Đây là công việc thuộc lĩnh vực lập pháp. Việc ban hành chính sách thuế thu nhập cá nhân sẽ tạo ra những quy định pháp luật làm cơ sở để tính và thu thuế thu nhập cá nhân. Đồng thời , ban hành chính sách cũng đưa ra những căn cứ để kiểm tra, thanh tra, và áp dụng các chế tài đối với quá trình tính và thu này. Để mỗi công dân đều sống và làm việc theo pháp luật thì trước hết, nguyên tắc cơ bản trong việc xây dựng văn bản pháp luật nói chung là phải đơn giản , rõ ràng và chặt chẽ. Văn bản pháp luật về thuế nói chung và thuế thu nhập cá nhân nói riêng thì sắc thuế thu nhập cá nhân khá phức tạp nên quy định của luật cần đảm bảo được các yêu cầu về tính đơn giản, rõ ràng và chặt chẽ để hạn chế hành vi trốn thuế của các đối tượng nộp thuế thực hiện nguyên tắc công bằng bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế. Điều này cũng giúp tiết kiệm các chi phí trong quản lý thuế nói chung .
Bên cạnh đó, quy định trong chính sách thuế thu nhập cá nhân phải đảm bảo được yêu cầu đặt ra trong việc huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đồng thời phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và đảm bảo tính công bằng đối với cả người nộp thuế và xã hội. Thuế thu nhập cá nhân đóng vai trò phân phối lại thu nhập trong xã hội, giảm bớt sự cách biệt quá lớn về mức sống giữa các cá nhân trong xã hội nhưng cũng cần động viên sự phấn đấu làm việc của người lao động.
72 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1022 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu và phát triển thành công trình dự thi giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vụ khó khăn và vất vả nhất đối với những người quản lý thu thuế thu nhập cá nhân. Hiện nay, việc quản lý thu nhập đối với người lao động Việt Nam còn rất nhiều bất cập. Một loạt đối tượng thuộc diện phải nộp thuế thu nhập nhưng vẫn chưa phải nộp thuế như đã phân tích ở trên. Từ đó, các thu nhập tính thuế cũng bị bỏ sót. Thu nhập từ dự hội thảo, nhận quà biếu đối với các cán bộ thuộc khu vực Nhà nước từ việc quản lỏng lẻo về thu nhập cán bộ như vậy đã dẫn tới tình trạng tham nhũng ngày một gia tăng, thu nhập của các cá nhân hành nghề tự do không thuộc diện điều tiết của thuế thu nhập doanh nghiệp, thu nhập của ca sĩ tại các phòng trà , thu nhập từ các hoạt động giảng dạy, luyện thi vẫn chưa được các cơ quan thuế quản lý.
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thuế chưa thực sự phát huy được hiệu quả.
Ngành thuế Việt Nam hiện nay cũng đã xác định được tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, giáo dục thuế sâu rộng. Tuy nhiên, việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến vẫn chưa thực hiện thường xuyên mà vẫn chỉ mang tính chất phong trào.
Công tác thanh tra thuế thu nhập cá nhân
ở Việt Nam hiện nay, công tác thanh tra thuế nói chung và thuế thu nhập cá nhân nói riêng vẫn chưa được thực hiện thường xuyên và hiệu quả còn thấp. Trình độ cán bộ thanh tra còn hạn chế không kịp thời với những hành vi trốn thuế tinh vi như hiện nay.
2.3.2.2 Nguyên nhân
Những hạn chế trên xuất phát từ nhứng nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, là do hệ thống pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn còn chưa hoàn thiện, có những nội dung còn chưa sát với thực tế quản lý thu thuế tại Việt Nam nên còn gây ra những hạn chế trong việc tận thu vào ngân sách nhà nước.
Thứ hai, do trình độ đội ngũ cán bộ thuế thấp sẽ dẫn tới sự yếu kém trong công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách thuế đến mọi người dân. Lâu nay Nhà nước buộc người dân phải thực hiện nghĩa vụ thuế nhưng chưa chỉ ra cho họ thấy quyền lợi được hưởng, rằng mỗi con đường, mỗi ngôi trường, bệnh viện, sự an ninh của khu phố đều từ tiền thuế của dân mà ra. Trình độ đội ngũ cán bộ thuế thấp cũng dẫn đến những sai phạm trong quá trình quản lý thu thuế: tính thuế, quyết toán thuế
Thứ ba, đặc biệt trong công tác thanh tra thuế, điều này càng thể hiện rõ ràng hơn. Thủ đoạn trốn thuế hiện nay ngày càng tinh vi, phức tạp. Trình độ cán bộ thuế còn nhiều hạn chế thì không thể phát hiện ra những sai phạm của đối tượng bị thanh tra.
Trong những năm gần đây ngành thuế đã tập trung đào tạo kiến thức cơ bản cho cán bộ của ngành nhưng mới chỉ dừng lại ở việc gửi cán bộ đi học tại các trường đại học và trung học chứ chưa chuyên sâu về nghiệp vụ thuế và các kiến thức theo tiêu chuẩn ngạch công chức nhà nước quy định.
Ngành thuế đã tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ nhưng mới chỉ tập trung vào một số cán bộ chủ chốt, chưa làm được nhiều và thường xuyên đối với đội ngũ đông đảo cán bộ trực tiếp quản lý ở các địa phương. Đối với thuế thu nhập cá nhân thì luôn có chỉnh sửa thì việc đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ thuế lại càng trở nên quan trọng. Vì vậy, trình độ chuyên môn của cán bộ thuế ở cấp cơ sở còn thấp. Nhiều cán bộ chưa nắm được kiến thức cơ bản về luật thuế ngay trong lĩnh vực chuyên môn mình đảm nhận.
Mặc dù đã được quan tâm đầu tư, điều kiện vật chất của ngành thuế còn lạc hậu. Cơ sở làm việc còn chật chội, hệ thống thông tin phục vụ công tác quản lý chưa được nâng cấp. Trong thời gian tới, hệ thống thông tin cần được trang bị lại để đáp ứng được tiến độ và khối lượng công việc. Việc trao đổi thông tin giữa các ngành thuế với các ngành liên quan chưa chặt chẽ, không đầy đủ làm giảm tính khả thi, chính xác và hiệu quả trong công tác quản lý thu thuế.
Thứ tư, ở Việt Nam hiện nay, quá trình thanh toán tiền bằng tiền mặt vẫn là chủ yếu nên đã gây khó khăn cho cán bộ thuế trong công tác kiểm tra thu nhập của đối tượng lao động. Cơ quan thuế khó có thể xác minh và thẩm tra những kê khai về thu nhâp của đối tượng nộp thuế một khi thu nhập người lao động dưới hình thức tiền mặt, không có một chứng từ nào xác nhận việc thanh toán. Trong khi đó các khoản thu nhập lại rất không ổn định.
Thứ năm, do những bất cập trong chế độ kê khai thuế và cấp mã số thuế hiện nay đối với những đối tượng hành nghề tự do như ca sĩ, nghệ sĩ , cầu thủ bóng đáCác hình thức kê khai vẫn còn hạn chế chưa đa dạng nên gây ra tình trạng nhiều loại thu nhập chưa được tính đến và làm giảm hiệu quả quản lý thu thuế thu nhập cá nhân.
Thứ sáu, do ý thức người dân về thuế thu nhập cá nhân còn thấp. Rất nhiều người dân chưa hiểu biết đầy đủ về thuế thu nhập cá nhân,sự tự giác còn chưa cao, chưa có sự hiểu biết cặn kẽ về quyền lợi và nghĩa vụ của người nộp thuế nên còn có những biểu hiện trốn tránh, thoái thác việc thực hiện Pháp luật thuế. Bản thân những người hiểu biết cũng cố tình làm sai và không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Ngay cả các cơ quan chi trả thu nhập, vì lợi ích của bản thân các đơn vị đó nên đã không tiến hành khấu trừ thu nhập.
Nhà nước vẫn chưa thực sự chú trọng vào thuế thu nhập cá nhân, những chương trình tuyên truyền và giáo dục về thuế thu nhập cá nhân gần như không có. Điều này đã khiến cho thuế thu nhập cá nhân vẫn còn là một sắc thuế xa lạ đối với rất nhiều người.
