Đào tạo của cả nước và Nghệ An giai đoạn 2001-2010.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 đã chỉ rõ " để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cần tạo chuyển biến cơ bản và toàn diện về giáo dục " [ ]. Vì vậy, mục tiêu chung phát triển giáo dục đã được chính phủ phê duyệt trong chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2010 là:
- Tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục theo hướng tiếp cận với trình độ tiên tiến của thế giới, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, phục vụ thiết thực cho sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước; của từng vùng; từng địa phương. Phấn đấu đưa nền giáo dục nước ta thoát khỏi tình trạng tụt hậu trên một số lĩnh vực so với các nước phát triển trong khu vực.
- Ưu tiên nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, đặc biệt chú trọng nhân lực khoa học - công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý, kinh doanh giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề trực tiếp góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế,; đẩy nhanh tiến độ thực hiện phổ cập trung học cơ sở.
- Đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, chương trình giáo dục các cấp bậc học và trình độ đào tạo; phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu vừa tăng quy mô, vừa nâng cao chất lượng, hiệu quả và đổi mới phương pháp dạy- học; đổi mới quản lý giáo dục tạo cơ sở pháp lý và phát huy nội lực phát triển giáo dục.
Đồng thời với việc tăng cường chất lượng và hiệu quả, tiếp tục mở rộng quy mô các cấp bậc học và trình độ đào tạo, phù hợp với cơ cấu trình độ , cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền của nhân lực. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và tạo cơ hội học tập ngày càng tốt hơn cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là ở các vùng còn nhiều khó khăn
Căn cứ vào những mục tiêu, định hướng chiến lược phát triển giáo dục cả nước và của tỉnh, thời gian qua Nghệ An đã xây dựng đề án quy hoạch mạng lưới trường lớp, quy mô phát triển giáo dục phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá (2001 -2005) và hiện nay đang xây dựng đề án nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn 2001-2010. Những định hướng phát triển giáo dục và đào tạo trong thời gian tới là:
- Quy hoạch mạng lưới trường lớp, quy mô phát triển giáo dục phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Nghệ An.
- Chú trọng giáo dục và phát triển toàn diện nhân cách phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước và của Nghệ An: Giáo dục con người phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ và thẩm mỹ, phát triển được năng lực cá nhân, đào tạo những người lao động có kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, có ý thức công dân, góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Đẩy mạnh xã hội hoá sự nghiệp giáo dục và đào tạo, mở rộng các trường bán công, dân lập trước hết là ở thành phố, thị xã, các thị trấn ở vùng đồng bằng, ưu tiên hệ quốc lập cho vùng cao, dân tộc, miền núi, học sinh giỏi, diện chính sách, người nghèo. Tăng tỷ lệ cử tuyển cho học sinh người dân tộc, bảo đảm nhu cầu cán bộ đang rất cấp bách của vùng này.
- Tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước, huy động mọi nguồn lực để phát triển giáo dục; từng bước chuẩn hoá và hiện đại hoá trường học, trang thiết bị phục vụ giảng dạy và nghiên cứu học tập.
Những chỉ tiêu, nhiệm vụ cơ bản đặt ra cho ngành giáo dục -đào tạo Nghệ An đến năm 2010 như sau:
1. Tiếp tục quy hoạch lại mạng lưới trường lớp, phát triển quy mô giáo dục và đào tạo, đáp ứng nhu cầu học tập của mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp dân cư, chỉ tiêu đặt ra là:
- Tăng tỷ lệ trẻ dưới 3 tuổi đến nhà trẻ lên 16% vào năm 2005 và 18% vào năm 2010; 58% số trẻ đến lớp mẫu giáo vào năm 2005 và 67% vào năm 2010; 100% số trẻ 5 tuổi vào lớp mẫu giáo lớn. Nâng cao chất lượng chăm sóc trẻ, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ trong các trường mầm non xuống dưới 20% vào năm 2005 và dưới 15% vào năm 2010.
- Huy động 100% số trẻ trong độ tuổi (6-11) đi học tiểu học.
- Huy động 100% số học sinh tốt nghiệp tiểu học vào học trung học cơ sở, đảm bảo tỷ lệ 60% học sinh tốt nghiệp THCS vào học THPT; tăng tỷ lệ học sinh trong độ tuổi vào học trung học phổ thông lên 42% vào năm 2005 và 50% vào năm 2010.
- Đối với giáo dục chuyên nghiệp: Phát triển dạy nghề nhằm thay đổi cơ cấu, chất lượng lao động đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm nguồn nhân lực cho các chương trình kinh tế trọng điểm của tỉnh và nhu cầu học nghề để lập nghiệp của thanh niên (lập nghiệp tại chỗ, ở ngoài tỉnh và xuất khẩu lao động), nâng nâng số lao động được đào tạo nghề lên 30% vào năm 2005 và 50% vào năm 2010; chú trọng phát triển dạy nghề bậc cao thu hút 5% đến 10% học sinh tốt nghiệp THPT và Trung học chuyên nghiệp vào học các chương trình này.[ ]
2. Tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học để đến năm 2005, các huyện miền xuôi đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và đến năm 2007, các huyện miền núi đạt tiêu chuẩn này. Đẩy mạnh công tác phổ cập giáo dục trung học cơ sở, phấn đấu đến năm 2005, đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục THCS ở đô thị, đồng bằng và 50% số xã vùng cao; đến năm 2008, toàn tỉnh đạt tiêu chuẩn này.
3. Tiến hành chuẩn hoá và đồng bộ hoá đội ngũ giáo viên, phấn đấu chuẩn hoá giáo viên mầm non vào trước năm 2010; 100% giáo viên trung học cơ sở có trình độ cao đẳng sư phạm trở lên vào năm 2005 và đưa tỷ lệ giáo viên ở bậc học này có trình độ trên chuẩn đào tạo lên 35% vào năm 2005 và 50% vào năm 2010; nâng tỷ lệ giáo viên trung học phổ thông có trình độ thạc sỹ lên khoảng 5% vào năm 2005 và 10% vào năm 2010.
4. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, từng bước hiện đại hoá trang thiết bị phục vụ đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục; tập trung đầu tư vào thư viện, thiết bị dạy và học. Phấn đấu đến năm 2005 có thể xoá bỏ được các phòng học tạm bợ bằng tranh tre, nâng tỷ lệ phòng học/lớp với mức 50% số trường tiểu học có đủ phòng học ngày 2 buổi vào năm 2005, các trường THCS và THPT có đủ 1phòng/lớp, tăng số thư viện đạt chuẩn hàng năm khoảng 5%; 60% trường tiểu học xây dựng được phòng thí nghiệm, 40% trường trung học phổ thông và 100% trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp-hướng nghiệp đủ tiêu chuẩn trang thiết bị giáo dục theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. [ ].
Để có thể thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên, cần một lượng kinh phí khá lớn từ NSNN kết hợp với các nguồn vốn khác (viện trợ, đóng góp của nhân dân...). Vì vậy, một trong những yêu cầu đặt ra là từng bước phải hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính nói chung và công tác quản lý chi NSNN cho giáo dục đào tạo nói riêng nhằm phát huy tốt nhất hiệu quả các nguồn lực đầu tư cho sự nghiệp giáo dục đào tạo.
3.2 Sự cần thiết phải tăng cường công tác quản lý chi Ngân sách cho Giáo dục - đào tạo:
Trong những năm qua, từ sự nhận thức rõ vị trí, vai trò của giáo dục- đào tạo đối với sự nghiệp đổi mới đất nước cũng như vai trò của chi ngân sách Nhà nước đối với việc phát triển sự nghiệp Giáo dục- đào tạo, đầu tư cho Giáo dục-đào tạo trên phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương đã được quan tâm nâng lên hơn trước nhiều. Số chi Ngân sách cho Giáo dục-đào tạo trong tổng chi NSNN qua các năm đều tăng đáng kể cả về số tuyệt đối lẫn tương đối, đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu chi tiêu cho bộ máy Nhà trường, cho các hoạt động giảng dạy và học tập, cho xây dựng cơ sở vật chất trường học. Tuy nhiên, mức tăng chi ngân sách chưa đủ đáp ứng các yếu tố như tăng học sinh, giáo viên và trượt giá hàng năm...v.v
3.3. Một số quan điểm cơ bản quản lý chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Việc hoàn thiện công tác quản lý chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo phải quán triệt các quan điểm sau đây:
- Quan điểm thứ nhất: Hoàn thiện công tác quản lý chi ngân sách cho giứo dục và đào tạo phải được tiến hành trên cơ sở đường lối chính sách phát triển nền kinh tế xã hội và đổi mới quản lý ngân sách nhà nước theo đúng luật định
Trong khung cảnh nền kinh tế đang trong quá trình đổi mới, các yếu tố tích cực và tiêu cực đan xen nhau, vì vậy việc hoàn thiện công tác quản lý chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo phải luôn bám sát đường lối chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế xã hội nói chung, chiến lược phát triển giáo dục đào tạo nói riêng và đặc biệt phải đặt trong hành lang pháp lý về quản lý NSNN, đáp ứng các nguyên tắc cơ bản về quản lý chi NSNN, tránh tình trạng nôn nóng, muốn thực hiện việc hoàn thiện công tác quản lý chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo mà có các quyết định trái với quy định của pháp luật.
- Quan điểm thứ hai: Hoàn thiện công tác quản lý chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo phải gắn liền với việc quy hoạch lại mạng lưới giáo dục đào tạo nhằm thiết lập trật tự và phát triển khu vực này theo hướng xã hội hoá sự nghiệp giáo dục đào tạo.
Để cụ thể hoá đường lối của Đảng về xã hội hoá một số hoạt động sự nghiệp, thời gian qua chính phủ đã có Nghị quyết số 90/CP ngày 21/8/1997 về phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, ban hành Nghị định số 73/1999/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao nhằm vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào sự phát triển các sự nghiệp đó trong đó có giáo dục.
Phong trào xã hội hoá giáo dục và đào tạo đã và đang từng bước được đẩy mạnh góp phần không nhỏ vào việc khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong toàn xã hội đóng góp cho lĩnh vực này. Tuy nhiên, xã hội hoá không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của Nhà nước, giảm bớt phần chi ngân sách nhà nước mà càng ngày phải quản lý tốt để nâng cao hiệu quả sử dụng của các nguồn kinh phí đầu tư cho giáo dục đào tạo. Vì vậy cần thiết phải gắn công tác quản lý chi ngân sách cho giáo dục đào tạo với việc quy hoạch lại mạng lưới giáo dục - đào tạo để bố trí được bộ máy quản lý một cách hợp lý.
- Quan điểm thứ ba: phải phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cấp trong việc quản lý chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo theo hướng tiết kiệm và hiệu quả.
Hoàn thiện công tác quản lý phải đi đôi với việc phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng cấp quản lý ngân sách cho giáo dục- đào tạo nhằm nâng cao hiệu lực quản lý. Phân định chức năng, quyền hạn các cấp trong quản lý ngân sách đối với các đơn vị dự toán gắn liền với việc phân cấp, quản lý chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục đào tạo theo yêu cầu, nội dung phân cấp quản lý NSNN từng thời kỳ, có như vậy mới nâng cao được trách nhiệm của các đơn vị dự toán trong việc sử dụng kinh phí. Hiện nay, có thể nhấn mạnh rằng, việc phân cấp quản lý, quy định trách nhiệm và quyền hạn trong quản lý ngân sách cho giáo dục và đào tạo ở Nghệ An là phù hợp với tình hình thực tế của địa phương nhưng vẫn còn một số điểm còn chồng chéo, chưa rõ ràng, chưa phân định rõ được mức độ phân cấp quản lý nhà nước và phân cấp quản lý về tài chính đối với một số đơn vị. Vì vậy hiệu quả quản lý chưa cao, cơ quan quản lý nhà nước cấp trên về giáo dục đào tạo chưa kiểm tra kiểm soát được quá trình sử dụng kinh phí tại các đơn vị cơ sở.
- Quan điểm thứ tư: Hoàn thiện công tác quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo phải tiến hành đồng thời với công tác cải cách hành chính trong quản lý ngân sách nói chung và quản lý ngân sách cho giáo dục đào tạo nói riêng phù hợp với tiến trình cải cách hành chính của Nhà nước.
Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2001-2005 được Đại hội lần thứ IX của Đảng thông qua đã xác định: cải cách hành chính nhà nước là một công việc quan trọng, quyết định thành công của công cuộc đổi mới. Trong đó nội dung quan trọng là phân cấp mạnh và toàn diện giữa các cấp trong hệ thống hành chính nhà nước, trên cơ sở gắn trách nhiệm với quyền hạn, nghĩa vụ với quyền lợi; phân cấp nhiệm vụ phải được gắn với phân cấp về tài chính và ngân sách; tăng cường phối hợp, hoạch định, điều hành cơ chế, chính sách và chương trình, hiện đại hoá hệ thống thông tin, các phương tiện quản lý hiện đại, báo cáo đáng tin cậy và nhanh nhạy giữa các cơ quan và giữa các cấp.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, nhiệm vụ cải cách hành chính trong quản lý ngân sách đang được đặt ra như một mục tiêu quan trọng, cấp thiết, vừa phù hợp với tiến trình chung, vừa là động lực thúc đẩy cải cách hành chính nhà nước nhanh hơn, mạnh hơn. Trong quản lý chi ngân sách, ngoài việc phân định nhiệm vụ quyền hạn của các cấp, các ngành; phân cấp nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách thì việc cải cách thủ tục hành chính trong quản lý ngân sách nói chung là vô cùng quan trọng
Thủ tục hành chính là toàn bộ các quy tắc, trình tự, thời gian, các giai đoạn cần thiết để thực hiện các giai đoạn quản lý nhà nước về tài chính. Cải cách các thủ tục hành chính về tài chính trước hết là cải cách thủ tục về quá trình lập, chấp hành, quyết toán ngân sách, kiểm tra, kiểm soát quá trình chi tiêu ngân sách một cách chặt chẽ; cải cách những thủ tục gây phiền hà đến hoạt động giao dịch liên quan đến công tác quản lý ngân sách.
Thời gian qua, mặc dù công tác cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý ngân sách tại Nghệ An thực hiện tương đối tốt, tuy nhiên do có nhiều cấp, nhiều ngành phối hợp tham gia vào quản lý tài chính tại các đơn vị cơ sở nên thủ tục hành chính nhiều khi còn rườm rà, có sự chồng chéo ở một số khâu mà điển hình ở các khâu lập và phân bổ dự toán, tổng hợp báo cáo quyết toán cho nên hồ sơ thủ tục các đơn vị phải lập thành nhiều bộ, gửi đi nhiều cơ quan quản lý cấp trên rất mất thời gian, phiền hà cho cơ sở. Bên cạnh đó chưa có sự đồng bộ, thống nhất về thủ tục hành chính ở một số cấp, ngành; có khi cơ quan tài chính hướng dẫn một đường, cơ quan kho bạc thực hiện một nẻo.
3.4. Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác quản lý chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
3.4.1. Hoàn thiện cơ cấu chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo:
Chiến lược phát triển giáo dục đào tạo giai đoạn 2001-2010 đã xác định những định hướng cơ bản, mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho từng giai đoạn đối với từng lĩnh vực giáo dục đào tạo. Với vai trò chủ đạo, chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo từng bước cũng phải hoàn thiện việc sắp xếp lại cơ cấu cho từng lĩnh vực, từng phân ngành cho phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ từng thời kỳ. Đảm bảo gắn liền việc đầu tư, quản lý cấp phát kinh phí với việc nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo và việc chuẩn hóa, hiện đại hoá các cơ sở Giáo dục - đào tạo.
Cơ cấu chi ngân sách cho giáo dục đào tạo một mặt phải đảm bảo cân đối nguồn tài chính phù hợp với cơ cấu giáo dục đào tạo hiện có. Mặt khác thông qua cơ cấu chi ngân sách Nhà nước có tác dụng to lớn trong việc điều chỉnh cơ cấu giáo dục phát triển theo định hướng của Nhà nước. Chỉ có trên cơ sở một cơ cấu chi hợp lý thì mới tạo điều kiện cho việc quản lý đồng vốn đầu tư của NSNN cho giáo dục và đào tạo có hiệu quả.
Nội dung hoàn thiện cơ cấu chi ngân sách cho giáo dục đào tạo ở Nghệ An trong thời gian tới gồm:
k Về chi thường xuyên:
- Nâng dần tỷ trọng chi cho đào tạo trong tổng chi ngân sách cho giáo dục đào tạo để xúc tiến loại hình này phát triển nhanh, đáp ứng yêu cầu về số lượng cán bộ, công nhân kỹ thuật lành nghề phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế tỉnh nhà.
Thực hiện nghị quyết 07 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về phát triển dạy nghề thời kỳ 2001 - 2005, phấn đấu tăng dần đầu tư ngân sách cho dạy nghề mỗi năm thêm 1,5 -2% tổng mức ngân sách đầu tư cho giáo dục - đào tạo, bảo đảm đến năm 2005 ngân sách đầu tư cho dạy nghề đạt 7% tổng mức đầu tư cho giáo dục và đào tạo theo Quyết định 50/1999-QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Để đạt được yêu cầu trên thì tỷ trọng chi Ngân sách cho đào tạo, dạy nghề trong tổng chi ngân sách cho Giáo dục đào tạo cũng phải tăng lên tương ứng và theo chúng tôi thì tỷ trong này đến năm 2005 phải đạt tối thiểu ở mức từ 12-15% tổng chi ngân sách cho giáo dục đào tạo
- Điều chỉnh lại cơ cấu chi ngân sách cho các phân ngành trong khối giáo dục một cách hợp lý hơn: quan tâm hơn đến việc đầu tư ngân sách cho giáo dục mầm non, nâng dần tỷ trọng chi cho khối THCS và THPT trong khối giáo dục một cách hợp lý, phù hợp với xu hướng tăng học sinh ở các cấp học này.
- Hoàn thiện cơ cấu các nhóm mục chi trong chi thường xuyên:
Cơ cấu các nhóm mục chi trong chi tiêu thường xuyên hợp lý hay không có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện các hoạt động thường xuyên diễn ra ở các cơ sở giáo dục - đào tạo, trong đó có những tác động trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng và quy mô giáo dục như hoạt động chuyên môn, mua sắm trang thiết bị, củng cố cơ sở vật chất trường học.
Những năm vừa qua, do kinh phí ngân sách Nhà nước cấp còn hạn hẹp nên phần chi cho các hoạt động cần thiết tức thì như chi cho con người chiếm tỷ trọng phần lớn, phần chi cho hoạt động giảng dạy, học tập và chi cho mua sắm, sửa chữa chữa chưa được chú ý thích đáng.
Đứng trước yêu cầu nâng cao chất lượng quy mô giáo dục - đào tạo, cần thiết phải hoàn thiện cơ cấu các nhóm mục chi trong chi thường xuyên cho giáo dục đào tạo. Việc hoàn thiện cơ cấu nhóm mục chi phải trên cơ sở xác định thứ tự ưu tiên của các nhóm mục chi một cách chuẩn xác để làm cơ sở cho việc lập, duyệt và chấp hành ngân sách, tạo điều kiện cho công tác thanh tra, kiểm tra chi tiêu và kiểm tra quyết toán được chính xác và phải đạt được các yêu cầu sau:
Đáp ứng đủ mức chi thường xuyên cho con người; chi hoạt động giảng dạy phải đảm bảo ở mức hợp lý; giảm dần tỷ trọng chi quản lý ở mức vừa phải, hạn chế và kiểm soát chặt chẽ các khoản chi hội nghị, tiếp khách trong chi quản lý...