Để hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân, huy động nhiều hơn và hợp lý hơn nữa thu nhập của cánhân cho nhà nước, góp phần thực hiện công bằng xã hội, ngành thuế và các cơ quan liên quan phải tìm các giải pháp thích hợp để giải quyết những hạn chế.
Chương 3
Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân ở nước ta hiện nay
3.1 Định hướng hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân
ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay, pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao của Việt Nam không phổ biến trên thế giới và khác xa với bản chất của thuế thu nhập cá nhân. Việt Nam ta hiện nay cũng đang dự thảo Luật thuế TNCN nhằm xây dựng hướng đến một mô hình thu thuế cá nhân hiện đại, đảm bảo nhiều mục tiêu: thu ngân sách, kiểm soat thu nhập và đảm bảo công bằng xã hội. Tuy nhiên, Luật thuế TNCN sẽ có sự tính toán khấu trừ hợp lý để những người thu nhập thấp không phải nộp thuế như mọi người vẫn lo ngại. Theo dự thảo Luật thuế TNCN sẽ có cách tính thuế hoàn toàn khác và thu nhập chịu thuế cũng được tính rất khác so với trước đây, diện chịu thuế cũng được mở rộng hơn so với trước. Đó là những điểm khác biệt như sau:
Thứ nhất, thuế TNCN sẽ được áp dụng thống nhất để điều chỉnh các loại thu nhập cá nhân thay vì mỗi loại thu nhập được điều chỉnh bởi một sắc thuế như hiện nay. Luật sẽ xác định rõ các loại thu nhập để có mức điều tiết phù hợp.
Thứ hai, thu nhập chịu thuế đối với cá nhân sẽ không phải là toàn bộ thu nhập mà cá nhân đó nhận được như hiện nay mà dự kiến thu nhập sẽ được trừ đi một số khoản chi phí.
Ví dụ, thu nhập từ tiền lương, tiền công, thu nhập của chủ hộ kinh doanh (sau khi trừ chi phí) dự kiến được chiết trừ gồm : thứ nhất, một phần chi phí để tạo ra tiền lương, tiền công của cá nhân đó. Thứ hai, chi phí cho cá nhân người nộp thuế, trong đó có phân biệt người độc thân và người có gia đình. Thứ ba, phần chi phí cho việc nuôi dưỡng người thân của người nộp thuế theo quy định của pháp luật (như bố mẹ, vợ, chồng, con), nếu con dưới 18 tuổi thì mục chiết trừ chi phí được nhiều hơn Ngoài ra, các khoản đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của cả nhà người nộp thuế cũng được trừ trước khi xác định thu nhập chịu thuế.
Dự kiến là sau khi trừ đi các khoản giảm trừ nói trên, thu nhập còn lại của người nộp thuế mới coi là thu nhập để tính thuế và dự kiến áp dụng thuế suất thấp hơn rất nhiều so với mức 10% khởi điểm hiện nay và nếu sau khi giảm trừ chi phí mà mức thuế nộp quá ít thì được miễn.
Theo chính sách thuế hiện hành, thu nhập của các cá nhân được điều chỉnh bởi các sắc thuế khác nhau: cá nhân có thu nhập tiền lương, tiền công thì được điều chỉnh bởi Pháp lệnh về thuế đối với người có thu nhập cao; cá nhân hộ kinh doanh có thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh thì bị điều chỉnh bởi thuế thu nhập doanh nghiệp; cá nhân có thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất thì nộp thuế chuyển quyển sử dụng đấtVì thế, Luật thuế TNCN đang soạn thảo có mục tiêu thống nhất tất cả các chính sách điều tiết về thuế của các sắc thuế có liên quan đến thu nhập của cá nhân. Vì vậy mà đối tượng nộp thuế của luật này được mở rộng hơn
Mức thu nhập tính thuế sẽ được ban soạn thảo tính toán dựa trên các dự báo về thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam từ năm 2009 trở đi. Mức tính toán này cũng gắn với phương án cải cách tiền lương theo chỉ tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2006-2010 được Quốc hội thông qua.
Về thuế suất, mức thuế suất khởi điểm sẽ không còn là 10% như hiện nay mà áp dụng mức thấp hơn, khoảng 5%, để mở rộng đối tượng nộp thuế.
Theo vụ chính sách Thuế, Bộ Tài chính, trong quá trình soạn thảo nhiểu ý kiến cho rằng, nếu quy định ít bậc thuế với mức thuế suất khởi điểm thấp hơn mức hiện hành (khoảng 5%) và mức thuế suất lũy tiến cao nhất nhằm đảm bảo hài hòa giữa lợi ích của các bên. Riêng đối với các loại thuế thu nhập khác như thu nhập đầu tư tài chính, chuyển nhượng vốn, bất động sản sẽ ban hành mức thuế hợp lý để khuyến khích phát triển các hoạt động giao dịch của những thị trường này.
Ngoài ra luật thuế thu nhập cá nhân cũng sẽ mở rộng đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân bằng cách giảm mức khởi điểm thu nhập chịu thuế xuống thấp hơn mức 5triệu đồng/tháng như hiện nay. Các loại thuế này sẽ được phân loại rõ theo từng đối tượng là cá nhân lao động hay hộ kinh doanh.
Như vậy, khả năng đối tượng chịu thuế sẽ không chỉ là các cá nhân có thu nhập cao trong các lĩnh vực như đầu tư tài chính, chuyển nhượng vốn, bất đống sản mà các khoản thu nhập khác như từ tiền bản quyền, trúng thưởng xổ số, quà tặng đều là thu nhập chịu thuế.
Bộ Tài chính cũng tính toán các khoản giảm trừ cho đối tượng nộp thuế với người phụ thuộc, gồm vợ hoặc chồng, con cái và những cá nhân khác theo quy định của pháp luật. Mức khấu trừ này được tính toán trên cơ sở đảm bảo mức sống cần thiết và phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và mặt bằng giá trong từng thời kỳ.
Bộ Tài chính nhận định, việc thu thuế với người có thu nhập cao hiện nay đang bộc lộ nhiều điểm hạn chế và rất phi kinh tế. Chẳng hạn, cùng là đối tượng chịu thuế với thu nhập 5 triệu đồng/tháng, nhưng chưa phân biệt được giữa người độc thân và người có gia đình cũng như chưa xác minh được cụ thể nguồn thu của đối tượng chịu thuế. Chính vì thế, Chính vì thế,Luật thuế mới sẽ phải tiến bộ hơn theo đặc điểm nghề nghiệp của từng đối tượng chịu thuế để trừ đi các khoản chi phí phát sinh.
Theo chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 được Chính phủ phê duyệt, Luật Thuế thu nhập cá nhân sẽ được trình Quốc hội và ban hành vào năm 2007. Các quy định mới sẽ được áp dụng thống nhất đối với mọi cá nhân có thu nhập chịu thuế, kể cả người cư trú, người không cư trú và hộ kinh doanh cá thể
Bên cạnh định hướng về luật thuế thu nhập cá nhân thì ngành Thuế cần tăng cường các biện pháp quản lý TNCN và chống thất thu NSNN. Đó là: Hướng dẫn các cơ quan chi trả thu nhập, các cá nhân kê khai nộp thuế, khấu trừ thuế theo đúng quy định của pháp luật về thuế TNCN. Đôn đốc, thực hiện kiểm tra quyết toán thuế năm 2006 và thoái trả thuế theo đúng quy trình đã ban hành. Xử lý kịp thời các vướng mắc, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân nộp thuế đúng quy định; Tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền thực hiện nghiêm chỉnh Pháp lệnh thuế TNCN; xây dựng quy chế phối hợp với cán bộ, ngành có liên quan trong việc triển khai thực hiện nghiêm chỉnh pháp lệnh thuế TNCN như: Bộ Văn hóa thông tin, Bộ Công anm Ngân hàng Nhà nước, Bộ Giáo dục đào tạo, Bộ y tế; Xây dựng chương trình kiểm tra về thuế TNCN, tập trung kiểm tra ở các lĩnh vực có tình trạng thất thu như: giáo dục đào tạo (giáo viên), cá nhân hành nghề độc lập (bác sĩ, luật sư, kiến trúc sư), văn phòng đại diện, tổ chức nướcngoài tại Việt Nam, dự án.
Riêng đối với ca sĩ, nghệ sĩ: tăng cường quy chế phối hợp cung cấp thông tin giữa cơ quan thế và các cơ quan quản lý. Gửi đề nghị cung cấp thông tin chi trả cho nghệ sĩ từ các đơn vị hoạt động nghệ thuật, các công ty kinh doanh, truyền hình; kiểm tra trọng điểm quyết toán thuế tại các đơn vị tổ chức biểu diễn kinh doanh nghệ thuật để làm cơ sở cho việc tăng cường kiểm soát thu nhập của giới ca sĩ, nghệ sĩ và đề xuất biện pháp quản lý phù hợp hơn; Tiếp tục thông tin tình hình thưc hiện nghĩa vụ thuế TNCN của ca sĩ nghệ sĩ đến các cơ quan quản lý Nhà nước về nghệ Thuật, đơn vị quản lý trực tiếp nhân sựđể phối hợp thực hiện công tác thu. Xử lý nghiêm vi phạm đối với các tổ chức, cá nhân có hiện tượng trốn thuế.
Tóm lại, luật thuế thu nhập cá nhân sắp ra đời sẽ khắc phục những hạn chế của pháp lệnh thuế thu nhập đối với thu nhập cao nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam hiện nay.
3.2 Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam
3.2.1 Ban hành luật và hoàn thiện luật thuế thu nhập cá nhân
Việc ban hành và hoàn thiện luật thuế thu nhập cá nhân sẽ tạo điều kiện nâng cao hiệu quả quản lý thuế thu nhập cá nhân. Chính sách thuế thu nhập cá nhân được ban hành dưới dạng luật sẽ có những ưu điểm hơn so với hình thức pháp lệnh hiện nay, cụ thể là:
- Luật thuế thu nhập cá nhân có hiệu lực pháp lý cao hơn, phạm vi tác đông rộng hơn vì chúng do cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước- quốc hội ban hành.
- Luật thuế thu nhập cá nhân sẽ bao quát được nhiều khoản thu nhập hơn so với pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao vì không còn bó hẹp trong những đối tượng được gọi là có “thu nhập cao” nữa.
- Luật thuế thu nhập cá nhân sẽ phù hợp hơn trong điều kiện Việt Nam đang xây dựng một nhà nước pháp quyền và từng bước hội nhập vào đời sống kinh tế-xã hội của khu vực và thế giới.
Đối với nội dung Luật thuế thu nhập cá nhân có những thay đổi như phần định hướng về luật thuế thu nhập cá nhân đã nêu ở phần trên.
Tóm lại, việc ban hành luật thuế thu nhập cá nhân sẽ nâng cao tính pháp lý đối với việc quảnlý thuế thu nhập cá nhân, tạo điều kiện cho thuế thu nhập cá nhân được quan tâm hơn nữa. Hiện nay, ở Việt Nam chỉ có khoảng 400.000 người thuộc diện nộp thuế thu nhập cao. Nhưng nếu nâng thành luật thuế thu nhập cá nhân thì đối tượng quản lý, thu thuế lên tới hàng triệu người. Đây là vấn đề rất nhạy cảm, đòi hỏi phai có thời gian cho việc khảo sát, điều tra, tính toán kỹ lưỡng. Đồng thời, cơ quan thuế cũng cần phải chuẩn bị cả về đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất, hiện đại hóa công tác thu thuế qua vi tính để kiểm tra đối soát thu nhập tính thuế, đối tượng nộp thuế cho chính xác, hạn chế tình trạng trốn lậu thuế.
Theo chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Luật thuế thu nhập cá nhân sẽ được áp dụng vào năm 2009.
3.2.2 Công tác tổ chức thực hiện chính sách thuế
3.2.2.1 Tăng kiểm tra thuế thu nhập với người nước ngoài
Cơ quan thuế cần tổ chức nhiều cuộc gặp tuyên truyền giải thích về chính sách thuế để người nước ngoài tại Việt Nam tự giác kê khai, nộp thuế thu nhập. Tổng cục thuế nên mời các nhà đầu tư, doanh nhân nước ngoài tại các tỉnh đến họp để tuyên truyền phổ biến chính sách thuế thu nhập của Việt Nam, nhằm tránh thất thu thuế đối với người nước ngoài tại Việt Nam, thông tư 12 do Tổng cục thuế ban hành quy định rõ: với người nước ngoài được coi là không cư trú tại Việt Nam, thu nhập chiu thuế là tổng thu nhập phát sinh tại Việt Nam, không phân biệt nơi nhận thu nhập tại Việt Nam hay nước ngoài. Tổng cục thuế cần chỉ đạo các cơ quan thuế triển khai tích cực công tác vận động, tuyên truyền người nước ngoài ở Việt Nam về Thuế thu nhập cá nhân để họ tự giác kê khai, nộp thuế thu nhập. Nếu như họ không tự giác kê khai thì cơ quan thuế cần kiểm tra và có biện pháp xử lý vi phạm.
3.2.2.2 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức thuế
Cơ quan thuế các cấp cần quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ thuế, về kỹ thuật tuyên truyền đến cán bộ thuế, nhất là cán bộ cơ sở có thể nắm chắc mọi chính sách, chế độ, từ mục đích, ý nghĩa đến nội dung cụ thể, đủ khả năng làm tròn nhiệm vụ một tuyên truyền viên giỏi về thuế.
Những “bản tin thuế” do Tổng cục hoặc một số Cục thuế phát hành phảo kịp thời cung cấp những thông tin phong phú, hướng dẫn công tác “bắt đúng mạch” nhu cầu, thiết thực góp phần nâng cao hiểu biết toàn diện cho cán bộ thuế về hoạt động của toàn ngành, của địa phương, của một số nước để vận dụng, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn hàng ngày. Với đội ngũ ban biên tập và cộng tác viên trong và ngoài ngành cần phải đông đảo, các bản tin thuế phải sinh động về nội dung, phong phú về hình thức, giàu về lý luận và thực tiễn. Đây là diễn đàn để cán bộ trong ngành trao đổi kinh nghiệm công tác, phong trào thu đua của địa phương, hiến kế, đề xuất những giải pháp cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả của từng loại thuế; phản ánh được những ý kiến khác nhau trên nhiều góc độ và tiến tới trở thành người bạn thân thiết; gần gũi của cán bộ toàn ngành thuế, của địa phương.
Tích cực đào tạo cán bộ thuế có trình độ, hăng say với công tác tuyên truyền pháp luật thuế ngày càng nhiều và liên tục được bồi dưỡng để công tác tuyên truyền ngày càng đem lại hiệu quả khả quan, thiết thực: tác động tốt với đối tượng tuyên truyền không chỉ thể hiện qua nội dung giải thích mang tính thuyết phục, có lý, có tình mà còn gắn với nhân cách, uy tín của cán bộ thuế, đủ khả năng tranh luận, trao đổi sâu kỹ về từng vấn đề, từ lý luận gắn với thực tiễn và lời nói đi đôi với việc làm cụ thể hàng ngày. Mặt khác những kiến nghị, góp ý cảu nhân dân cần được tiếp thu, tổng hợp, phản ánh lên trên xem xét, đề suất sửa đổi, bổ sung để chính sách, chế độ thuế mang tính khả thi, phù hợp biên động về kinh tế- xã hội và ngày càng hoàn thiện.
Tổng cục thuế, các Cục và chi cục thuế phải không ngừng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, quảnlý báo chí, thông tin tuyên truyền đại chúng (báo hình, báo viết, báo nói) từ Trung ương đến địa phương, khai thác được thế mạnh của các phương tiện này để truyền bá kịp thời, sâu rộng những thông tin về chính sách, chế độ thuế đều khắp, từ thành thị đến nông thôn để mọi tầng lớp dân cư có điều kiện tiếp cận, hiểu biết rõ hơn vai trò, vị trí của thuế trong cơ chế thị trường, về nghĩa vụ và quyền lợi công dân qua công tác thuế, từng bước biến thuế thành một công tác quần chúng cụ thể của toàn Đảng, toàn dân. Các chủ trương chính sách thuế hàng ngày phải đến với dân để không ngừng góp phần nâng cao tinh thần giác ngộ kiến thức để “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” việc thực hiện, cả với cán bộ thuế và đối tượng nộp thuế một cách thuận lợi.