Trong điều kiện nguồn ngân sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo còn hạn hẹp hiện nay, theo chúng tôi những năm tới tốt nhất chi thường xuyên cho giáo dục đào tạo phải đảm bảo được cơ cấu giữa chi lương/ngoài lương ở mức tối thiểu là 80/20, trong đó chi cho hoạt động giảng dạy đảm bảo ở mức tối thiểu theo quy định tại thông tư 30/TT-GD của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
kVề chi đầu tư XDCB tập trung
Tăng tỷ trọng vốn đầu tư trong tổng chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục và đào tạo: Cơ sở hạ tầng của ngành giáo dục có tác động to lớn đến chất lượng giáo dục và ảnh hưởng có tính chất quyết định đến quy mô giáo dục. Hiện nay, hiện trạng cơ sở vật chất trường học chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển giáo dục, số chi ngân sách cho công tác XDCB cơ sở vật chất trường học ở Nghệ An thời gian qua còn quá thấp (dưới 7% tổng chi cho giáo dục). Vì vậy ngoài việc phân cấp chăm lo xây dựng cơ sở vật chất trường học theo quy định của Thủ tướng Chính phủ thì việc nâng dần tỷ trọng chi ngân sách tỉnh cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học trong thời gian tới là cần thiết với phương châm: Nhà nước và nhân dân cùng làm, tỉnh đáp ứng một mức độ nhất định về vốn đầu tư phân theo từng khu vực: thành phố, thị xã; miền núi, vùng cao một cách hợp lý, theo dự kiến mức đầu tư từ ngân sách tỉnh cho công tác này hàng năm tối thiểu khoảng 30 tỷ đồng.
3.4.2. Hoàn thiện mô hình, cơ chế quản lý; hệ thống định mức, tiêu chuẩn chi thường xuyên của NSNN cho sự nghiệp giáo dục đào tạo phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
kVề phân cấp nhiệm vụ chi thường xuyên sự nghiệp giáo dục đào tạo: Theo quy định tại Nghị định số 51/1998/NĐ-CP ngày 18 tháng7 năm 1998 của Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 87/CP ngày 19 tháng 12 năm 1996 quy định chi tiết việc phân cấp quản lý, lập, chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước thì nhiệm vụ chi thường xuyên về các hoạt động sự nghiệp giáo dục - đào tạo có thể phân cấp cho huyện. Việc phân cấp cho cấp huyện cần căn cứ vào trình độ, khả năng quản lý của cấp huyện và nguồn thu trên địa bàn, đồng thời đảm bảo kế hoạch chung của tỉnh về phát triển giáo dục đào tạo.
ở Nghệ An, thời gian qua nhiệm vụ chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục đào tạo hầu như do ngân sách cấp tỉnh đảm nhiệm, chưa có sự phân cấp cho huyện. Đến hiện nay( năm 2002 ), mới thực hiện phân cấp cho thành phố Vinh nên chưa có điều kiện để tổng kết, đánh giá những mặt ưu điểm, tồn tại khi thực hiện phân cấp về nhiệm vụ chi. Tuy nhiên cơ chế quản lý theo hình thức uỷ quyền thời gian qua cũng đã bộc lộ một số nhược điểm như đã nêu. Vì vậy, trong khuôn khổ quy định của luật NSNN và các văn bản hướng dẫn của trung ương, cần thiết phải đẩy mạnh việc phân cấp nhiệm vụ chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục đào tạo cho ngân sách cấp huyện theo từng bước hợp lý.
Trong giai đoạn trước mắt, cần tập trung rà soát, đánh giá tình hình quản lý ngân sách chi cho giáo dục đào tạo tại các huyện, tiến tới phân cấp nhiệm vụ chi cho một số huyện ở vùng đồng bằng có nguồn thu tương đối ổn định, trình độ quản lý tốt. Tuy nhiên để đảm bảo đáp ứng nguồn ngân sách chi cho giáo dục đào tạo ở các huyện này, tỉnh phải cân đối cho huyện theo hình thức trợ cấp có mục tiêu.
kVề mô hình cơ chế quản lý:
Hiện nay, trong lĩnh vực quản lý chi ngân sách cho giáo dục đào tạo ,mô hình, cơ chế quản lý là một vấn đề đang được các địa phương rất quan tâm, và đã có nhiều đề tài, luận án đề cập đến vấn đề hoàn thiện cơ chế quản lý, điều hành cấp phát các khoản chi ngân sách cho giáo dục đào tạo, nhưng nhìn chung kết quả vận dụng vào thực tế công tác quản lý còn hạn chế xuất phát từ những lý do sau:
- Mô hình, cơ chế quản lý trong một lĩnh vực cụ thể có tính chất tương đối "động", chịu sự chi phối của cơ chế quản lý kinh tế xã hội nói chung và do Nhà nước đặt ra trong từng thời kỳ cụ thể, mỗi thời kỳ có cơ chế quản lý khác nhau.
- Mô hình, cơ chế quản lý chủ yếu đề cập đến vấn đề có tính chất tổng hợp, định hướng. Khi tổ chức thực hiện phải chia nhỏ ra từng khâu, từng việc để tiến hành và có nhiều cơ quan tham gia. Do chưa có sự phân định rõ ràng trách nhiệm, quyền hạn của từng cơ quan đối với từng khâu công việc trong quá trình quản lý dẫn đến tình trạng không thống nhất, chồng chéo và bỏ trống trận địa trong quản lý. Thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng.
Căn cứ vào mô hình quản lý chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo Nghệ An hiện nay giải pháp hoàn thiện là phải phân định rõ trách nhiệm quản lý ngân sách đối với các đơn vị, cơ sở giáo dục trực thuộc Sở Giáo dục Đào tạo đóng trên địa bàn huyện, thời gian tới để đảm bảo thống nhất về mặt quản lý Nhà nước về giáo dục đào tạo và quản lý ngân sách cần thiết phải phải tập trung việc quản lý chi ngân sách cho các đơn vị này về một đầu mối quản lý đó là Sở giáo dục và Đào tạo.