Tổng cục thuế cần phối hợp chặt chẽ với các Bộ: Tư pháp, Giáo dục- đào tạo, Văn hóa- thông tin, Ban Văn hóa- Tư tưởng Trung ương xây dựng và cung cấp các đề cương tuyên truyền cho hệ thống màng lưới báo cáo viên, tuyên truyền viên và biên soạn nhiều bài học về thuế cơ bản, nhẹ nhàng đưa vào môn giáo dục công dân cho học sinh các cấp II, III. Thường xuyên tổ chức các cuộc thi “Tìm hiểu về thuế”
Triển khai nhanh chóng hình thức tuyên truyền và lắng nghe ý kiến của dân theo phương trâm “mưa lâu thấm dần” thông qua nhiều buổi tọa đàm, tiếp xúc, trao đổi, đối thoại, góp ý, gây được không khí cởi mở, gần gũi giữa người nộp thuế và cán bộ thuế, giữa các doanh nghiệp và các vị lãnh đạo cấp cao của Chính phủ, của cán các Bộ, cùng tìm ra giải pháp phát huy tác dụng toàn diện thuế có thể góp phần quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế; bảo đảm nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước; từng bước thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng được tích lũy, nộp thuế thuận lợi, dễ dàng.
Cơ quan thuế các cấp tổ chức nhiều “đường dây nóng” bố trí cán bộ thường trực có đủ trình độ, kịp thời tư vấn, giới thiệu, giải đáp thắc mắc về thuế phát sinh trong suốt quá trình triển khai cac luật thuế mới.
Tóm lại, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền phổ biến kiến thức về thuế.
3.2.2.3 Thiết lập cơ chế giám sát đồng bộ
Hiện nay, ở Việt Nam phương thức giao dịch thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt chưa có thanh toán qua ngân hàng. Vì vậy, việc thiết lập cơ chế giám sát đồng bộ, hiệu quả là rất cần thiết.
Cơ chế giám sát đồng bộ cho phép ngành thuế phối hợp với các bộ, ngành liên quan để nắm được các thông tin về đối tượng nộp thuế. Sự hỗ trợ của Bộ Kế hoạch- Đầu tư, Bộ công an, Bộ Lao động- Thương binh xã hội và các bộ khác trong việc quản lý đối tượng lao động cũng như kết hợp trong công tác xử lý vi phạm là điều hết sức cần thiết. Việc này không chỉ giảm bớt gành nặng cho cơ quan thuế mà còn nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế thu nhập cá nhân.
Để đảm bảo cho cơ quan thuế có đầy đủ quyền hạn trong công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân thì Nhà nước cần có một số văn bản qui định rõ về quyền hạn của cơ quan thuế. Đồng thời cũng cần có những văn bản qui định về nghĩa vụ của các cơ quan chức năng khác trong việc phối hợp cơ quan thuế trong công tác quản lý thuế nói chung và thuế thu nhập cá nhân noi riêng. Các Bộ cần có nghĩa vụ chỉ đạo các đơn vị thuộc Bộ mình thực hiện nghiêm túc công tác khấu trừ thuế thu nhập cá nhân trước khi chi trả. Bộ Lao động và thương binh xã hội, Bộ kế hoạch đầu tư có trách nhiệm thông báo chính xác số lao động ở các doanh nghiệp, các văn phòng đại diệnHoặc với giới biểu diễn thì phải phối hợp cùng sở văn hóa- thông tin để trực tiếp kiểm tra những thu nhập của giới biểu diễn tại đài truyền hình, trình diễn âm nhạc, hay tai những phòng trà để thu thuế. Còn với các giảng viên thì cần sự hỗ trợ của sở giáo dục- đào tạo kiểm tra số tiết giảng dạy, những khóa giảng dạy mang tính chuyên nghiệp Bộ công an phải có trách nhiệm hỗ trợ cơ quan thuế trong việc xử lý các trường hợp vi phạm có hành vi chống đối lại cơ quan thuế, không chịu thực hiện các thông báo xử phạt của cơ quan thuế Năm 2005 Chúng ta quá vất vả trong việc thu thuế cũng vì thiếu sự phối hợp này.
3.2.2.4 Thu thuế thu nhập cá nhân thông qua hệ thống ngân hàng
Để thực hiện tốt quản lý thuế thu nhập cá nhân thì ngành thuế Việt Nam cũng cần hoàn thiện rất nhiều điều trong quản lý thu thuế. Bên cạnh thiết lập cơ chế giám sát đồng bộ thì cải tiến phương pháp thu đóng một vai trò quan trọng trong hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân. Hiện nay, thuế thu nhập cá nhân được thu vào ngân sách tức nộp cho kho bạc. Tuy nhiên, nếu thu qua ngân hàng thì sẽ có nhiều ưu điểm hơn.
Nếu dùng phương pháp thu tại nguồn thì chỉ thực hiện được khi người lao động là lao động thường xuyên của doanh nghiệp. Còn đối với những lao động tự do hoặc thu nhập không thường xuyên thì khó khăn hơn vì phòng thuế không thể chuyển trả về cho nguồn được mà chính người lao động phải đến lập bảng quyết toán, làm giấy cam đoan trình cho phòng thuế các biên nhân, sau khi có xác nhận của phòng thuế, họ mới đến kho bạc để kiểm tra nhị trùng và lĩnh tiền. Giải pháp cho việc thu thuế với những lao động tự do thông qua hệ thống ngân hàng như sau:
Mỗi lao động tự do đều có bổn phận mở tài khoản cá nhân tại một ngân hàng nào mà có cung cấp dịch vụ thanh toán qua hệ thống ngân hàng. Trong đó, ngân hàng sẽ phát hành cho họ 2 số tài khoản chính:
- Tiền Việt Nam
- Tiền ngoại tệ
Và hai mã tài khoản phụ là
- Tiền Việt Nam- Thuế thu nhập cá nhân
- Tiền ngoại tệ- Thuế thu nhập cá nhân
+ Tài khoản chính: là tài khoản mà cá nhân đó có thể dùng để bỏ tiền tiết kiệm. Tài khoản này thì cá nhân có thể đưa tiền vào và rút tiền ra tùy ý.
+ Tài khoản phụ: là tài khoản tạm ứng thuế thu nhập cá nhân.
Tiền tạm ứng thuế thu nhập cá nhân sẽ do một đơn vị nào đó trả cho người lao động được trích ra 10% sẽ được nộp cuối tháng vào tài khoản tạm ứng thuế thu nhập cá nhân. Đơn vị này sẽ phát hành biên nhận do bộ tài chính ban hành cho người lao động và khi báo thuế sẽ chứng minh số tiền này đã được thanh toán qua ngân hàng. Người lao động có thể kiểm tra tài khoản của mình và nếu có sai sót có thể khiếu nại đơn vị phải thanh toán cho ngân hàng đúng thời gian.
Ngoài ra, có thể sử dụng thanh toán qua ngân hàng đối với lao động trong đoàn thể như công nhân, giáo viên, các nhân viên làm trong các doanh nghiệp, sở ban ngành
Ngân hàng sẽ xây dựng bảng kê khai phát cho các doanh nghiệp, ban ngành Bảng kê lương, tên họ, tiền thuế thu nhập phải nộp có thể chuyển đổi thành mã vạch.
Cuối tháng, các đơn vị sẽ đem danh sách và số tiền tương ứng nộp cho ngân hàng. Có thể nhập số liệu thông qua trang web. Tiền này sẽ bị khóa tại cá tài khoản riêng của từng nhân viên trong ngân hàng đó và được hưởng lãi theo định kỳ theo quy định của ngân hàng. Ngân hàng sẽ cấp biên nhận cho các đơn vị, các đơn vị sẽ báo thuế hàng tháng kèm theo tường trình này. Nếu hàng tháng doanh nghiệp không báo phần này thì sẽ bị phạt hành chính, phạt lãi ngân hàng
Như vậy, việc thanh toán qua hệ thống ngân hàng đã tiết kiệm được thời gian của người nộp thuế cũng như giúp cho cán bộ quản lý thuế giảm tải được một số việc vào cuối năm như : xem hồ sơ hoàn thuế của các cá nhân, thu thập các biên lai, xác nhận không phải đóng thuế thu nhập cá nhân hoặc tính toán phải đóng thêm Sau đó, cán bộ thuế còn phải chuyển hồ sơ đến kho bạc mới lĩnh được tiền và với số lượng người xin lĩnh ra cũng như người đóng thêm vào cũng rất lớn.
Việc thu thuế qua hệ thống ngân hàng là rất cần thiết bởi lẽ nếu chúng ta không thực hiện việc này thì khi luật thuế thu nhập cá nhân mới ra đời sẽ có nhiều đối tượng nộp thuế hơn nếu vẫn dùng cách thu cũ chúng ta sẽ phải tăng thêm cám bộ thuế rất nhiều mà ngay lập tức tăng thêm cán bộ thuế sẽ dẫn đến tình trạng sẽ có những cán bộ thiếu kinh nghiệm trong chuyên môn và nhất định sẽ dẫn tới hậu quả quá tải trong công tác quản lý thu thuế thu nhập cá nhân đây cũng chính là mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Ngoài ra, việc sử dụng tài khoản ngân hàng để giao dịch sẽ còn mang lại những ưu điểm như hạn chế được lạm phát, hạn chế tiền giả, kích thích phát triển hệ thống ngân hàng hiện đại
Nếu như nhà nước muốn khuyến khích người lao động dùng tài khoản ngân hàng đê giao dịch như một thói quen thì đây là thời điểm đã chín muồi và thích hợp nhất.
3.2.2.5 Khuyến khích việc thanh toán và chi trả thu nhập qua tài khoản séc
Sự phát triển của hệ thống ngân hàng cũng như những biện pháp của Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước nhằm giảm chi tiêu tiền mặt cũng là một nhân tố hết sức quan trọng đối với hiệu quả của việc quản lý thuế thu nhập của cơ quan thuế. Quản lý là biện pháp có ý nghĩa nhất trong việc thu đúng, thu đủ. Bộ tài chính và ngành ngân hàng cần tìm biện pháp nắm chắc thu nhập của gia đình và cá nhân. Hiện nay, chúng ta chi dùng, giao dịch bằng tiền mặt quá lớn, phải có biện pháp khắc phục tình trạng này. Ngành ngân hàng cần nghiên cứu áp dụng công nghệ tin học vào quản lý thu nhập, trước hết là đối với công chức nhà nước, phải áp dụng công nghệ dùng thẻ tín dụng thanh toán để từng bước hạn chế giao dịch bằng tiền mặt.
Muốn chuyển dần sang việc sử dụng tài khoản séc thay cho tiền mặt đòi hỏi phải có những cơ chế qui định cụ thể từ phía Ngân hàng Nhà nước và Kho bạc Nhà nước. Những qui định về hình thức thanh toán tiền lương phải qua tài khoản séc cũng nên áp dụng ở Việt Nam. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng thương mại, nơi các khác hàng sẽ mở tài khoản qua tàikhoản của dân cư. Việc thanh toán qua tài khoản séc phải hết sức thuận tiện và đơn giản thì mới có thể khuyến khích người dân sử dụng. Giảm thanh toán bằng tiền mặt, sử dụng rộng rãi thanh toán qua tài khoản sẽ không chỉ phục vụ cho hoạt động quản lý thu nhập của dân cư trong việc kê khai và nộp thuế thu nhập mà còn tiết kiệm rất nhiều chi phí cho xã hội. Vì vậy, chúng ra cần cố gắng sớm có những qui định và biện pháp cụ thể nhằm khuyến khích thanh toán qua tài khoản.
3.2.2.6 Đăng ký mã số thuế cho tất cả các đối tượng lao động
Để tránh tình trạng nhiều lao động thuộc đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân nhưng lại không có mã số thuế như vậy sẽ gây khó khăn cho quản lý thu thuế. Vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kê khai và nộp thuế thu nhập thì ngành thuế nên tiến hành cấp mã số thuế cho tất cả các đối tượng lao động có thu nhập. Đồng thời với việc cấp mã số thuế, cơ quan thuế sẽ dễ dàng và thuận tiện hơn trong công tác thanh tra, kiểm tra việc thu nộp thuế của từng đối tượng nộp thuế và khiến cho một số đối tượng nộp thuế không thể trốn thuế được vì họ đều chịu sự quản lý của cơ quan thuế.
3.2.2.7 Thực hiện quyết toán thuế cho từng đối tượng nộp thuế
Việc quyết toán thuế cho từng đối tượng nộp thuế là cần thiết. Việc này sẽ giúp cơ quan thuế biết được tình hình thu nhập và nộp thuế của từng đối tượng, qua đó có thể cung cấp cho các cơ quan khác, các nhà lập chính sách hoặc chính cơ quan thuế cũng có thể sử dụng trong việc phân tích và đánh giá về chính sách thuế khả năng nộp thuế của dân cư. Quyết toán thuế hàng năm cũng sé giúp cơ quan thuế có thể phát hiện ra các trường hợp sai phạm thông qua việc so sánh mức thuế thu nhập nộp giữa các năm với nhau.
3.2.2.8 Thu hồi giấy phép với ca sĩ trốn thuế thu nhập
Cuối tháng 10 năm 2004, Tổng cục thuế đã có hai cuộc họp tai Hà Nội và TP HCM phổ biến về nghĩa vụ thuế đối với các ca sĩ, vận động viên trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, có sự tham gia của Bộ Văn hóa- Thông tin. Với các vận động viên, cán bộ thuế không gặp nhiều khó khăn bởi thu nhập của họ hầu hết được lưu giữ tại các sổ gốc của ngành. Còn với các diễn viên, nghệ sĩ, nhất là các ca sĩ, đúng là cho đến hết năm 2004, các Chi cục thuế TP H CM và Hà Nội hầu như chưa thu được đồng thuế nào. Cơ quan quản lý thuế thu nhập mới chỉ đề nghị Bộ Văn hóa- Thông tin sớm có công văn gửi Sở văn hóa các tỉnh, thành phố đốc thúc các ca sĩ khẩn trương kê khai, nhắc nhở các đơn vị tổ chức biểu diễn chuẩn bị xuất trình chứng từ, hóa đơn liên quan đến các chương trình biểu diễn. Ca sĩ thường biểu diễn ở nhiều nơi (cả trong nước và ngoài nước), vậy ngành thuế cần có các biện pháp để biết chính xác được thu nhập của họ bằng cách như sau:
Trước tiên để các ca sĩ tự kê khai theo tờ khai mẫu số 08, có bổ sung chi tiết về thu nhập chịu thuế hàng tháng vì đối tượng nộp tờ khai quyết toán năm có thu nhập từ nhiều nơi. Có người thu nhập đến mức chịu thuế, có người thu nhập chưa đên mức chịu thuế; đảm bảo tổng hợp tất cả các nguồn thu để tính đúng thu nhập bình quân tháng. Sau đó căn cứ căn cứ trên chứng từ, hóa đơn lưu giữ các chương trình biểu diễn để đối chiếu. Với các ca sĩ trong nước đi biểu diễn có thu nhập ở nước ngoài, cục thuế cần phối hợp với cục xuất nhập cảnh để lấy tên ca sĩ nước đến, số lần đi lưu diễn Việt Nam đã kí hiệp định thuế với trên 40 nước trên thế giới, Tổng cục thuế sẽ rất thuận lợi trong việc lấy nguồn tin từ bên nước bạn. Tuy nhiên, chúng ta cần mở rộng kí kết hiệp đinh thuế với nhiều nước hơn nữa như Mỹ chẳng hạn.
Ngoài ra ca sĩ hát ở phòng trà, quán bả sẽ khấu trừ 10% thu nhập. Nhưng để chính xác Tổng cục thuế cần tổ chức các cuộc kiểm ta thử một vài phòng trà hoặc rà soát các phòng trà. Sau đó, nếu ca sĩ không kê khai trung thực mức thu nhập của mình, khi bị phát hiện họ sẽ phải nộp phạt với mức cao từ 1 đến 3 lần so với số thuế phải nộp, thậm chí có thể thu hồi giấy phép biểu diễn. Bộ văn hóa Thông tin cũng cần phối hợp với Tổng cục thuế với hình thức xử lý này.
3.2.2.9 Rà soát phòng trà để thu thuế thu nhập của ca sĩ
Cục thuế cần phối hợp với Sở Văn hóa Thông tin kiểm tra gắt gao việc kê khai thu nhập của ca sĩ trên địa bàn.Các phòng trà, quán bar.