Bên cạnh việc hoàn thiện các quy định về mô hình phân cấp quản lý cần ban hành quy định về quy chế phối hợp quản lý giữa Sở Giáo dục và Đào tạo các cấp, các ngành ở địa phương trong quản lý và điều hành ngân sách giáo dục và đào tạo, khắc phục tình trạng trùng lắp, chồng chéo trong các khâu quản lý đồng thời tránh tình trạng buông lỏng quản lý chi ngân sách cho giáo dục đào tạo của một số ngành, huyện.
kVề định mức, tiêu chuẩn chi tiêu:
Hệ thống định mức, tiêu chuẩn chi tiêu có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong công tác quản lý ngân sách giáo dục đào tạo, nó là cơ sở cho quá trình lập, chấp hành và quyết toán ngân sách, nếu không có một hệ thống định mức phù hợp sẽ khó có thể xác định nhu cầu chi tiêu tại các đơn vị dự toán.
Như đã phân tích ở chương II của luận án, do tình hình thực tế tại Nghệ An hiện nay chưa thể áp dụng được hệ thống định mức chi ngân sách cho giáo dục đào tạo tính trên đầu học sinh mà Bộ Tài chính đã ban hành, nên quá trình lập và phân bổ dự toán cho các đơn vị rất khó khăn và phức tạp, quy trình lập dự toán nhiều khi đã bỏ qua khâu lập dự toán từ dưới đơn vị cơ sở, việc phân bổ dự toán nhiều khi không tính đến nhu cầu chi tiêu của đơn vị mà chỉ dựa vào khả năng của ngân sách, vì vậy các đơn vị rất khó khăn trong việc chấp hành dự toán.
Yêu cầu trước mắt đặt ra cho Nghệ An hiện nay là phải xây dựng được một hệ thống định mức chi cho giáo dục đào tạo tính trên đầu học sinh ở các cấp học cho phù hợp với thực tế của địa phương để làm căn cứ cho việc lập và thẩm định dự toán cho các đơn vị giáo dục đào tạo, định mức chi xây dựng phải đảm bảo yêu cầu chi tối thiểu cần thiết cho các đơn vị, đồng thời phải áp dụng được ở các vùng, các lĩnh vực khác nhau trong giáo dục đào tạo.
Theo dự thảo đề án xây dựng định mức phân bổ dự toán ngân sách năm 2003 cho các địa phương Vụ NSNN Bộ Tài chính dự kiến sẽ hội thảo với các địa phương vào khoảng tháng 4/2002 thì phương án đề nghị xây dựng định mức phân bổ ngân sách chi sự nghiệp giáo dục dựa trên tiêu chí dân số kết hợp với lương giáo viên theo nguyên tắc tổng quỹ lương và các khoản trích theo lương tối đa bằng 80%, chi khác tối thiểu bằng 20%, định mức dự kiến cho đồng bằng là 149.174đ/người/năm, hệ số phân bổ giữa các vùng lấy đồng bằng làm chuẩn (hệ số 1) tính ra các hệ số chênh lệch các vùng còn lại so với đồng bằng là: Thành thị là 0,95; Vùng núi là 1,2; Vùng núi cao - hải đảo là 1,4; Còn định mức phân bổ ngân sách chi cho đào tạo năm 2003 cũng chọn tiêu chí dân số để xây dựng và mức đề nghị là 20.683đồng/người/năm. Do chưa có điều kiện khảo sát, tính toán một cách kỹ lưỡng tác giả chưa đề xuất được mức chi cụ thể cho từng cấp học, từng loại hình giáo dục đào tạo ở Nghệ An một cách khoa học và hợp lý trong luận án này mà cần thiết phải nghiên cứu bổ sung thêm.
Ngoài việc nghiên cứu xây dựng hệ thống định mức phân bổ ngân sách cho giáo dục đào tạo cần nghiên cứu bổ sung các quy định về chế độ công tác phí cho cán bộ đi công tác ở các vùng sâu, vùng xa nơi không có phương tiện giao thông công cộng một cách hợp lý hơn, quy định rõ ràng cụ thể các tiêu chuẩn, chế độ chi tiếp khách. Hiện nay, địa phương mới chỉ quy định chi tiếp khách không được dùng bia ngoại, rượu ngoại thời gian tới cần quy định mức chi cụ thể đối với khoản chi này
3.4.3. Hoàn thiện quy trình lập và phân bổ dự toán, cấp phát, thanh quyết toán các nguồn kinh phí chi cho giáo dục đào tạo
kĐối với chi thường xuyên:
- Quy trình lập dự toán cần hoàn thiện theo hướng gọn nhẹ nhưng phải đảm bảo đúng theo quy định của luật NSNN.
Hàng năm, Sở tài chính Vật giá phối hợp với Sở giáo dục và Đào tạo phải có hướng dẫn quy trình lập dự toán chung cho các đơn vị giáo dục đào tạo (hiện nay mới chỉ dừng lại ở bước hướng dẫn thực hiện dự toán kinh phí uỷ quyền sự nghiệp giáo dục đào tạo cấp huyện). Để khắc phục những hạn chế trong công tác lập dự toán như đã nêu, phải quy định rõ về thời gian, hướng dẫn mẫu biểu dự toán cụ thể đồng thời phải giao số kiểm tra kịp thời cho từng đơn vị dự toán.
Việc lập dự toán ở các đơn vị cơ sở phải căn cứ vào tình hình thực hiện năm trước để đảm bảo độ chính xác nhất định, tránh tình trạng dự toán các đơn vị lập lên quá cao, gây khó khăn cho công tác thẩm định, xét duyệt dự toán.
- Trong phân bổ ngân sách, bên cạnh việc xây dựng hệ thống định mức chi cho giáo dục đào tạo, cần thiết phải công khai một cách rộng rãi các nguyên tắc, phương pháp phân bổ dự toán chi tiết cho các đơn vị thuộc huyện, ngành theo mục lục ngân sách, từng bước xác định hệ thống các nguyên tắc, phương pháp phân bổ chuẩn mực làm cơ sở cho việc phân khai dự toán chi tiết chi ngân sách cho các đơn vị dự toán.
- Trong cấp phát ngân sách, phải bám sát tình hình thực hiện nhiệm vụ của ngành, đơn vị và dự toán năm của các đơn vị để cấp phát, tránh tình trạng một số khoản kinh phí để dồn đến cuối năm mới cấp phát, gây khó khăn cho các đơn vị.