Việc đánh thuế thu nhập của các ca sĩ là rất khó. Họ là những người hoạt động tự do, khó kiểm soát, trừ trường hợp ca sĩ có đăng ký với đơn vị tổ chức chương trình. Hiện Cục thuế không thể quản lý được việc thu nhập của giới ca sĩ nên chủ yếu dựa vào các công ty tổ chức biểu diễn để khấu trừ thuế thu nhập. Nếu tiền cát xê cho ca sĩ mỗi lần hát từ 667.000 đồng trở lên thì phải khấu trừ 10% nộp thuế.
Cục thuế thành phố cần phải có một đợt kiểm tra nghiêm ngặt hoạt động, thu nhập của ca sĩ bằng cách phối hợp với Sở Văn hóa Thông tin để nắm rõ giấy phép biểu diễn, từ đó mới có thể tính mẫu thuế thu nhập của họ.
Tại các phòng trà, quán bar, ca sĩ thường không có giấy phép biểu diễn nên không thể biết được thu nhập của họ. Do đó, Cục thuế cần kiểm tra chặt chẽ các phònh trà bằng cách nâng thuế phòng trà, quán bar lên, buộc họ phải chứng minh chi phí của mình một cách rõ ràng (như buộc ca sĩ khi nhận tiền cát xê phải có ký nhận). Như thế việc tính biểu mẫu thuế thu nhập đối với ca sĩ sẽ được thực hiện nhanh chóng dễ dàng hơn. Các ca sĩ chịu sự quản lý của đơn vị tổ chức mà không kê khai nộp thuế sẽ bị buộc cấm biểu diễn.
3.2.2.10 Cần để ý tới thu nhập của họa sĩ
Thuế là nguồn thu quan trọng cho bất cứ quốc gia nào và thuế thu nhập đươcj nhiều nước áp dụng từ rất lâu. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố nên thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam đến năm 1997 mới được thực hiện. Do kinh tế còn nghèo, thanh toán bằng tiền mặt là hình thức phổ biến và trình độ quản lý còn thấp nên việc thu thuế là rất khó khăn.
Từ khi áp dụng, ngành thuế chỉ trông chờ vào sự tự giác khai báo của các nhân, cơ quan, doanh nghiệp nên mức thu còn rất thấp. Thực tế cho thấy nhiều cá nhân có thu nhập rất cao nhưng tuyệt nhiên không đóng thuế vì ngành tài chính không thể kiểm soát được.
Từ trước đến nay, chúng ta chỉ bàn về thuế thu nhập của ca sĩ, vận động viên thể thao, đặc biệt là cầu thủ bóng đá. Cát- xê của ca sĩ có khi tới 10 triệu trong 1 đêm diễn nhưng tuyệt nhiên họ không phải đóng thuế. Song không chỉ có ca sĩ, từ khi đổi mới có họa sĩ bán tranh và thu được tiền tỉ thậm chí cả triệu đôla mà họ cũng chẳng phải đóng thuế. Thực ra lỗi không hoàn toàn thuộc về họa sĩ vì họ chỉ chuyên tâm vào sáng tác nghệ thuật thì lấy đâu thời gian để ý đến việc đóng thuế thu nhập cá nhân mà lỗi ở đây là ngành thuế không đả động gì đến họ. Ngành thuế cũng có những giải pháp đối với các công ty tổ chức biểu diễn để hạn chế ca sĩ trốn thuế. Tuy nhiên với họa sĩ thì việc thu thuế không hề dễ dàng vì họ hoạt động độc lập và không phải họa sĩ nào cũng có tranh bán với giá cao, cũng có những họa sĩ cả đời sáng tác nhưng vẫn không thể bán được tranh nhưng có những họa sĩ họ tạo ra những bức tranh có giá trị cao. Do vậy ngành thuế cũng nên lưu ý đến việc thu thuế thu nhập cá nhân của giới họa sĩ mà nhất là họa sĩ mà tranh của họ bán luôn với giá rất cao. Ngành thuế nên huy động tính tự giác của các họa sĩ.
3.2.2.11 Cải cách chính sách tiền lương
Thực hiện Nghị quyết đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ 9, Nghị quyết của Quốc hội về việc cải cách chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước. Ngày 14/12/2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 205/2004/NĐ-CP quy định chế độ tiền lương áp dụng trong các doanh nghiệp nhà nước và Nghị định số 204/2004/NĐ-CP, quy định chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức làm công việc trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp của Nhà nước và lực lượng vũ trang, thời hiệu thực hiện từ ngày 01/10/2004.
Việc thực hiện cải cách chế độ tiền lương năm 2004 đã đạt được một số kết quả tích cực như bội số tiền lương nâng từ 10 lần lên 13 lần, hệ số tiền lương của từng mức lương tăng từ 18- 25%, chủ yếu tăng ở nhóm có mức lương thấp, quy định cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập áp dung riêng cho từng nhóm đối tượng ở mỗi lĩnh vực khác nhau, những kết quả của việc cải cách tiền lương đã góp phần nâng cao thu nhập về mặt danh nghĩa đối với lao động, cán bộ, công chức và viên chức. Nhưng thực tế sau hơn một năm thực hiện, dưới sự tác động bởi các quy luật của nền kinh tế thị trường những kỳ vọng của việc cải cách tiền lương không được như mong muốn, đời sống của người làm công ăn lương chưa được cải thiện nhiều so với mặt bằng chung của xã hội. Điều đó đã dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực trong cơ quan nhà nước. Các hiên tượng tham nhũng, sách nhiễu người dân đã trở thành quốc nạn. Chảy máu chất xám cũng là hậu quả tất yếu. Quan điểm trên thực tế đời sống kinh tế xã hội minh họa một cách rất phong phú và cụ thể, sự lý giải biện chứng về mối quan hệ giữa thu nhập hợp pháp (thu nhập danh nghĩa) với tài sản hiện có (thu nhập thực tế) của mỗi cá nhân trong các thành phần kinh tế, đặc biệt là đối với khu vực nhà nước là một việc rất khó khăn nhưng không có nghĩa là chúng ta không tháo gỡ khó khăn đó. Vậy để khắc phục thực tế trên trong lộ trình cải cách tiền lương và thu nhập của mỗi thành viên trong xã hội, đặc biệt là đối với các cá nhân trong khu vực nhà nước, làm được như vậy thì luật thuế thu nhập cá nhân sắp tới ra đời sẽ có ý nghĩa kinh tế- xã hội thiết thực hơn, giúp cho việc thực hiện vai trò điều tiết về thuế thu nhập của nhà nước được thực hiện một cách triệt để và có ý nghĩa thiết thực.
3.2.2.12 Đào tạo năng lực và phẩm chất cho đội ngũ cán bộ thuế
Nâng cao năng lực và phẩm chất đội ngũ cán bộ thuế sẽ có tác động tích cực tới toàn bộ công tác quản lý thuế nói chung và thuế thu nhập cá nhân nói riêng.
Công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ thuế trong thời gian tới phải đạt được những mục tiêu:
- Tạo ra một đội ngũ cán bộ thuế có năng lực nghiên cứu hoạch định chính sánh, ngiên cứu hoạch định chính sách, nghiên cứu các biện pháp nghiệp vụ thu để hướng dẫn, chỉ đạo kiểm tra thực hiện trong toàn ngành.
- Tạo ra một đội ngũ cán bộ thuế thực hành quản lý thuế giỏi, theo hướng chuyên môn hóa sâu theo từng chức năng công việc, đáp ứng yêu cầu quản lý thuế hiện đại.
Để đạt được các mục tiêu trên, công tác đào tạo trong thời gian tới cần được định hướng như sau:
- Tiếp tục lựa chọn một số công chức là cán bộ lãnh đạo chưa có trình độ đại học hoặc cán bộ thuộc diện quy hoạch lãnh đạo đã có trình độ trung cấp để đưa đi đào tạo đại học, đồng thời, nâng tỉ lệ tuyển dụng các ngạch công chức có trình độ đào tạo đại học để đẩy mạnh việc đáp ứng đúng số công chức đã được bộ duyệt.