Để khắc phục những tồn tại trong phương thức cấp phát hiện nay, cần cải tiến quy trình cấp phát chi ngân sách cho Giáo dục Đào tạo theo hướng như sau:
+ Căn cứ vào dự toán NSNN đã được giao, các đơn vị sử dụng ngân sách phân bổ dự toán chi cho từng quý, đăng ký với KBNN, cơ quan tài chính để bố trí kinh phí thực hiện
+ Căn cứ vào dự toán chi, yêu cầu tiến độ triển khai công việc và điều kiện chi ngân sách, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách ra lệnh chuẩn chi gửi KBNN;
+ KBNN kiểm tra tính hợp pháp của các tài liệu cần thiết theo quy định của pháp luật và thực hiện thanh toán khi có đủ các điều kiện quy định của Luật theo phương thức thanh toán trực tiếp.
Quy trình trên phù hợp với tiến trình cải cách hành chính Nhà nước. Tuy nhiên đây là quy trình mới, đòi hỏi nhiều yếu tố đồng bộ như: nâng cao chất lượng dự toán ngân sách, tăng cường dự trữ tài chính, ý thức tôn trọng kỷ cương, kỷ luật của các đơn vị sử dụng ngân sách và khả năng kiểm soát chi của KBNN. Vì vậy, trong thời gian tới khi chưa có đủ điều kiện để thực hiện đồng bộ các yêu cầu trên nhằm tăng cường tính chủ động của đơn vị thủ hưởng ngân sách, cần thiết phải cải tiến công tác cấp phát hạn mức ngân sách theo quý đang thực hiện hiện nay sang điều hành, cấp phát theo hạn mức 6 tháng. Khi có đủ điều kiện cho phép, có nghĩa là khi công tác này đã ổn định, đi vào nề nếp sẽ thực hiện điều hành theo dự toán được duyệt hàng năm.
- Đối với công tác quyết toán và kiểm tra quyết toán
Vấn đề dặt ra hiện nay là việc sử dụng kinh phí của NSNN thuộc quyền hạn, trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí NSNN và thủ trưởng đơn vị dự toán cấp trên. Cơ quan tài chính không có điều kiện theo dõi, kiểm tra tình hình chi tiêu cụ thể ở từng đơn vị theo từng nội dung nghiệp vụ và từng chứng từ chi tiêu, do đó không đủ căn cứ để khẳng định tính đúng đắn của số liệu cũng như loại bỏ hết những sai phạm trong khi kiểm tra quyết toán.
Cải tiến công tác quyết toán chi ngân sách cho giáo dục đào tạo cần xác định rõ ràng thẩm quyền trách nhiệm xét duyệt quyết toán của cơ quan tài chính, trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị giáo dục đào tạo. Cụ thể là:
+ Thực hiện nguyên tắc người nào duyệt chi sai chế độ, sai dự toán được duyệt thì người đó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
+ Việc đánh giá thực hiện ngân sách không chỉ là chấp hành đúng chế độ, đúng tiêu chuẩn, mà còn phải đánh giá kết quả và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chuyên môn được giao. Do vậy, trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị cấp trên, đơn vị được quyền giao dự toán chi ngân sách và nhiệm vụ cho đơn vị sử dụng ngân sách là thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, phê duyệt việc chi tiêu, sử dụng ngân sách gắn với kết quả thực hiện những nhiệm vụ chuyên môn được giao.
+ Thể hiện đúng tính chất nhiệm vụ của cơ quan tài chính đảm nhận, đó là kiểm tra tính đúng đắn, hợp lệ nguồn tài chính, sử dụng tài chính - ngân sách và công tác thực hiện chế độ kế toán…
Để thực hiện tốt các nội dung trên, trong quá trình quyết toán ngân sách cho các đơn vị giáo dục đào tạo nhất thiết phải có sự phối hợp giữa cơ quan quản lý và cơ quan cấp phát, xoá bỏ tình trạng hiện nay là một số cơ quan, đơn vị trực thuộc tỉnh đóng trên địa bàn huyện chỉ có một cơ quan duy nhất là Phòng Tài chính huyện duyệt quyết toán, bỏ qua vai trò quản lý của Sở giáo dục Và đào tạo.
Bên cạnh đó, quá trình quyết toán phải kiên quyết xuất toán các khoản chi sai chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu và thu hồi giảm chi NSNN đối với các khoản chi sai chế độ này, khắc phục tình trạng cơ quan tài chính các cấp khi tiến hành quyết toán chi NSNN cho các đơn vị khi phát hiện các sai phạm có nêu kiến nghị xử lý nhưng lại không có biện pháp xử lý dứt điểm, để kéo dài không có thông báo duyệt y quyết toán cho các đơn vị.
Trên cơ sở mô hình quản lý ngân sách giáo dục đào tạo đã được hoàn thiện như đã nêu trên. Quy trình cấp phát, quyết toán kinh phí thường xuyên của NSNN cho giáo dục đào tạo được thực hiện theo mô hình sau:
kĐối với chi đầu tư XDCB:
- Việc cấp phát, thanh toán vốn đầu tư XDCB phải đảm bảo tiến độ công trình, muốn như vậy phải giải quyết được khâu yếu nhất đó là hồ sơ thủ tục, các cơ quan chức năng cần có sự phối hợp tích cực trong việc hướng dẫn các đơn vị hoàn thiện hồ sơ theo trình tự nhà nước quy định.
- Việc quyết toán vốn đầu tư XDCB phải tuân thủ theo quy định của Nhà nước: Theo Nghị định số 52/1999/NĐ.CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ thì các công trình, dự án hoàn thành chậm nhất sau 6 tháng phải quyết toán, để đảm bảo thực hiện được tốt công tác này cần nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư trong công tác quản lý vốn đầu tư đặc biệt là công tác lập báo cáo quyết toán.
Công tác quyết toán cần gắn với việc kiểm tra hồ sơ quyết toán công trình với kiểm tra kế toán, xuất phát từ lý do báo cáo quyết toán công trình theo thực tế chỉ là thước đo chính xác giá trị quyết toán thực tế. Nhiều đơn vị cố tình không tổ chức hạch toán kế toán công trình nhằm làm cho các cơ quan chức năng không thể kiểm tra kiểm soát cả về số lượng cũng như chất lượng vật tư sử dụng cho công trình. Trước đây và hiện nay việc thẩm định quyết toán hầu như chỉ mới dựa trên cơ sở báo cáo quyết toán của bên nhận thầu chưa chú trọng đến việc kiểm tra kế toán đối với việc sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
3.4.4. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát quá trình chi tiêu các khoản chi NSNN cho giáo dục - đào tạo. Thực hiện quy chế công khai tài chính đối với các đơn vị dự toán.