Việc đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ thuế các cấp được đặt ra như sau:
Với cấp tổng cục: cần đào tạo để phát triển được đội ngũ cán bộ nghiên cứu, hoạch định chính sách thuế, có khả năng hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra cơ quan thuế cả về cơ chế chính sách và nghiệp vụ quản lý thuế, thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế. Vì vậy, đối với cán bộ cấp này cần trang bị kiến thức toàn diện về mặt lý thuyết và thực tiễn kinh nghiệm quản lý thuế trong nước và nước ngoài, bảo đảm cán bộ có đủ năng lực trong việc phân tích, đánh giá thành thạo nghiệp vụ quản lý thuế hiện đại, nghiên cứu, hoạch định chính sách thuế, đề xuất các biện pháp quản lý thu. Đó là đội ngũ cán bộ đầu ngành, đảm đương công việc mũi nhọn của ngành và các lĩnh vực quản lý thuế phức tạp. Đồng thời, đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ thuế đủ sức triển khai các chương trình hội nhập về thuế trong khu vực và quốc tế. Số cán bộ này sẽ được đào tạo trong nước và ở nước ngoài.
Với cấp cục thuế và chi cục thuế: Đào tạo theo hướng chuyên môn hóa từng chức năng công việc: xử lý tính thuế, đôn đốc cưỡng chế thu, thanh tra, kiểm tra và một số chức năng quản lý nội bộ ngành
Ngoài ra, nội dung đào tạo và bồi dưỡng phải đảm bảo trang bị đầy đủ kiến thức chủ yếu như các chính sách kinh tế, tài chính và luật pháp liên quan đến thuế, phân tích dự báo thuế, yều cầu và lộ trình hội nhập thuế quốc tế, kế toán doanh nghiệp, kiến thức quản lý thuế bằng máy tính, kiến thức quản lý nhà nước,ngoại ngữ, phương pháp thanh tra, kiểm tra thuế ..
Công tác đào tạo bồi dưỡng cũng không phải là việc đơn giản vì vậy ngành thuế cần phải tiến hành các bước như sau:
+ Xác định đối tượng và xây dựng nội dung, chương trình và giáo trình theo từng khóa đào tạo, bồi dưỡng thống nhất.
+ Thành lập tổ chức làm nhiệm vụ thao mưu, đề xuất về mục tiêu, đối tượng, nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành thuế, quản lý và kiểm tra việc thực hiện công tác đào tạo và bồi dưỡng trong toàn ngành. Chúng ta đã thành lập trung tâm bồi dưỡng cán bộ ngành thuế thường xuyên tổ chức đào tạo và bồi dưỡng cán bộ trong ngành. Trung tâm có trụ sở chính ở Hà Nội và hai chinh nhánh ở Tp- HCM và Đà Nẵng. Trong tương lai, trung tâm này sẽ được nâng lên thành trường Thuế Quốc gia hoặc học viện Thuế.
+ Lựa chọn và xây dựng đội ngũ giáo viên kiêm chức tại các Cục Thuế, đủ trình độ, kinh nghiệm và năng lực để đảm đương công tác giảng dạy cho các cán bộ ở địa phương. Hiện nay, trung tâm bồi dưỡng cán bộ vẫn chưa đủ đáp ứng cho nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của toàn ngành nên Cục thuế vẫn phải tiến hành bồi dưỡng cho số cán bộ cấp dưới ở chi Cục thuế. Vì vậy, cần lựa chọn đội ngũ giáo viên kiêm chức tại các cục thuế: là những người giỏi chuyên môn, nghiệp vụ thuế, được đào tạo thêm về phương pháp sư phạm làm nòng cốt cho công tác đào tạo cán bộ địa phương.
+ Xây dựng quy chế kiểm tra, đánh giá trình độ công chức hàng năm để đánh giá hiệu quả công tác đào tạo, thường xuyên cải tiến và lựa chọn hình thức, nội dung đào tạo thích hợp.
+ Tăng dần nguồn kinh phí dành cho đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.
3.2.2.13 Tăng cường thanh tra thuế thu nhập cá nhân
Từ thực tế hiện nay, ngành thuế vẫn luôn thất thu thuế thu nhập cá nhân ở những con số vẫn còn quá cao, đó là do hiện tương trốn thuế, hiện tượng này ảnh hưởng tiêu cực đến mục tiêu tạo nguồn thu cho ngân sách và đảm bảo tính công bằng của thuế. Thanh tra thuế sẽ làm nhiệm vụ là phát hiện những đối tượng có hành vi trốn thuế, những sai phạm chính cơ quan thuế, của các cán bộ thuế. Đồng thời thanh tra thuế cũng giúp cơ quan thuế tìm ra những sơ hở, hạn chế trong chính sách thuế. Những sơ hở đó sẽ tạo điều kiện cho đối tượng nộp thuế trốn thuế. Việc thanh tra thường xuyên sẽ làm giảm bớt ý định trốn thuế của đối tượng nộp thuế, tăng tính nghiêm túc của cơ quan chi trả thu nhập trong việc khấu trừ thu nhập trước khi chi trả và cũng tránh được các trường hợp thông đồng, cấu kết giữa cán bộ thuế với người nộp thuế. Thanh tra thuế sẽ góp phần đảm bảo việc thu đúng và đủ thuế cho nguồn thu ngân sách quốc gia. Trong thời gian qua, công tác thanh tra thuế ở ta chưa được coi trọng. Vì vậy, trong thời gian tới cơ quan thanh tra thuế cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế để phát hiện ra các trường hợp, cố tình khai man, trốn thuế.
3.2.2.14 Xử lý nghiêm các trường hợ vi phạm
Việc xử lý các trường hợp vi phạm cần phải được thực hiện một cách nghiêm túc và dứt khoát. Cơ quan thuế nếu như phát hiện ra các trường hợp vi phạm và có những bằng chứng cụ thể chứng minh hành vi trốn thuế thì sẽ phải có trách nhiệm nộp phạt đúng thời hạn và đúng số tiền bị phạt. Nếu như có những hành vi chống đối thì cần có sự can thiệp ngay lập tức của cơ quan công an. Việc xử phạt thật nghiêm minh sẽ là điều kiện quan trọng để giảm bớt các trường hợp vi phạm. Nếu các đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân không đóng thuế thì sẽ bị truy tố hình sự.
3.2.2.15 Tổ chức khen thưởng với những đơn vị và cán bộ thuế tích cực trong công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân
Để khuyến khích các đơn vị quản lý thuế được tốt thì Tổng cục thuế cần chú trọng đến việc khen thưởng các đơn vị có thành tích cao trong công tác và cả những cán bộ thu thuế hoàn thành tôt nhiệm vụ. Có chế độ khen thưởng như vậy sẽ tạo ra những động lực tốt tới các đơn vị quản lý thuế .
3.2.2.16 Thiết lập hệ thống tính thuế thu nhập cá nhân tự động
Đó là tin học hóa nhằm kết nối thông tin trong hệ thống thuế; giữa thuế và kho bạc; xây dựng hệ thống “tự tính, tự khai và tự nộp thuế” theo dự án IMF; xây dựng chương trình đối chiếu hóa đơn; đăng ký thuế thu nhập và xây dựng hệ thống xử lý tính thuế thu nhập cá nhân
Đối với hải quan, các ưu tiên sẽ là: tự động hóa thông quan và quảnlý hàng hóa xuất nhập khẩu; hệ thống khai báo hải quan điện tử; thuế điện tử; hệ thống thông tin phcụ vụ dự báo, phân tích và đánh giá nguồn thu nhằm tuân thủ các chuẩn mực của một tổ chức hải quan hiện đại, thực hiện các cam kết quốc tế liên quan đến lĩnh vực hải quan như: Công ước Kyoto, Hiệp định GATT/WTO, Công ước quốc tế HS (hệ thống hài hòa về mô tả và mã hóa hàng hóa)
3.2.2.17 Xây dựng hành lang pháp lý cho dịch vụ tư vấn thuế
Một loạt dịch vụ như hướng dẫn luật thuế trong nước, tư vấn về luật thuế quốc tế, hoạch định kế hoạch tiết kiệm thúe, giải đáp thắc mắc về thuếđang được doanh nghiệp rất quan tâm. Hiện nay, trên thị trường Việt Nam mới chỉ có vài doanh nghiệp kiểm toán như công ty kiểm toán Quốc tế, Công ty kiểm toán Việt Nam, công ty Dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán thực hiện dịch vụ tư vấn thuế nhưng mới hoạt động như một dịch vụ phụ trợ.