Theo quy định hiện nay, tất cả các khoản chi NSNN Phải được kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau quá trình cấp phát, thanh toán. các khoản chi phải có trong dự toán NSNN được duyệt, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định và đã được thủ trưởng các đơn vị sử dụng kinh phí NSNN chuẩn chi.
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát quá trình chi tiêu các khoản chi NSNN cho giáo dục-đào tạo nhằm khắc phục tình trạng là khi các đơn vị chi xong mới tiến hành kiểm tra, kiểm soát.
Đối với cơ quan tài chính các cấp ngoài việc tổ chức các hình thức cấp phát vốn một cách thích hợp phải tăng cường kiểm tra, giám sát một cách thường xuyên, liên tục và có hệ thống tình hình nhận và sử dụng kinh phí tại mỗi đơn vị được cấp. sao cho mỗi khoản chi tiêu kinh phí vừa phải đảm bảo đúng dự toán, đúng tiêu chuẩn của chế độ chi NSNN hiện hành, góp phần nâng cao tính tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý các khoản chi NSNN cho giáo dục và đào tạo.
Xuất phát từ thực tế trong thời gian qua cơ quan tài chính mới chủ yếu thực hiện công tác kiểm tra khi quyết toán kinh phí hàng năm vì vậy không có tác dụng ngăn ngừa và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm kỷ luật tài chính phát sinh nên thời gian tới phải tăng cường công tác kiểm tra giám sát hàng ngày qua mỗi nghiệp vụ cấp phát kinh phí, đồng thời thực hiện kiểm tra giám sát theo định kỳ bằng việc thẩm định và xét duyệt các báo cáo tài chính hàng tháng, quý của các đơn vị sử dụng kinh phí.
Đối với cơ quan KBNN: Với chức năng quản lý quỹ NSNN và là đơn vị được Nhà nước giao nhiệm vụ kiểm soát các khoản chi NSNN. KBNN thực hiện kiểm soát chi khi thủ trưởng đơn vị sử dụng NSNN đã chuẩn chi, chính vì vậy để tránh sự chồng chéo về nội dung kiểm soát giữa cơ quan tài chính và Kho bạc Nhà nước cần xác định rõ nội dung kiểm soát của kho bạc nhà nước, có như vậy mới phân định chức năng nhiệm vụ của các đơn vị trong quá trình quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo.
Phạm vi kiểm soát chi của Kho bạc Nhà nước là kiểm tra tính hợp pháp và hợp lý của hồ sơ, chứng từ mua bán; tính hợp pháp của các chữ ký của người chuẩn chi và kế toán trưởng đơn vị; số tiền chi trả có nằm trong dự toán được duyệt và có đúng mục lục ngân sách hay không và cuối cùng là việc tuân thủ các định mức, tiêu chuẩn chi tiêu ngân sách Nhà nước hiện hành. Cơ quan Kho bạc Nhà nước nước trực tiếp chi tiền của ngân sách cho các đơn vị cần phải thực hiện kiểm tra các điều kiện và thực hiện cấp tiền theo lệnh của cơ quan tài chính. Cơ quan kho bạc Nhà nước có thể đình chỉ việc chi tiêu trong trường hợp không đủ các điều kiện và sử dụng tiền được cấp không đúng quy định.
Ngoài việc kiểm tra, kiểm soát các nội dung nêu trên. Hiện nay, Kho bạc nhà nước các cấp cần quan tâm đến việc kiểm soát một cách chặt chẽ tồn quỹ tiền mặt tại các đơn vị sử dụng ngân sách, hạn chế khối lượng tiền mặt tồn dư tại các đơn vị quá lớn
Khi tăng cường kiểm tra của các cơ quan chức năng không có nghĩa là hạ thấp vai trò kiểm soát nội bộ của các cơ quan quản lý giáo dục mà kiểm soát nội bộ cũng phải thực hiện đều đặn, hỗ trợ tích cực cho công tác kiểm tra của các cơ quan chức năng, để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi phải thực hiện nghiêm túc quy chế công khai tài chính đối với các đơn vị dự toán.
Trong lĩnh vực đầu tư XDCB, phải từng bước chấn chỉnh và nâng cao hiệu lực công tác kiểm tra thanh tra đối với các chương trình dự án đầu tư cho giáo dục đào tạo. Việc tăng cường công tác này là hết sức cần thiết, giữ vững kỷ cương trong lĩnh vực tài chính đầu tư, yêu cầu các tổ chức, cá nhân có công trình dự án phải chấp hành nghiêm chỉnh đồng thời qua đó đánh giá được hiệu quả vốn ngân sách và các nguồn vốn khác đầu tư cho giáo dục đào tạo.
3.4.5. Củng cố, nâng cao chất lượng công tác quản lý tài chính ở các đơn vị cơ sở giáo dục đào tạo.
Đơn vị cơ sở giáo dục và đào tạo là nơi trực tiếp sử dụng các khoản kinh phí NSNN đầu tư cho giáo dục (kể cả kinh phí ngân sách cấp và các nguồn thu khác của đơn vị). Yêu cầu đặt ra cho công tác quản lý tài chính ở đây là quản lý, sử dụng tiết kiệm, đúng mục đích, đúng chế độ các khoản chi ngân sách cho giáo dục đào tạo, tăng cường tính tự chịu trách nhiệm của Thủ trưởng đơn vị, các chủ tài khoản trong công tác quản lý tài chính trong đơn vị. Thủ trưởng các đơn vị sử dụng ngân sách phải chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với những khoản chi sai chế độ, tiêu chuẩn, lãng phí, không đúng mục đích. Nếu vi phạm làm tổn thất ngân sách của Nhà nước phải nồi thường, tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Để đáp ứng được yêu cầu trên đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý tài chính tại các đơn vị cơ sở phải có đủ trình độ, năng lực chuyên môn để quản lý chặt chẽ và hạch toán đầy đủ, rõ ràng các khoản chi từ các nguồn khác nhau. Xuất phát từ thực trạng thời gian vừa qua cán bộ làm công tác quản lý tại các đơn vị cơ sở giáo dục đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý; chủ tài khoản các đơn vị chỉ sâu về quản lý chuyên môn giáo dục không am hiểu về quản lý tài chính, đội ngũ cán bộ kế toán nhất là tại các đơn vị dự toán cấp huyện không thành thạo nghiệp vụ chuyên môn, có một số lại phải kiêm nhiệm các công việc khác. Vì vậy, củng cố nâng cao chất lượng công tác quản lý tài chính tại các đơn vị cơ sở giáo dục đào tạo cần chú trọng đến việc thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý tài chính nói chung, công tác kế toán nói riêng cho đội ngũ cán bộ làm công tác kế toán ở các cơ sở. Trong thời gian tới cần tập trung rà soát, đánh giá khả năng nghiệp vụ chuyên môn của đội ngũ này để có các phương án sắp xếp lại thích hợp.
3.5. Những điều kiện cần thiết đảm bảo thực hiện giải pháp đề xuất
Để có thể thực hiện tốt các giải pháp đã nêu, theo chúng tôi cần thiết phải có điều kiện đảm bảo sau đây:
Thứ nhất là phải có sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương trong công tác quản lý chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo: Chỉ có trên cơ sở nhận thức rõ vai trò của giáo dục - đào tạo và tầm quan trọng của công tác quản lý chi NSNN cho giáo dục đào tạo thì các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương mới chỉ đạo các ban, ngành địa phương tích cực quan tâm đến đầu tư ngân sách, quản lý ngân sách chi cho giáo dục và đào tạo
Thứ hai là về khuôn khổ pháp lý: Trung ương cần bổ sung sửa đổi các quy định trong quản lý tài chính, ngân sách từ luật NSNN đến các văn bản dưới luật đảm bảo phát huy tối đa tính chủ động sáng tạo của địa phương trong quản lý tài chính, ngân sách. Trong đó cần thiết phải quy định rõ và đơn giản hơn quy trình lập dự toán ngân sách, cải tiến quy trình chi ngân sách; quy định rõ trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách, cơ quan quản lý cấp trên và cơ quan KBNN trong lĩnh vực NSNN, bổ sung các quy định trách nhiệm của cơ quan phê chuẩn, cơ quan thẩm định quyết toán đồng thời quy định rõ về phân công, phân cấp cho địa phương trong việc xây dựng định mức phân bổ ngân sách cho các đơn vị trực thuộc và ngân sách cấp dưới
Thứ ba là phải đảm bảo cân đối được nguồn ngân sách đầu tư ngân cho giáo dục và đào tạo: Trong điều kiện nguồn thu ngân sách của Nghệ An còn hạn hẹp, chi ngân sách cho giáo dục đào tạo chủ yếu từ nguồn trợ cấp cân đối của trung ương, khả năng chi trả nhờ có nguồn thu vượt dự toán của địa phương không đáng kể. Muốn đạt được một cơ cấu đầu tư chi ngân sách cho giáo dục đào tạo hợp lý, phải có một lượng ngân sách tăng lên nhất định. Vì vậy, ngoài việc tích cực tranh thủ sự quan tâm của các Bộ, ngành ở Trung ương, phải soát xét lại các chính sách đặc thù của địa phương đã ban hành trên cơ sở dự kiến để nguồn ngân sách có thể đáp ứng được, khắc phục tình trạng một số chính sách địa phương ban hành không có nguồn để bố trí.
Thứ tư là phải có các chính sách hợp lý giải quyết tình trạng thừa thiếu giáo viên hiện nay ở các cấp học hiện nay: Yếu tố này không những tác động đến cơ cấu chi ngân sách cho các cấp học mà còn ảnh hưởng đến các khâu khác của quá trình quản lý chi ngân sách. Sẽ không có một cơ cấu chi, quy trình phân bổ dự toán hợp lý nếu không giải quyết được tình trạng này. Vì vậy, song song với các chính sách sắp xếp lại đội ngũ giáo viên hiện có, cần có các quy định chặt chẽ từ khâu tuyển dụng.
Thứ năm là về con người và cơ sở vật chất:
- Cần củng cố tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý tài chính trong ngành giáo dục, cần phải bổ sung thêm lực lượng làm công tác quản quản lý tài chính cho sở Giáo dục Và đào tạo để có thể thực hiện tốt công tác quản lý, kiểm tra việc sử dụng kinh phí tại các đơn vị cơ sở.
- Đổi mới khâu mua sắm, trang bị tài sản phục vụ công tác quản lý theo hướng ngày càng hiện đại hoá. Việc mua sắm tài sản phải cân đối với nhiệm vụ được giao, không chỉ đơn thuần là việc mua sắm tài sản, trang thiết bị đắt tiền mà thực chất của nó là cung cấp đầy đủ các trang thiết bị cần thiết, phục vụ cho công tác quản lý. Vì vậy vẫn cần thiết phải dành một khoản kinh phí hợp lý cho công tác quản lý, ưu tiên tin học hoá việc quản lý cấp phát kinh phí.
Phụ lục số 1
Cơ cấu chi Chi NSNN cho giáo dục đào tạo Nghệ an trong tổng chi NS địa phương giai đoạn 1996-2000
Đơn vị tính: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
I. Tổng chi Ngân sách địa phương
626.870
855.653
1.122.322
1.381.105
1. Chi đầu tư phát triển
132.448
158.834
170.930
381.766
457.678
2. Chi thường xuyên
494.382
632.312
684.723
740.556
923.427
II. Chi NSNN cho GD-ĐT
223.535
280.525
309.966
333.962
446.205
Tỷ trọng so với tổng chi NSĐP
35,7%
35,5%
36%
29,8%
24%
1. Chi đầu tư XDCB tập trung
14.667
19.756
3.196
17.974
26.300
Tỷ trọng so với Tổng chi đầu tư phát triển
11%
12,4%
1,9%
4,7%
5,7%
2. Chi thường xuyên
208.868
260.769
306.770
315.988
419.905
Tỷ trọng so với tổng chi thường xuyên NSĐP
37,1%
35,2%
31,1%
41,5%
42,5%
Phụ lục số 3
Cơ cấu các nhóm mục chi trong tổng chi thường xuyên cho giáo dục đào tạo
Nội dung
Năm
1997
1998
1999
2000
Số tuyệt đối ( triệu đ)
Tỷ trọng (%)
Số tuyệt đối (triệu đ)
Tỷ trọng (%)
Số tuyệt đối (triệu đ)
Tỷ trọng (%)
Số tuyệt đối (triệu đ)
Tỷ trọng (%)
Nhóm 1
216.360
82,97
259.190
84,49
272.224
86,15
366.367
87,25
Nhóm 2
27.902
10,69
24.879
8,11
22.088
6,99
23.095
5,5
Nhóm 3
12,595
4,83
19.848
6,47
13.587
4,3
18.350
4,37
Nhóm 4
3.912
1,51
2.853
0,93
8.089
2,56
12.093
2,88
Cộng
260.769
100%
306.770
100%
315.988
100%
419.905
100%
Nguồn: Sở tài chính vật giá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29708.doc