Dịch vụ tư vấn thuế ra đời sẽ hỗ trợ người nộp thuế hiểu biết, thành thạo hơn về thuế, tiết kiệm được chi phí và thời gian. Vì vậy, Tổng cục Thuế cần nghiên cứu để trình Bộ Tài chính và Chính phủ ban hành Nghị định quy định hoạt động dịch vụ tư vấn thuế, tạo điều kiện khuyến khích và phát triển hoạt động này một cách rông rãi, độc lập và khách quan.
3.2.2.18 Cải thiện cơ sở vật chất của ngành thuế
Cùng với sự phát triển liên tục của nền kinh tế và nhiều vấn đề nảy sinh trong công tác quản lý thuế, cơ sở vật chất, kỹ thuật của ngành thuế cần được hiện đại hóa hơn nữa. Ngành thuế cần sớm có một hệ thống quản lý thuế bằng mạng vi tính nội bộ. Xét tại thời điểm ban đầu điều này có thể đòi hỏi chi phí cao, nhưng xét về lâu dài thì sẽ tiết kiệm về thời gian và chi phí rất nhiều. Hệ thống này sẽ không chỉ phục vụ riêng cho công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân mà còn cho tất cả các sắc thuế khác. Trong điều kiện mới, nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, hoạt động buôn bán ngày càng đa dạng và tăng mạnh về quy mô, các thủ đoạn trốn thuế ngày càng tinh vi thì việc quản lý thu thuế một cách thô sơ là không còn thích hợp.
Kết luận
Trong nội dung đề tài này, một số vấn đề cơ bản về thuế thu nhập cá nhân và công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân đã đợc hệ thống hoán trên các khía cạnh lý luận và liên hệ thực tiễn ở Việt Nam.
ở Việt Nam hiện nay, công tác quản lý thuế nói chung và thuế thu nhập cá nhân nói riêng đang gặp phải rất nhiều những bất cập mà ngành thuế nớc ta cần sớm khác phục bởi lẽ để chuẩn bị gia nhập WTO thì tất cả các chính sách thuế hiện hành đều đã đợc thay đổi theo hớng giảm nghĩa vụ thuế. Khi cắt giảm các loại thuế và chi phí, Nhà nớc bị thất thu trên 1.000 tỷ đồng. Hiện ngân sách Nhà nớc phụ thuộc vào 3 khoản thu chủ yếu gồm xuất nhập khẩu, số thu từ xuất khẩu dầu thô, còn lại là khoản thu nội địa trong đó có thu từ thuế thu nhập cá nhân. Nh vậy, để ngân sách nhà nớc đợc tận thu thì công tác quản lý thuế cần phải hoàn thiện hơn nữa và tránh những hiện tợng trốn thuế.
Để khắc phục những hạn chế trong công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân, những giải pháp đồng bộ cần đợc đề ra trên cả phơng diện văn bản pháp luật, tuyên truyền tổ chức thu thuế thu nhập cá nhân cũng nh thanh thuế nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam.
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình luật thuế Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Tư Pháp.
Giáo trình Lý thuyết tài chính, Nhà xuất bản Tài Chính.
Dự toán thu cân đối ngân sách nhà nước năm 2004, năm 2005, năm 2006, Bộ Tài Chính.
Quyết toán thu cân đối ngân sách nhà nước từ năm 1990 đến năm 2003, Bộ Tài Chính.
Pháp lệnh số 35/2001/PL-UBTVQH10 ngày 19/5/2001.
Pháp lệnh số 14/2004/PL-UBTVQH11 ngày 24/3/2004 sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh số 35/2001/PL-UBTVQH10 ngày 19/5/2001
Thông tư số 81/2004/TT-BTC ngày 13/8/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 147/2004/NĐ-CP ngày 23/7/2004 của Chính phủ.
Thông tư số 12/2005/TT-BTC ngày 04/2/2005 của Bộ Tài Chính sửa đổi bổ sung một số điều của Thông tư số 81/2004/TT-BTC ngày 13/8/2004 của Bộ Tài chính.
Hệ thống các văn bản pháp lệnh thuế thu nhâp từ năm 1990 đến năm 2005, Bộ Tài chính và Tổng Cục Thuế.
Các báo điện tử: VN economy, VN express, VietNam net, BBC Việt Nam,
Trang thông tin điện tử ngành thuế,
Tạp Chí Thuế Nhà Nước.
Báo cáo thu thuế thu nhập cá nhân của Cục Thuế Hà Nội.
Và một số các tài liệu có liên quan khác.
Số TT
Nội dung
Trang
Lời mở đầu
1
Chương I
Những vấn đề cơ bản về cụng tỏc quản lý Thuế thu nhập cỏ nhõn
3
1.1
Vai trũ của thuế thu nhập cỏ nhõn
3
1.1.1
Khỏi niệm về thuế thu nhập cỏ nhõn
3
1.1.2
Đặc điểm của thuế thu nhập cỏ nhõn
4
1.1.3
vai trũ thuế thu nhập cỏ nhõn
5
1.2
Nội dung cụng tỏc quản lý thuế thu nhập cỏ nhõn
6
1.2.1
Khỏi niệm cụng tỏc quản lý thuế thu nhập cỏ nhõn
6
1.2.2
Nội dung cụng tỏc quản lý thuế thu nhập cỏ nhõn
7
1.2.2.1
Ban hành chớnh sỏch thuế thu nhập cỏ nhõn
8
1.2.2.2
Cụng tỏc tổ chức thực hiện chớnh sỏch thuế thu nhập cỏ nhõn
17
1.2.2.3
Thanh tra thuế thu nhập cỏ nhõn
19
1.2.2.4
Tổ chức bộ mỏy quản lý thuế thu nhập cỏ nhõn
20
1.3
Cỏc nhõn tố ảnh hưởng đến cụng tỏc thuế thu nhập cỏ nhõn
21
1.3.1
Quan điểm của tầng lớp lónh đạo Nhà nước
21
1.3.2
Cơ sở vật chất của cỏc ngành nghề
21
1.3.3
Trỡnh độ, phẩm chất đạo đức của đội ngũ lónh đạo cỏn bộ thuế
22
1.3.4
Phương thức thanh toỏn chủ yếu trong dõn cư
22
1.3.5
Tớnh nghiờm minh của phỏp luật
22
1.3.6
Tỡnh hỡnh kinh tế và mức sống của người dõn
22
1.3.7
í thức chấp hành phỏp luật của đối tượng nộp thuế
23
Chương II
Thực trạng cụng tỏc quản lý thuế thu nhập cỏ nhõn ở Việt Nam hiờn nay
24
2.1
Khỏi niờm về thuế thu nhập cỏ nhõn ở Việt Nam hiờn nay
24
2.1.1
Quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về thuế thu nhập cỏ nhõn
24
2.1.2
Sự hỡnh thành và phỏt triển của thuế thu nhập cỏ nhõn ở nước ta trong những năm qua
27
2.2
Thực trạng cụng tavs quản lý thuế thu nhập cỏ nhõn ở Việt Nam hiện nay
29
2.2.1
Ban hành chớnh sỏch thuế
29
2.2.2
Cụng tỏc tổ chức thực hiện chớnh thuế
38
2.2.3
Xử lý trường hợp vi pham kờ khai và nộp thuế
41
2.2.4
Tổ chức bộ mỏy quản lý
41
2.3
Đỏnh giỏ thực trạng quản lý thuế thu nhập cỏ nhõn ở Việt Nam hiện nay
43
2.3.1
Những thành tựu đạt được
43
2.3.2
Những hạn chế và nguyờn nhõn
48
2.3.2.1
Những hạn chế
48
2.3.2.2
Nguyờn nhõn
53
Chương III
Giải phỏp hoàn thiện cụng tỏc quản lý thuế thu nhập cỏ nhõn ở nước ta hiện nay
55
3.1
Định hướng và hoàn thiờn cụng tỏc quản lý thuế thu nhập cỏ nhõn ở Việt Nam hiện nay
55
3.2
Giải phỏp hoàn thiện luật thuế thu nhập cỏ nhõn
57
3.2.1
Ban hành luật và hoàn thiện luật thuế thu nhập cỏ nhõn
57
3.2.2
Cụng tỏc tổ chức thực hiờn và chớnh sỏch thuế
58
Kết luận
69
Danh mục tham khảo
70
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5609.doc